Nhiệm vụ của đoàn thanh niên

Started by Lovers_Again, 21/03/08, 22:26

Previous topic - Next topic

Lovers_Again

Nhiệm vụ của đoàn thanh niên
V.I.Lenin

(diễn văn tại đại hội iii toàn nga
của đoàn thanh niên cộng sản nga ngày 2 tháng mười 1920)


Lê-nin được đại hội hoan hô nhiệt liệt)

Các đồng chí, hôm nay, tôi muốn nói với các đồng chí về những nhiệm vụ cơ bản của Đoàn thanh niên cộng sản, và nhân đó, về vấn đề các tổ chức thanh niên trong nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa, nói chung, cần phải là những tổ chức như thế nào.

Càng cần phải nói đến vấn đề này, vì theo một ý nghĩa nào đó, có thể nói rằng nhiệm vụ thật sự xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa, chính là của thanh niên. Bởi vì rõ ràng là thế hệ những người lao động được đào tạo trong xã hội tư bản chủ nghĩa, thì giỏi lắm chỉ có thể giải quyết được nhiệm vụ phá huỷ nền móng của chế độ tư bản già cỗi dựa trên sự bóc lột. Giỏi lắm thì họ cũng chỉ có thể giải quyết được nhiệm vụ xây dựng một cơ chế xã hội có khả năng giúp cho giai cấp vô sản và các giai cấp cần lao giữ lấy chính quyền trong tay và đặt được một nền móng vững chắc, trên đó chỉ có thế hệ khởi công trong những điều kiện mới, trong một hoàn cảnh không còn quan hệ người bóc lột người nữa, mới có thể xây dựng được.

Cho nên, khi đề cập đến nhiệm vụ của thanh niên theo quan điểm đó, tôi phải nói rằng nhiệm vụ của thanh niên nói chung, và của đoàn thanh niên cộng sản và các tổ chức khác nói riêng, có thể tóm gọn bằng một từ. Nhiệm vụ đó là: học tập.

Rõ ràng đây chỉ là "một từ", nó chưa giải đáp được những vấn đề chủ yếu và quan trọng nhất là: học gì và học như thế nào? Nhưng ở đây toàn bộ vấn đề là ở chỗ cùng với việc cải tạo xã hội tư bản già cỗi, việc dạy dỗ, giáo dục và rèn luyện thế hệ mới, những thế hệ sẽ xây dựng xã hội cộng sản, không thể để nguyên như trước được. Việc dạy dỗ, giáo dục và rèn luyện thanh niên phải xuất phát từ những vật liệu mà xã hội cũ để lại cho chúng ta. Chúng ta chỉ có thể xây dựng chủ nghĩa cộng sản từ tổng số những kiến thức, các tổ chức và thiết chế bằng cái số dự trữ nhân lực và vật lực mà xã hội cũ đã để lại cho chúng ta. Chỉ có cải tổ triệt để việc dạy dỗ, việc tổ chức và giáo dục thanh niên, thì chúng ta mới có thể, bằng những cố gắng của thế hệ trẻ đạt được kết quả là xây dựng nên một xã hội không giống xã hội cũ, tức là xã hội cộng sản. Cho nên, chúng ta phải nghiên cứu kỹ lưỡng vấn đề chúng ta phải dạy những gì và thanh niên phải học như thế nào nếu họ thật sự muốn tỏ ra xứng đáng với danh hiệu thanh niên cộng sản, và chúng ta phải chuẩn bị cho thanh niên như thế nào để cho họ biết xây dựng đến cùng và hoàn thành triệt để cái sự nghiệp mà chúng ta đã bắt đầu.

Tôi phải nói rằng lời giải đáp đầu tiên, - hình như vậy, - và cũng có vẻ tự nhiên nhất, là Đoàn thanh niên và toàn thể thanh niên nói chung muốn đi theo chủ nghĩa cộng sản, thì đều phải học chủ nghĩa cộng sản.

Nhưng lời giải đáp "học chủ nghĩa cộng sản" như thế thì chung chung quá. Vậy chúng ta cần những gì để học chủ nghĩa cộng sản? Chúng ta phải rút ra được những gì trong tổng số kiến thức chung để có được kiến thức của chủ nghĩa cộng sản? ở đây, có một loạt nguy cơ đang đe doạ chúng ta. Những nguy cơ này thường xuất hiện ngay, khi vấn đề học chủ nghĩa cộng sản được đặt ra không đúng hay được lý giải một cách quá phiến diện.

Lẽ tự nhiên là mới nhìn, người ta nghĩ ngay rằng học chủ nghĩa cộng sản là nắm vững tổng số những kiến thức đã trình bày trong các sách giáo khoa và trước tác về chủ nghĩa cộng sản. Nhưng định nghĩa như trên về việc học chủ nghĩa cộng sản thật là quá thô thiển và thiếu sót. Nếu học chủ nghĩa cộng sản chỉ là nắm được những cái đã trình bày trong các tác phẩm và sách vở nói về chủ nghĩa cộng sản thì chúng ta rất dễ tạo ra những tên mọt sách hay những kẻ khoác lác về chủ nghĩa cộng sản và như thế thì thường là nguy hại và tổn thất cho chúng ta; vì rằng những người đó, tuy học nhiều và đọc nhiều những điều đã trình bày trong sách vở về chủ nghĩa cộng sản, nhưng lại không có khả năng kết hợp được tất cả những kiến thức đó lại và không có khả năng hành động đúng như chủ nghĩa cộng sản mong muốn.

Một trong những tệ nạn và tai hoạ lớn nhất mà xã hội tư bản chủ nghĩa già cỗi đã để lại cho chúng ta, là sự tách rời hoàn toàn giữa sách vở và thực tiễn của cuộc sống, vì chúng ta đã có những quyển sách mà trong đó mọi cái đều được miêu tả một cách đẹp đẽ nhất đời, nhưng phần nhiều những sách này chỉ là sự dối trá giả nhân giả nghĩa ghê tởm nhất, vì chúng miêu tả cho chúng ta một cách sai lệch về xã hội tư bản chủ nghĩa.

Cho nên chỉ thấm nhuần một cách giáo điều những điều đã viết trong các sách vở nói về chủ nghĩa cộng sản thì sẽ là một sai lầm rất lớn. Ngày nay, những bài diễn văn, những bài báo của chúng ta không phải là đơn thuần nhắc lại những cái trước đây người ta đã nói về chủ nghĩa cộng sản, vì rằng những bài diễn văn, những bài báo của chúng ta đều gắn liền với công tác hàng ngày và muôn màu muôn vẻ. Không có công tác, không có đấu tranh, thì kiến thức sách vở về chủ nghĩa cộng sản rút ra từ các sách và tác phẩm về chủ nghĩa cộng sản, sẽ không có một chút giá trị nào cả, vì rằng kiến thức đó cũng chỉ là tiếp tục tình trạng tách rời trước kia giữa lý luận và thực tiễn, tình trạng đó là đặc trưng ghê tởm nhất của xã hội tư sản cũ.

Nguy cơ sẽ còn lớn hơn nữa, nếu chúng ta bắt đầu chỉ nắm lấy những khẩu hiệu về chủ nghĩa cộng sản. Nếu chúng ta không kịp thời hiểu mối nguy cơ này và nếu chúng ta không hướng toàn bộ công tác của chúng ta nhằm trừ bỏ nó đi, thì sự tồn tại của nửa triệu hay một triệu nam nữ thanh niên, sau khi được học chủ nghĩa cộng sản theo lề lối trên, tự xưng là những người cộng sản, sẽ đem lại một tổn thất to lớn cho sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản.

ở đây vấn đề đặt ra trước mắt chúng ta là phải làm thế nào mà kết hợp được tất cả những điều trên đây để dạy chủ nghĩa cộng sản? Chúng ta phải lấy những cái gì của nhà trường cũ, của khoa học cũ? Nhà trường cũ tuyên bố là muốn đào tạo ra một người có trình độ văn hoá toàn diện và dạy các môn khoa học nói chung. Chúng ta biết rằng đó là điều dối trá hoàn toàn, vì toàn bộ xã hội trước đây đã được xây dựng và dựa trên sự phân chia loài người thành giai cấp, thành người bóc lột và người bị bóc lột. Lẽ tự nhiên là toàn bộ nhà trường cũ, thấm nhuần đầy đủ tinh thần giai cấp, nên chỉ truyền thụ kiến thức cho con cái của giai cấp tư sản mà thôi. Mỗi lời nói của nó đều phù hợp với lợi ích của giai cấp tư sản. Trong các trường học đó, thế hệ trẻ của công nhân và nông dân không phải là được giáo dục mà chủ yếu là bị huấn luyện để phục vụ lợi ích của chính giai cấp tư sản đó. Người ta giáo dục họ để đào tạo cho giai cấp tư sản những tôi tớ được việc có thể đem lại lợi nhuận cho bọn chúng mà vẫn không quấy rầy đến cảnh yên ổn và thói ăn không ngồi rồi của chúng. Cho nên, trong khi bài trừ nhà trường cũ, chúng ta tự đặt cho mình nhiệm vụ là chỉ lấy ở nhà trường cũ cái gì cần thiết cho chúng ta để đạt được một nền giáo dục cộng sản chủ nghĩa chân chính mà thôi.

ở đây, tôi nói đến những lời chỉ trích, những lời buộc tội nhà trường cũ mà ta thường nghe thấy và thường đưa đến những sự giải thích hoàn toàn sai lầm. Người ta nói rằng nhà trường cũ là nhà trường dạy lối sách vở, theo kỷ luật hà khắc, học gạo. Cái đó đúng, nhưng phải biết phân biệt rõ nhà trường cũ có chỗ nào xấu và chỗ nào có lợi cho ta; phải biết rút ra ở đó cái gì cần thiết cho chủ nghĩa cộng sản.

Nhà trường cũ là một nhà trường dạy lối sách vở, nó bắt buộc người ta phải nắm một mớ kiến thức không cần thiết, thừa và không sinh động. Những kiến thức đó nhồi đầy đầu óc thế hệ trẻ và biến họ thành những tên quan lại được đúc cùng một khuôn. Nhưng các bạn sẽ phạm một sai lầm nghiêm trọng nếu từ đó muốn rút ra một kết luận cho rằng có thể trở thành người cộng sản mà không cần thấm nhuần những kiến thức của loài người đã tích luỹ được. Thật là sai lầm khi nghĩ rằng chỉ cần thấm nhuần những khẩu hiệu cộng sản, những kết luận của khoa học cộng sản, chứ không cần phải thấm nhuần tổng số những kiến thức mà chính bản thân chủ nghĩa cộng sản cũng là kết quả. Chủ nghĩa mác là một thí dụ chỉ rõ ràng chủ nghĩa cộng sản đã phát sinh như thế nào từ tổng số những kiến thức của nhân loại.

Nguy hiểm nhất là khi: Đứng trước Bò, Sau lưng Ngựa và ở cạnh người Ngu

Lovers_Again

Các đồng chí đã đọc và đã nghe nói rằng lý luận cộng sản, khoa học cộng sản, - chủ yếu là do Mác sáng tạo nên, - đã không còn là sự nghiệp của một người, mặc dù người đó là nhà xã hội chủ nghĩa thiên tài của thế kỷ XIX; rằng học thuyết đó đã trở thành học thuyết của hàng triệu và hàng chục triệu người vô sản trên toàn thế giới, những người này đã áp dụng học thuyết đểu trong cuộc đấu tranh của mình chống chủ nghĩa tư bản. Và nếu các đồng chí đặt câu hỏi sau đây: tại sao học thuyết của Mác đã có thể chiếm được hàng triệu và hàng chục triệu trái tim của những người trong giai cấp cách mạng nhất, thì các đồng chí sẽ chỉ được nghe một câu trả lời duy nhất: sở dĩ như thế là vì Mác đã dựa vào nền móng vững chắc của những kiến thức mà loài người đã nắm được dưới chủ nghĩa tư bản; sau khi nghiên cứu quy luật phát triển của xã hội loài người, Mác đã hiểu rằng chủ nghĩa tư bản phát triển tất nhiên sẽ đưa đến chủ nghĩa cộng sản và - đây là điều căn bản - khi chứng minh chân lý đó, Mác chỉ dựa trên việc nghiên cứu xã hội tư bản đó một cách chính xác nhất, tỉ mỉ nhất, sâu sắc nhất, nhờ việc nắm vững đầy đủ tất cả những cái mà khoa học trước đây đã cung cấp. Tất cả những cái mà xã hội loài người đã sáng tạo ra, Mác đã nghiền ngẫm lại một cách có phê phán, không hề bỏ sót một điểm nào. Tất cả những cái mà tư tưởng loài người đã sáng tạo ra, Mác đã nghiền ngẫm lại, đã phê phán, và đã thông qua phong trào công nhân mà kiểm tra lại; và Mác đã nêu ra được những kết luận mà những kẻ bị hạn chế trong cái khuôn khổ tư sản hay bị những thành kiến tư sản trói buộc, không thể nào rút ra được.

Chẳng hạn, khi chúng ta nói đến văn hoá vô sản[2], thì không nên quên điều đó. Nếu không hiểu rõ rằng chỉ có sự hiểu biết chính xác về nền văn hoá được sáng tạo ra trong toàn bộ quá trình phát triển của loài người và việc cải tạo nền văn hoá đó mới có thể xây dựng được nền văn hoá vô sản thì chúng ta sẽ không phải bỗng nhiên mà có, nó không phải do những người tự cho mình là chuyên gia về văn hoá vô sản, phát minh ra. Đó hoàn toàn là điều ngu ngốc. Văn hoá vô sản phải là sự phát triển hợp quy luật của tổng số những kiến thức mà loài người đã tích luỹ được dưới ách thống trị của xã hội tư bản, xã hội của bọn địa chủ và xã hội của bọn quan liêu. Tất cả những con đường đó, lớn và nhỏ, đã, đang và sẽ tiếp tục đưa tới văn hoá vô sản, cũng như chính trị kinh tế học do Mác hoàn chỉnh lại, đã chỉ cho ta thấy xã hội loài người sẽ đi đến đâu, đã chỉ cho ta thấy con đường quá độ đi tới đấu tranh giai cấp, tiến tới mở đầu của cuộc cách mạng vô sản.

Khi chúng ta nghe thấy các đại biểu thanh niên và một số người bênh vực nền giáo dục mới thường vẫn hay đả kích nhà trường cũ, lập luận rằng nhà trường cũ là nhà trường học gạo, thì chúng ta phải bảo họ rằng chúng ta phải lấy của nhà trường cũ những cái hay của nó. Chúng ta không nên lấy ở nhà trường cũ cái phương pháp nhồi nhét đấy vào đàu óc của thanh niên quá nhiều kiến thức mà chín phần mười là vô ích và một phần mười còn lại là sai lệch; tuy nhiên, như thế tuyệt nhiên không có nghĩa là chúng ta chỉ bo bo vào những kết luận cộng sản và chỉ học tập những khẩu hiệu cộng sản. Không xây dựng chủ nghĩa cộng sản bằng những cái đó được. Người ta chỉ có thể trở thành người cộng sản khi biết làm giàu trí óc của mình bằng sự hiểu biết tất cả những kho tàng tri thức mà nhân loại đã tạo ra.

Chúng ta không cần lối học gạo, nhưng chúng ta cần mở mang và hoàn thiện trí óc của mỗi người học bằng những kiến thức về những sự việc cơ bản, vì chủ nghĩa cộng sản sẽ trở thành trống rỗng, sẽ chỉ là một cái chiêu bài rỗng tuếch, người cộng sản sẽ chỉ là một anh khoe khoang khoác lác tầm thường, nếu như tất cả các kiến thức đã thu nhận không được nghiền ngẫm trong ý thức của anh ta. Những kiến thức đó, các đồng chí không nên hấp thụ một cách giản đơn; các đồng chí phải hấp thụ có phê phán, để cho đầu óc các đồng chí không phải chất đầy một mớ hổ lốn vô ích, mà là để làm giàu trí óc bằng sự am hiểu mọi sự việc thực tế, không có sự am hiểu những sự việc thực tế đó thì không thể trở thành một người hiện đại có học thực được. Người cộng sản nào cậy mình nắm được những kết luận sẵn có mà muốn khoe khoang về chủ nghĩa cộng sản, nhưng lại không làm một công tác hết sức nghiêm chỉnh, hết sức khó khăn và hết sức to lớn, không hề lý giải những sự việc mà anh ta cần xem xét với tinh thần phê phán, một người cộng sản như vậy thì thật là đáng buồn. Một thái độ hời hợt như thế thật quả là có hại. Nếu tôi thấy rằng tôi hiểu biết ít thì tôi sẽ tìm mọi cách để hiểu biết nhiều hơn nữa, nhưng nếu có người nào nói rằng anh ta là người cộng sản, rằng anh ta không cần phải biết điều gì vững chắc cả, thì người đó không giống người cộng sản một chút nào.

Nhà trường cũ đào tạo những tôi tớ cần thiết cho bọn tư bản; nó biến những nhà khoa học thành những người bắt buộc phải viết, phải nói theo ý muốn của bọn tư bản. Cho nên, chúng ta phải vứt bỏ nhà trường cũ. Nhưng nếu chúng ta phải vứt bỏ nó, phải phá huỷ nó, thì như thế có phải là chúng ta không nên rút ra ở nhà trường cũ tất cả những cái gì cần thiết mà loài người đã tích luỹ được cho con người hay không? Có phải là chúng ta không cần phải biết phân biệt những cái cần thiết cho chủ nghĩa tư bản với những cái cần thiết cho chủ nghĩa cộng sản hay không?

Để thay thế lối giáo dục cũ được thi hành trong xã hội tư sản trái với ý chí của đa số, chúng ta đưa ra kỷ luật tự giác của công nhân và nông dân, những người kết hợp lòng căm thù xã hội cũ với sự quyết tâm, với năng lực, với ý chí sẵn sàng đoàn kết và tổ chức lực lượng của mình trong cuộc đấu tranh này, để từ ý chí của hàng triệu, hàng chục triệu người sống lẻ loi, rời rạc, phân tán trên khắp đất nước mênh mông, mà xây dựng nên một ý chí thống nhất, vì không có cái ý chí thống nhất đó, thì chắc chắn chúng ta sẽ bị đánh bại. Không có sự đoàn kết đó, không có kỷ luật tự giác đó của công nhân và nông dân, thì sự nghiệp của chúng ta sẽ không có hy vọng gì cả. Không có những cái đó, chúng ta không thể thắng được bọn tư bản và bọn địa chủ trên toàn thế giới. Ngay cả việc củng cố các nền móng, chúng ta cũng sẽ không thể làm được, huống hồ là xây dựng trên những nền móng đó một xã hội mới, cộng sản chủ nghĩa. Cũng như khi bài trừ nhà trường cũ, trong khi căm phẫn nó một cách hoàn toàn chính đáng và cần thiết, trong khi coi trọng ý chí sẵn sàng phá huỷ nó đi, chúng ta phải hiểu rằng cần thay thế lối học cũ, lối nhồi sọ cũ, lối giáo dục cũ, bằng nghệ thuật biết hấp thụ toàn bộ kiến thức của nhân loại và hấp thụ nó sao cho chủ nghĩa cộng sản, ở trong các đồng chí, không còn là những điều học thuộc lòng, mà là những điều do chính các đồng chí đã nghiền ngẫm lại và là những kết luận tất nhiên được rút ra trên quan điểm giáo dục hiện đại.

Đó là cách đặt những nhiệm vụ cơ bản khi chúng ta nói đến nhiệm vụ học chủ nghĩa cộng sản.

Để giải thích cho các đồng chí rõ về điểm đó đồng thời đề cập đến vấn đề phải học tập như thế nào, tôi xin kể một thí dụ thực tiễn. Tất cả các đồng chí đều biết rằng sau nhiệm vụ quân sự, nhiệm vụ bảo vệ nước cộng hoà, thì nhiệm vụ được đặt ra cho chúng ta là nhiệm vụ kinh tế. Chúng ta biết rằng không thể xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa nếu không khôi phục công nghiệp và nông nghiệp, nhưng không phải là khôi phục nguyên như cũ. Phải khôi phục công nghiệp và nông nghiệp trên một cơ sở hiện đại, phù hợp với nền khoa học tối tân nhất. Các đồng chí đều biết rằng cơ sở đó là điện lực, và chỉ khi nào ở khắp đất nước, tất cả các ngành công nghiệp và nông nghiệp đã được điện khí hoá, chỉ khi nào các đồng chí hoàn thành được nhiệm vụ đó thì các đồng chí mới có thể xây dựng cho bản thân mình xã hội hội cộng sản chủ nghĩa, mà thế hệ trước không thể xây dựng nổi. Nhiệm vụ đặt ra cho các đồng chí là kiến thiết nền kinh tế cả nước, tổ chức lại và khôi phục cả nông nghiệp lẫn công nghiệp trên một cơ sở kỹ thuật hiện đại dựa trên khoa học, kỹ thuật hiện đại và trên điện lực. Các đồng chí hoàn toàn hiểu rằng việc điện khí hoá không thể do những người mù chữ thực hiện được, mà chỉ biết chữ không thôi thì cũng không đủ. ở đây không phải chỉ cần biết điện lực là gì: phải biết áp dụng về mặt kỹ thuật, điện lực vào công nghiệp và nông nghiệp và vào nhiều ngành khác nhau của công nghiệp và nông nghiệp. Phải tự học lấy điều đó, phải dạy điều đó cho toàn thể thế hệ những người lao động đang lớn lên. Đó là nhiệm vụ của mọi người cộng sản giác ngộ, của mọi thanh niên tự cho mình là người cộng sản và hoàn toàn hiểu rõ rằng khi gia nhập Đoàn thanh niên cộng sản, mình đã nhận nhiệm vụ giúp đảng xây dựng chủ nghĩa cộng sản và giúp toàn thể thế trẻ xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa. Họ phải hiểu rằng điều đó chỉ có thể thực hiện được trên cơ sở một nền học vấn hiện đại, và nếu họ không có nền học vấn đó, thì chủ nghĩa cộng sản vẫn chỉ là một nguyện vọng mà thôi.

Thế hệ trước có nhiệm vụ phải lật đổ giai cấp tư sản. Nhiệm vụ chủ yếu lúc đó là phê phán giai cấp tư sản, phát động quần chúng căm thù giai cấp tư sản, nâng cao ý thức giai cấp, biết tập hợp các lực lượng của mình lại. Thế hệ mới có một nhiệm vụ phức tạp hơn. Nhiệm vụ của các đồng chí không phải chỉ là tập hợp tất cả mọi lực lượng của mình để ủng hộ chính quyền công nông chống sự xâm lược của bọn tư bản. Cái đó, các đồng chí phải làm. Các đồng chí đã hiểu rõ điều đó mà mỗi người cộng sản đều thừa hiểu nhiệm vụ đó. Nhưng như thế chưa đủ. Các đồng chí phải xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa. Xét về nhiều phương diện thì phần đầu của công việc đã làm xong. Quá khứ đã bị phá huỷ, đó là điều cần thiết. Mảnh đất đã được dọn sạch và chính trên mảnh đất đó thế hệ thanh niên cộng sản phải xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa. Trước mắt các đồng chí là nhiệm vụ xây dựng và các đồng chí chỉ có thể làm tròn nhiệm vụ đó, khi đã nắm vững được tất cả những kiến thức hiện đại, biết biến chủ nghĩa cộng sản từ những công thức, những lời dạy, những phương pháp, những chỉ thị, những cương lĩnh có sẵn và học thuộc lòng thành cái thực tế sinh động, là cái kết hợp với công tác trực tiếp của các đồng chí, khi các đồng chí đã biết lấy chủ nghĩa cộng sản làm kim chỉ nam cho công tác thực tiễn của mình.

Đó là nhiệm vụ mà các đồng chí phải làm để rèn luyện, giáo dục, dìu dắt toàn bộ thế hệ trẻ. Tất cả nam nữ thanh niên đều phải là những người xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa mà các đồng chí là những người đầu tiên trong số hàng triệu người xây dựng đó. Nếu các đồng chí không lôi cuốn được toàn thể quần chúng thanh niên công nông vào sự nghiệp xây dựng đó, thì các đồng chí sẽ không thể xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa được.

ở đây lẽ tất nhiên là tôi nói đến vấn đề chúng ta phải giáo dục chủ nghĩa cộng sản như thế nà và đặc điểm của những phương pháp của chúng ta là gì.

Trước hết, ở đây tôi nói đến vấn đề đạo đức cộng sản.

Các đồng chí phải tự giáo dục mình thành những người cộng sản. Nhiệm vụ của Đoàn thanh niên là phải tổ chức hoạt động thực tiễn của mình thế nào để khi học tập, khi tổ chức nhau lại, khi tập hợp nhau lại, khi đấu tranh, tầng lớp thanh niên ấy tự giáo dục mình và đồng thời cũng giáo dục cho tất cả những ai đã công nhận họ là người dẫn đường chỉ lối, để trở thành những người cộng sản. Phải làm cho toàn bộ sự nghiệp giáo dục, rèn luyện và dạy dỗ thanh niên ngày nay trở thành sự nghiệp giáo dục đạo đức cộng sản trong thanh niên.

Nhưng có đạo đức cộng sản hay không? Có luân lý cộng sản hay không? Tất nhiên là có. Người ta thường bảo chúng ta không có đạo đức của chúng ta, và giai cấp tư sản buộc tội những người cộng sản chúng ta là bác bỏ mọi thứ đạo đức. Đó là một cách đánh lộn sòng các khái niệm làm công nhân và nông dân bị lầm lạc.

Theo ý nghĩa nào thì chúng ta bác bỏ đạo đức, bác bỏ luân lý?

Theo ý nghĩa mà giai cấp tư sản đã tuyên truyền, nó cho rằng đạo đức là do giới luật của Thượng đế mà có. Về điểm này, tất nhiên chúng ta biết rất rõ là giới tu hành, bọn địa chủ và giai cấp tư sản chỉ viện danh nghĩa Thương đế để bảo vệ quyền lợi bóc lột của chúng. Hoặc giả, không nói rằng đạo đức là do quy tắc của luân lý, do giới luật của Thượng đế mà ra, thì chúng lại giải thích đạo đức bằng những câu duy tâm hay nửa duy tâm, mà những câu này rút cục bao giờ cũng là những cái rất giống với những giới luật của Thương đế.

Tất cả những thứ đạo đức, xuất phát từ những quan niệm ở ngoài nhân loại, ở ngoài các giai cấp, chúng ta đều bác bỏ. Chúng ta nói rằng đấy chỉ là lừa bịp, dối trá, nhồi sọ công nhân và nông dân để mưu lợi ích riêng cho bọn địa chủ và bọn tư bản.

Chúng ta nói rằng đạo đức của chúng ta hoàn toàn phục tùng lợi ích đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản. Đạo đức của chúng ta là từ những lợi ích của cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản mà ra.

Xã hội cũ xây dựng trên sự áp bức của bọn địa chủ và bọn tư bản đối với tất cả công nhân và nông dân. Chúng ta phải phá huỷ tất cả những cái đó, phải lật đổ bọn áp bức đi; nhưng muốn làm được như thế, phải thực hiện đoàn kết. Đấng Thương đế không tạo ra được sự đoàn kết đó.

Sự đoàn kết đó, chỉ có các công xưởng, các nhà máy, chỉ có giai cấp vô sản được huấn luyện và được thức tỉnh sau một giấc ngủ dài trước kia, mới có thể tạo ra được. Chỉ khi nào giai cấp đó thành hình thì phong trào quần chúng mới bắt đầu và phong trào đó đã dẫn tới một tình hình mà chúng ta đang thấy hiện nay, đó là thắng lợi của cách mạng vô sản ở một trong những nước yếu nhất, ba năm nay đương đầu với giai cấp tư sản toàn thế giới. Và chúng ta thấy cách mạng vô sản đang dâng lên trên toàn thế giới. Bây giờ, nhờ kinh nghiệm của mình, chúng ta nói rằng chỉ có giai cấp vô sản mới có thể sáng tạo ra một sức mạnh đoàn kết để lôi kéo theo nó giai cấp nông dân phân tán và tản mạn, và sức mạnh đó đã chống lại tất cả các cuộc tấn công của bọn bóc lột. Chỉ có giai cấp đó mới có thể giúp quần chúng lao động đoàn kết nhau lại, thắt chặt hàng ngũ, triệt để bảo vệ, triệt để củng cố, triệt để xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa.

Đó là lý do tại sao chúng ta nói rằng: đối với chúng ta, đạo đức ở ngoài xã hội loài người thì không thể có được; đó là lừa bịp. Đối với chúng ta, đạo đức phải phục tùng lợi ích của cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản.

Nhưng cuộc đấu tranh giai cấp đó là gì? Là lật đổ Nga hoàng, lật đổ bọn tư bản, thủ tiêu giai cấp tư bản.

Và giai cấp, nói chung, là gì? Đó là điều làm cho một bộ phận trong xã hội có thể chiếm hữu lao động của người khác. Nếu một bộ phận của xã hội chiếm hữu tất cả ruộng đất, thì chúng ta thấy có giai cấp địa chỉ và giai cấp nông dân. Nếu một bộ phận của xã hội có những nhà máy và công xưởng, có cổ phần và tư bản trong khi bộ phận khác lao động trong các công xưởng đó, thì chúng ta thấy có giai cấp tư bản và giai cấp vô sản.

Nguy hiểm nhất là khi: Đứng trước Bò, Sau lưng Ngựa và ở cạnh người Ngu

Lovers_Again

Đuổi cổ bọn Nga hoàng thì không khó, chỉ vài ngày là đủ. Đuổi cổ bọn địa chủ cũng không khó lắm, việc này trong vài tháng là đã làm được rồi; đuổi cổ bọn tư bản cũng không khó lắm. Nhưng thủ tiêu các giai cấp thì khó khăn không thể so sánh được; sự phân chia ra công nhân và nông dân vẫn còn tồn tại. Nếu người nông dân cày cấy trên mảnh đất của mình và giữ làm của riêng số thóc lúa thừa, nghĩa là số thóc lúa mà chính anh ta cũng như đàn gia súc của anh ta không cần dùng đến, trong lúc mà tất cả những người khác đang không có cơm ăn, thì lúc đó anh nông dân này biến thành kẻ bóc lột. Giữ số thóc lúa này càng nhiều bao nhiêu thì anh ta cang có lợi bấy nhiêu; còn những người khác thì mặc cho họ đói: "họ càng đói bao nhiên, ta càng bán lúa đắt bấy nhiêu". Phải làm thế nào để tất cả mọi người đều phải lao động theo một kế hoạch chung trên một mảnh đất chung, trong những công xưởng và nhà máy chung và theo một quy tắc chung. Điều đó liệu có dễ thực hiện không? Các đồng chí thấy rằng ở đây giải quyết được vấn đề này sẽ không dễ dang như đuổi cổ Nga hoàng, bọn địa chủ và bọn tư bản. ở đây, phải làm thế nào để giai cấp vô sản cải tạo, giáo dục lại một bộ phận trong nông dân, lôi kéo theo mình những người nào là nông dân lao động, để đập tan sức phản kháng của những nông dân giàu có đang làm giàu trên sự nghèo khổ của người khác. Như thế có nghĩa là nhiệm vụ đấu tranh của giai cấp vô sản chưa phải là kết thúc sau khi đã lật đổ Nga hoàng, đuổi cổ bọn địa chủ và bọn tư bản; đó chính là nhiệm vụ của chế độ mà chúng ta gọi là chuyên chính vô sản.

Cuộc đấu tranh giai cấp vẫn tiếp diễn; nó chỉ có thay đổi về hình thức. Đây là cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản nhằm ngăn cản bọn bóc lột cũ trở lại, nhằm thống nhất quần chúng nông dân chưa giác ngộ, sống tản mạn, vào trong một khối duy nhất. Cuộc đấu tranh giai cấp còn tiếp tục, và nhiệm vụ của chúng ta là làm cho tất cả mọi lợi ích phải phục tùng cuộc đấu tranh này. Và đạo đức cộng sản của chúng ta cũng phải phục tùng nhiệm vụ này. Chúng ta nói rằng: đạo đức đó là những gì góp phần phá huỷ xã hội cũ của bọn bóc lột và góp phần đoàn kết tất cả những người lao động chung quanh giai cấp vô sản đang sáng tạo ra xã hội mới của những người cộng sản.

Đạo đức cộng sản là đạo đức phục vụ cuộc đấu tranh ấy, là đạo đức nhằm đoàn kết những người lao động chống mọi sự bóc lột, chống mọi chế độ tư hữu nhỏ, vì chế độ tư hữu nhỏ trao cho một cá nhân thành quả lao động do toàn thể xã hội sáng tạo ra. Ruộng đất đối với chúng ta là tài sản chung.

Nhưng, nếu tài sản chung này, tôi lấy đi một phần, trên phần đó tôi sản xuất gấp đôi số lúa cần thiết cho tôi và tôi đầu cơ chỗ lúa thừa này thì sẽ như thế nào? Nếu tôi tự nhủ là càng có nhiều người bị đói thì người ta càng mua đắt của tôi? Như thế có phải là tôi đã hành động như một người cộng sản không? Không, đó là hành động của một kẻ bóc lột, một kẻ tư hữu. Cần phải đấu tranh chống lại hành động đó. Nếu để sự việc cứ như thế thì tất cả sẽ đi giật lùi đến chỗ phục hồi chính quyền của bọn tư bản, chính quyền của giai cấp tư sản, như đã nhiều lần xảy ra trong các cuộc cách mạng trước kia. Và muốn ngăn cản việc khôi phục chính quyền của bọn tư bản và của giai cấp tư sản, phải cấm chỉ lối buôn bán không chính đáng, muốn thế, phải không được để cho một vài cá nhân làm giàu trên lưng người khác; muốn thế, những người lao động phải đoàn kết với giai cấp vô sản và thiết lập xã hội cộng sản chủ nghĩa. Đó là đặc trưng chủ yếu của nhiệm vụ cơ bản của Đoàn thanh niên cộng sản và các tổ chức thanh niên cộng sản.

Xã hội cũ xây dựng trên nguyên tắc sau đây: anh cướp đoạt của người khác hoặc là người khác cướp đoạt của anh; anh làm cho khác hưởng hoặc là người khác làm cho anh hưởng; anh làm chủ nô hoặc anh làm nô lệ. Và dễ hiểu rằng những người được đào tạo ở trong xã hội đó, có thể nói, khi còn bú mẹ đã nhiễm phải một tâm lý, một tập quán và một quan điểm sau đây: hoặc là chủ nô, hoặc là nô lệ, hoặc là tiểu chủ, là viên chức nhỏ, là quan lại nhỏ, là người trí thức, tóm lại, là một người chỉ lo nghĩ về của riêng của mình chứ không quan tâm đến người khác.

Nếu tôi cày cấy mảnh đất của tôi thì tôi không phải quan tâm đến người khác; nếu một người nào khác có bị đói, thì càng tốt, tôi sẽ bán lúa của tôi với giá đắt hơn. Nếu tôi có một chút địa vị như thày thuốc, kỹ sư, giáo viên, viên chức, thì tôi chẳng cần gì đến người khác. Có thể là nhờ nịnh nọt bợ đỡ những kẻ quyền thế, tôi sẽ giữ vững được địa vị của tôi và tôi sẽ có thể nhoi lên, trở thành một nhà tư sản. Một tâm lý như thế, một tâm trạng như thế không phải là của người cộng sản. Khi nào công nhân và nông dân đã chứng tỏ rằng với sức mạnh của bản thân mình, chúng ta có khả năng tự bảo vệ và xây dựng một xã hội mới, thì lúc đó đã bắt đầu một nền giáo dục mới, cộng sản chủ nghĩa, giáo dục đấu tranh chống những kẻ bóc lột, giáo dục liên minh với giai cấp vô sản chống bọn ích kỷ và bọn tiểu chủ, chống cái tâm lý và tập quán khiến người ta nói rằng: tôi kiếm lợi nhuận của tôi, ngoài ra chẳng có cái gì đáng để cho tôi ý chú cả.

Đấy là lời giải đáp về vấn đề thế hệ thanh niên phải học tập chủ nghĩa cộng sản như thế nào.

Thế hệ thanh niên chỉ có thể học chủ nghĩa cộng sản khi biết gắn liền từng bước học tập, giáo dục và rèn luyện của mình với cuộc đấu tranh không ngừng của những người vô sản và những người lao động chống lại xã hội cũ của bọn bóc lột. Khi người ta nói đạo đức với chúng ta, thì chúng ta trả lời: đối với một người cộng sản, tất cả đạo đức là nằm trong cái kỷ luật đoàn kết keo sơn đó và trong cuộc đấu tranh tự giác của quần chúng chống bọn bóc lột. Chúng ta không tin vào đựa đức vĩnh viễn và chúng ta bóc trần tất cả những sự dối trá của các câu chuyện hoang đường về đạo đức. Đạo đức giúp xã hội loài người tiến lên cao hơn, thoát khỏi ách bóc lột lao động.

Muốn đạt được mục đích đó, thì phải có thế hệ thanh niên là những người đã bắt đầu trở thành những người giác ngộ, trong một hoàn cảnh đấu tranh có kỷ luật và quyết liệt chống lại giai cấp tư sản. Trong cuộc đấu tranh này, thế hệ đó sẽ đào tạo ra được những người cộng sản chân chính: thế hệ đó phải làm cho từng bước việc học tập, rèn luyện và giáo dục của mình phục tùng cuộc đấu tranh ấy và gắn liền với cuộc đấu tranh ấy. Giáo dục thanh niên cộng sản không phải là nói cho họ nghe những bài diễn văn êm dịu hay là những phép tắc đạo đức. Không phải cái đó là giáo dục. Khi người ta thấy được cha mẹ mình sống dưới ách của bọn địa chủ và bọn tư bản như thế nào, khi chính người ta chịu chung nỗi đau khổ với những người mở đầu cuộc chiến chống bọn bóc lột, khi người ta thất rằng muốn tiếp tục cuộc đấu tranh ấy thì phải hy sinh to lớn như thế nào để bảo vệ những thắng lợi đã giành được và thấy rõ bọn địa chủ và bọn tư bản là những kẻ thù hung tợn như thế nào, - thì khi đó người ta tự rèn luyện mình trong hoàn cảnh này để trở thành những người cộng sản. Cơ sở của đạo đức cộng sản là cuộc đấu tranh để củng cố và hoàn thành công cuộc xây dựng chủ nghĩa cộng sản. Đó cũng là cơ sở của việc rèn luyện, học tập và giáo dục cộng sản. Đó là lời giải đáp về vấn đề phải học tập chủ nghĩa cộng sản như thế nào.

Chúng ta không tin vào việc rèn luyện, giáo dục và học tập nếu những việc đó chỉ đóng khung trong nhà trường và tách rời cuộc sống sôi nổi. Chừng nào công nhân và nông dân còn bị bọn địa chủ và bọn tư bản áp bức, chừng nào nhà trường còn ở trong tay bọn địa chủ và bọn tư bản, thì thế hệ thanh niên còn đui mù và tăm tối. Nhà trường của chúng ta phải đem lại cho thanh niên những kiến thức cơ bản, dạy cho họ biết tự tạo ra những quan điểm cộng sản, và phải đào tạo họ thành những người có học thức. Nhà trường của chúng ta phải làm cho thanh niên, trong khi học tập, trở thành những người tham gia cuộc đấu tranh giải phóng những người bị bóc lột. Đoàn thanh niên cộng sản chỉ xứng đáng với danh hiệu của nó là đoàn thể của thế hệ cộng sản trẻ tuổi, nếu gắn liền từng bước học tập, giáo dục và rèn luyện của mình với việc tham gia cuộc đấu tranh chung của tất cả những người lao động chống lại bóc lột. Vì các đồng chí đều biết rõ rằng chừng nào nước Nga còn là nước cộng hoà công nhân duy nhất, mà ở tất cả các nước khác trên thế giới vẫn còn tồn tại trật tự tư sản cũ thì chúng ta sẽ còn yếu hơn kẻ thù, rằng chúng ta còn luôn luôn đứng trước sự đe doạ của một cuộc tấn công mới, rằng chỉ khi nào chúng ta biết đoàn kết nhau lại và hành động nhất trí thì chúng ta mới thắng lợi trong các cuộc đấu tranh sau này, và một khi chúng ta đã mạnh hơn, chúng ta sẽ thật sự trở thành vô địch. Cho nên, là người cộng sản, tức là phải tổ chức và đoàn kết toàn thể thế hệ thanh niên, phải làm gương mẫu về giáo dục và kỷ luật trong cuộc đấu tranh này. Lúc đó các đồng chí mới có thể bắt đầu và hoàn thành công cuộc xây dựng lâu dài của xã hội cộng sản chủ nghĩa.

Để làm cho các đồng chí thấu triệt được điểm này hơn nữa, tôi sẽ kể một thí dụ. Chúng ta tự xưng là người cộng sản. Người cộng sản là thế nào? Danh từ cộng sản gốc ở tiếng la-tinh. Com-mu-ni-xơ nghĩa là của chúng. Xã hội cộng sản, đó là một xã hội trong đó tất cả là của chung: ruộng đất, nhà máy, lao động chung cua mọi người. Chủ nghĩa cộng sản là như thế đó.

Liệu có thể lao động chung được không, nếu mỗi người cứ cày cấy trên một mảnh đất riêng của mình? Không thể trong chốc lát mà sáng tạo ra lao động chung được. Không thể như vậy được. Lao động chung không phải là từ trên trời rơi xuống. Phải nỗ lực, chịu khổ, sáng tạo ra nó. Nó hình thành trong quá trình đấu tranh. ở đây, không dựa vào sách vở cũ được, chẳng ai tin vào sách vở cũ cả. ở đây cần phải có kinh nghiệm sống của bản thân. Khi Côn- tsắc và Đê-ni-kin từ Xi-bi-ri và từ phía Nam tiến đến, nông dân đã theo chúng. Chủ nghĩa bôn-sê-vích không làm cho họ hài lòng vì những người bôn-sê-vích mua thóc của họ với giá quy định. Nhưng khi nông dân đã nếm mùi chính quyền của Côn- tsắc và Đê-ni-kin ở Xi-bi-ri thì họ hiểu rằng họ không còn cách lựa chọn nào khác: hoặc là đi với bọn tư bản để chúng đem họ làm nô lệ cho bọn địa chủ, hoặc là đi theo công nhân là người, thực ra, không hứa hẹn rừng vàng biển bạc gì cả, và là người đòi hỏi một kỷ luật sắt và một ý chí kiên quyết trong cuộc chiến đấu gay go, nhưng lại là người giải phóng họ thoát khỏi ách nô lệ của bọn tư bản và bọn địa chủ. Ngay cả những nông dân dốt nát, khi qua kinh nghiệm bản thân đã hiểu rõ và đã thấy điều đó thì nhờ sự rèn luyện gian khổ, họ đã trở nên những người tự giác ủng hộ chủ nghĩa cộng sản. Đoàn thanh niên cộng sản phải lấy kinh nghiệm đó làm cơ sở cho toàn bộ hoạt động của mình.

Tôi đã giải đáp vấn đề chúng ta phải học tập những gì và phải lấy những gì của nhà trường cũ và của nền khoa học cũ. Tôi cũng sẽ cố gắng giải đáp vấn đề phải học cái đó như thế nào: chỉ bằng cách gắn chặt từng bước cộng tác trong nhà trường, từng bước giáo dục, rèn luyện và học tập với cuộc đấu tranh của tất cả những người lao động chống lại bọn bóc lột.

Bằng mấy thí dụ rút trong kinh nghiệm công tác của một số tổ chức thanh niên, tôi sẽ trình bày cụ thể với các đồng chí là phải tiến hành công tác giáo dục cộng sản như thế nào. Mọi người đều nói đến việc thanh toán nạn mù chữ. Các đồng chí đều biết rằng không thể xây dựng một xã hội cộng sản chủ nghĩa trong một nước có những người mù chữ. Chính quyền xô-viết ra lệnh, hay là đảng ra một khẩu hiệu nhất định, hoặc huy động một số cán bộ ưu tú nhất để làm nhiệm vụ này, thì như vậy cũng chưa đủ. Phải làm thế nào để thế hệ thanh niên đảm đương công việc này. Chủ nghĩa cộng sản là ở chỗ các nam nữ thanh niên thuộc Đoàn thanh niên tự nhủ rằng: đây là công việc của chúng tôi, chúng tôi sẽ tập hợp nhau lại và chúng tôi sẽ về nông thôn thanh toán nạn mù chữ cho thế hệ đang lớn lên không còn có người mù chữ nữa. Chúng ta cố gắng làm thế nào để sự hoạt động tích cực của thế hệ thanh niên phải dành cho công việc này. Các đồng chí biết rằng không thể nào biến đổi nhanh chóng nước Nga mù chữ và dốt nát thành một nước Nga có học thức được; nhưng nếu Đoàn thanh niên gánh vác nhiệm vụ đó, nếu toàn thể thanh niên lao động vì lợi ích chung, thì Đoàn thanh niên đó, gồm 40 vạn nam nữ thanh niên, sẽ có quyền gọi là Đoàn thanh niên cộng sản. Đoàn còn có nhiệm vụ là trong khi hấp thụ những kiến thức nào đó, phải giúp đỡ những thanh niên không thể tự lực thoát khỏi vòng tối tăm ngu muội được. Đã là đoàn viên của Đoàn thanh niên thì phải đem toàn bộ công tác và toàn bộ sức lực của mình ra phục vụ sự nghiệp chung. Đó chính là giáo dục cộng sản. Chính qua quá trình công tác như vậy, mà người thanh niên, nam hay nữ, mới trở thành người cộng sản chân chính được. Chỉ khi nào họ đạt được những kết quả thực tiễn trong công tác này, họ mới trở thành những người cộng sản.

Chúng ta lấy thí dụ công tác làm vườn rau ở những vùng ngoại ô. Đó chẳng phải là một công tác hay sao? Đấy là một trong những nhiệm vụ của Đoàn thanh niên cộng sản. Nhân dân đang bị đói, trong các công xưởng và các nhà máy đang có nạn đói. Để thoát khỏi nạn đói, phải phát triển trồng rau, nhưng lao động trong nông nghiệp còn làm theo kiểu cũ. Và phải làm thế nào đẻ những phần tử giác ngộ nhất bắt tay vào việc, và lúc đó các đồng chí sẽ thấy số lượng và diện tích các vườn rau tăng thêm và kết quả tốt đẹp hơn. Đoàn thanh niên cộng sản phải tham gia tích cực vào công việc này. Mỗi tổ chức hay mỗi chi đoàn của Đoàn thanh niên phải coi nhiệm vụ này như nhiệm vụ của bản thân mình.

Đoàn thanh niên cộng sản phải là một đội sung kích, một đội mà ở trong mọi việc đều biết giúp đỡ, đều có tinh thần chủ động và có sáng kiến của mình. Đoàn phải làm thế nào để cho bất cứ công nhân nào cũng có thể thấy rằng đoàn gồm những người mà học thuyết của họ đối với anh ta có lẽ còn khó hiểu và có lẽ anh ta chưa thể tin ngay được, nhưng công tác thực tế và sự hoạt động của họ chứng minh với anh ta rằng chính họ là những người chỉ cho anh ta con đường đúng đắn.

Nếu Đoàn thanh niên cộng sản không biết tổ chức công tác của mình như vậy trong tất cả các lĩnh vực, thì tức là đoàn đã đi lạc vào con đường cũ, con đường tư sản. Phải gắn liền nền giáo dục của chúng ta với cuộc đấu tranh của những người lao động chống bọn bóc lột, để giúp họ giải quyết được những vấn đề do học thuyết của chủ nghĩa cộng sản đặt ra.

Các đoàn viên của đoàn phải dùng tất cả các giờ rảnh rỗi của mình để cải tiến các vườn rau, để tổ chức trong một nhà máy hay một công xưởng nào đó việc học tập cho thanh niên, v.v. Chúng ta muốn làm cho nước Nga nghèo nàn, cùng khổ trở thành một nước giàu có. Và phải làm thế nào để Đoàn thanh niên cộng sản gắn liền việc rèn luyện, học tập và giáo dục của mình với lao động của công nhân và nông dân, không tự giam mình trong các trường học và không tự hạn chế mình ở việc đọc sách báo và tài liệu cộng sản. Chỉ khi nào cùng lao động với công nhân và nông dân, người ta mới trở nên một người cộng sản chân chính được. Phải làm cho mọi người thấy rằng mỗi một đoàn viên của Đoàn thanh niên đều là người có học thức và đồng thời cũng biết lao động. Khi tất cả mọi người thấy rằng chúng ta đã trừ bỏ cái kỷ luật cưỡng bức xưa của nhà trưởng cũ và đã thay thế nó bằng một kỷ luật tự giác, rằng toàn thể thanh niên đều tham gia ngày thứ bảy cộng sản, rằng toàn thể thanh niên sử dụng mỗi vườn rau ở vùng ngoại ô để giúp đỡ nhân dân, - thì khi đó nhân dân sẽ có một quan niệm lao động khác hẳn quan niệm xưa kia.

Nhiệm vụ của Đoàn thanh niên cộng sản là tổ chức làm giúp một số việc ở làng mạc hay khu phố, - tôi lấy một ví dụ nhỏ, - chẳng hạn như vấn đề vệ sinh hay phân phối thực phẩm. Công việc này được thực hiện trong xã hội tư bản cũ ra sao? Mỗi người chỉ làm việc cho bản thân mình thôi và chẳng có ai chú ý xem có những người già hay người ốm không, hoặc là tất cả công việc nội trợ đều đổ cả lên đầu người phụ nữ phải ở cái địa vị bị áp bức và bị nô dịch. Ai phải đấu tranh chống lại những cái đó? Đoàn thanh niên. Họ phải tuyên bố rằng: chúng tôi sẽ thay đổi tất cả những cái đó, chúng tôi sẽ tổ chức những đội thanh niên để giúp đỡ việc đảm bảo vệ sinh và phân phối thực phẩm, bằng cách thường xuyên đến thăm các gia đình, cùng hoạt động có tổ chức cho lợi ích của toàn thể xã hội, bằng cách phân phối đúng đắn sức lao động và bằng cách chứng tỏ rằng lao động phải là một lao động có tổ chức.

Nguy hiểm nhất là khi: Đứng trước Bò, Sau lưng Ngựa và ở cạnh người Ngu

Lovers_Again

Cái thế hệ những người hiện nay đã gần 50 tuổi thì không thể hy vọng được trông thấy xã hội cộng sản chủ nghĩa. Từ đây cho tới đó, thế hệ này sẽ mất đi. Nhưng cái thế hệ gồm những người hiện nay mới có mười lăm tuổi thì sẽ được thấy xã hội cộng sản chủ nghĩa và bản thân họ sẽ xây dựng xã hội đó. Họ phải biết rằng nhiệm vụ của cuộc đời họ là xây dựng xã hội đó. Trong xã hội cũ, mỗi gia đình làm ăn riêng lẻ và không có ai phối hợp lao động, ngoài bọn địa chủ và bọn tư bản áp bức quần chúng nhân dân. Tất cả các công việc, dù chúng có khó khăn và lem luốc đến đâu chăng nữa, chúng ta cũng phải tổ chức thế nào để mỗi người công nhân và mỗi người nông dân có thể nhận thức về mình rằng: tôi là một phần tử trong đội quân lao động tự do vĩ đại, và tôi sẽ biết cách tự xây dựng lấy cuộc đời của tôi, không cần có bọn địa chủ và bọn tư bản, tôi sẽ biết kiến lập chế độ cộng sản chủ nghĩa. Phải làm thế nào để Đoàn thanh niên giáo dục mọi người từ khi họ còn nhỏ tuổi, theo tinh thần lao động tự giác và có kỷ luật. Có như thế, chúng ta mới có thể hy vọng rằng những nhiệm vụ đặt ra hiện nay sẽ được giải quyết. Chúng ta cần dự tính ít nhất phải mất mười năm để điện khí hoá toàn quốc, khiến cho đất đai nghèo nàn của chúng ta có thể sử dụng những thành tựu mới nhất của kỹ thuật. Thế hệ hiện nay mới có mười lăm tuổi và trong vòng từ mười đến hai mươi năm nữa, sẽ sống trong xã hội cộng sản chủ nghĩa, thế hệ đó phải đặt nhiệm vụ học tập của mình như thế nào để hàng ngày, ở mỗi làng mạc, mỗi thành phố, thanh niên giải quyết được một cách thực tiễn vấn đề này hay vấn đề khác của lao động tập thể, dù là vấn đề bé nhỏ nhất và giản đơn nhất. Công việc trên đây được thực hiện ở mỗi làng mạc như thế nào, cuộc thi đua cộng sản chủ nghĩa được phát triển ra sao, thanh niên chứng minh rằng họ biết làm ăn tập thể đến đâu, thì tất cả những điều đó đều quyết định thắng lợi của công cuộc xây dựng chủ nghĩa cộng sản. Chỉ khi nào chúng ta nhằm vào sự thành công của công cuộc xây dựng đó mà nhận xét mỗi hành động của chúng ta, chỉ khi nào chúng ta tự hỏi liệu chúng ta đã làm hết sức mình để thành những người lao động đoàn kết và tự giác chưa, thì khi đó Đoàn thanh niên cộng sản mới có thể tập hợp được nửa triệu đoàn viên của mình thành một đội quân lao động và được tất cả mọi người tin mến. (Vỗ tay vang dội).

"Sự thật", số 221, 222 và 223; ngày 5, 6 và 7 tháng Mười 1920.
Theo đúng bản in trong cuốn: N. Lênin (V. I. U-li-a-nốp). "Nhiệm vụ của Đoàn thanh niên", Mát - xcơ - va, 1920, có đối chiếu với bản in trên báo "Sự thật".


--------------------------------------------------------------------------------

Chú thích
[1]. Đại hội đoàn thanh niên cộng sản Nga lần thứ III diễn ra tại Mát-cơ-va từ ngày 2/10/1920 đến ngày 10/10/1920 với sự tham gia của 600 đại biểu. Lenin đã phát biểu vào phiên họp đầu tiên vào buổi tối ngày 2/10

[2]. Lenin nói đến tổ chức Proletcult(Văn hoá vô sản), một tổ chức văn hoá giáo dục được thành lập vào tháng 9/1917, là một tổ chức công nhân độc lập. Sau cách mạng tháng mười, quyền lãnh đạo rơi vào tay Dogdanov với chủ trương đòi hoạt động độc lập vì vậy mâu thuẫn với chính quyền vô sản. Từ đó dẫn tới sự thâm nhập của tư tưởng tư sản của một số thành viên của Proletcult, những thành viên này phủ nhận những di sản văn hoá trong quá khứ, bỏ qua nềnvăn hoá và giáo dục đại chúng, tự cô lập và muốn xây dựng nền "văn hoá vô sản". Bogdanov, lãnh tụ của Proletcult tuy tuyên bố là theo chủ nghĩa Mác nhưng thực chất lại theo duy tâm chủ quan. Proletcult phát triển mạnh vào năm 1919 vào năm, bắt đầu suy tàn đầu năm 1920 và tan rã năm 1932.

Nguy hiểm nhất là khi: Đứng trước Bò, Sau lưng Ngựa và ở cạnh người Ngu

Sao_Online

NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ CÔNG TÁC ĐOÀN VIÊN

A. PHÁT TRIỂN ĐOÀN VIÊN MỚI

I. Điều kiện kết nạp đoàn viên:

Thanh niên Việt Nam tuổi từ 15 đến 30, tích cực học tập, lao động, hoạt động xã hội và bảo vệ Tổ quốc, được học và tán thành Điều lệ Đoàn, tự nguyện hoạt động trong một tổ chức cơ sở của Đoàn và có lý lịch rõ ràng đều được xét kết nạp vào Đoàn.

II. Thủ tục kết nạp đoàn viên:

1- Thanh niên vào Đoàn tự nguyện viết đơn, báo cáo lý lịch của mình với Đoàn.
2- Được học Điều lệ Đoàn và được trang bị những hiểu biết cơ bản về Đoàn trước khi kết nạp.
3- Được một trong những cá nhân hoặc tập thể sau đây giới thiệu: Một đoàn viên hoặc một đảng viên chính thức cùng công tác ít nhất là 3 tháng giới thiệu và bảo đảm.
    - Đối với đội viên Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh thì do tập thể chi đội giới thiệu.
    - Đối với hội viên Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam, Hội Sinh viên Việt Nam thì do tập thể chi hội giới thiệu.
4- Được hội nghị chi đoàn xét kết nạp từng người một với sự biểu quyết tán thành của quá nửa (1/2) số đoàn viên có mặt tại Hội nghị và được Ban Thường vụ Đoàn cấp trên trực tiếp chuẩn y.
- Trường hợp đặc biệt ở vùng cao, vùng sâu, các đơn vị công tác phân tán không có điều kiện họp được toàn thể chi đoàn, nếu được Ban Thường vụ Đoàn cấp trên đồng ý thì việc xét kết nạp có thể do Ban Chấp hành chi đoàn xét và Ban Thường vụ Đoàn cấp trên trực tiếp chuẩn y.

III. Quy trình công tác phát triển đoàn viên:

Bước 1: Tuyên truyền giới thiệu về Đoàn cho thanh, thiếu niên, thông qua các loại hình tổ chức và các phương thức hoạt động của Đoàn, Hội, Đội.

Bước 2: Xây dựng kế hoạch kết nạp đoàn viên.
- Lập danh sách thanh niên và đội viên trưởng thành.
- Phân loại, lựa chọn đối tượng theo các tiêu chuẩn kết nạp đoàn viên để lựa chọn và bồi dưỡng đối tượng để kết nạp.
- Phân công đoàn viên giúp đỡ, dự kiến thời gian bồi dưỡng và tổ chức kết nạp.

Bước 3:  Bồi dưỡng giáo dục, rèn luyện thanh, thiếu niên vào Đoàn.
- Tổ chức các hoạt động của Đoàn, Hội, Đội để lựa chọn những thanh, thiếu niên có đủ tiêu chuẩn xét kết nạp (nơi có điều kiện có thể bồi dưỡng giao nhiệm vụ thông qua các lớp bồi dưỡng tìm hiểu về Đoàn cho thanh, thiếu niên).
- Mở lớp bồi dưỡng tìm hiểu về Đoàn với 3 bài cơ bản về Đảng Cộng sản Việt Nam, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh và phấn đấu để trở thành Đoàn Viên Đoàn TNCS Hồ Chí Minh.

Bước 4: Tiến hành các thủ tục và tổ chức kết nạp đoàn viên mới.
  - Hướng dẫn đối tượng tự khai lý lịch và viết đơn (theo mẫu Sổ đoàn viên).
  - Hội nghị chi đoàn xét, quyết định và báo cáo lên Ban Thường vụ Đoàn cấp trên hồ sơ kết nạp đoàn viên mới gồm: Sổ đoàn viên, đề nghị kết nạp đoàn viên của Ban Chấp hành chi đoàn, giấy đảm bảo thanh niên vào Đoàn.
  - Ban Thường vụ Đoàn cấp trên ra quyết định chuẩn y kết nạp.
  - Chi đoàn tổ chức lễ kết nạp đoàn viên mới.
  - Hoàn chỉnh hồ sơ để quản lý đoàn viên, tiếp tục bồi dưỡng tạo điều kiện để đoàn viên mới rèn luyện, tiến bộ trưởng thành.

IV. Tổ chức lễ kết nạp đoàn viên

1. Địa điểm, thời gian, trang trí:
Khi có quyết định chuẩn y kết nạp của Đoàn cấp trên, chậm nhất là 15 ngày sau, Ban Chấp hành chi đoàn phải tổ chức lễ kết nạp đoàn viên mới.
1- Địa điểm: Lễ kết nạp đoàn viên được tổ chức trang nghiêm, tạo ấn tượng sâu sắc cho đoàn viên mới. Có thể tổ chức ở phòng họp, phòng truyền thống hoặc ở những nơi di tích lịch sử văn hóa, trong một cuộc sinh hoạt, hoạt động tập thể của chi đoàn.

2- Thời gian: Cần chọn thời điểm thích hợp, thuận lợi và có ý nghĩa gắn với các ngày lễ lớn hay các hoạt động của chi đoàn.
Buổi lễ kết nạp phải đảm bảo đúng thủ tục, ngắn gọn nhưng không qua loa đại khái, đặc biệt không kéo dài gây nhàm chán. Trong buổi lễ, ngoài các thủ tục nội dung qui định có thể thêm một số nội dung khác nhưng phải kết thúc hợp lý.

3- Trang trí: Phải có cờ Tổ quốc, cờ Đoàn hay huy hiệu Đoàn, ảnh hay tượng Bác Hồ và có dòng chữ: "Lễ kết nạp đoàn viên mới". Nên có hoa để tạo không khí vui tươi, đẹp mắt.

Cách trang trí tùy vào không gian và điều kiện cụ thể về địa điểm, nhưng phải đảm bảo cờ Đoàn hoặc huy hiệu Đoàn không cao hơn cờ Tổ quốc; tượng hoặc ảnh Bác không đặt cao hơn cờ Tổ quốc và cờ Đoàn.

Nếu kết nạp ngoài trời thì dùng hình thức cờ có cán, có người đứng cầm cờ giống như Nghi thức Đội.

2. Chương trình, nội dung:

1. Chào cờ: hát Quốc ca, sau đó hát bài ca chính thức của Đoàn: "Thanh niên làm theo lời Bác" (Nhạc và lời của Hoàng Hoà).
2. Tuyên bố lý do, giới thiệu đại biểu.
3. Bí thư chi đoàn hoặc đại diện ban chấp hành chi đoàn báo cáo quá trình phấn đấu, đọc nghị quyết chuẩn y kết nạp của Đoàn cấp trên, trao quyết định, gắn huy hiệu và trao thẻ đoàn viên mới (trường hợp kết nạp nhiều người phải tiến hành giới thiệu và công bố quyết định kết nạp từng người một).
4. Đoàn viên mới đọc lời hứa: "Được vinh dự trở thành đoàn viên TNCS Hồ Chí Minh, trước cờ Tổ quốc, cờ Đoàn, trước chân dung của Bác Hồ vĩ đại, trước toàn thể các đồng chí, tôi xin hứa:
- Luôn luôn phấn đấu vì mục tiêu lý tưởng của Đảng cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh.
- Nghiêm chỉnh chấp hành Điều lệ Đoàn và tích cực rèn luyện để xứng đáng với danh hiệu đoàn viên TNCS Hồ Chí Minh.
- Giúp đỡ mọi người, luôn luôn xứng đáng là người bạn tin cậy của thanh niên Việt Nam".
"Xin hứa"!
Trường hợp kết nạp nhiều người, có thể cử đại diện thay mặt đọc lời hứa.
Chú ý: Lời hứa nên được chuẩn bị từ trước và do chính thanh niên được kết nạp chuẩn bị có sự đóng góp ý kiến của đoàn viên trực tiếp giúp đỡ.
5. Đại diện người giới thiệu, hoặc chi hội, chi đội phát biểu, hứa tiếp tục giúp đỡ đoàn viên.
6. Đại biểu Đoàn cấp trên hoặc cấp uỷ phát biểu giao nhiệm vụ.
7. Chào cờ, bế mạc.
Ngoài những nội dung quy định trên, tuỳ điều kiện hoàn cảnh cụ thể bổ sung một số nội dung khác như: nói chuyện chuyên đề, nói chuyện thời sự, tập huấn chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật, liên hoan văn nghệ, vũ hội hay các hoạt động vui chơi giải trí...

B. CÔNG TÁC QUẢN LÝ ĐOÀN VIÊN:

I. Quản lý đoàn viên về tổ chức:

- Mỗi đoàn viên TNCS Hồ Chí Minh đều phải có sổ đoàn viên, huy hiệu Đoàn và được trao thẻ đoàn viên.
- Hồ sơ đoàn viên được đóng thành cuốn Sổ đoàn viên (theo mẫu do Ban Thường vụ Trung ương Đoàn ban hành), ngoài ra có Thẻ đoàn viên và những văn bản liên quan đến quá trình học tập, công tác, sinh hoạt của đoàn viên.
- Ban Chấp hành chi đoàn phải có "Sổ chi đoàn" theo mẫu của Ban Thường vụ Trung ương Đoàn ban hành.
- Ban Chấp hành Đoàn cơ sở có Sổ danh sách đoàn viên; Sổ theo dõi kết nạp đoàn viên, trao Thẻ đoàn viên; Sổ giới thiệu và tiếp nhận sinh hoạt Đoàn.
- Hàng năm Ban Chấp hành chi đoàn có trách nhiệm ghi nhận xét ưu, khuyết điểm (gồm cả khen thưởng và kỷ luật) và kết quả phân loại đoàn viên vào sổ của từng đoàn viên.
- Chi đoàn hàng tháng, Đoàn cơ sở hàng quý, Đoàn cấp huyện, cấp tỉnh và tương đương 6 tháng, 1 năm có trách nhiệm báo cáo đầy đủ tình hình công tác tổ chức Đoàn của đơn vị mình cho Đoàn cấp trên trực tiếp.
- Đoàn viên thực hiện nhiệm vụ và quyền của đoàn viên ở cơ sở quản lý hồ sơ đoàn viên, đồng thời có trách nhiệm tham gia các hoạt động ở địa bàn dân cư hoặc nới cư trú. Đoàn viên là đảng viên phải thực hiện đầy đủ nhiệm vụ và quyền của đoàn viên (trừ nhiệm vụ đóng đoàn phí).
- Đoàn viên, chi đoàn và Đoàn cơ sở đều  có trách nhiệm bảo quản Sổ đoàn viên cẩn thận không để hư hỏng, mất mát.
- Nơi quản lý sổ đoàn viên là: Đoàn cơ sở hoặc chi đoàn cơ sở.

II. Quản lý đoàn viên về tư tưởng:

- Thường xuyên và kịp thời nắm bắt những diễn biến tư tưởng của đoàn viên. Tìm hiểu nguyện vọng, những khó khăn đang xảy ra cho đoàn viên, những tư tưởng không đúng đang chi phối đoàn viên... và kịp thời có hướng giúp đỡ để đoàn viên vượt qua những khó khăn về tư tưởng, sửa chữa những lệch lạc trong suy nghĩ của đoàn viên.
- Quản lý đoàn viên là bồi dưỡng nâng cao nhận thức, xây dựng bản lĩnh chính trị, tư tưởng cho đoàn viên nhất là đoàn viên mới, giúp đoàn viên học tập và tìm  hiểu rõ mục tiêu lý tưởng cách mạng, của Đảng, của Đoàn, nhiệm vụ đoàn viên.
- Tạo điều kiện để đoàn viên được rèn luyện, phấn đấu, Đoàn phải là nơi để đoàn viên trình bày tâm tư, nguyện vọng và tổ chức Đoàn phải quan tâm giúp đỡ.

III. Quản lý đoàn viên về công tác và sinh hoạt:

Ban chấp hành chi đoàn cần phân công nhiệm vụ cho từng đoàn viên, có trách nhiệm kiểm tra đánh giá kết quả công tác hàng tháng của từng đoàn viên. Kịp thời biểu dương những đoàn viên hoàn thành tốt và góp ý kiến phê bình những đoàn viên không hoàn thành nhiệm vụ của Đoàn giao. Thông qua việc triển khai thực hiện chương trình: "Rèn luyện đoàn viên" để phân công công tác cho đoàn viên đảm bảo thực hiện tốt quy định "Mỗi đoàn viên một việc làm thiết thực cho Đoàn".
- Đoàn viên thực hiện nhiệm vụ và quyền của Đoàn viên ở cơ sở quản lý hồ sơ đoàn viên, đồng thời có trách nhiệm tham gia các hoạt động ở địa bàn dân cư hoặc nơi cư trú với các nội dung và biện pháp cụ thể như:
+ Đối với Đoàn cơ sở, chi đoàn cơ sở nơi đoàn viên công tác: cần lập danh sách đoàn viên của đơn vị mình, giới thiệu về nơi cư trú sinh hoạt, có công văn giới thiệu đoàn viên về tham gia phong trào tại nơi cư trú. Lập sổ theo dõi và kiểm tra, nhắc nhở đoàn viên tham gia sinh hoạt, định kỳ 6 tháng đánh giá phân loại.
+ Đối với Đoàn phường- xã, chi đoàn dân cư, nơi đoàn viên cư trú: Tổng hợp và quản lý đoàn viên được giới thiệu tham gia sinh hoạt và hoạt động có kế hoạch tổ chức các hoạt động thiết thực cụ thể phù hợp với điều kiện công tác và thời gian tham gia của đoàn viên. Định kỳ (và khi cần thiết) thông báo cho đoàn viên về sinh hoạt nơi cư trú biết những nội dung công tác và hoạt động chi đoàn,    Đoàn cơ sở. Xây dựng bản đăng ký các nội dung tham gia phong trào tại địa phương, làm tốt công tác khen thưởng đối với những đoàn viên ưu tú.
Đối với đoàn viên phải có trách nhiệm tham gia các hoạt động do Đoàn nơi mình cư trú tổ chức và vận động gia đình cùng thực hiện tốt các quy định nơi cư trú và đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Chủ động liên hệ với Ban Chấp hành Đoàn nơi đang sinh hoạt để nhận giấy giới thiệu chuyển sinh hoạt và hoạt động về nơi cư trú. Đoàn viên được tham dự và đóng góp ý kiến tại Đại hội, Hội nghị của chi đoàn, được xét khen thưởng nhưng không được ứng cử, đề cử và bầu cử ở chi đoàn địa bàn dân cư hoặc nơi cư trú.Trong trường hợp cần thiết về công tác cán bộ nếu có tín nhiệm để bẩu vào cơ quan lãnh đạo của Đoàn ở địa bàn dân cư và nếu đoàn viên có nguyện vọng thì phải chuyển hồ sơ đoàn viên về nơi cư trú trước khi bầu ít nhất 15 ngày.

IV. Quản lý đoàn viên làm ăn xa:

1. Đối với đoàn viên:

- Trước mỗi đợt đi lao động ở xa, đoàn viên cần báo cáo với Ban Chấp hành chi đoàn về địa chỉ nơi đến để chi đoàn, Đoàn cơ sở hướng dẫn thủ tục chuyển sinh hoạt Đoàn tạm thời (nếu có nguyện vọng) và có sự giúp đỡ khi cần thiết.
- Khi đến nơi lao động mới hoặc nơi cư trú đoàn viên cần làm thủ tục đăng ký tạm trú và liên hệ với chi đoàn, Đoàn cơ sở nơi tạm trú hoặc quận, huyện Đoàn đề nghị được hướng dẫn để đăng ký tham gia sinh hoạt Đoàn, Hội.
- Trong thời gian tham gia sinh hoạt với chi đoàn nơi tạm trú, đoàn viên thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định tại điều 2, điều 3 của Điều lệ Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, được tham dự và đóng góp ý kiến tại đại hội, hội nghị của chi đoàn, được xét khen thưởng khi có thành tích nhưng không được ứng cử, đề cử và bầu cử ở Đại hội, Hội nghị của chi đoàn nơi tạm trú.
- Đoàn viên nộp đoàn phí tại cơ sở sinh hoạt tạm thời (trường hợp không chuyển sinh hoạt tạm thời thì vẫn nộp đoàn phí ở cơ sở Đoàn quản lý đoàn viên) nếu vi phạm kỷ luật ở nơi sinh hoạt tạm thời thì BCH cơ sở Đoàn nơi đó xét quyết định và thông báo với cơ sở Đoàn nơi quản lý hồ sơ đoàn viên.
- Trước khi trở về địa phương hoặc đến lao động ở một địa bàn khác, đoàn viên chủ động báo cáo với Ban Chấp hành chi đoàn, Đoàn cơ sở nơi tạm trú để Chi đoàn, Đoàn cơ sở có nhận xét, đánh giá về thời gian tham gia sinh hoạt và hướng dẫn thủ tục chuyển sinh hoạt Đoàn.

2. Đối với chi đoàn

+ Chi đoàn nơi đi
- Thông qua việc báo cáo của đoàn viên hoặc thông qua gia đình đoàn viên, chính quyền, các tổ chức đoàn thể ở địa phương để lập danh sách đoàn viên kèm theo địa chỉ nơi đến của số đoàn viên đi lao động ở xa, thời gian không ổn định của chi đoàn.
- Đề nghị Đoàn cơ sở ra quyết định thành lập chi đoàn sinh hoạt tạm thời (nếu có từ 3 đoàn viên trở lên chuyển đi lao động, tạm trú ở cùng một địa bàn) và  chỉ định Bí thư chi đoàn, làm thủ tục giới thiệu, chuyển sinh hoạt Đoàn tạm thời cho đoàn viên và chi đoàn (nếu cần).
+ Chi đoàn nơi đến
- Đối với những địa bàn có đông đoàn viên thanh niên là lao động tự do cư trú, Ban Chấp hành chi đoàn báo cáo với Đoàn cấp trên, Công an khu vực, chính quyền để gặp gỡ, vận động và tổ chức cho đoàn viên thanh niên tham gia sinh hoạt Đoàn, Hội tại địa bàn nơi tạm trú.
- Nếu đã có quyết định thành lập chi đoàn ở nơi đi thì Ban Chấp hành chi đoàn chuyển giấy giới thiệu sinh hoạt Đoàn cho Đoàn cơ sở nơi đến đồng thời giúp chi đoàn mới ổn định tổ chức và cùng tham gia sinh hoạt, hoạt động với Đoàn cơ sở nơi đoàn viên đăng ký tạm trú.
- Tổ chức các hoạt động trợ giúp thiết thực đối với đoàn viên thanh niên lao động tự do cư trú trên địa bàn.

3. Đối với Đoàn cơ sở:

+ Đoàn cơ sở nơi đi:

- Tổ chức gặp mặt số đoàn viên đi lao động ở xa vào dịp Tết Nguyên đán, ngày lễ, hoặc dịp có nhiều đoàn viên về địa phương... để nắm tâm tư nguyện vọng và giới thiệu chuyển sinh hoạt Đoàn tạm thời cho đoàn viên. Chuyển sinh hoạt Đoàn tạm thời bằng Thẻ đoàn viên hoặc giấy chuyển sinh hoạt Đoàn tạm thời (nếu cần, không phải nộp Sổ đoàn viên).
- Trường hợp có từ 3 đoàn viên trở lên đi lao động, tạm trú ở cùng một địa bàn thì Đoàn cơ sở có thể ra quyết định thành lập chi đoàn sinh hoạt tạm thời, chỉ định Ban Chấp hành, Bí thư của chi đoàn và làm thủ tục giới thiệu, chuyển sinh hoạt tạm thời đến Đoàn cơ sở nơi đoàn viên đang tạm trú (nếu cần) và có công văn đề nghị Đoàn cơ sở nơi đến tạo điều kiện giúp đỡ và tổ chức cho đoàn viên tham gia sinh hoạt, hoạt động Đoàn.
- Trường hợp không chuyển sinh hoạt tạm thời thì Đoàn cơ sở nơi đi phải thường xuyên giữ mối liên hệ với Bí thư chi đoàn để nắm tình hình tư tưởng, hoạt động của đoàn viên và chi đoàn để có định hướng động viên giúp đỡ, thông tin kịp thời tình hình địa phương, đơn vị và hoạt động của Đoàn cơ sở cho chi đoàn

+ Đoàn cơ sở nơi đến:

- Tham mưu với cấp uỷ, chính quyền và phối hợp với Mặt trận Tổ quốc, các Đoàn thể tổ chức gặp gỡ số đoàn viên thanh niên là lao động tự do trên địa bàn do Đoàn xã, phường, thị trấn quản lý, vận động và tiếp nhận đoàn viên tham gia sinh hoạt Đoàn.
- Những địa bàn tập trung đông đoàn viên là lao động tự do và đã có đăng ký tạm trú thì Đoàn xã, phường, thị trấn hoặc Đoàn cấp huyện (tương đương) ở nơi đó có thể thành lập các chi hội, chi đoàn trực thuộc để tổ chức các hoạt động (Chi đoàn khu nhà trọ, khu tập thể)
- Nắm tình hình tư tưởng, việc làm, tổ chức hoặc phối hợp tổ chức các hoạt động chăm lo và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của đoàn viên là lao động tự do (giới thiệu nhà trọ, việc làm, mua vé tàu xe, tuyên truyền phòng chống tệ nạn xã hội, thăm hỏi lúc ốm đau...) thông qua đó xây dựng lực lượng nòng cốt vận động số đoàn viên thanh niên tích cực để thành lập chi hội, chi đoàn.

C. CHƯƠNG TRÌNH RÈN LUYỆN ĐOÀN  VIÊN:

Chương trình "Rèn luyện đoàn viên" là một phương thức tác động trực tiếp đến từng đoàn viên. Giúp đỡ đoàn viên từ vị trí tiếp thu thụ động sang vị trí chủ động trong các hoạt động của các cơ sở Đoàn, biến quá trình giáo dục thành quá trình tự giáo dục. Từ đó góp phần nâng cao chất lượng đoàn viên, chất lượng hoạt động của chi đoàn là cơ sở để ban chấp hành chi đoàn tiến hành phân loại đoàn viên, trao thẻ đoàn viên, và giới thiệu đoàn viên ưu tú với Đảng hàng năm.

I- Rèn luyện về nhận thức:

Thông qua triển khai thực hiện Chương trình RLĐV, sự hướng dẫn, trợ giúp của tổ chức Đoàn, mỗi đoàn viên phát huy cao nhất khả năng tự rèn luyện để có được những kiến thức, hiểu biết cơ bản, có phẩm chất chính trị vững vàng, nội dung rèn luyện về nhận thức bao gồm:
- Lý luận chính trị và lịch sử, truyền thống của Đoàn của Đảng.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ yếu 5 điều Bác dạy thanh niên.
- Những hiểu biết cơ bản về Đảng Cộng sản Việt Nam và chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước về phát triển kinh tế xã hội, giữ vững quốc phòng an ninh.
- Những hiểu biết cơ bản về tổ chức Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Hội LHTN Việt Nam, Hội sinh viên Việt Nam và Đội TNTP Hồ Chí Minh.
- Những hiểu biết cơ bản về Hiến pháp và Pháp luật.
- Rèn luyện đạo đức, lối sống, cách mạng, cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư.

II. Rèn luyện về hành động:

Cụ thể hoá và thực hiện có hiệu quả quy định "Mỗi đoàn viên có ít nhất một việc làm thiết thực cho Đoàn", gắn hoạt động của mình với hoạt động của thanh niên nơi sinh sống, công tác, phụ trách ít nhất một thiếu nhi hoặc giúp đỡ một thanh niên ở địa bàn dân cư; mỗi cơ sở Đoàn, chi đoàn có ít nhất một công trình, phần việc thanh niên rèn luyện về hành động, bao gồm những việc làm cụ thể, thiết thực, phù hợp khả năng, trình độ, nghiệp vụ của từng đoàn viên giúp đỡ đoàn viên tự rèn luyện, nâng cao năng lực làm chủ bản thân trong học tập, sinh hoạt, công tác và hoạt động xã hội, thực hiện tốt nhiệm vụ người đoàn viên. Quá trình triển khai thực hiện rèn luyện về hành động cần chú ý tạo điều kiện để đoàn viên đăng ký tham gia các tổ, đội, nhóm thanh niên, tình nguyện hoạt động xã hội và công tác xây dựng, củng cố tổ chức Đoàn, chăm sóc giáo dục thiếu niên nhi đồng... Rèn luyện về hành động cần tập trung thực hiện 5 nội dung chủ yếu sau đây:
- Công tác chuyên môn, nhiệm vụ được giao.
- Công tác xã hội.
- Kỹ năng công tác thanh niên.
- Công tác xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở Đoàn, Hội; phụ trách Đội và tham gia xây dựng Đảng.
- Tự rèn luyện nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, kiến thức văn hoá- xã hội và sức khoẻ.
Chương trình rèn luyện đoàn viên do chi đoàn và Đoàn cơ sở tổ chức triển khai thực hiện. Thông qua các hoạt động các cơ sở Đoàn cần tạo môi trường và điều kiện để đoàn viên thực hiện chương trình rèn luyện đoàn viên. Cán bộ Đoàn là tác nhân định hướng, tổ chức Đoàn, Hội tạo môi trường, cá nhân đoàn viên phải tự rèn luyện phấn đấu. Qui trình triển khai chương trình rèn luyện đoàn viên ở chi đoàn gồm 5 bước sau đây:

Bước 1: Chi đoàn triển khai mục đích yêu cầu và hướng dẫn giúp đoàn viên đăng ký nội dung rèn luyện phù hợp với trình độ năng khiếu.

Bước 2: Mỗi đoàn viên tự xác định và đăng ký thực hiện một hoặc một số nội dung rèn luyện cụ thể của mình (nếu đoàn viên chưa tự đề ra nội dung rèn luyện phù hợp thì ban chấp hành chi đoàn phải hướng dẫn gợi ý).

Bước 3: Chi đoàn tổng hợp các nội dung rèn luyện đoàn viên đã đăng ký. Mỗi nội dung đều có tính phấn đấu và phải đạt được sự thỏa thuận thống nhất, không khó quá hoặc không dễ quá.

Bước 4: Chi đoàn và Đoàn cơ sở cung cấp tài liệu, tổ chức các hoạt động hướng dẫn giúp đỡ theo dõi đoàn viên thực hiện nội dung rèn luyện đã đăng ký.

Bước 5: Chi đoàn đánh giá và công nhận kết quả tự rèn luyện của đoàn viên trong từng giai đoạn theo 4 mức: xuất sắc, khá, trung bình, và yếu đồng thời báo cáo với Đoàn cấp trên và cấp ủy cùng cấp.

Lưu ý:
1- Mỗi đoàn viên có một cuốn sổ hoặc một phiếu đăng ký chương trình: "Rèn luyện đoàn viên" của cá nhân.
2- Mỗi chi đoàn có một cuốn "Sổ vàng truyền thống" để đoàn viên đăng ký các nội dung rèn luyện hoặc "Những việc làm thiết thực cho Đoàn"
3- Đoàn viên đăng ký trực tiếp tại lễ đăng ký chương trình rèn luyện đoàn viên của chi đoàn (tổ chức vào dịp 26/3 hàng năm), hoặc gắn với lễ kết nạp đoàn viên mới, các lễ kỷ niệm những ngày truyền thống lịch sử trong năm... (yêu cầu chi đoàn phải tổng hợp các nội dung rèn luyện của đoàn viên đã đăng ký vào Sổ chi đoàn).

D. TIÊU CHUẨN PHÂN LOẠI ĐOÀN VIÊN, CƠ SỞ ĐOÀN MỨC THU VÀ TRÍCH NỘP ĐOÀN PHÍ:

I- Tiêu chuẩn phân loại đoàn viên:

1. Dựa trên tiêu chí "3 tốt":

- Phẩm chất tốt:

1. Lối sống lành mạnh, không mắc tệ nạn xã hội.
2. Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong sinh hoạt và các lĩnh vực công tác.
3. Đoàn kết, trung thực, thẳng thắn trong đấu tranh tự phê bình và phê bình.
4. Có uy tín trước tập thể chi đoàn và thanh thiếu nhi.
5. Tuyên truyền gia đình, quần chúng nhân dân thực hiện đúng quan điểm, đường lối, chính sách, nghị quyết của Đảng, của Đoàn và pháp luật Nhà nước.

- Chuyên môn tốt:

1. Có ý thức trách nhiệm trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị, chuyên môn ở nơi công tác, sinh hoạt.
2. Năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm trong công việc của mình ở mọi nơi, mọi lúc.
3. Đạt hiệu quả cao trong lao động, học tập và công tác, mang lại lợi ích thiết thực về vật chất và tinh thần cho bản thân, gia đình, cơ quan, đơn vị...
4. Thực hiện đúng quy chế, quy định, quy trình, quy phạm và đạo đức nghề nghiệp trong lĩnh vực mình công tác, hoạt động.
5. Kết quả làm việc được tập thể ghi nhận và đánh giá cao.

- Hoạt động tốt:

1. Tham gia đầy đủ các hoạt động do chi đoàn tổ chức hoặc triệu tập.
2. Chủ động hiến kế, đề xuất sáng kiến xây dựng và thực hiện các chương trình công tác của chi đoàn.
3. Thường xuyên theo dõi nắm bắt những thông tin thời sự về hoạt động của tổ chức Đoàn, Hội, Đội ở các cấp, đặc biệt là dư luận quần chúng tại địa phương, đơn vị đánh giá kết quả hoạt động của công tác Thanh thiếu nhi.
4. Giới thiệu kết nạp được đoàn viên mới.
5. Đóng đoàn phí đầy đủ; giữ gìn nghiêm túc Thẻ Đoàn viên; đeo huy hiệu Đoàn trong các buổi sinh hoạt, hoạt động của Đoàn.

2. Đánh giá, phân loại đoàn viên theo 4 mức:

a. Đoàn viên tốt:

- Thực hiện tốt tiêu chí "3 tốt" và 3 nhiệm vụ của người đoàn viên (theo quy định tại Điều 2 - Điều lệ Đoàn TNCS Hồ chí Minh).
- Thực hiện tốt Chương trình RLĐV cả về nhận thức và hành động.
*Lưu ý: Trong số đoàn viên được đánh giá, phân loại "Tốt" sẽ bình chọn ra những "Đoàn viên xuất sắc" (Là những đoàn viên ưu tú có đủ điều kiện để giới thiệu cho Đảng xem xét kết nạp).

b. Đoàn viên khá:

- Thực hiện khá tiêu chí "3 tốt" và 3 nhiệm vụ của người đoàn viên.
- Thực hiện khá Chương trình RLĐV cả về nhận thức và hành động.

c. Đoàn viên trung bình:

- Có ý thức thực hiện tiêu chí "3 tốt" và 3 nhiệm vụ của người đoàn viên.
- Thực hiện Chương trình RLĐV đạt mức trung bình.

d. Đoàn viên yếu kém:

- Thiếu ý thức trong việc thực hiện tiêu chí "3 tốt".
- Chưa hoàn thành nhiệm vụ của người đoàn viên và Chương trình RLĐV.

3. Phương pháp đánh giá, phân loại đoàn viên:

1. Yêu cầu:

- Xác định rõ mục đích, ý nghĩa của công tác đánh giá, phân loại đoàn viên đó là: Đánh giá quá trình rèn luyện, phấn đấu của người đoàn viên trong quá trình thực hiện nhiệm vụ chính trị của chi đoàn và sự tự rèn luyện của bản thân trong việc thực hiện nhiệm vụ của người đoàn viên. Qua đó tạo động lực và định hướng tiếp tục rèn luyện, phấn đấu.
- Xác định rõ các bước trong quy trình đánh giá, phân loại đoàn viên do BCH chi đoàn hướng dẫn. Trên cơ sở đó, mỗi đoàn viên cần thực hiện một cách nghiêm túc, đồng thời tham gia đóng góp các ý kiến với tinh thần chân thành, thẳng thắn và xây dựng.
- Định kỳ 6 tháng và hàng năm chi đoàn tổ chức đánh giá, phân loại đoàn viên.

2. Các bước thực hiện:

- Bước 1: Đoàn viên làm tự kiểm điểm về quá trình rèn luyện của bản thân (ưu, khuyết điểm trên các mặt) và tự đánh giá, phân loại theo các tiêu chí trên.
- Bước 2: Chi đoàn họp để đánh giá, phân loại đoàn viên. Trong cuộc họp, đoàn viên tự kiểm điểm, các đoàn viên khác đóng góp ý kiến.
- Bước 3: Biểu quyết (nếu cần thiết có thể bỏ phiếu kín) về kết quả đánh giá, phân loại đối với từng đoàn viên trong chi đoàn.

II. Đánh giá, phân loại chi đoàn:

1. Dựa trên tiêu chí "3 nắm, 3 biết, 3 làm":

a. Nắm 3 đối tượng:

- Đoàn viên: Chi đoàn phải quản lý tốt đoàn viên trong chi đoàn, nắm rõ số lượng, chất lượng, thành phần, năng lực, kỹ năng, hoàn cảnh và nhu cầu của từng đoàn viên.
- Thanh niên: Chi đoàn phải nắm được số lượng, danh sách, phân tích thành phần thanh niên trên địa bàn, trong đơn vị thuộc chi đoàn quản lý.
- Thiếu nhi: Chi đoàn phải nắm được số lượng, danh sách cụ thể các em thiếu nhi, đặc biệt các em có hoàn cảnh khó khăn trên địa bàn, trong đơn vị thuộc chi đoàn quản lý.

b. Biết 3 nội dung:

- Chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước đang được thực hiện tại địa phương, đơn vị. Đặc biệt phải biết rõ những nội dung mà chi bộ phụ trách chi đoàn đặt ra cho công tác thanh thiếu nhi; Nắm được những chủ trương, những vấn đề chính trong Nghị quyết của cấp uỷ Đảng cấp trên liên quan đến công tác thanh thiếu nhi.
- Các phong trào lớn và Chương trình hành động của Đoàn, Hội, Đội: Nắm được tên gọi, chủ trương, giải pháp triển khai và tổ chức thực hiện của cấp trên. Cụ thể hóa thành nội dung chương trình hành động của chi đoàn.
- Nhu cầu của thanh thiếu nhi: Chi đoàn biết được có bao nhiêu đoàn viên, thanh niên đang cần và có nhu cầu về học tập, việc làm, sinh hoạt văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao, sinh hoạt chính trị...; bao nhiêu thiếu nhi cần được chăm sóc giúp đỡ về từng vấn đề cụ thể; biết được tình hình xã hội trên địa bàn, trong đơn vị có tác động ảnh hưởng đến thanh thiếu nhi.

c. Làm 3 việc:

- Đại diện, chăm lo và bảo vệ lợi ích hợp pháp, chính đáng của cán bộ, đoàn viên, thanh thiếu nhi.
- Tổ chức các hoạt động, tạo môi trường giáo dục, rèn luyện đoàn viên, thanh thiếu nhi nhằm góp phần thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa- xã hội, quốc phòng, an ninh của địa phương, đơn vị.
- Phối hợp với chính quyền, các đoàn thể và các tổ chức kinh tế, xã hội để làm tốt công tác thanh thiếu nhi, chăm lo xây dựng chi đoàn vững mạnh; tích cực xây dựng cơ sở Đoàn, Hội, Đội ở địa bàn dân cư; tham gia xây dựng, bảo vệ Đảng và chính quyền ở cơ sở.

2. Dựa vào tiêu chí "3 nắm, 3 biết, 3 làm" để đánh giá, phân loại Chi đoàn theo 4 mức:

a. Chi đoàn vững mạnh:

- Thực hiện xuất sắc tiêu chí.
- Có ít nhất 2/3 tổng số đoàn viên được đánh giá, phân loại tốt và khá, không có đoàn viên yếu kém.
- Tập hợp đoàn kết được từ 45-50% tổng số thanh niên sinh sống trên địa bàn.
- Hàng năm kết nạp được từ 10-15% đoàn viên mới.
- Hàng năm giới thiệu cho Đảng được từ 5-10% đoàn viên ưu tú.

b. Chi đoàn khá:
- Thực hiện tiêu chí ở mức độ khá (đạt tối đa 2/3 nội dung yêu cầu và chỉ tiêu hành động để thực hiện tiêu chí).
- Có ít nhất 1/2 tổng số đoàn viên được đánh giá, phân loại tốt và khá, không có đoàn viên yếu kém.
- Tập hợp đoàn kết được từ 40-45% tổng số thanh niên sinh sống trên địa bàn.
- Hàng năm kết nạp được từ 5-10% đoàn viên mới.
- Hàng năm giới thiệu cho Đảng được từ 3-5% đoàn viên ưu tú.

d. Chi đoàn trung bình:
- Thực hiện tiêu chí ở mức độ trung bình (đạt tối đa 1/2 nội dung yêu cầu và chỉ tiêu hành động để thực hiện tiêu chí).
- Có ít nhất 1/4 tổng số đoàn viên được đánh giá, phân loại tốt và khá, còn đoàn viên yếu kém nhưng chiếm tỷ lệ không quá 5%.
- Hàng năm có kết nạp được đoàn viên mới.

e. Chi đoàn yếu kém:
Không thực hiện được tiêu chí, có bộ máy BCH chi đoàn nhưng tồn tại mang tính hình thức, không tổ chức và duy trì được sinh hoạt và hoạt động của chi đoàn.

3. Trong quá trình đánh giá, phân loại chi đoàn cần lưu ý một số vấn đề:

- Yêu cầu về mức độ nắm bắt tiêu chí để đánh giá, phân loại chi đoàn có khác nhau: Bí thư chi đoàn và Uỷ viên BCH chi đoàn phải nắm bắt đầy đủ, đoàn viên nắm bắt những vấn đề cơ bản.
- Bản chất để đánh giá, phân loại chi đoàn là tính chủ động công tác.
- Những chi đoàn trung bình và yếu kém cần được BCH Đoàn cơ sở và chi uỷ chi bộ phụ trách chi đoàn phối hợp tìm rõ nguyên nhân để có biện pháp khắc phục cụ thể, kịp thời.
- Đoàn cơ sở trực tiếp hướng dẫn đánh giá, phân loại và xét công nhận kết quả phân loại chi đoàn, sau đó báo cáo với Đoàn cấp trên và cấp uỷ Đảng cơ sở gắn với đánh giá, phân loại của cấp uỷ.

III. Đánh giá, phân loại Đoàn cơ sở:

1.  Đánh giá, phân loại theo 4 mức:

a. Đoàn cơ sở vững mạnh:

- Chủ động công tác: chủ động xây dựng và thực hiện tốt kế hoạch, chương trình công tác, thực hiện tốt các chủ trương công tác của cấp uỷ và Đoàn cấp trên; chủ động phát triển đoàn viên mới và giới thiệu đoàn viên ưu tú cho Đảng, phát triển các hình thức tập hợp đoàn kết thanh niên; chủ động củng cố, xây dựng, phát triển tổ chức cơ sở Đoàn, Hội và nâng cao chất lượng các BCH chi đoàn; chủ động công tác phụ trách, hướng dẫn thiếu niên nhi đồng, chủ động tham mưu với cấp uỷ Đảng, liên kết phối hợp với các ban, ngành, đoàn thể trong công tác thanh thiếu nhi.
- Có ít nhất 2/3 tổng số chi đoàn được xếp loại vững mạnh và khá (vững mạnh chiếm ít nhất 1/3), không có chi đoàn yếu kém.
- Có đội ngũ Ban Chấp hành đoàn kết, nhiệt tình, gương mẫu và có năng lực công tác.
- Được cấp uỷ, chính quyền, thủ trưởng cơ quan, đơn vị đánh giá vững mạnh.

b. Đoàn cơ sở khá:

Là Đoàn cơ sở đạt các tiêu chuẩn nêu trên ở mức độ khá, có ít nhất 1/2 tổng số chi đoàn xếp loại khá trở lên, không có chi đoàn yếu kém.
c. Đoàn cơ sở trung bình:
- Ban Chấp hành Đoàn thiếu chủ động công tác, có dưới 1/2 tổng số chi đoàn xếp loại khá trở lên, còn chi đoàn yếu kém nhưng chiếm tỷ lệ không quá 5%.
- Vai trò của tổ chức Đoàn ở địa phương, đơn vị chưa rõ.

d. Đoàn cơ sở yếu kém:

- Có bộ máy Ban Chấp hành Đoàn song không duy trì được sinh hoạt và hoạt động.
- Có trên 2/3 tổng số chi đoàn xếp loại trung bình và yếu kém.

Các cấp bộ đoàn cụ thể hoá các tiêu chuẩn trên cho phù hợp với địa phương đơn vị mình. Cấp huyện, thị trực tiếp đánh giá phân loại hàng năm.

IV. Mức thu và tỷ lệ trích nộp Đoàn phí:

Mức đóng đoàn phí: đối với các đoàn viên có lương là 2.000đ(hai nghìn đồng), đoàn viên không có lương là 1000đ (một ngàn đồng) một người trong một tháng.

- Đoàn viên được kết nạp vào Đảng cộng sản Việt Nam thì thôi đóng đoàn phí.
- Mức trích nộp đoàn phí: Từ cấp chi đoàn trở lên được giữ lại 2/3 (hai phần ba) và trích nộp lên cấp trên trực tiếp là 1/3 (một phần ba) tổng số tiền đoàn phí do đoàn viên hoặc tổ chức Đoàn cấp dưới nộp lên.

E. TỔ CHỨC LỄ TRAO THẺ ĐOÀN VIÊN:

I. Quy định chung:

- Lễ trao thẻ đoàn viên được tổ chức ở Đoàn cơ sở hoặc chi đoàn cơ sở.
- Lễ trao thẻ do Đoàn cơ sở (tương đương) hoặc chi đoàn chủ trì và trao thẻ cho từng đoàn viên.
- Lễ trao thẻ đoàn viên phải đảm bảo tính nghiêm túc gây ấn tượng và tạo động lực để đoàn viên rèn luyện nâng cao chất lượng.
- Lễ trao thẻ nên gắn với các ngày lễ, ngày kỷ niệm lịch sử hàng năm như: 3/2, 26/3, 30/4, 2/9, 22/12...hoặc tại lễ kết nạp đoàn viên.
- Trang trí lễ trao thẻ cũng phải đảm bảo các quy định như lễ kết nạp đoàn viên mới.

II. Chương trình lễ trao thẻ:

1- Chào cờ, hát Quốc ca, bài ca chính thức của Đoàn. 
2- Khai mạc: Tuyên bố lý do giới thiệu đại biểu.
3- Thông qua báo cáo tóm tắt về công tác xây dựng Đoàn, kết quả phân loại đoàn viên và tóm tắt thành tích hoặc trích ngang của các đồng chí đoàn viên được trao thẻ.
4- Đại diện Ban thường vụ huyện Đoàn (tương đương) đọc quyết định chuẩn y và trao thẻ.
5- Đại diện đoàn viên được trao thẻ phát biểu cảm tưởng.
6- Đoàn viên đăng ký chương trình rèn luyện đoàn viên.
7- Đại diện ban thường vụ huyện Đoàn (tương đương) hoặc cấp ủy phát biểu.
8- Chào cờ, bế mạc. (không hát quốc ca và bài ca chính thức của Đoàn).

F. TỔ CHỨC LỄ TRƯỞNG THÀNH ĐOÀN VIÊN:

I. Quy định chung:

- Đoàn viên tròn 30 tuổi, chi đoàn làm thủ tục trưởng thành Đoàn, lễ trưởng thành Đoàn cho đoàn viên khi hết tuổi Đoàn, nên tiến hành vào các dịp kỷ niệm ngày: 26/3, 19/5, 2/9 và ngày 22/12 hàng năm (4 đợt). Hoặc trong những hoạt động, sinh hoạt truyền thống của chi đoàn.
- Lễ trưởng thành Đoàn được tổ chức ở Đoàn cơ sở, chi đoàn cơ sở hoặc chi đoàn.

II. Quy trình tiến hành trưởng thành đoàn:

1- Hàng năm, BCH chi đoàn lập danh sách những đoàn viên tròn 30 tuổi (không giữ nhiệm vụ trong cơ quan lãnh đạo hay công tác chuyên môn của Đoàn) và thông báo cho đoàn viên đó biết.
2- Khi có danh sách đoàn viên tròn 30 tuổi, ban chấp hành chi đoàn cần tổ chức gặp mặt để nắm tâm tư, nguyện vọng của số đoàn viên đó. Nếu đoàn viên đến tuổi trưởng thành đoàn nhưng có nguyện vọng tiếp tục ở lại sinh hoạt đoàn, thì chi đoàn lập danh sách báo cáo với ban chấp hành đoàn cơ sở số đoàn viên có nguyện vọng tiếp tục sinh hoạt và số đoàn viên trưởng thành để Đoàn cơ sở xét quyết định.
3- Lễ trưởng thành phải được chuẩn bị thật chu đáo, trang trọng và tạo được không khí thân mật. Nếu đoàn viên trưởng thành là đoàn viên ưu tú trong buổi lễ trưởng thành Đoàn cần tiến hành luôn việc giới thiệu đoàn viên ưu tú đó cho Đảng xem xét bồi dưỡng kết nạp.

III. Chương trình lễ trưởng thành Đoàn:

1- Tuyên bố lý do giới thiệu đại biểu.
2- Giới thiệu tóm tắt quá trình sinh hoạt đoàn và những thành tích đóng góp của đoàn viên trưởng thành.
3- Trao "Giấy chứng nhận đoàn viên trưởng thành" hoặc quyết định trưởng thành Đoàn và tặng phẩm kỷ niệm (nếu có) cho đoàn viên trưởng thành.
4- Đại diện đoàn viên trưởng thành phát biểu cảm tưởng.
5- Đại diện đoàn viên đang sinh hoạt đoàn (nên là đoàn viên mới) phát biểu.
6- Đại biểu cấp ủy và các đại biểu khác phát biểu (nếu có).
7- Kết thúc.
Đi dân nhớ, ở dân thương!

Sao_Online

NGHIỆP VỤ BÍ THƯ CHI ĐOÀN

I. CÔNG TÁC QUẢN LÝ ĐOÀN VIÊN

1. Mục đích:

Là biện pháp để nắm chắc đoàn viên về hồ sơ, tư tưởng và hoạt động, từ đó thiết kế tổ chức phong trào cho phù hợp.

2. Quản lý cá nhân đoàn viên:

(Từ khi chuyển đến, hoặc được kết nạp đến khi chuyển đi hoặc trưởng thành)

- Lập hồ sơ cá nhân (đối với kết nạp) hoặc tiếp nhận hồ sơ chuyển đến – kiểm tra hồ sơ (đối với chuyển sinh hoạt đến).

- Ghi danh sách vào sổ chi đoàn

- Nắm được hoàn cảnh, trình độ, năng khiếu, quá trình hoạt động qua hồ sơ đoàn viên. Đến thăm nơi ở.

- Phân công tham gia hoạt động, nắm tư tưởng và năng lực qua quá trình hoạt động.

- Thường xuyên gặp gỡ góp ý, hướng dẫn giúp đỡ công tác.

- Cuối năm họp chi đoàn nhận xét phân tích chất lượng đoàn viên và ghi nhận xét vào sổ đoàn viên.

- Làm thủ tục nhận xét khi đoàn viên chuyển hoặc trưởng thành Đoàn.

3. Quản lý đội ngũ đoàn viên:

(Phải đảm bảo có đầy đủ sổ và cập nhật thường xuyên)

- Bổ sung, điều chỉnh danh sách đoàn viên khi có đoàn viên mới kết nạp, chuyển đến, chuyển đi hoặc trưởng thành...

- Ghi đầy đủ các nội dung trong sổ chi đoàn.

- Ghi đầy đủ, cụ thể biên bản các buổi họp chi đoàn trong sổ chi đoàn.

- Định kỳ tổng hợp báo cáo số liệu tổ chức về Đoàn cấp trên theo yêu cầu.

- Định kỳ tổng hợp phân tích đoàn viên của chi đoàn trên các mặt (trình độ, năng lực, cơ cấu...) để định hướng tổ chức hoạt động phù hợp, hoặc bàn trong Ban chấp hành để có biện pháp giúp đỡ đoàn viên.

II. CÔNG TÁC KẾT NẠP ĐOÀN VIÊN MỚI, TRAO THẺ ĐOÀN

* Thực hiện theo quy trình

Bước 1: Xác định đối tượng bồi dưỡng kết nạp:

- Chọn lựa thanh niên ưu tú, tích cực hoạt động, muốn phấn đấu vào Đoàn, cử tham gia lớp tìm hiểu về Đoàn do Đoàn cấp trên tổ chức. Phân công đoàn viên hỗ trợ giúp đỡ.

- Giao nhiệm vụ thử thách rèn luyện.

- Hướng dẫn viết đơn xin vào Đoàn.

Bước 2: Họp chi đoàn xét đề nghị kết nạp

- Họp chi đoàn giới thiệu nhận xét đối tượng, biểu quyết đề nghị kết nạp vào Đoàn.

- Lập biên bản, làm công văn đề nghị lên Đoàn cấp trên.

- Lập hồ sơ đoàn viên, đoàn viên khai, xác minh lý lịch, kèm hình ảnh (để làm thẻ Đoàn) gởi về Đoàn cấp trên.

Bước 3: Tổ chức lễ kết nạp đoàn viên mới

Sau khi đoàn cấp trên có quyết định chuẩn y kết nạp đoàn viên mới, trong vòng một tháng kể từ ngày ký quyết định, chi đoàn có trách nhiệm tổ chức lễ kết nạp.

- Thông báo đến đoàn viên chi đoàn và phân công chuẩn bị lễ kết nạp.

- Mời dự lễ kết nạp: đoàn viên, thanh niên được kết nạp (có thể mời thêm gia đình, bạn thân của người được kết nạp cùng dự), cấp ủy chi bộ, Ban điều hành khu phố, tổ dân phố, Đoàn cấp trên, tổ hội đoàn thể bạn.

* Chương trình lễ kết nạp đoàn viên mới:

- Văn nghệ đầu giờ.

- Chào cờ, hát quốc ca, Đoàn ca, phút tưởng niệm.

- Tuyên bố lý do, giới thiệu đại biểu.

- Bí thư (Phó bí thư) chi đoàn báo cáo việc xét kết nạp đoàn viên mới. Nêu ngắn gọn về quá trình rèn luyện phấn đấu, những ưu điểm và hạn chế cơ bản của người được kết nạp. Đọc Nghị quyết chuẩn y kết nạp, quyết định trao thẻ Đoàn của Đoàn cấp trên (người được kết nạp đứng lên).

- Đại diện Đoàn cấp trên hoặc cấp ủy Đảng trao quyết định, thẻ Đoàn và gắn huy hiệu cho Đoàn viên mới.

- Đoàn viên mới đọc lời hứa: "Được vinh dự trở thành Đoàn viên Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, trước cờ Tổ quốc, cờ Đoàn, trước chân dung của Bác Hồ vĩ đại, trước toàn thể các đồng chí, tôi xin hứa:

Đọc 3 nhiệm vụ của người đoàn viên.

"Xin hứa!"

- Người giới thiệu thanh niên vào Đoàn phát biểu hứa tiếp tục giúp đỡ đoàn viên mới.

- Đại diện Đoàn cấp trên hoặc cấp ủy phát biểu.

- Chào cờ bế mạc.

Lưu ý: khi tổ chức kết nạp nhiều người thì Bí thư chi đoàn đọc nhận xét từng người và giới thiệu những thanh niên đó rồi đọc nghị quyết kết nạp. Sau đó các đoàn viên đứng lên, đồng chí Bí thư (Phó Bí thư) trao quyết định và gắn huy hiệu cho từng người. Một người thay mặt đọc lời hứa, sau khi đọc xong, tất cả những người được kết nạp cùng hô: Xin hứa!

III. CÔNG TÁC TRƯỞNG THÀNH ĐOÀN

Mục đích: Công nhận trưởng thành Đoàn là việc tổ chức Đoàn trân trọng ghi nhận những đóng góp của đoàn viên cho Đoàn, công nhận quá trình rèn luyện và trưởng thành của đoàn viên.

+ Đoàn viên chi đoàn góp ý cho bản tự nhận xét, mặt mạnh, hạn chế của đoàn viên, biểu quyết xếp loại đoàn viên.

- Ban chấp hành chi đoàn lập biên bản và công văn gởi lên đoàn cấp trên để xem xét công nhận.

- Ban chấp hành Đoàn cấp trên họp xét và công bố kết quả cho Ban Chấp hành chi đoàn để công bố đến đoàn viên.

- Ban chấp hành chi đoàn họp thông báo kết quả đến đoàn viên, có nhận xét đánh giá chung để rút kinh nghiệm.

- Ban chấp hành chi đoàn ghi nhận xét và kết quả phân tích chất lượng vào sổ đoàn viên.

V. GIỚI THIỆU ĐOÀN VIÊN ƯU TÚ SANG ĐẢNG

1. Mục đích:

Thực hiện nhiệm vụ Đoàn tham gia xây dựng Đảng, giới thiệu nhân tố tích cực ưu tú để Đảng bồi dưỡng kết nạp vào Đảng. Giúp đoàn viên rèn luyện và trưởng thành.

2. Chi đoàn thực hiện các nội dung:

Thực hiện quy trình giới thiệu Đoàn viên ưu tú sang Đảng, chi đoàn thực hiện:

a. Định kỳ hàng năm sau khi có kết quả phân tích chất lượng đoàn viên, Ban Chấp hành chi đoàn báo cáo danh sách đoàn viên xuất sắc lên Ban chấp hành Đoàn phường, xã đề nghị cho viết bài cảm nhận về Đảng.

b. Sau khi đoàn viên xuất sắc viết bài cảm nhận về Đảng, được Ban chấp hành Đoàn cơ sở công nhận Đoàn viên ưu tú, Ban chấp hành chi đoàn thông báo cho chi đoàn biết và báo cáo với chi uỷ để có hướng bồi dưỡng.

c. Ban chấp hành phân công, giao nhiệm vụ cho Đoàn viên ưu tú trong hoạt động chi đoàn một cách cụ thể, theo dõi đánh giá kết quả thực hiện.

d. Qua một quá trình hoạt động nếu Đoàn viên được cấp uỷ công nhận Đối tượng Đảng, xác minh lý lịch và đồng ý xem xét kết nạp vào Đảng thì Ban chấp hành chi đoàn xin ý kiến Đoàn phường, xã tổ chức họp chi đoàn xem xét biểu quyết giới thiệu Đoàn viên ưu tú kết nạp Đảng .

e. Ban chấp hành chi đoàn lập biên bản và gởi về Ban chấp hành Đoàn phường, xã để Ban chấp hành Đoàn phường xã họp xét và ra nghị quyết giới thiệu sang Đảng kết nạp.

g. Sau khi Đoàn viên ưu tú được kết nạp Đảng, Ban chấp hành chi Đoàn tiếp tục giúp đỡ hoạt động, phân công nhiệm vụ công tác.

f. Khi hết thời gian dự bị, Ban chấp hành chi đoàn trao đổi với Ban điều hành nhóm tu dưỡng rèn luyện (nếu có), thống nhất nhận xét đánh giá và tổ chức họp góp ý quá trình phấn đấu của đảng viên dự bị. Lập biên bản gởi Ban chấp hành Đoàn phường, xã.

3. Các vấn đề cần lưu ý:

- Đoàn viên ưu tú phải có trách nhiệm tham gia sinh hoạt trong nhóm tu dưỡng rèn luyện (được thành lập ở cấp Đoàn phường, xã), được chi đoàn giao nhiệm vụ để thử thách rèn luyện.

- Ban chấp hành chi đoàn định kỳ nhân dịp kỷ niệm thành lập Đảng, thành lập Đoàn trao danh sách đoàn viên ưu tú cho chi uỷ. Thường xuyên tiếp xúc trao đổi với cấp uỷ về quá trình phấn đấu của đoàn viên ưu tú.

- Thủ tục đề xuất công nhận đoàn viên ưu tú:

+ Công văn đề nghị công nhận đoàn viên ưu tú.

+ Danh sách trích ngang có tóm tắt thành tích.

+ Biên bản họp chi đoàn xét phân tích chất lượng đoàn viên.

- Hồ sơ trao danh sách đoàn viên ưu tú cho Đảng (chi bộ):

+ Danh sách trích ngang đoàn viên ưu tú.

+ Tóm lược quá trình hoạt động của từng đồng chí, thành tích hoạt động. Nhận xét mặt mạnh, hạn chế.

VI. ĐẠI HỘI CHI ĐOÀN

1. Ý nghĩa:

- Đại hội chi đoàn nhằm tổng kết, đánh giá hoạt động của chi đoàn trong một nhiệm kỳ (mặt mạnh, hạn chế), đề ra phương hướng hoạt động cho nhiệm kỳ sau và bầu Ban chấp hành mới để lãnh đạo chi đoàn giữa 2 kỳ đại hội.

2. Công tác chuẩn bị đại hội chi đoàn:

Để đại hội chi đoàn thành công, chi đoàn cần đầu tư thật tốt cho công tác chuẩn bị đại hội, bao gồm các bước sau:

- Lập kế hoạch tổ chức đại hội trên cơ sở định hướng chỉ đạo của Đoàn cấp trên. Kế hoạch cần xác định rõ: thời gian, địa điểm tổ chức đại hội, các nội dung chính trong đại hội và phân công người chuẩn bị.

- Ban chấp hành chi đoàn dự thảo báo cáo hoạt động chi đoàn trong nhiệm kỳ vừa qua, phương hướng hoạt động trong nhiệm kỳ tới, bản kiểm điểm Ban chấp hành chi đoàn trong việc lãnh đạo chi đoàn thực hiện nghị quyết của chi đoàn.

- Chuẩn bị đề án nhân sự Ban chấp hành mới.

- Xin ý kiến Đoàn cấp trên và cấp ủy chi bộ về những vấn đề nêu trên.

- Triệu tập đoàn viên dự đại hội, phân công đoàn viên thực hiện các khâu trong công tác tổ chức đại hội (trang trí, điều khiển chương trình, các hoạt động trước, trong và sau đại hội...) để đại hội chi đoàn thực sự trở thành một sinh hoạt chính trị quan trọng nhất, thể hiện ý thức trách nhiệm của từng đoàn viên.

Đại hội, hội nghị chi đoàn chỉ có giá trị tiến hành khi có ít nhất 2/3 số Đoàn viên trong chi đoàn tham dự.

3. Chương trình đại hội:

- Chào cờ – Quốc ca – Đoàn ca.

- Tuyên bố lý do, giới thiệu đại biểu.

- Bầu chủ tọa đại hội, chủ tọa giới thiệu thư ký của đại hội.

- Chủ tọa công bố chương trình đại hội (có biểu quyết thống nhất của đại hội).

- Chủ tọa trình bày báo cáo của Ban chấp hành đánh giá tình hình tổ chức và hoạt động nhiệm kỳ qua, chương trình công tác nhiệm kỳ tới và bản kiểm điểm Ban chấp hành.

- Đại hội thảo luận báo cáo, phương hướng, bản kiểm điểm.

- Đại diện cấp ủy chi bộ và Đoàn cấp trên phát biểu ý kiến

- Chủ tọa công bố Ban chấp hành cũ hết nhiệm kỳ, đại hội tiến hành bầu Ban chấp hành mới; Trình bày yêu cầu, cơ cấu, tiêu chuẩn Ủy viên Ban chấp hành mới. Giới thiệu nhân sự dự kiến của Ban chấp hành cũ và hướng dẫn đại hội thảo luận và giới thiệu người ứng cử vào Ban chấp hành mới.

- Chủ tọa đại hội trả lời, giải thích những ý kiến của đoàn viên, quyết định cho rút tên hoặc không cho rút tên khỏi danh sách bầu cử. Đại hội biểu quyết thống nhất danh sách bầu cử.

- Bầu tổ bầu cử. Tổ bầu cử hướng dẫn thể lệ bầu cử.

- Tiến hành bầu cử, công bố kết quả, Ban chấp hành mới ra mắt.

- Thông qua nghị quyết của đại hội.

- Bế mạc đại hội.

4. Cách thức tổ chức đại hội chi đoàn:

Đại hội chi đoàn là sinh hoạt chính trị quan trọng, phải được thực hiện một cách nghiêm túc, đúng nguyên tắc điều lệ.

Thời gian: chi đoàn phải lựa chọn thời điểm tổ chức đại hội phù hợp với điều kiện thuận lợi của đa số đoàn viên để đảm bảo đoàn viên của chi đoàn được tham dự đầy đủ.

Địa điểm: Đại hội chi đoàn cần được tổ chức tại hội trường, phòng họp, phòng học ... để tạo không khí nghiêm túc.

Khách mời: Đại diện Đoàn cấp trên, đại diện cấp ủy chi bộ, các đoàn thể, các đơn vị kết nghĩa, giao lưu, các đội hình thanh niên của chi đoàn,....

Trang trí buổi lễ:

- Phông trang trí gồm có: Cờ nước, cờ Đoàn, chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh

ĐOÀN TNCS HỒ CHÍ MINH
ĐOÀN .............................................. (phường, xã)
ĐẠI HỘI CHI ĐOÀN ....................... (khu phố, ấp)
NHIỆM KỲ ......................................

- Các khẩu hiệu: "Sống chiến đấu, học tập, lao động theo gương Bác Hồ vĩ đại"...

- Trên bàn chủ tọa, bàn thư ký, bàn đại biểu khách mời nên có bình hoa.

5. Nhiệm vụ của từng bộ phận trong đại hội:

Chủ tọa đại hội: (Số lượng từ 1 – 3) là người có nhiệm vụ điều hành đại hội theo chương trình đã được đại hội thảo luận, thống nhất; hướng dẫn cho đoàn viên thảo luận, biểu quyết văn kiện đại hội; lãnh đạo việc bầu cử, quyết định cho rút tên hay không cho rút tên trong danh sách bầu cử; giải quyết những vấn đề phát sinh trong quá trình diễn ra đại hội... Do đó, chủ tọa đại hội nên bầu chọn những cán bộ, đoàn viên có khả năng tổ chức, điều hành, có uy tín và nắm chắc nguyên tắc điều lệ. Cơ cấu chủ tọa nên chú ý đến Ban chấp hành cũ, nhân sự dự kiến tham gia Ban chấp hành mới.

Thư ký đại hội: (Số lượng từ 1 - 2) là người ghi biên bản đại hội, tổng hợp ý kiến phát biểu và các biểu quyết trong đại hội.

Tổ bầu cử: (Số lượng từ 2 – 3) có nhiệm vụ hướng dẫn thể lệ bầu cử, chuẩn bị phiếu bầu hợp lệ, kiểm phiếu và công bố kết quả bầu cử, làm biên bản bầu cử.

6. Việc bầu cử tại đại hội chi đoàn:

Nguyên tắc bầu cử trong đại hội:

- Khi bầu cử hay biểu quyết phải có quá nửa (1/2) số phiếu bầu (kể cả phiếu hợp lệ và không hợp lệ) hoặc quá nửa số người có mặt tán thành thì người được bầu mới trúng cử và nghị quyết mới có giá trị.

- Trường hợp bầu lần thứ nhất chưa đủ số lượng đã quyết định bầu thì phải tiếp tục bầu lần thứ hai để lựa chọn trong số còn lại của danh sách bầu cử. Nếu bầu lần thứ hai vẫn chưa đủ thì việc có tiếp tục bầu nữa hay không do đại hội quyết định.

- Trường hợp số người được quá nửa số phiếu bầu nhiều hơn số lượng được bầu thì chỉ lấy đủ số được bầu và lấy từ người cao phiếu nhất trở xuống.

- Trường hợp số cuối cùng của số lượng định bầu có 2 người trở lên và có số phiếu bằng nhau thì phải tổ chức bầu lại, trong số những người đó chọn lấy người cao phiếu hơn. Người trúng cử trong số đó cũng phải có quá nửa số phiếu bầu.

Bầu chủ tọa đại hội:

- Sau nghi thức khai mạc, người dẫn chương trình sẽ điều khiển bầu chủ tọa đại hội. Đối với những chi đoàn có từ 3-8 đoàn viên: bầu 1 đồng chí chủ tọa hội nghị (có thể là Bí thư chi đoàn). Đối với chi đoàn có đoàn số đông có thể bầu 3 đồng chí vào Đoàn chủ tịch điều hành đại hội.

- Việc bầu chủ tọa đại hội tiến hành bằng hình thức biểu quyết.

Bầu tổ bầu cử: có thể bầu từ 2-3 đồng chí bằng hình thức biểu quyết

Bầu Ban chấp hành mới:

Việc bầu Ban chấp hành mới được tiến hành bằng hình thức bỏ phiếu kín.

- Chi đoàn có từ 3 – 8 đoàn viên: bầu Bí thư, nếu cần thiết có thể bầu thêm Phó bí thư

- Chi đoàn có từ 9 đoàn viên trở lên: bầu từ 3-5 Ủy viên Ban chấp hành

Lưu ý: Việc bầu trực tiếp Bí thư tại đại hội: chỉ nên áp dụng đối với những chi đoàn được Đoàn cấp trên trực tiếp phân loại chất lượng từ khá trở lên. Khi bầu trực tiếp Bí thư, mỗi đoàn viên phải phát huy tinh thần trách nhiệm cao, thực sự dân chủ thảo luận, phân tích kỹ tiêu chuẩn của Bí thư để bầu cử có chất lượng. Có thể tiến hành bằng một trong các cách:

- Đại hội bầu trực tiếp Bí thư xong, sau đó bầu các Ủy viên Ban chấp hành còn lại

- Đại hội bầu xong Ban chấp hành, sau đó đại hội bầu trực tiếp Bí thư trong số các Ủy viên Ban chấp hành đó

Bầu đại biểu dự đại hội Đoàn cấp trên: tiến hành bằng hình thức bỏ phiếu kín theo số lượng đại biểu được Đoàn cấp trên phân bổ.

7. Những thủ tục cần thiết để được Đoàn cấp trên chuẩn y kết quả đại hội:

Sau đại hội, Ban chấp hành chi đoàn tiến hành họp phiên đầu tiên phân công nhiệm vụ các Ủy viên Ban chấp hành do Bí thư chi đoàn cũ triệu tập.

Thủ tục đề nghị Đoàn cấp trên chuẩn y kết quả đại hội gồm:

- Biên bản đại hội chi đoàn, kèm biên bản bầu cử Ban chấp hành chi đoàn mới.

- Biên bản họp phân công Ban chấp hành.

- Danh sách trích ngang Ban chấp hành mới.

- Bản đề nghị Đoàn cấp trên chuẩn y kết quả.

VII. KỸ NĂNG CẦN CÓ CỦA BÍ THƯ CHI ĐOÀN

1. Kỹ năng tham mưu, lãnh đạo:

- Tham mưu chi uỷ, Đoàn cấp trên những vấn đề liên quan đến công tác thanh niên, những vấn đề phát sinh cần sự hỗ trợ giúp đỡ.

- Lãnh đạo trong công tác, định hướng hoạt động của chi đoàn.

- Lãnh đạo về mặt tư tưởng, nắm bắt tư tưởng đoàn viên thanh niên, tác động, tổ chức sinh hoạt tư tưởng.

2. Kỹ năng điều hành, quản lý:

- Điều hành sinh hoạt chi đoàn, hoạt động của Ban chấp hành, phân công phân nhiệm uỷ viên Ban chấp hành.

- Quản lý cán bộ chi đoàn về công việc, về tư tưởng.

- Quản lý hồ sơ đoàn viên, cán bộ, sổ chi đoàn, các văn bản quyết định...

3. Kỹ năng tổ chức hoạt động:

- Biết thiết kế nội dung chương trình một hoạt động, đợt hoạt động, tổ chức phát động một phong trào...

- Biết làm công tác đoàn vụ, các hội nghị, buổi lễ kết nạp, trưởng thành Đoàn, đại hội, hội nghị chi đoàn.

- Biết phân công đoàn viên phụ trách các công việc trong chương trình hoạt động

4. Kỹ năng soạn thảo văn bản, trình bày, triển khai một vấn đề:

- Soạn thảo các loại văn bản của chi đoàn như: chương trình, kế hoạch, báo cáo, kiểm điểm, biên bản...

- Biết tổ chức triển khai trình bày một nội dung, một chủ trương, quan điểm, nghị quyết của Đoàn, Đảng.

5. Kỹ năng hoạt náo:

- Tổ chức sinh hoạt trò chơi, múa, hát, sinh hoạt tập thể, kể chuyện vui, đọc, ngâm thơ .

- Thiết kế một tiết mục sân khấu hóa, tiểu phẩm.

6. Kỹ năng ứng xử, xử lý các mối quan hệ:

- Xử lý các tình huống trong công tác Đoàn.

- Xử lý các tình huống phát sinh trong quan hệ cá nhân của đoàn viên thanh niên.

- Xác định vai trò vị trí của chi đoàn, Bí thư chi đoàn trong mối quan hệ với với Đoàn cấp trên, với chi uỷ, với các tổ Hội Đoàn thể khác.

VIII. CÁC BIỂU MẪU NGHIỆP VỤ CÔNG TÁC TỔ CHỨC:

Mẫu Nghị quyết Đại hội Chi đoàn

Ngày ____ tháng ____ năm ____

NGHỊ QUYẾT

ĐẠI HỘI CHI ĐOÀN _______________

NHIỆM KỲ _____ (_____ - _____)

Đại hội chi đoàn _____________ nhiệm kỳ ____ (______-______) với ___ đoàn viên đã diễn ra vào ngày __________. Đại hội đã diễn ra nghiêm túc, trách nhiệm, dân chủ.
Đại hội đã nghe trình bày báo cáo đánh giá hoạt động nhiệm kỳ ____, báo cáo kiểm điểm Ban chấp hành nhiệm kỳ ____, nội dung phương hướng nhiệm kỳ ______. Trên cơ sở ý kiến thảo luận của Đại hội và kết quả biểu quyết;

QUYẾT NGHỊ

1. Thông qua các văn kiện của Ban chấp hành chi đoàn nhiệm kỳ _____ trình đại hội nhiệm kỳ _____ cùng những nội dung đã được biểu quyết bằng phiếu và công bố trước đại hội.

2. Giao cho Ban chấp hành chi đoàn nhiệm kỳ ______ căn cứ vào kết quả thảo luận, kết quả phiếu biểu quyết đã được công bố, tiếp thu ý kiến chỉ đạo của cấp ủy và Đoàn cấp trên để hoàn chỉnh nội dung văn kiện chính thức của đại hội và ban hành.

3. Ban chấp hành chi đoàn nhiệm kỳ ____ có trách nhiệm cụ thể hóa nghị quyết đại hội, xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện đạt kết quả cao nhất nghị quyết đại hội.

ĐẠI HỘI CHI ĐOÀN __________

NHIỆM KỲ ____ (_____-______)

___________________________

Mẫu Biên bản phân tích chất lượng đoàn viên và phân loại chi đoàn

Ngày ___ tháng ___ năm ___

BIÊN BẢN

HỌP PHÂN TÍCH CHẤT LƯỢNG ĐOÀN VIÊN VÀ PHÂN LOẠI CHI ĐOÀN _____________

NĂM ______

Vào lúc ______ tại _____________

Căn cứ hướng dẫn của Đoàn cấp trên về việc phân tích chất lượng đoàn viên và phân loại chi đoàn.

Chi đoàn ___________ đã tiến hành họp phân tích chất lượng đoàn viên và phân loại chi đoàn với nội dung và kết quả như sau:

1. Thành phần tham dự:

- Chủ tọa: Đ/c ________________; Thư ký: Đ/c _______________

- Đoàn viên tham dự: _______ đồng chí / tổng số đoàn viên chi đoàn

2. Phân tích chất lượng đoàn viên:

- Đ/c _____________ đọc tự kiểm và tự phong loại ________

Góp ý của chi đoàn:    + Mạnh:

                                 + Hạn chế:

Biểu quyết phân loại của chi đoàn: __________

- Đ/c _____________ đọc tự kiểm và tự phong loại ________

Góp ý của chi đoàn:    + Mạnh:

                                 + Hạn chế:

Biểu quyết phân loại của chi đoàn: __________

3. Phân loại chi đoàn:

- Ban chấp hành chi đoàn đọc bản tự nhận xét mạnh, hạn chế đánh giá theo tiêu chuẩn xếp loại chi đoàn, đề xuất xếp loại.

- Đoàn viên chi đoàn đóng góp bản nhận xét, biểu quyết xếp loại:

Kết quả phân tích chất lượng đoàn viên:

- _______ đồng chí đạt xuất sắc - tỷ lệ: ____%

- _______ đồng chí đạt khá - tỷ lệ: ____%

- _______ đồng chí đạt trung bình - tỷ lệ: ____%

- _______ đồng chí đạt yếu - tỷ lệ: ____%

- Chi đoàn: ____________

Biên bản kết thúc vào lúc ________ ngày _________

CHỦ TỌA THƯ KÝ

_______________ _______________

Mẫu Biên bản đại hội chi đoàn

Ngày ____ tháng ___ năm ___

BIÊN BẢN ĐẠI HỘI CHI ĐOÀN ________________________

NHIỆM KỲ ____ (_______-______)

Vào lúc ______ ngày _____________

Tại ____________________________

Chi đoàn _____________ đã tiến hành đại hội nhiệm kỳ ___ ____ (_____-_____) với nội dung như sau:

1. Thành phần tham dự:

- Lãnh đạo:

- Đoàn viên tham dự: ______ đồng chí / tổng số đoàn viên chi đoàn ____ tỷ lệ %

2. Thành phần điều khiển đại hội:

- Chủ tọa (chủ trì đại hội): Đ/c ________________

- Thư ký đại hội: Đ/c _______________

3. Nội dung văn kiện:

a. Những vấn đề góp ý cho báo cáo hoạt động và báo cáo kiểm điểm:

b. Những vấn đề góp ý cho phương hướng hoạt động và chỉ tiêu:

4. Nhân sự:

a. Góp ý cho đề án nhân sự, biểu quyết đề án:

b. Thảo luận danh sách nhân sự:

- Ý kiến đóng góp:

- Ứng cử, đề cử:

- Biểu quyết gút danh sách ứng cử viên

c. Bầu tổ bẩu cử và tiến hành bầu cử:

d. Công bố kết quả trúng cử gồm các đồng chí với số phiếu: ____

5. Thông qua Nghị quyết đại hội, biểu quyết Nghị quyết

- Kết quả biểu quyết: _________/ ______ tỷ lệ _____%

6. Chào cờ bế mạc:

Biên bản đại hội kết thúc vào lúc _______ ngày __________

CHỦ TỌA THƯ KÝ



_________________________________

Mẫu Biên bản kiểm phiếu bầu Ban chấp hành chi đoàn

Ngày ____ tháng ___ năm ___

BIÊN BẢN KIỂM PHIẾU

BẦU BAN CHẤP HÀNH CHI ĐOÀN ________________

NHIỆM KỲ_____ (______-______)

Hôm nay vào lúc ___ giờ ____ phút, ngày ____ tháng _____ năm _____

Tại ________________________________________

Tổ bầu cử chúng tôi gồm:

1. Đ/c ....................................................................... Tổ trưởng

2. Đ/c ....................................................................... Thành viên

3. Đ/c ....................................................................... Thành viên

Tiến hành kiểm phiếu bầu cử Ban chấp hành ................................................... nhiệm kỳ ___ (______-______)

Số lượng ủy viên Ban chấp hành phải bầu là: ............ đồng chí

Danh sách ứng cử viên là: ............. đồng chí

Tổng số phiếu phát ra:............... phiếu

Tổng số phiếu thu vào:............... phiếu

Số phiếu hợp lệ:............... phiếu

Số phiếu không hợp lệ:............... phiếu

Kết quả kiểm phiếu đối với từng ứng cử viên như sau:

1. Đ/c ........................................ .............phiếu, đạt ...........%

2. Đ/c ........................................ .............phiếu, đạt ...........%

3. Đ/c ........................................ .............phiếu, đạt ...........%

4. Đ/c ........................................ .............phiếu, đạt ...........%

5. Đ/c ........................................ .............phiếu, đạt ...........%

6. Đ/c ........................................ .............phiếu, đạt ...........%

7. Đ/c ........................................ .............phiếu, đạt ...........%

(Ghi theo danh sách phiếu bầu)

Căn cứ vào kết quả biểu quyết số lượng ủy viên Ban chấp hành tại đại hội đã thông qua, đối chiếu với nguyên tắc trúng cử theo quy định của điều lệ Đoàn, những đồng chí có tên sau trúng cử vào Ban chấp hành ______________ nhiệm kỳ ___ (______-______) theo thứ tự từ cao xuống thấp là:

1. Đ/c ........................................ .............phiếu, đạt ...........%

2. Đ/c ........................................ .............phiếu, đạt ...........%

3. Đ/c ........................................ .............phiếu, đạt ...........%

Biên bản kết thúc lúc ........... giờ .......... cùng ngày.

TM. TỔ BẦU CỬ

TỔ TRƯỞNG

(Ký và ghi rõ họ tên)

_______________________

Giấy bảo đảm của một đoàn viên giới thiệu

GIẤY BẢO ĐẢM GIỚI THIỆU THANH NIÊN VÀO ĐOÀN

            Kính gởi: Ban chấp hành chi đoàn .........................

Tôi là: ....................................................

Vào Đoàn ngày: ................................

Được sự phân công của chi đoàn, sau một thời gian cùng sinh họat, công tác, tìm hiểu và giúp đỡ, tôi nhận thấy bạn / anh (chị): ........................... đã thể hiện những ưu, khuyết điểm sau:

- Ưu điểm: .............................................

- Khuyết điểm: ....................................

Đối chiếu với điều kiện và tiêu chuẩn, tôi nhận thấy bạn / anh (chị) .......................................... xứng đáng đứng vào hàng ngũ của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh. Vậy đề nghị chi đoàn xem xét kết nạp anh (chị) vào Đoàn.

Tôi xin bảo đảm và chịu trách nhiệm trước Đoàn về những lời giới thiệu của mình và xin hứa sẽ tiếp tục giúp đỡ bạn / anh (chị) nhanh chóng làm quen với công tác của Đoàn, trở thành đoàn viên xuất sắc.

Ký tên

______________________________

(Giấy giới thiệu của Chi hội, Chi đội đối với Hội viên, Đội viên có thể tham khảo mẫu trên)

Ngày_____ tháng_____ năm _____

BIÊN BẢN HỌP XÉT KẾT NẠP ĐOÀN VIÊN

Thời gian:........................................................

Địa điểm:.......................................................

Hiện diện:....................................... ĐV/ tổng số đoàn viên của chi đoàn

Chủ trì: Đ/c.........................................

Chi đoàn tiến hành họp xét kết nạp anh (chị)..........................................

Đồng chí giới thiệu là: ............................. đã đọc lời giới thiệu và bảo đảm. Chi đoàn thảo luận và nhận thấy: (nêu tóm tắt ý kiến phát biểu của Đoàn viên)

Sau khi thảo luận, chi đoàn đã tiến hành biểu quyết với ......... ý kiến (tỷ lệ .........) đồng ý kết nạp anh (chị) vào Đoàn TNCS Hồ Chí Minh.

THƯ KÝ CHỦ TỌA



___________________ ____________________

Bản đề nghị kết nạp đoàn viên mới của Ban Chấp hành chi đoàn

Ngày ____ tháng ___ năm ___

VĂN BẢN ĐỀ NGHỊ KẾT NẠP ĐOÀN VIÊN

            Kính gởi: Ban chấp hành Đoàn ........................................

Căn cứ lời giới thiệu của đồng chí ............................... , xét đơn xin gia nhập Đoàn của anh (chị) ................

Hội nghị chi đoàn ...................................... họp ngày .... tháng .... năm .... có mặt ............. Đoàn viên trên tổng số .......... đoàn viên chi đoàn , đã có ............................ đồng chí biểu quyết đồng ý kết nạp anh (chị) vào Đoàn TNCS Hồ Chí Minh.

Chi đoàn .............. sẽ tiếp tục bồi dưỡng, giúp đỡ để anh (chị) làm tròn trách nhiệm Đoàn viên và trở thành Đoàn viên xuất sắc. Đề nghị Ban chấp hành Đoàn ............ xem xét ra quyết định chuẩn y kết nạp và trao thẻ Đoàn cho anh (chị) ....................

TM. BAN CHẤP HÀNH CHI ĐOÀN

BÍ THƯ


TỔ CHỨC SINH HOẠT CHI ĐOÀN CHỦ ĐIỂM

I. KHÁI NIỆM - MỤC ĐÍCH - YÊU CẦU:

Sinh hoạt chi đoàn chủ điểm là một phương thức giáo dục chính trị tư tưởng cho đoàn viên của tổ chức Đoàn nhằm thống nhất nhận thức trong đoàn viên về một vấn đề tư tưởng theo định hướng của Đoàn cấp trên hoặc các vấn đề thời sự chính trị, xã hội được nhiều đoàn viên quan tâm; thống nhất về mục đích, ý nghĩa, nội dung và phương pháp tổ chức một hoạt động chi đoàn trong một đợt hoạt động lớn của toàn Đoàn.

Yêu cầu đặt ra trong sinh hoạt chủ điểm là phải tạo được sự đối thoại dân chủ trong chi đoàn, tránh thông tin một chiều. Buổi sinh hoạt chủ điểm phải đạt được sự thống nhất để đi đến hành động, vì vậy, Ban chấp hành Đoàn phải có kết luận cụ thể đối với từng nội dung được trao đổi, tranh luận trong buổi sinh hoạt.

II. CÁC HÌNH THỨC TỔ CHỨC SINH HOẠT CHI ĐOÀN CHỦ ĐIỂM:

Tùy theo tình hình thực tế của đơn vị, Ban chấp hành chi đoàn có thể chủ động lựa chọn một trong các hình thức sau để tổ chức sinh hoạt chi đoàn chủ điểm:

1. Tổ chức nghe nói chuyện chuyên đề:

- Ban chấp hành chi đoàn mời báo cáo viên đến nói chuyện với đoàn viên về các chủ đề nêu trên, sau đó tổ chức cho đoàn viên viết bài thu hoạch, đánh giá kết quả, xem đây như là một giải pháp rèn luyện đoàn viên về mặt nhận thức.

- Lưu ý: Báo cáo viên có thể là các đồng chí cách mạng lão thành, cựu chiến binh, các nhà nghiên cứu, các đồng chí cấp ủy Đảng tại chi bộ phụ trách, lãnh đạo chính quyền, cán bộ Đoàn cấp trên.

2. Tổ chức tọa đàm, thảo luận trong chi đoàn:

- Ban Chấp hành. Chi đoàn chuẩn bị trước một số tài liệu liên quan đến chủ đề nêu trên để các đoàn viên nghiên cứu, chuẩn bị ý tưởng; đồng thời mời một số đồng chí cấp ủy, chính quyền, cán bộ Đoàn cấp trên và các bạn đoàn viên nòng cốt chuẩn bị bài phát biểu trước (Có thể đóng tập làm tài liệu nếu có điều kiện).

Khi tổ chức tọa đàm, cần đảm bảo theo qui trình sau:

- Người chủ trì phát biểu đề dẫn, gợi ý các nội dung cần thảo luận.

- Mời đoàn viên cùng trao đổi.

- Nghe ý kiến của cấp ủy, chính quyền, Đoàn cấp trên (nếu có tham dự).

- Người chủ trì kết luận.

3. Tổ chức các hội thi trong chi đoàn (thi đố vui kiến thức, thi thuyết trình, viết bài cảm nhận...)

Khi tổ chức theo hình thức này, các chi đoàn cần lưu ý:

- Chi đoàn không nhất thiết phải tổ chức một cuộc thi riêng mà có thể hưởng ứng những cuộc thi do Đoàn cấp trên tổ chức.

- Chi đoàn có thể liên kết , phối hợp với các đơn vị khác để tổ chức hội thi.

4. Tổ chức nghe báo cáo chuyên đề, tọa đàm, hội thi... kết hợp với các hoạt động tham quan, giao lưu:

Tùy theo mỗi chủ điểm sinh hoạt, chi đoàn có thể tổ chức nghe báo cáo chuyên đề, tọa đàm, hội thi... kết hợp với tham quan các di tích lịch sử, văn hóa nhằm gắn kết giữa lý luận và thực tiễn, mang lại một cái nhìn trực quan sinh động trong việc tổ chức sinh hoạt chi đoàn chủ điểm.
Đi dân nhớ, ở dân thương!

Sao_Online

TỔ CHỨC CÁC HỘI THI

Trong công tác thanh niên, ngoài những hội thi hùng biện, thuyết trình, kể chuyện thường dành cho cá nhân còn có những hội thi khác dành cho các tập thể, nhóm nhỏ... Đó là thi đố kiến thức như: đố vui, hái hoa dân chủ, trắc nghiệm kiến thức, và hiện nay có những loại hình đang được các cơ quan thông tin đại chúng áp dụng rộng rãi, thu hút nhiều người quan tâm như Vui để học, Đường lên đỉnh Olympia, Chiếc nón kỳ diệu... Để tổ chức được các loại hình trên ta cần thực hiện các việc sau đây:

I. CÔNG TÁC CHUẨN BỊ:

- Xác định rõ mục đích ý nghĩa và yêu cầu của từng cuộc thi cụ thể (vì sao phải tổ chức? Tổ chức để làm gì?...), các yêu cầu cụ thể với Ban tổ chức, đối tượng chơi?

- Các nội dung cần có trong cuộc chơi (thể hiện mục đích cần đạt được), nội dung chính, nội dung phụ, nội dung giáo dục, vui chơi giải trí, nội dung thử thách, gợi ý thông minh...

- Hình thức, quy mô, tính chất cuộc chơi:

+ Chọn hình thức (loại hình cụ thể)

+ Hình thức qua trang trí, màu cờ sắc áo..

+ Hình thức: nhóm nhỏ, nhóm lớn, cá nhân

+ Quy mô cuộc chơi: dự kiến cách thức tổ chức tầm cỡ nào? Người dự, người xem, lực lượng cổ vũ, trang trí...

+ Tính chất cuộc chơi: đối kháng thế nào, trực tiếp, gián tiếp, vui tươi nhẹ nhàng hay căng thẳng

- Thời gian: cuộc chơi diễn ra bao lâu, mấy vòng, có thời gian cho chuẩn bị không hay chỉ là ứng xử (tức sử dụng vốn kiến thức có sẵn)

- Địa điểm cuộc chơi: nơi nào? Có quá lợi thế cho một lực lượng tham gia không? Khán giả của ai?

- Phương tiện phục vụ cuộc chơi: trang trí, bàn ghế, chỗ ngồi (người chơi, người xem, đại biểu) dụng cụ chơi, ánh sáng, đèn màu, bảng, nhạc, quần áo, dụng cụ cổ động, hoa, quà tặng, quà thưởng, câu hỏi...

- Soạn nội quy, điều luật chơi: (quan trọng nhất) soạn càng kỹ càng ít bị tranh cãi.

- Khen thưởng cá nhân và tập thể khi chơi

- Ban tổ chức cuộc chơi: Ban tổ chức, Ban giám khảo, Ban trật tự, hậu cần, âm thanh ánh sáng, bộ phận phục vụ cụ thể lúc chơi, người dẫn chương trình, nên phân công cụ thể từng thành viên với từng loại công việc.

- Chuẩn bị kinh phí tổng thể:

Sau khi dự kiến đủ các yếu tố trên, ta hình thành cho được kế hoạch tổ chức.

II. VIẾT KẾ HOẠCH:

- Viết kế hoạch (từ các ý của việc chuẩn bị ta hình thành kế hoạch chi tiết cho cuộc thi như: mục đích yêu cầu, nội dung cuộc chơi, chủ đề, địa điểm, thời gian, đối tượng...)

- Lên chương trình chi tiết: trong viết kế hoạch, việc lên chương trình chi tiết rất quan trọng vì khi cuộc chơi diễn ra, ta phải căn cứ vào nó để tuần tự thực hiện (nếu được thì nên biến chương trình chi tiết thành kịch bản càng tốt)

- Lập bảng phân công cụ thể từng công việc cho Ban tổ chức (kể cả việc chuẩn bị đến khi tiến hành và kết thúc toàn bộ cuộc thi).

- Dự trù kinh phí chi tiết (tránh để thiếu hoặc mọi hiện tượng phát sinh)

- Nêu biện pháp và tiến độ thực hiện (gắn công việc chuẩn bị, kiểm tra với thời gian cụ thể mà Ban tổ chức và các bộ phận phải hoàn thành, cách thức hoàn thành).

III. PHỔ BIẾN:

- Sau khi hoàn thành kế hoạch cần báo lãnh đạo, các bộ phận, đại diện người chơi để nghe góp ý.

- Từ góp ý của các bộ phận, ta xem xét bổ sung và hoàn chỉnh lại toàn bộ kế hoạch.

- Phổ biến kế hoạch đến lãnh đạo (để báo cáo), người thi (để biết thực hiện)...

- Kiểm tra tiến độ, chốt danh sách, lực lượng, thời gian ra thông báo bổ sung (nếu có), nhắc nhở tiến độ (khi cần thiết).

- Tập dợt các nội dung cần thiết (chơi thử trò chơi, văn nghệ, khai mạc, bế mạc...)

IV. TIẾN HÀNH CUỘC THI:

Khi tiến hành cuộc thi cần chú ý các việc sau:

- Theo đúng trình tự chương trình đã có mà thực hiện (đây là nội dung đã được duyệt, được người chơi chấp nhận và đã chuẩn bị từ trước).

- Ban tổ chức cần có bộ phận thường trực để giải quyết kịp thời các tình huống phát sinh, khi xử lý cần bám vào lực lượng lãnh đạo các đoàn trên quan điểm tất cả vì sự thành công chung của cuộc thi.

- Về hình thức cần tạo không khí thoải mái, nhẹ nhàng vui tươi sinh động, nhưng đừng quên nội dung giáo dục, cần tập trung nhiều cho phần khai mạc, bế mạc.

- Cần chọn người dẫn chương trình cho phù hợp với từng loại hình cụ thể. Nếu nặng về kiến thức thì mời người có kiến thức, nếu nặng về giải trí thì mời người có khiếu hài để cuộc chơi luôn sinh động.

- Các nội dung thi, các câu hỏi phải được soạn kỹ cả phần hỏi lẫn phần đáp, được duyệt kỹ trước khi đem ra sử dụng. Các dạng câu hỏi (kín, mở...) phải được thống nhất chung.

- Ban tổ chức, ban giám khảo... cần chọn người có uy tín cao, các bộ phận phục vụ phải là người thạo việc.

- Sau khi xong phải thu hồi đầy đủ các vật dụng, quyết toán kinh phí. Cuối cùng cần nghiêm túc rút kinh nghiệm công tác tổ chức, lắng nghe từ nhiều phía (Ban tổ chức, các bộ phận, người thi, khán giả, ủng hộ viên...) để lần sau tổ chức tốt hơn.

V. MỘT SỐ LOẠI HÌNH HAY TỔ CHỨC

1. Hội thi thuyết trình

a. Khái niệm:

- Hội thi thuyết trình thường được sử dụng trong việc tuyên truyền về chủ trương chính sách, nghị quyết của Đảng; tuyên truyền về một nội dung giáo dục mà tổ chức Đoàn muốn định hướng cho đoàn viên, thanh niên.

- Đây là hình thức thi thường được sử dụng trong trường hợp đối tượng dự thi là cá nhân.

b. Yêu cầu:

- Lựa chọn nội dung thi phù hợp với từng đối tượng tham gia, đây sẽ là điều kiện tiên quyết cho sự thành công của hội thi. Bởi mỗi đối tượng khác nhau sẽ có sự quan tâm về các vấn đề khác nhau. Tìm hiểu đúng vấn đề mà đoàn viên, thanh niên quan tâm sẽ thu hút được sự tham gia đông đảo và có chất lượng của đoàn viên, thanh niên.

- Mời ban giám khảo là người am hiểu và có uy tín về nội dung của hội thi để có sự đánh giá chính xác, khách quan về chất lượng, kết quả của người dự thi, cũng như kịp thời có sự điều chỉnh, định hướng các nhận thức chưa đúng của người dự thi.

2. Hội thi hùng biện:

a. Khái niệm:

- Hội thi hùng biện thường được sử dụng nhằm mục đích nắm tình hình diễn biến tư tưởng, nhận thức chính trị của đoàn viên, thanh niên đối với một vấn đề chính trị xã hội cụ thể, từ đó có sự điều chỉnh định hướng tư tưởng trong đoàn viên, thanh niên kịp thời. Chính vì vậy mà hội thi hùng biện bao giờ cũng được giới hạn ở một nội dung, một vấn đề cụ thể, nhất định.

- Tương tự như hội thi thuyết trình, hình thức này cũng thường được sử dụng với đối tượng dự thi là cá nhân.

b. Yêu cầu:

- Xuất phát từ khái niệm trên, yêu cầu đặt ra đối với công tác tổ chức hội thi hùng biện là việc lựa chọn đề tài hùng biện phù hợp với mục đích và đối tượng của hội thi. Đề tài hùng biện phải là vấn đề chính trị – xã hội nóng bỏng mà đoàn viên, thanh niên đang quan tâm, thu hút được sự quan tâm, tham gia của đông đảo đoàn viên, thanh niên. Nếu không đảm bảo yêu cầu tổ chức Đoàn sẽ không nắm được diễn biến tư tưởng, cũng như nhận thức của đoàn viên, thanh niên đối với các vấn đề chính trị xã hội nóng bỏng, từ đó sẽ không có định hướng kịp thời.

- Cần mời ban giám khảo là những người có uy tín trong xã hội để đảm bảo sự khách quan trong kết quả hội thi cũng như kịp thời định hướng cho đoàn viên, thanh niên nếu thí sinh dự thi có biểu hiện lệch lạc về nhận thức.

3. Tổ chức thi đố kiến thức

a. Khái niệm:

Thi đố kiến thức là một hình thức giáo dục sinh động, phong phú và hấp dẫn. Có nhiều cách thức tổ chức thi đố kiến thức khác nhau như: đố vui, trắc nghiệm, hái hoa dân chủ, một số hình thức mới như: chiếc nón kỳ diệu, đường lên đỉnh Olympia, hành trình văn hóa, vui để học. Tùy theo đối tượng cụ thể và điều kiện tổ chức mà chúng ta lựa chọn hình thức thi đố kiến thức cho phù hợp.

b. Yêu cầu:

- Tổ chức thi đố kiến thức cũng cần xác định giới hạn nội dung cụ thể của hội thi về một lĩnh vực nhất định, ví dụ hội thi tìm hiểu Nghị quyết Đại hội Đảng lần IX, Nghị quyết Đại hội Đoàn thành phố lần VII, hội thi tìm hiểu về một văn bản pháp luật (luật lao động, luật phòng chống ma túy, luật bảo vệ và chăm sóc trẻ em, luật an toàn giao thông đường bộ).

Lưu ý: khi sử dụng hình thức tổ chức hội thi, các cơ sở Đoàn cũng có thể kết hợp các hình thức nói trên để tạo sự phong phú hấp dẫn cho hội thi. Ví dụ như kết hợp thi đố kiến thức với thi hùng biện hoặc thi thuyết trình. Trong trường hợp này những người hùng biện hay thuyết trình vẫn là những cá nhân nhưng họ sẽ đại diện cho tập thể để trình bày về nội dung thi và đó là ý kiến tập thể mà họ đại diện.

TỔ CHỨC HỘI DIỄN VĂN NGHỆ

I. HỘI DIỄN VĂN NGHỆ

Hội diễn văn nghệ là cuộc trình diễn nhiều tiết mục văn nghệ (của 1 hay nhiều đơn vị) thuộc ngành sân khấu như: ca, kịch, tấu hài, hò, vè, hát ru, tuồng, chèo... ở một thời điểm và không gian nhất định.

II. TỔ CHỨC HỘI DIỄN VĂN NGHỆ

1. Công tác chuẩn bị:

a. Nắm cho được mục đích yêu cầu đợt hội diễn văn nghệ:

Người tổ chức phải tự trả lời được với chính mình và mọi người: hội diễn văn nghệ kỳ này nhằm mục đích gì? Chào mừng các ngày lễ lớn? Hay tiếp tục truyền thống hàng năm? Chuẩn bị lực lượng mới để tham gia một hội diễn văn nghệ khác... Tuy nhiên cần hiểu rõ các ý cơ bản sau: yếu tố nào có trong hội diễn văn nghệ nhằm để giáo dục, để rèn luyện, để giải trí...? Từ đó có đề ra các yêu cầu cụ thể cho từng thành viên, đơn vị... khi tham gia hội diễn.

b. Dự kiến các nội dung: Nội dung hội diễn văn nghệ cần thể hiện điều gì? Chủ đề? Đề tài? (phải xuất phát từ mục đích yêu cầu của đợt hội diễn).

c. Hình thức qui mô: Dự định qui mô đợt hội diễn kỳ này cỡ nào? Mời bao nhiêu đơn vị, cá nhân tham gia? Người xem? Giải thưởng? Hội diễn chia làm mấy đợt? Trang trí? Cổ động? Tuyên truyền? Thời gian? Giám khảo?

d. Thể loại: Bao nhiêu thể loại được tham gia: ca, múa, kịch, tấu hài...?

e. Đối tượng tham gia:

- Đối tượng: có khống chế độ tuổi không ? Chỉ trong đơn vị hay được mời gọi bên ngoài ? Chia hạng A, B, đẳng cấp trình độ cỡ nào không được tham gia?...

- Số lượng: tự do hay khống chế?

f. Thời gian: Dự kiến cụ thể thời gian đăng ký, tổng dợt, hội diễn. Thời gian cần có cho các đơn vị tập dợt, thời gian phổ biến kế hoạch, rút kinh nghiệm. Cách chọn thời điểm phù hợp hội diễn để nhiều người, nhiều đơn vị được tham gia đầy đủ.

g. Địa điểm: Cần chọn địa điểm thuận lợi cho đi lại ăn ở của các đơn vị, đại biểu, khách mời và cả người xem cổ vũ, thuận lợi cho thông tin tuyên truyền. Riêng sân khấu phải thỏa được các yêu cầu lúc biểu diễn: rộng, thoáng, nhiều lối ra vào, dễ trang trí, để âm thanh, nhạc cụ, vị trí ngồi giám khảo, khán giả.

h. Phương tiện phục vụ: Các loại phương tiện cho: biểu diễn, ăn ở diễn viên, đại biểu, di chuyển, trang trí, cổ động, y tế, nước uống, chụp ảnh, quay phim, hoa tặng, y tế, quà thưởng...

i. Ban tổ chức: Lập ra Ban tổ chức với đủ các thành phần, phụ trách các nội dung cụ thể.

Thí dụ:

- Ban tổ chức: trưởng ban, phó ban, ủy viên.

- Ban giám khảo: số lượng? trình độ? năng lực? (có mời lực lượng bên ngoài không?).

- Ban hậu cần, ban trang trí, tổ tuyên truyền.

- Bộ phận thường trực.

- Ban an ninh, trật tự, y tế.

- Bộ phận tiếp tân, ban nhạc, người dẫn chương trình.

j. Kinh phí: Tổng kinh phí dự kiến bao nhiêu? Phân ra cho từng bộ phận nhỏ. Người tham gia, đơn vị tham gia có đóng góp không ? Ai tài trợ ? ...

2. Viết kế hoạch hội diễn văn nghệ:

Từ nội dung chuẩn bị viết lại thành kế hoạch rõ ràng: mục đích, yêu cầu, đề tài nội dung, thể loại đối tượng được tham dự, số lượng, thời gian, địa điểm, ban tổ chức, cơ cấu giải thưởng... biện pháp thực hiện, tiến độ thời gian...

3. Phân công Ban tổ chức:

Từ dự kiến Ban tổ chức, ta nên tham mưu cho lãnh đạo có quyết định phân công cụ thể từng thành viên gắn với nội dung công việc từ chuẩn bị đến khi kết thúc hội diễn (để mọi người cùng có trách nhiệm với nhau trong các hoạt động phối hợp).

4. Lên dự trù kinh phí:

Dự trù thật chi tiết bắt đầu từ các bộ phận nhỏ. Lưu ý nếu có phối hợp với bên ngoài phải có hợp đồng cụ thể, rõ ràng, các chứng từ hóa đơn phải hợp lệ... để sau còn quyết toán.

5. Thông qua kế hoạch:

Kế hoạch trên phải được họp thông qua để có chủ trương rõ ràng. Thành phần họp nên mời đủ: đại diện cấp trên, các thành viên trong Ban tổ chức, đơn vị tài trợ (nếu có), đại diện lực lượng tham gia, các chuyên gia từng tổ chức hội diễn văn nghệ (nếu có) để được góp ý...

6. Phát hành kế hoạch, soạn điều lệ (nếu có):

Gởi kế hoạch đến các nơi để báo cáo và các đơn vị tham gia để biết (để dễ dàng cho lúc điều hành, cần thiết phải cụ thể hóa kế hoạch thành điều lệ hội diễn).

Ví dụ:

                    BAN TỔ CHỨC HỘI DIỄN

............... ngày ... tháng ... năm ....

ĐIỀU LỆ

HỘI DIỄN VĂN NGHỆ ...........

Mở đầu: (nêu lại mục đích, ý nghĩa hội diễn... có phối hợp với ai không? Ai tài trợ ?...)

Điều I: Địa điểm, thời gian hội diễn cụ thể.

Điều II: Qui định rõ đối tượng, số lượng các đoàn, các đơn vị tham gia.

Điều III: Các thể loại được thi. Các chương trình tham gia.

Điều IV: Thể thức chấm điểm tiết mục, chương trình.

Điều V: Cơ cấu giải thưởng....
.....
(Có thể xem đây là Luật để giải quyết mọi khiếu nại về sau. Càng chi tiết từng điều từng khoản càng tốt).

7. Thông báo và nắm lại danh sách đăng ký tham gia:

Ví dụ: mẫu đăng ký:

STT - Đơn vị tham gia - Tên tiết mục tác giả - Người biểu diễn - Ghi chú

(Nếu khuyến khích tiết mục tự biên, tự dàn dựng thì thêm cột để cơ sở tự điền vào).

8. Thông báo thời gian tổng duyệt chương trình (nếu có).

9. Lên chương trình cụ thể:

Phân bổ tiết mục theo thứ tự của từng buổi, từng đêm, từng ngày... Công bố công khai để mọi người theo dõi và chuẩn bị tốt.

10. Tổng kiểm tra lần chót:

Trước khi hội diễn chính thức diễn ra nên có phân công nhân sự theo dõi quá trình tổng dợt của các nơi, các đơn vị... từ đó có hướng tạo điều kiện giúp đỡ để hội diễn có chất lượng hơn.

III. TIẾN HÀNH HỘI DIỄN VĂN NGHỆ:

Lễ khai mạc:

Là bộ mặt của cả chương trình hội diễn văn nghệ, cần tập trung công sức nhiều hơn để tạo ấn tượng tốt, tránh làm qua loa, đại khái. Nội dung lễ khai mạc gồm các phần:

- Nghi thức khai mạc (chào cờ nếu có).

- Tuyên bố lý do.

- Giới thiệu đại biểu, các đoàn tham gia.

- Diễn văn hoặc phát biểu khai mạc hội diễn của Ban tổ chức.

- Công bố thành phần Ban tổ chức, Ban giám khảo.

- Phát biểu của đại biểu.

- Phát biểu đại diện các đoàn (nếu có).

- Văn nghệ khai mạc (nếu có).

IV. CÁC ĐIỀU CẦN LƯU Ý TRONG TỔ CHỨC HỘI DIỄN VĂN NGHỆ:

1. Trang trí sân khấu:

Hình thức trang trí sân khấu nên gắn chặt chủ đề, đề tài hội diễn, từ phông màu, logo, tránh quá cầu kỳ nhưng cũng không nên sơ sài cẩu thả.

2. Hóa trang, trang phục:

Cần qui định cụ thể trong điều lệ (diễn viên phải đẹp, trang nhã, lịch sự...).

3. Người giới thiệu, lời giới thiệu:

Nếu Ban tổ chức đảm trách thì cần chọn người am hiểu công việc, có đủ khả năng phẩm chất điều hành, nếu là công việc của các đoàn thì phải thông báo trước để các đoàn có chuẩn bị tập luyện.

4. Sắp xếp chương trình:

Có nhiều cách diễn như theo thể loại tiết mục, diễn chương trình, diễn theo thời gian được phân bổ... Để tránh khiếu nại, Ban tổ chức nên công khai để các đoàn, các đơn vị bốc thăm thứ tự biểu diễn của đơn vị mình, thông báo rõ qui định lúc diễn: thời gian cho chuẩn bị, thời gian được lố. Các bộ phận cần liên hệ trước như âm thanh, ánh sáng...

5. Cơ cấu giải thưởng:

Có nhiều dạng cơ cấu giải thưởng, nếu là hội diễn để tuyển chọn nhân tài.. nên cơ cấu theo huy chương vàng, bạc, đồng, khuyến khích ; nếu là hội diễn phong trào nên cơ cấu giải thưởng theo dạng giải A, B, C, khuyến khích; ngoài ra nên thêm các giải đặc biệt cho phong cách, chất giọng, bài hát, tự biên, tự dàn dựng, giải diễn viên tuổi cao nhất, trẻ nhất, trang phục... Giải A, B, C có thể chọn từ điểm cao nhất trở xuống, hoặc đủ chuẩn điểm. Tuy nhiên cũng cần tránh hiện tượng chất luợng hội diễn không cao nhưng giải thưởng lại quá nhiều.

6. Cách chấm điểm:

Tùy theo tính chất và qui mô của mỗi hội diễn mà cách chấm điểm của Ban giám khảo khác nhau: nếu là hội diễn phong trào thì không nên chấm điểm công khai để sau khi có kết quả cần hội ý với Ban tổ chức để phân bố giải thưởng, ngược lại sẽ chấm công khai cho từng tiết mục sau khi diễn xong, cơ cấu điểm nên có các nội dung:
- Nội dung bài hát - chất giọng - nhịp điệu - hóa trang (nếu có) - (căn cứ chủ đề) - phong cách biểu diễn (tổng số điểm nên là 10, cơ cấu từng nội dung do Ban tổ chức qui định).

7. Ban giám khảo:

Nên chọn người am hiểu, có chuyên môn, đủ uy tín (tránh hiện tượng ai làm cũng được) sẽ không chính xác vừa kém hiệu quả cho công việc nhận xét góp ý rút kinh nghiệm.

8. Rút kinh nghiệm:

Để lần sau tổ chức tốt hơn, động tác sau mỗi hội diễn là phải rút kinh nghiệm. Nên mời đủ đại diện lực lượng tham gia, nhân sự Ban tổ chức ở các bộ phận. Nội dung rút kinh nghiệm cần tập trung:

- Chuyên môn (biểu diễn, phục vụ biểu diễn, điều hành, kết quả...)

- Phục vụ: ăn ở, đi lại (diễn viên, đại biểu, khán giá...)

- Tuyên truyền, cổ động, trang trí...

- Thời gian: có phù hợp?

Cá nhân, tập thể làm tốt, chưa tốt... Bài học kinh nghiệm cần phát huy và khắc phục.

9. Thu hồi vật dụng:

Kiểm tra thu hồi lại toàn bộ vật dụng, nghiệm thu công việc, kinh phí Ban tổ chức, quyết toán kinh phí kết thúc hội diễn. Làm thư cảm ơn, thông báo, báo cáo kết quả đạt được.

DẠ HỘI HÓA TRANG

Dạ hội hóa trang là hình thức sinh hoạt tập thể hấp dẫn, vui nhộn đối với thanh niên. Thông qua một hay nhiều chủ đề khác nhau, mọi người tham gia hội hóa trang bằng cách thay đổi trang phục, trang điểm, đeo mặc nạ, trùm khăn, đóng giả vai người khác để giao lưu, nhảy múa, vui chơi, tạo không khí vui nhộn hấp dẫn, thú vị, từ đó dẫn đến những mối quan hệ thân thiện.

Có hai quy mô hóa trang thường được thể hiện trong dạ hội:

I. QUY MÔ LỚN:

Tất cả mọi người tham gia sinh hoạt tập thể đều hóa trang. Tổ chức với quy mô này, mỗi một cá nhân đều phát huy hết khả năng vốn có của mình, đóng góp tích cực cho dạ hội, tạo sự hấp dẫn bất ngờ thú vị. Ban tổ chức sẽ khó điều khiển chương trình và hướng dẫn theo chủ đề đã định sẵn từ trước.

1. Cách chuẩn bị:

- Thành lập ban tổ chức dạ hội, thông qua chủ đề đến từng đoàn viên, thanh niên, ví dụ: Trang phục của thanh niên thế kỷ 22, những người bạn bốn phương... Dựa vào chủ đề, mỗi người tự chọn trang phục và cách hóa trang riêng của mình.

- Thống nhất thời gian, địa điểm thực hiện.

- Ban tổ chức có quyền kiểm tra, hướng dẫn góp ý hóa trang nhưng tuyệt đối giữ bí mật cho mọi người.

- Chuẩn bị âm thanh, ánh sáng và lời dẫn chương trình.

- Thông báo nội dung chương trình trước cho mọi người chuẩn bị.

2. Tiến hành:

- Đúng giờ diễn ra dạ hội dùng ánh sáng mờ ảo hoặc dùng đống lửa (nếu tổ chức trong dịp lửa trại) tạo không khí huyền bí ban đầu. Dùng tiếng vọng đọc lời dẫn (tùy chủ đề mà viết lời bình cho phù hợp).

- Dành thời gian đầu múa hát tập thể để mọi người làm quen nhau qua hóa trang.

- Giới thiệu các "nhân vật nổi tiếng" phát biểu ý kiến hay biểu diễn một ảo thuật, một bài hát, một trò chơi... (có thể dùng phương pháp hái hoa dân chủ). Người tham dự có thể tự giới thiệu (không phải là mình) bằng phương pháp độc đáo, khôi hài, dí dỏm.

- Tổ chức vũ hội tạo không khí thân mật giữa người tham gia.

- Kết thúc dạ hội: ban tổ chức có thể phát phần thưởng khen ngợi biểu dương các cá nhân, tập thể hay nhóm hóa trang tốt. Phần kết thúc có thể bỏ hóa trang để mọi người nhận ra nhau tạo sự bất ngờ vui vẻ.

II. QUY MÔ NHỎ

Tham dự hóa trang chỉ có một nhóm người hay một vài người. Quy mô này thường được thực hiện đan xen trong một buổi dạ hội chung hay một buổi sinh hoạt chủ đề.

1. Công tác chuẩn bị:

- Tìm chọn kịch bản, vở diễn, đoạn độc thoại, đối thoại hay thiết kế một tình huống, một sự kiện diễn ra trong cuộc sống hàng ngày theo chủ đề được định sẵn như: ứng xử tâm lý, tình bạn, tình yêu, sinh đẻ có kế hoạch, ngoại giao...

- Trên cơ sở các vấn đề trên tìm chọn những đoàn viên, thanh niên có khả năng hóa trang, năng khiếu nói, hát, múa khôi hài... để hóa trang thành các nhân vật ấn tượng, mới lạ.

- Nghiên cứu chương trình chung, từ đó chọn thời điểm để thực hiện hóa trang cho hợp lý, tạo sự bất ngờ thú vị cho mọi người.

2. Tiến hành:

- Khi đến thời điểm xuất hiện hóa trang cần đọc lời dẫn gây cảm hứng và sự chú ý ban đầu của mọi người.

- Hóa trang xuất hiện thường gây cười nên bao giờ cũng dành ít phút làm động tác chào thân thiện khán giả.

- Sắp xếp các tiết mục hóa trang phải đảm bảo tạo cho người xem từ bất ngờ này đến bất ngờ lý thú khác và kết thúc bằng một tiết mục hóa trang gây ấn tượng mạnh.

- Kết thúc phần dạ hội hóa trang nên tổ chức cho tất cả mọi người tham gia các tiết mục hóa trang xuất hiện lần cuối chào mọi người bằng động tác riêng của mình.

Chú ý:

Khi hóa trang có thể đóng giả nữ, đóng giả người ngoại quốc, đóng vai các ca sĩ nhưng phải đảm bảo vui cười lành mạnh, không kệch cỡm thô thiển, thiếu văn hóa gây khó chịu cho mọi người và làm giảm đi hiệu quả giáo dục của buổi dạ hội.

Hóa trang phải đảm bảo dễ thực hiện, không cầu kỳ nhưng hấp dẫn. Phải bí mật, bất ngờ, gây được ấn tượng mạnh.

TỔ CHỨC HỘI TRẠI

Hội trại là một loại hình hoạt động vui tươi hấp dẫn và lôi cuốn đối tượng vì nó giúp cho họ có những buổi sinh hoạt cộng đồng bổ ích, những đêm giao lưu ấn tượng, những ngày đắm mình vào thiên nhiên, chiêm ngưỡng vẻ đẹp kỳ diệu của những di tích lịch sử văn hóa, những cảnh đẹp quê hương, các lễ hội truyền thống của dân tộc... Do đó,hội trại không thể thiếu trong các hoạt động của thanh thiếu niên chúng ta hiện nay.

I. CÔNG TÁC CHUẨN BỊ

1. Bước 1: Nắm số liệu cần thiết để lên kế hoạch hội trại, gồm các ý:

- Nắm mục đích yêu cầu của hội trại: tức hội trại diễn ra để làm gì? Để tập huấn, để tổng kết, để giao lưu, để chào mừng các ngày lễ lớn, để tự rèn luyện đội nhóm mình đang phụ trách, hay kỷ niệm ngày truyền thống nào đó...

- Dự kiến hình thức, quy mô, tính chất của hội trại: tức hình thức gì, quy mô cỡ nào, tính chất ra sao? (nội dung này có liên quan đến nhiều yếu tố như kinh phí, đối tượng, thời gian, địa điểm...)

- Chọn địa điểm: nên chọn cho phù hợp với từng hình thức: tham quan thì địa điểm phải mới, truyền thống thì nên ở gần (phải nắm được các đặc điểm thuận lợi, khó khăn của đất trại để có hướng khắc phục).

- Thời gian, thời điểm: lúc nào là thuận tiện, bao lâu là phù hợp (cần chú ý lượng thời gian nhất định bố trí cho khâu di chuyển, ăn uống ngủ nghỉ...)

- Phương tiện phục vụ hội trại gồm: phục vụ ăn, nghỉ (hình thức ăn, nghỉ...); phục vụ hoạt động (âm thanh, ánh sáng, đàn...); phục vụ sức khỏe (thuốc, bông băng...); phục vụ di chuyển (xe...); các loại khác (tổ chức trò chơi, quà thưởng, lưu niệm...)

- Nắm đối tượng: số lượng, tuổi, giới tính, nghề nghiệp... đặc biệt là trình độ kỹ năng sinh hoạt trại (nó giúp ta thiết kế các hoạt động vừa sức và phù hợp)

- Dự kiến các thành viên của ban tổ chức và các ban khác nếu cần như: ban giám khảo, ban hoạt động, ban hậu cần, ban thi đua, ban trật tự... Nên chọn các thành viên đủ năng lực và phù hợp với công việc.

- Dự kiến kinh phí: nắm được tổng kinh phí bao nhiêu? Nếu phải đóng góp, mỗi cá nhân phải góp bao nhiêu là vừa, có vận động tài trợ không? Xin được bao nhiêu nếu có?

2. Bước 2: Viết kế hoạch

Từ các số liệu trên ta tổng hợp lại thành kế hoạch cụ thể. Viết kế hoạch gồm các ý sau:

- Mục đích, yêu cầu của hội trại.

- Nội dung hình thức hoạt động gồm:

+ Nội dung: nội dung chính, phụ.

+ Hình thức: tên trại, trại ca, khẩu hiệu, biên chế tổ, nhóm...

+ Thành phần: số lượng tham dự.

+ Thời gian: bao lâu? từ lúc nào?

+ Địa điểm: ở đâu?

+ Phương tiện di chuyển, ăn, ở...

- Lên chương trình hoạt động chi tiết:

Ví dụ:

Thời gian - Nội dung - Địa điểm - Nhân sự phụ trách - Ghi chú (bắt đầu từ lúc diễn ra đến khi kết thúc hội trại)

- Lập ra ban tổ chức, ban giám khảo...: lập danh sách cụ thể, giao trách nhiệm

- Lập danh sách những người tham gia: nên có danh sách, đơn vị, tổ hoạt động, địa chỉ cơ quan, gia đình vì sẽ trình báo địa phương nơi cắm trại, đồng thời giúp ban tổ chức quản lý chặt chẽ người dự trại.

- Soạn nội quy: cần soạn nội quy quy định các việc phải làm và không được làm (nên ngắn gọn dễ nhớ).

- Dự trù kinh phí: phải thật chi tiết, tránh thiếu và phát sinh kinh phí mới.

- Tiến độ và biện pháp thực hiện: nêu tiến độ gắn liền với thời gian cụ thể để tiện theo dõi.

3. Bước 3: Duyệt và phổ biến:

Sau khi xong kế hoạch cần thực hiện tiếp các nội dung sau:

- Thông qua kế hoạch: để thông qua kế hoạch nên mời người đại diện cấp trên, đại diện các cơ quan có người tham dự trại, các thành viên trong ban tổ chức... cùng bàn bạc góp ý.

- Tiền trạm: ban tổ chức, cấp trên, đại diện người đi trại đi tiền trạm để nắm địa điểm, kiểm tra các nội dung dự kiến tổ chức trong trại.

- Hoàn chỉnh kế hoạch: từ các góp ý trên, ta hoàn chỉnh lại kế hoạch lần chót trình lãnh đạo duyệt.

- Phổ biến: gởi cấp trên để báo cáo, gởi ban tổ chức để thực hiện, gởi các đơn vị, cá nhân biết để chuẩn bị tham gia tốt các nội dung đề ra.

- Tổng kiểm tra: kiểm tra đồng bộ; kỹ lưỡng các bộ phận trước khi xuất phát hội trại.

Quá trình diễn ra hội trại thường gắn với 2 mảng lớn: kế hoạch trại (đã trình bày ở trên) và điều hành trại (khi trại diễn ra). Một số việc cần lưu ý khi trại diễn ra sau đây:

- Bán kế hoạch mà thực hiện, tránh tự ý thay đổi vì các nội dung đã được duyệt và thống nhất.

- Các việc làm xong nên họp rút kinh nghiệm ngay, nhất là buổi đầu để chấn chỉnh kịp thời các việc phát sinh về giờ giấc, kỷ luật.

- Các nội dung (nếu có thi đua) ban tổ chức cần hết sức khách quan công bằng nếu không sẽ dễ đổ vỡ cuộc chơi.

- Tránh tuyệt đối hiềm khích với người địa phương, hết sức lưu ý chế độ trực - nhất là trực đêm của trại sinh lẫn ban tổ chức.

- An toàn tính mạng, sức khỏe mọi người là yêu cầu mà ban tổ chức, mọi thành viên phải lưu tâm hàng đầu trong các hội trại.

II. NỘI DUNG CỦA HỘI TRẠI

Hội trại truyền thống thường bao gồm những nội dung hoạt động sau:

1. Khai mạc hội trại:

- Các đơn vị tham gia hội trại tập trung về địa điểm tập kết làm lễ khai mạc.

- Chào cờ, hoạt cảnh truyền thống: tùy theo chủ đề của hội trại để dựng hoạt cảnh truyền thống phù hợp (như hoạt cảnh truyền thống về chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, về chiến thắng 30/4, về những chặng đường lịch sử vẻ vang của Đoàn...)

- Trại trưởng đọc lời khai mạc

- Đồng diễn thể dục thể thao, biểu diễn nghệ thuật, múa tập thể... (tùy theo điều kiện của đơn vị để lựa chọn tiết mục thích hợp).

- Các quan khách và ban chỉ huy đi thăm, chấm điểm trại của các đơn vị.

2. Các hoạt động của hội trại:

- Đi tham quan các di tích lịch sử, các danh lam thắng cảnh của địa phương.

- Viếng mộ liệt sĩ, thăm các gia đình có công với cách mạng, các Bà mẹ Việt Nam anh hùng...

- Tổ chức các cuộc thi: nấu ăn, cắm hoa, thi ca hát, múa đôi, các hoạt động thể dục thể thao như chạy, nhảy, kéo co... thi làm thơ, kể chuyện...

- Tổ chức các cuộc gặp gỡ, giao lưu giữa các đơn vị để nghe kể chuyện truyền thống, ca hát, vui chơi...

- Tổ chức lửa trại: đây là một hoạt động dễ tạo hứng thú, gây ấn tượng sâu sắc cho trại viên. Xung quanh ánh lửa bập bùng, trong đêm khuya mọi người hướng về cội nguồn, trò chuyện, ca hát, nhảy múa...

Khi lửa gần tàn, trại trưởng kể chuyện tàn lửa hoặc có thể tổng kết các hoạt động của hội trại, phát thưởng cho các đơn vị.

KỸ NĂNG TỔ CHỨC ĐỐI THOẠI - HỘI THẢO

Đối thoại - Hội thảo là những hình thức hoạt động phổ biến, đạt hiệu quả cao trong công tác giáo dục chính trị tư tưởng, có sức thu hút đoàn viên, thanh niên trong giai đoạn hiện nay.

I. CÁCH TỔ CHỨC ĐỐI THOẠI

1. Thu thập những thắc mắc, những vấn đề mà đoàn viên, thanh niên quan tâm. Có hai cách thu thập: trực tiếp và gián tiếp.

- Thu thập trực tiếp: thông qua phản ánh trực tiếp của đoàn viên, thanh niên, các chi đoàn, chi hội, tổ thăm dò dư luận.

- Thu thập gián tiếp: thông qua thư từ, khiếu nại kiến nghị của đoàn viên, thanh niên hoặc qua các phương tiện truyền thông đại chúng.

2. Phân loại các ý kiến. Các ý kiến được phân loại theo một vấn đề hoặc một nhóm vấn đề.

3. Chuyển các ý kiến được tập hợp tới Đảng ủy, Ban giám hiệu, các phòng, ban hoặc các cơ quan, cá nhân có liên quan để chuẩn bị nội dung đối thoại.

4. Tổ chức đối thoại: sau khi có ý kiến đồng ý của Đảng ủy, Ban giám hiệu hoặc các cơ quan liên quan, tổ chức Đoàn, Hội cần chuẩn bị tốt các điều kiện đảm bảo cho một buổi đối thoại: hội trường được trang trí trang trọng, âm thanh ánh sáng tốt. Có thể chuẩn bị thêm một số tiết mục văn nghệ.

Chương trình một buổi đối thoại thường là:

- Tuyên bố lý do, giới thiệu đại biểu, giới thiệu nội dung buổi đối thoại, người đối thoại và một số nguyên tắc khi đối thoại.

- Người đối thoại trả lời những thắc mắc, câu hỏi của đoàn viên, thanh niên (những vấn đề mà đã được chuyển đến trước và những câu hỏi trực tiếp tại cuộc đối thoại.

Người đối thoại cần làm rõ 3 vấn đề:

+ Sự việc mà đoàn viên, thanh niên nêu ra đúng hay sai?

+ Nguyên nhân

+ Hướng giải quyết

- Người tổ chức đối thoại cảm ơn người tham dự và kết luận những vấn đề đã được giải quyết. Những vấn đề chưa thỏa đáng đề nghị người đối thoại tiếp tục nghiên cứu và trả lời sau.

5. Một số lưu ý khi tổ chức đối thoại:

- Trong quá trình đối thoại, điểm nào chưa rõ, người nghe có quyền chất vấn để làm sáng tỏ vấn đề nhưng người chủ trì cần phải có nghệ thuật điều khiển để tránh biến thành một cuộc "cãi vã" vô kỷ luật. Đối thoại là một khía cạnh của dân chủ nhưng phải là dân chủ có tổ chức.

- Nên tổ chức đối thoại theo chủ đề, tránh tràn lan. Người đối thoại cần nắm vững nội dung để tránh trả lời chung chung, né tránh.

- Khi tổ chức đối thoại, có thể lồng ghép các hoạt động văn hóa văn nghệ nhưng liều lượng phải phù hợp. Tránh biến đối thoại thành một sinh hoạt văn hóa.

II. CÁCH TỔ CHỨC HỘI THẢO

1. Chuẩn bị nội dung:

- Thông báo nội dung hội thảo tới đoàn viên, thanh niên để chuẩn bị ý kiến và thu thập tài liệu.

- Chuẩn bị đề dẫn của ban tổ chức. Đề dẫn có tính chất gợi ý những vấn đề cần thảo luận.

2. Tổ chức hội thảo:

Chương một buổi hội thảo thường là:

- Tuyên bố lý do, giới thiệu đại biểu

- Trình bày báo cáo đề dẫn hội thảo

- Thảo luận: phần thảo luận là một sinh hoạt có tính khoa học. Các tham luận phải được đề cập từ nhiều góc độ. Trong quá trình thảo luận cần có những phản biện để làm sáng tỏ vấn đề một cách khách quan biện chứng và phải luôn luôn lấy thực tiễn làm thước đo chân lý.

- Tổng kết hội thảo: khẳng định những vấn đề đã được hội thảo nhất trí, trên cơ sở đó mà đề xuất, kiến nghị cách giải quyết vấn đề. Những vấn đề chưa được khẳng định cần hướng cho các thành viên dự hội thảo tiếp tục suy nghĩ đồng thời bám sát thực tiễn cuộc sống để điều chỉnh quan điểm của mình.

3. Một số vấn đề cần lưu ý khi tổ chức hội thảo:

- Cũng như tổ chức diễn đàn, khi tổ chức hội thảo cần chú ý đến trang trí hội trường để nêu bật chủ đề của hội thảo; có chủ tọa điều khiển và thư ký ghi chép. Trong quá trình tổ chức hội thảo nên xen kẽ một số tiết mục văn nghệ và người chủ trì hội thảo phải chuẩn bị tốt để xử lý các tình huống xảy ra trong hội thảo.

- Hội thảo mang tính khoa học nên phải sắp xếp các ý kiến phát biểu một cách khoa học, hợp lý. Cần sắp xếp xen kẽ các ý kiến phát biểu có quan điểm khác nhau.

TỔ CHỨC CÂU LẠC BỘ THANH NIÊN VÀ DIỄN ĐÀN THANH NIÊN

I. PHƯƠNG PHÁP TỔ CHỨC CÂU LẠC BỘ THANH NIÊN

Câu lạc bộ thanh niên là nơi tập hợp những thanh niên có cùng sở thích, nhu cầu, nguyện vọng, cùng nhau hoạt động để đạt được một mục đích nào đó.

Câu lạc bộ Thanh niên là một loại hình câu lạc bộ theo lứa tuổi do Đoàn - Hội tổ chức và quản lý. câu lạc bộ Thanh niên không những đem lại quyền hưởng thụ văn hóa văn nghệ, quyền nghỉ ngơi, vui chơi giải trí tích cực cho thanh niên mà còn giáo dục, động viên, tổ chức thanh niên tham gia tự giác vào quá trình quản lý, sáng tạo và xây dựng đời sống văn hóa cơ sở; giúp thanh niên nâng nâng cao kiến thức về mọi mặt trong chuyên môn, trong học tập, lao động công tác và trong giao tiếp hàng ngày.

Câu lạc bộ có 3 chức năng chủ yếu:

- Chức năng giáo dục, nâng cao kiến thức.

- Chức năng giao tiếp.

- Chức năng vui chơi giải trí.

Có thể thành lập câu lạc bộ theo 4 loại hình sau:

- Câu lạc bộ theo sở thích

- Câu lạc bộ theo đối tượng

- Câu lạc bộ theo nghề nghiệp

- Câu lạc bộ theo yêu cầu nhiệm vụ chính trị, văn hóa xã hội.

Muốn thành lập một câu lạc bộ trước hết phải căn cứ vào nhu cầu nguyện vọng của thanh niên trong phạm vi tổ chức Đoàn, Hội quản lý. Thứ hai, dựa vào khả năng, năng lực đội ngũ cán bộ Đoàn - Hội trong việc thành lập duy trì câu lạc bộ hoạt động. Thứ ba, là khả năng đáp ứng cơ sở vật chất, kinh phí cho câu lạc bộ.

Tiến hành thành lập một câu lạc bộ gồm có 3 bước cơ bản sau đây:

- Bước chuẩn bị: khảo sát nắm bắt nhu cầu nguyện vọng đoàn viên, thanh niên; thống nhất loại hình câu lạc bộ; thành lập ban chủ nhiệm câu lạc bộ; tuyên truyền vận động thanh niên tham gia câu lạc bộ và lập danh sách các thành viên câu lạc bộ; chuẩn bị cơ sở vật chất, kinh phí tối thiểu ban đầu cho câu lạc bộ ra mắt; chuẩn bị các loại văn bản cần thiết cho buổi ra mắt câu lạc bộ; thông báo địa điểm thời gian ra mắt câu lạc bộ cho cán bộ, đoàn viên, thanh niên.

- Bước ra mắt câu lạc bộ: khai mạc, tuyên bố lý do, giới thiệu đại biểu; đọc quyết định thành lập, quyết định ra mắt ban chủ nhiệm, nội quy, quy chế câu lạc bộ; công bố nội dung chương trình hoạt động của câu lạc bộ trong thời gian tới; sinh hoạt văn hóa văn nghệ chào mừng ra mắt của câu lạc bộ.

- Bước duy trì câu lạc bộ hoạt động: Ban chủ nhiệm câu lạc bộ thành lập các tiểu ban của câu lạc bộ, từ đó xác định mục tiêu nhiệm vụ cho từng tiểu ban; lập kế hoạch hoạt động trong từng quý cho câu lạc bộ; thường xuyên đôn đốc kiểm tra các tiểu ban để câu lạc bộ đi vào nề nếp.

Việc xác định nội dung hoạt động của câu lạc bộ là khâu quan trọng nhất quyết định đến chất lượng hiệu quả tham gia của mọi thành viên. Nội dung hoạt động phải thực sự xuất phát từ nhu cầu, lợi ích của mọi thành viên, phải thường xuyên thay đổi cho phù hợp với điều kiện hoàn cảnh thực tế.

Khi đã xác định được nội dung thì vấn đề tìm hình thức thể hiện cũng không kém phần quan trọng. Một nội dung có thể được thực hiện dưới nhiều hình thức và sử dụng nhiều biện pháp khác nhau sao cho phong phú hấp dẫn, sinh động lôi cuốn thanh niên. Không nên sử dụng một vài hình thức quá quen thuộc, dễ gây nhàm chán bởi thanh niên luôn ưa cái mới lạ, cái sáng tạo trong mọi nội dung hoạt động.

Khả năng điều hành của ban chủ nhiệm rất quan trọng trong quá trình duy trì hoạt động của câu lạc bộ. Mọi thành viên trong câu lạc bộ phải được phát huy hết sở trường năng khiếu và lòng nhiệt tình của mình trong câu lạc bộ, đó là nghệ thuật phân công, tổ chức quản lý, hướng dẫn của ban chủ nhiệm. Ban chủ nhiệm biết sử dụng lực lượng cộng tác viên, những chuyên gia, cố vấn cho mọi nội dung hoạt động của câu lạc bộ.

Cuối cùng chính là khả năng tạo nguồn kinh phí, cơ sở vật chất và sự ủng hộ của các ban ngành, các đoàn thể khác.

II. PHƯƠNG PHÁP TỔ CHỨC DIỄN ĐÀN THANH NIÊN

Diễn đàn thanh niên là nơi để thanh niên bày tỏ ý kiến, quan điểm của mình về một vấn đề nào đó. Đây là loại hình sinh hoạt rộng rãi về đối tượng và chủ đề. Có 2 loại diễn đàn:

- Diễn đàn trực tiếp: người phát biểu và người nghe trực diện nhau.

- Diễn đàn gián tiếp: là loại diễn đàn thông qua báo chí.

Diễn đàn thanh niên bao giờ cũng tập trung vào một chủ đề nhất định, đó là chủ đề mà thanh niên đang quan tâm hay mang tính thời sự quan trọng. Chính vì vậy mà nội dung có thể đưa vào diễn đàn hết sức phong phú như tình bạn, tình yêu, hôn nhân hạnh phúc gia đình, việc làm, nghề nghiệp: phòng chống tệ nạn xã hội... Tóm lại là trên tất cả mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội với những nội dung mà thanh niên đặc biệt quan tâm.

Để diễn đàn có hiệu quả cần chuẩn bị các bước sau:

- Bước chuẩn bị: thông báo chủ đề: những chủ đề đưa ra diễn đàn phải là những chủ đề thanh niên đang quan tâm. Muốn chọn chủ đề hay hấp dẫn, trước hết phải tìm hiểu tình hình tư tưởng của thanh niên, nhu cầu của thanh niên, những vấn đề mà thanh niên đang tranh luận, đang muốn được giải đáp...

Chuẩn bị ý kiến nòng cốt. Những ý kiến nòng cốt này thường là những ý kiến từ nhiều góc độ khác nhau, mặt phải, mặt trái của vấn đề để tạo tình huống tranh luận phong phú, đa dạng, sôi nổi lôi cuốn mọi người tự nguyện tham gia.

- Bước tổ chức diễn đàn:

Ổn định tổ chức bằng sinh hoạt tập thể như trò chơi, văn nghệ.

Tuyên bố lý do (nêu mục đích ý nghĩa của vấn đề đưa ra diễn đàn), giới thiệu đại biểu (nếu có)

Đoàn viên, thanh niên bày tỏ những ý kiến của mình (nếu không khí ban đầu thiếu sôi nổi hoặc nặng nề thì sử dụng ngay ý kiến nòng cốt để tạo tình huống có vấn đề).
Kết thúc diễn đàn, chủ tọa phải có tổng kết nhằm định hướng vấn đề, chốt những vấn đề được khẳng định đúng, gợi những suy nghĩ tiếp theo. Người tổng kết diễn đàn có thể mời các nhà khoa học, các nhà hoạt động chính trị - xã hội có hiểu biết sâu sắc về chủ đề của diễn đàn.

Chú ý: nên xen kẽ các hình thức hoạt động vui chơi, văn nghệ, kể chuyện... để buổi diễn đàn hấp dẫn.
Đi dân nhớ, ở dân thương!

Sao_Online

HƯỚNG DẪN NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ CÔNG TÁC ĐOÀN VIÊN

A. ĐIỀU KIỆN THỦ TỤC KẾT NẠP ĐOÀN VIÊN

I. ĐIỀU KIỆN KẾT NẠP ĐOÀN VIÊN

Thanh niên Việt Nam tuổi từ 15 đến 30, tích cực học tập, lao động và bảo vệ Tổ quốc, được học và tán thành Điều lệ Đoàn, tự nguyện hoạt động trong một tổ chức cơ sở của Đoàn, có lý lịch rõ ràng đều được xét kết nạp Đoàn.

II. THỦ TỤC KẾT NẠP ĐOÀN VIÊN

1- Thanh niên vào Đoàn tự nguyện viết đơn, báo cáo lý lịch của mình với Đoàn

2- Được nghiên cứu Điều lệ Đoàn và được trang bị những hiểu biết cơ bản về Đoàn trước khi kết nạp

3- Được một đoàn viên như cùng công tác ít nhất là 3 tháng giới thiệu.

- Đối với đội viên Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh thì do tập thể chi đội giới thiệu.
- Đối với hội viên Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam, Hội Sinh viên Việt Nam thì do tập thể chi hội giới thiệu.

4- Được hội nghị chi đoàn xét đồng ý kết hợp với sự biểu quyết tán thành của quá nửa (1/2) so với tổng số đoàn viên có mặt tại hội nghị và được Đoàn cấp trên trực tiếp ra quyết định chuẩn y.

III. QUY TRÌNH CÔNG TÁC PHÁT TRIỂN ĐOÀN VIÊN

      Bước 1: Thường xuyên tuyên truyền giới thiệu về Đoàn cho thanh niên thông qua các loại hình tổ chức và các phương thức hoạt động của Đoàn, Hội, Đội.

      Bước2: Xây dựng kế hoạch kết nạp đoàn viên
- Lập danh sách thanh niên và đội viên lớn tuổi.
- Phân loại thanh  niên theo các tiêu chuẩn kết nạp đoàn viên để lựa chọn và bồi dưỡng đối tượng kết nạp.
- Phân công đoàn viên giúp đỡ thanh niên, dự kiến thời gian bồi dưỡng và tổ chức kết nạp.

Bước 3: Tổ chức bồi dưỡng, giúp đỡ đối tượng thanh niên vào Đoàn.

a- Bồi dưỡng giao nhiệm vụ thông qua các hoạt động thực tiễn như: Các hoạt động kinh tế, các phong trào thi đua, các cuộc thi, hội thi tay nghề, thi thanh lịch, thi tìm hiểu, thi cán bộ Đoàn giỏi...Các hoạt động nhân đạo, từ thiện, tham quan dã ngoại, hội trại văn hóa thể thao...để bồi dưỡng thanh niên lựa chọn những thanh niên nhiệt tình gương mẫu để xét kết nạp.
b- Mở lớp bồi dưỡng tìm hiểu về Đoàn cho thanh niên. (Ở những cơ sở không có điều kiện mở lớp tập trung thì có thể phát tài liệu để thanh niên tự nghiên cứu sau đó kiểm tra củng cố kiến thức bằng phưng pháp viết bản thu hoạch).

Bước 4: Hướng dẫn đối tượng hoàn thiện thủ tục và nguyên tắc trước khi kết nạp.
- Hướng dẫn thanh niên viết đơn và tự giới thiệu về bản thân với chi đoàn (Theo mẫu sổ đoàn viên)
- Hội nghị chi đoàn xét, quyết định và báo cáo lên Ban chấp hành Đoàn cơ sở. Hồ sơ gồm có:
+ Sổ đoàn viên.
+ Giấy giới thiệu thanh niên vào Đoàn.
+ Đề nghị kết nạp đoàn viên của Ban chấp hành chi đoàn(Có phần trích biên bản họp chi đoàn)
- Ban chấp hành Đoàn cơ sở ra quyết định chuẩn y kết nạp.
- Chi đoàn tổ chức lễ kết nạp đoàn viên mới.
- Hoàn chỉnh hồ sơ để quản lý đoàn viên, tiếp tục bồi dưỡng tạo điều kiện để đoàn viên  mới rèn luyện, tiến bộ trưởng thành.

B. TỔ CHỨC LỄ KẾT NẠP ĐOÀN VIÊN

I. ĐỊA ĐIỂM, THỜI GIAN, TRANG TRÍ

Khi có quyết định chuẩn y kêt nạp của Đoàn cấp trên, chậm nhất là 15 ngày sau, Ban chấp hành chi đoàn phải tổ chức lễ kết nạp đoàn viên mới. Lễ kết nạp đoàn viên được tổ chức trang nghiêm, gây ấn tượng sâu sắc cho đoàn viên mới.

1- Địa điểm:
Có thể tổ chức ở phòng họp, phòng truyền thống hoặc những nơi có di tích lịch sử văn hóa, trong một cuộc sinh hoạt, hoạt động tập thể của chi đoàn.
2- Thời gian
Cần chọn thời điểm thích hợp, thuận lợi và có ý nghĩa gắn với các ngày lễ lớn hay các hoạt động chi đoàn.
Buổi  lễ kết nạp phải đảm bảo đúng thủ tục, ngắn gọn nhưng không qua loa đại khái, đặc biệt không kéo dài gây nhàm chán. Trong buổi lễ, ngoài các thủ tục nội dung quy định có thể thêm một số nội dung khác nhưng phải kết thúc đúng lúc, đúng chỗ.
3- Trang trí
Không cầu kỳ, rập khuôn máy móc. Nhất thiết phải có cờ Tổ quốc, cờ Đoàn hay huy hiệu Đoàn, và ảnh hay tượng Bác Hồ, có dòng chữ: "Lễ kết nạp đoàn viên mới". Nên có hoa để tạo không khí trang nhã vui tươi, đẹp mắt.
Cách trang trí tùy vào không gian và điều kiện cụ thể về địa điểm, nhưng phải đảm bảo cờ Đoàn hoặc huy hiệu Đoàn không đặt cao hơn cờ Tổ quốc, tượng hoặc ảnh Bác không đặt cao hơn cờ Tổ quốc và cờ Đoàn. Nếu kết nạp ngoài trời thì dùng hình thức cờ có cán, có người đứng cầm cờ giống như Nghi thức Đội.

II. CHƯƠNG TRÌNH, NỘI DUNG

+ Chào cờ, hát Quốc ca và bài ca chính thức của  Đoàn, tuyên bố lý do, giới thiệu đại biểu.

+ Bí thư chi đoàn hoặc đại diện Ban chấp hành chi đoàn báo cáo quá trình phấn đấu, đọc nghị quyết chuẩn y kết nạp của Đoàn cấp trên, trao quyết định, gắn huy hiệu và trao thẻ đoàn viên mới(Trường hợp kết nạp nhiều người phải tiến hành giới thiệu và công bố quyết định kết nạp từng người một).

+Đoàn viên mới đọc lời hứa: "Được vinh dự trở thành đoàn viên TNCS Hồ Chí Minh, trước cờ Tổ quốc, cờ Đoàn, trước chân dung của Bác Hồ vĩ đại, trước toàn thể các đồng chí tôi xin hứa:
1. Luôn phấn đấu vì mục đích lý tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh.
2. Nghiêm chỉnh thực hiện Điều lệ Đoàn, tích cực rèn luyện để xứng đáng với danh hiệu đoàn viên TNCS Hồ Chí Minh.
3. Giúp đỡ mọi người luôn luôn xứng đáng là người bạn tin cậy của thanh niên Việt Nam"
(Trường hợp kết nạp nhiều người thì cử đại diện đọc lời hứa)
+ Đại diện người giới thiệu thanh niên vào Đoàn phát biểu, hứa tiếp tục giúp đỡ đoàn viên.
+ Đại diện thanh niên hoặc chi hội, chi đội phát biểu cảm tưởng.
+ Đại biểu Đoàn cấp trên hoặc cấp ủy phát biểu giao nhiệm vụ.
+ Chào cờ bế mạc.

CÔNG TÁC QUẢN LÝ ĐOÀN VIÊN

I- QUẢN LÝ ĐOÀN VIÊN VỀ TỔ CHỨC

1-  Đối với đoàn viên:

-  Mỗi đoàn viên TNCS Hồ Chí Minh đều phải có sổ đoàn viên, huy hiệu Đoàn đựoc trao thẻ đoàn viên.

-  Hồ sơ đoàn viên: Cuốn "Sổ đoàn viên"(Khổ 13×19cm) gồm:
+ Đoàn TNCS Hồ Chí Minh tự giới thiệu
+ Người xin vào Đoàn tự giới thiệu(Thanh niên điền vào).
+ Đơn xin vào Đoàn(Thanh niên điền vào).
+ Nghị quyết về việc chuẩn y kết nạp đoàn viên(Đoàn cấp trên có thẩm quyền ra quyết định)
+Nhận xét ưu, khuyết điểm hàng năm, phần này do Ban chấp hành chi đoàn nhận xét ưu khuyết điểm hàng năm, thành tích được khen thưởng, khuyết điểm bị kỷ luật và công nhận tiến bộ.
+Giới thiệu chuyển sinh hoạt Đoàn(Ban chấp hành đoàn cơ sở, Ban chấp hành chi đoàn cơ sở).

2.  Đối với chi đoàn:

Ban chấp hành chi đoàn phải có "Sổ chi đoàn" theo mẫu của Trung ương Đoàn.

3.   Đối với Đoàn cơ sở:

Cần có  các loại sổ sách như sau:
- Sổ biên bản họp Ban thường vụ, Ban chấp hành và các cuộc làm việc của Ban thường vụ, Ban chấp hành với Đoàn cấp trên.
- Sổ danh sách đoàn viên.
- Sổ theo dõi kết nạp đoàn viên, trao thẻ đoàn viên.
- Sổ giới thiệu và tiếp nhận sinh hoạt Đoàn.
- Sổ quản lý cán bộ Đoàn
- Sổ thu, chi đoàn phí.

4. Quản lý hồ sơ đoàn viên:

- Đoàn viên, chi đoàn và Đoàn cơ sở đều có trách nhiệm bảo quản sổ đoàn viên cẩn thận không để hư hỏng, mất mát.
- Nơi quản lý sổ đoàn viên là: Chi đoàn hoặc Đoàn cơ sở.
- Hồ sơ đoàn viên quản lý ở cơ sở Đoàn nào thì đoàn viên thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn đoàn viên ở cơ sở đó.

II- QUẢN LÝ ĐOÀN VIÊN VỀ TƯ TƯỞNG

Thường xuyên và kịp thời nắm bắt những diễn biến tư tưởng của đoàn viên. Biết rõ những băn khoăn, thắc mắc, những khó khăn đang xảy ra đối với đoàn viên, nhưng tư tưởng không đúng đang chi phối đoàn viên...Kịp thời có hướng giúp đỡ để đoàn viên vượt qua những khó khăn về tư tưởng, sửa chữa những lệch lạc ngay trong suy nghĩ của đoàn viên.
Quản lý tư tưởng đoàn viên còn là bồi dưỡng tư tưởng cho đoàn viên nhất là đoàn viên mới, làm cho đoàn viên học tập và  hiểu rõ lý tưởng cách mạng của Đảng, Đoàn.
Tạo điều kiện để đoàn viên được rèn luyện, phấn đấu, Đoàn phải là nơi để đoàn viên trình bày tâm tư, nguyện vọng và tổ chức Đoàn phải thông cảm giúp đỡ.

III – QUẢN LÝ ĐOÀN VIÊN VỀ CÔNG TÁC VÀ SINH HOẠT

Ban chấp hành chi đoàn cần phân công nhiệm vụ cho từng đoàn viên, có trách nhiệm kiểm tra đánh giá kết quả công tác hàng tháng của từng đồng chí. Kịp thời biểu dương những đồng chí hoàn thành tốt và góp ý kiến phê bình những đồng chí không hoàn thành nhiệm vụ được giao. Việc phân công công tác cho đoàn viên thông qua việc triển khai thực hiện chương trình: "Rèn luyện đoàn viên" mà tập trung là cuộc vận động "Mỗi đoàn viên một việc làm thiết thực cho Đoàn".

E-TIÊU CHUẨN PHÂN LOẠI ĐOÀN VIÊN THU VÀ TRÍCH NỘP ĐOÀN PHÍ

I-TIÊU CHUẨN PHÂN LOẠI ĐOÀN VIÊN
(Theo hướng dẫn số 19/HD/TWĐTN, ngày 17-3-1999 của ban Bí thư TW Đoàn)

Phân loại đoàn viên: Được chia làm 4 loại.

1. Đoàn viên xuất sắc:

- Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của người đoàn viên theo Điều lệ Đoàn, thực hiện tốt chương trình rèn luyện đoàn viên và công tác Đoàn, cả về nhận thức và hành động.
- Gương mẫu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chuyên môn và công tác Đoàn, có một số mặt được biểu dương khen thưởng.
- Tham gia đầy đủ các buổi sinh hoạt, hoạt động của Đoàn, làm nòng cốt trong các chi hội, câu lạc bộ, đội, nhóm thanh niên và của Hội LHTN Việt Nam, đóng Đoàn phí đầy đủ.
- Là những đoàn viên, đủ điều kiện giới thiệu là đoàn viên ưu tú với chi bộ.

2. Đoàn viên khá

- Thực hiện đầy đủ các nhiệm vụ của  người đoàn viên, đăng ký đủ 2 nội dung rèn luyện đoàn viên song chỉ thực hiện tốt một nội dung, nội dung kia thực hiện đạt mức trung bình.
- Hoàn thành tốt công tác chuyên môn, nhiệm vụ được giao.
- Tham gia đầy đủ các buổi sinh hoạt Đoàn, các hoạt động của các chi hội, câu lạc bộ, đội, nhóm và đóng Đoàn phí đầy đủ.
- Không vi phạm kỷ luật.

3. Đoàn viên trung bình

- Có ý thức thực hiện nhiệm vụ của người đoàn viên đã đăng ký từ 1 đến 2 nội dung rèn luyện đoàn viên và chỉ thực hiện đạt mức trung bình.
- Hoàn thành công tác chuyên môn, nhiệm vụ được giao.
- Tham gia sinh hoạt Đoàn và các hoạt động của các chi hội, câu lạc bộ, đội, nhóm không thường xuyên, đóng Đoàn phí không đầy đủ.

4. Đoàn viên yếu kém

- Thiếu ý thức thực hiện nhiệm vụ được giao, không đăng ký thực hiện chương trình rèn luyện đoàn viên.
- Ít tham gia sinh hoạt Đoàn và hoạt động của các chi hội, câu lạc bộ, đội, nhóm, đóng Đoàn phí không đầy đủ.
- Vi phạm khuyết điểm, chưa có ý thức tự giác kiểm điểm và sửa chữa.

Phân loại đoàn viên do tập thể chi đoàn xét quyết định (có thể bỏ phiếu kín) sau
đó Ban chấp hành chi đoàn xem xét và báo cáo lên Đoàn cơ sở. Đối với đoàn viên xuất sắc được công nhận là đoàn viên ưu tú giới thiệu cho Đảng xem xét kết nạp thì Ban chấp hành Đoàn cơ sở ra quyết định chuẩn y và giới thiệu.


III. NGUYÊN TẮC THU, QUẢN LÝ, SỬ DỤNG  ĐOÀN PHÍ

1. Hàng tháng đoàn viên nộp Đoàn phí cho chi đoàn. Mức đóng đoàn phí của đoàn viên căn cứ vào Nghị quyết 09-NQ/TWĐTN ngày 20-12-1999 của Ban Thường vụ Trung ương Đoàn.
2. Chi đoàn có trách nhiệm thu Đoàn phí của đoàn viên và trích nộp Đoàn phí lên Đoàn cấp trên. Việc trích nộp Đoàn phí được qui định như sau:

Từ chi đoàn trở lên mỗi cấp được giữ lại hai phần ba(2/3) và trích nộp lên cấp trên thực tế một phần ba(1/3) tổng số tiền Đoàn phí do đoàn viên nộp hoặc trích nộp của tổ chức Đoàn cấp dưới.
3. Thời gian trích nộp Đoàn phí của các cấp bộ Đoàn được qui định:
- Chi đoàn trích nộp lên Đoàn cơ sở mỗi tháng một lần
- Đoàn cơ sở nộp lên Quận, Huyện Đoàn và tương đương 3 tháng 1 lần.
- Quận, Huyện Đoàn và tương đương trích nộp lên Tỉnh, Thành Đoàn và tương đương 3 tháng 1 lần.
- Tỉnh Đoàn và tương đương trích nộp lên Trung ương Đoàn 1 năm từ 1 đến 2 lần(hạn cuối cùng là ngày 31-12)

F- TỔ CHỨC LỄ TRAO THẺ ĐOÀN VIÊN

I. QUY ĐỊNH CHUNG

- Lễ trao thẻ đoàn viên được tổ chức ở Đoàn cơ sở hoặc chi đoàn cơ sở.
- Lễ trao thẻ do Ban thường vụ Huyện Đoàn(tương đương) chủ trì và trao thẻ cho từng đoàn viên.
- Lễ trao thẻ đoàn viên phải đảm bảo tính nghiêm túc, gây ấn tượng và tạo động lực để đoàn viên rèn luyện nâng cao chất lượng.
- Lễ trao thẻ nên gắn với các ngày lễ, ngày kỷ niệm lịch sử hàng năm như: 3/2, 26/3, 30/4, 2/9, 22/12...
- Nếu đoàn viên được nhận thẻ vắng mặt (có lý do) thì chỉ công bố tên của người được nhận thẻ, sau đó, Ban chấp hành Đoàn bố trí thời gian thích hợp để tổ chức trao thẻ cho những đoàn viên vắng mặt (không được nhận thay).
- Trang trí lễ trao thẻ cũng phải đảm bảo các quy định như lễ kết nạp đoàn viên mới.
II. CHƯƠNG TRÌNH LỄ TRAO THẺ
1. Chào cờ, hát quốc ca, và bài ca chính thức cảu Đoàn và phút tưởng niệm.
2. Khai mạc: Tuyên bố lý do giới thiệu đại biểu.
3. Thông qua báo cáo tóm tắt về công tác xây dựng Đoàn, kết quả phân loại đoàn viên và tóm tắt thành tích hoặc trích ngang của các đồng chí đoàn viên được trao thẻ.
4. Ban thường vụ Huyện Đoàn(tương đương) đọc quyết định chuẩn y và trao thẻ.
5. Đại diện đoàn viên được trao thẻ phát biểu cảm tưởng.
6. Đoàn viên đăng ký chương trình rèn luyện đoàn viên.
7. Đại diện Ban thường vụ Huyện Đoàn (tương đương) hoặc cấp ủy phát biểu.
8. Chào cờ, bế mạc.

G. TỔ CHỨC LỄ TRƯỞNG THÀNH ĐOÀN VIÊN

I. QUY ĐỊNH CHUNG

- Đoàn viên tròn 30 tuổi, chi đoàn làm lễ  trưởng thành Đoàn. Lễ trưởng thành cho đoàn viên khi hết tuổi đoàn viên được tiến hành vào các dịp kỷ niệm ngày: 26/3, 19/5,15/10 và ngày 22/12 hàng năm(4 đợt). Hoặc trong những hoạt động, sinh hoạt truyền thống của chi đoàn.
- Lễ trưởng thành Đoàn được tổ chức ở Đoàn cơ sở hoạc chi đoàn cơ sở.

II. QUY TRÌNH TIẾN HÀNH TRƯỞNG THÀNH ĐOÀN

1. Hàng năm, Ban chấp hành chi đoàn lập danh sách những đoàn viên tròn 30 tuổi không giữ nhiệm vụ trong cơ quan lãnh đạo hay công tác chuyên môn của Đoàn và thông báo cho  đoàn viên đó biết.
2. Khi có danh sách đoàn viên tròn 30 tuổi, Ban chấp hành chi đoàn cần tổ chức gặp mặt để nắm nguyện vọng của một số đoàn viên có yêu cầu tiếp tục  ở lại sinh hoạt Đoàn, đồng thời lập danh sách báo cáo với Ban chấp hành Đoàn cơ sở.
3. Lễ trưởng thành phải được chuẩn bị thật chu đáo, trang trọng và tạo được không khí thân mật. Nếu đoàn viên trưởng thành là đoàn viên ưu tú thì  trong buổi lễ trưởng  thành Đoàn cần tiến hành luôn việc giới thiệu đoàn viên ưu tú đó cho Đảng xem xét bồi dưỡng kết nạp.

III. CHƯƠNG TRÌNH LỄ TRƯỞNG THÀNH ĐOÀN

1. Tuyên bố lý do, giới thiệu đại biểu.
2. Giới thiệu tóm tắt quá trình sinh hoạt Đoàn và những thành tích đóng góp của Đoàn viên trưởng thành.
3. Trao "Giấy chứng nhận đoàn viên trưởng thành" và tặng phẩm kỷ niệm(nếu có) cho đoàn viên trưởng thành.
4. Đại diện đoàn viên trưởng thành phát biểu cảm tưởng.
5. Đại diện đoàn viên đang sinh hoạt Đoàn(nên là đoàn viên mới) phát biểu.
6. Đại biểu cấp ủy và các đại biểu khác phát biểu.
7. Kết thúc.

H. CÁC BIỂU MẪU VỀ CÔNG TÁC ĐOÀN VIÊN

1. Giấy bảo đảm của người giới thiệu:


Tên tôi  là:
Sinh ngày:
Vào Đoàn ngày:
Được sự phân công của chi đoàn, sau một thời gian tìm hiểu để giúp đỡ, tôi nhận thấy bạn, anh(chị)... đã thể hiện những ưu, khuyết điểm như sau:
- Ưu điểm:...
- Khuyết điểm...
Đối chiếu với điều kiện và tiêu chuẩn kết nạp đoàn viên, tôi nhận thấy ban, anh(chị)...đã xứng đáng được đứng trong hàng ngũ của Đoàn. Vậy đề nghị chi đoàn xem xét.
   Tôi  xin chịu trách nhiệm trước Đoàn về những lời giới thiệu của mình và xin hứa sau khi bạn, anh(chị)...được vào Đoàn sẽ tiếp tực giúp đỡ để bạn, anh(chị)... nhanh chóng làm quen với công tác  Đoàn.
           

                                      Chữ ký của người giới thiệu


2. Bản đề nghị kết nạp đoàn viên mới của Ban chấp hành chi đoàn:

ĐOÀN TNCS HỒ CHÍ MINH.....
BAN CHẤP HÀNH ĐOÀN.....    ...ngày....tháng.....năm....
CHI ĐOÀN....

ĐỀ NGHỊ KẾT NẠP ĐOÀN VIÊN

Kính gửi: Ban chấp hành Đoàn....
Căn cứ lời giới thiệu của đoàn viên...Xét đơn gia nhập Đoàn của anh(chị)......
Hội nghị chi đoàn...họp ngày...tháng...năm......
Có mặt...đoàn viên trên tổng số...đoàn viên đã có...đồng chí biểu quyết đồng ý kết nạp anh (chị)... vào Đoàn TNCS Hồ Chí Minh (...% trên tổng số đoàn viên có mặt tại hội nghị). Chi đoàn chúng tôi sẽ tiếp tục bồi dưỡng, giúp đỡ để anh (chị) làm tròn nhiệm vụ đoàn viên và trở thành đoàn viên ưu tú.

                                 TM. BAN CHẤP HÀNH CHI ĐOÀN
                                                    Bí thư


3. Mẫu nghị quyết kết nạp và thẻ đoàn viên danh dự:

a- Mẫu nghị quyết kết nạp:

ĐOÀN TNCS HỒ CHÍ MINH
        BAN CHẤP HÀNH.......       ...ngày...tháng...năm.....
        Số:NQ-KNĐVDD

NGHỊ QUYẾT
Về việc chuẩn y kết nạp đoàn viên danh dự
Đoàn TNCS Hồ Chí Minh

- Căn cứ mục 3, điều 4, chương I, Điều lện Đoàn  TNCS Hồ Chí Minh.
- Xét đề nghị của Ban chấp hành Đoàn TNCS Hồ Chí Minh...

BAN CHẤP HÀNH ĐOÀN TNCS HỒ CHÍ MINH....

QUYẾT ĐỊNH

Điều I: Chuẩn y kết nạp đồng chí....làm ĐOÀN VIÊN DANH DỰ CẢU ĐOÀN TNCS HỒ CHÍ MINH.
Kể từ ngày...tháng...năm...
Điều II: Ban chấp hành ... có trách nhiệm tổ chức thực hiện Nghị quyết này.

                                       Ngày ...tháng...năm 200
                                      TM. BAN CHẤP HÀNH......
                                                   Bí thư


b- Mẫu thẻ đoàn viên danh dự:

Khổ 7cm × 10cm giấy cứng
(Nếu có điều kiện ép Plastic)

Trang 1:

ĐOÀN TNCS HỒ CHÍ MINH
Số:.../ĐVDD
 

   THẺ ĐOÀN VIÊN DANH DỰ
Đồng chí:
Ngày sinh:
Là đoàn viên danh dự Đoàn TNCS Hồ Chí Minh

Từ ngày:....
Thuộc đơn vị:......

     BCH.....
              (Đóng dấu)
+ Màu hồng đào.
+ Nền in chìm xanh da t rời, hình kỷ niệm chương "Vì thế hệ trẻ".
+ Chữ in trên thẻ màu xanh cô ban.
+ Chỉ đóng dấu cấp ký quyết định.

Trang 2:

"Bồi dưỡng thế hệ trẻ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết"
+ Màu trắng:
+ Chữ màu xanh cô ban.
"Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây
Vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người"
(Lời Bác Hồ)
+ Nền in chìm hình  kỷ niệm chương "Vì thế hệ trẻ màu xanh da trời"


4. Mẫu giấy chứng nhận đoàn viên trưởng thành (khổ 15cm × 10cm):

ĐOÀN TNCS HỒ CH Í MINH...
BAN CHẤP HÀNH ĐOÀN....   ...ngày...tháng...năm 200..
Số: CN/ĐTT

GIẤY CHỨNG NHẬN
Đoàn viên trưởng thành

Ban chấp hành Đoàn TNCS Hồ Chí Minh
Chứng nhận đồng chí:
Sinh ngày...tháng...năm...
Vào Đoàn TNCS  Hồ Chí Minh ngày....số thẻ đoàn viên....
Sinh hoạt tại chi đoàn:...
Được trưởng thành Đoàn từ ngày...tháng...năm...
   
                     TM. BAN CHẤP HÀNH
                                 Bí thư
                        (Ký tên, đóng dấu)


5. Mẫu nghị quyết giới thiệu đoàn viên ưu tú gia nhập  Đảng:


BAN CHẤP HÀNH ĐOÀN....   ĐOÀN TNCS HỒ CHÍ MINH
......................................
......................................   ....ngày....tháng...năm 200.....
      Số:.....-NQ/

NGHỊ QUYẾT
Giới thiệu đoàn viên ưu tú
Vào Đảng cộng sản Việt Nam

Kính gửi: Chi ủy.......................................
     Đảng ủy....................................

- Căn cứ điểm 1, điều 4, chương I Điều lệ Đảng Cộng sản  Việt Nam về thủ tục, quyền hạn cảu  Ban chấp hành Đoàn cơ sở giới thiệu đoàn viên ưu tú vào Đảng.
- Xét đề nghị của chi đoàn........................................................
Ban.............TNCS Hồ Chí Minh ...........họp ngày.....tháng....năm....nhận thấy:
- Đoàn viên..........có:
Những ưu, khuyết điểm chính:
(Về phẩm chất chính trị, đọa đức, lối sống, năng lực công tác, quan hệ quần chúng):.............................................................
Đối chiếu với tiêu chuẩn và điều kiện kết nạp đảng viên, chúng tôi giới thiệu và đề nghị chi bộ, Đảng ủy xem xét, kết nạp đoàn viên.............................vào Đảng, với sự tán thành của ......đ/c (đạt.....%) so với tổng số ủy viên Ban chấp hành, số không tán thành ...đ/c, với lý do.............................................chúng tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về những nội dung giới thiệu nói trên và xẽ tiếp tục giáo dục, bồi dưỡng đoàn viên...............trở thành đảng viên chính thức của  Đảng.

                                                            TM
                                                 (Ký tên, đóng dấu)
Đi dân nhớ, ở dân thương!

SEO ngành nghề, cỏ nhân tạo, chuyên sửa máy rửa bát tại hà nội, tình yêu độ xe Mercedes, chuyên sửa chữa tivi tại nhà ở Hà Nội, đặt hàng tượng phật đồ thờ tâm linh làng nghề Sơn Đồng | Điện lạnh Bách Khoa Hà Nội