VIệt Nam Sử Lược Việt Nam (cái này đầy đủ hơn)

Started by cop_xong_paste, 04/05/08, 10:05

Previous topic - Next topic

cop_xong_paste

Chương 15

NHÀ LÝ (Tiếp theo)

V. Lý Thần Tông


VI. Lý Anh Tông

1. Đỗ Anh Vũ
2. Tô Hiến Thành
3. Giặc Thân Lợi
4. Việc chính trị


VII. Lý Cao Tông

1. Tô Hiến Thành làm phụ chính
2. Sự nội loạn


VIII. Lý Huệ Tông

1. Trần thị
2. Quyền về họ Trần


XI. Lý Chiêu Hoàng



V. LÝ THẦN-TÔNG (1128-1138)

Niên-hiệu:

Thiên Thuận (1128-1132)
Thiên Chương Bảo Tự (1133-1137)

Nhân-tông không có con, lập con của hoàng-đệ là Sùng-hiền-hầu lên làm thái-tử, nay lên nối ngôi, tức là vua Thần-Tông31.

Bấy giờ có các quan đại-thần là bọn ông Trương Bá Ngọc, Lưu Khánh Đàm, Dương Anh Nhị giúp Thần-tông trị nước. Ngài vừa lên ngôi thì đại xá cho các tù phạm, và trả lại những ruộng đất tịch thu của quan dân ngày trước. Quân lính thì cho đổi phiên, cứ lần lượt 6 tháng một, được về làm ruộng. Như thế việc binh không làm ngăn-trở việc canh-nông.

Giặc-giã thời bấy giờ cũng ít. Một hai khi có người Chân-lạp và người Chiêm-thành sang quấy nhiễu ở mạn Nghệ-An, nhưng đó là những đám cướp-phá vặt vãnh không mấy nỗi mà quan quân đánh đuổi đi được.

Thần Tông làm vua được 10 năm thì mất, thọ 23 tuổi.


VI. LÝ ANH-TÔNG (1138-1175)

Niên-hiệu:

Thiệu Minh (1138-1139)
Đại-định (1140-1162)
Chính-long bảo-ứng (1163-1173)
Thiên-cảm chí bảo (1174-1175)


1. Đỗ Anh Vũ.

Thần-tông mất, triều đình tôn Thái-tử là Thiên Tộ lên làm vua, tức là vua Anh-tông.
Anh-tông bấy giờ mới có 3 tuổi, Thái-hậu là Lê-thị cầm quyền nhiếp chính. Lê Thái-hậu lại tư thông với Đỗ anh Vũ, cho nên phàm việt gì bất cứ lớn nhỏ đều ở tay Đỗ anh Vũ quyết đoán cả. Đỗ anh Vũ được thể ra vào chỗ cung cấm, kiêu ngạo và khinh-dể đình-thần. Các quan như bọn Vũ [em xin lỗi, em là người chửi bậy], Nguyễn Dương, Nguyễn Quốc và Dương tự Minh thấy Đỗ anh Vũ lộng quyền quá độ, đều lo mưu trừ đi, nhưng sự không thành lại bị giết-hại cả.

May nhờ thời bấy giờ có nhiều tôi giỏi như Tô hiến Thành, Hoàng nghĩa Hiền, Lý công Tín làm quan đại triều cho nên Đỗ anh Vũ không dám có ý khác.


2. Tô Hiến Thành

Ông Tô hiến Thành giúp vua Anh-tông đi đánh dẹp, lập được nhiều công to, như là bắt được giặc Thân Lợi, phá được giặc Ngưu Hống và dẹp yên giặc Lào, được phong làm chức Thái-úy coi giữ việc binh. Ông luyện tập quân-lính, kén-chọn những người tài giỏi để làm tướng hiệu. Bởi vậy binh-thế nhà Lý lúc bấy giờ lại phấn-chấn lên. Ông giỏi việc võ và chăm việc văn. Ông xin vua khai-hóa việc học-hành, và làm đền thờ đức Khổng-Tử ở cửa nam thành Thăng-Long, để tỏ lòng mộ nho học.


3. Giặc Thân Lợi.

Vua Anh-tông vừa mới lên làm vua được 2 năm, thì ở mạn Thái-nguyên có giặc Thân-Lợi làm loạn.

Thân Lợi xưng là con riêng vua Nhân-tông, trước đã xuất gia đi tu, rồi chiêu tập những đồ vong mạng hơn 1,000 người, chiếm giử mạn Thái-nguyên, xưng vương phong tước, đem quân đi đánh phá khắp nơi. Quan quân đánh mãi không được.

Năm tân-dậu (1141) Thân Lợi về vây phủ Phú-lương, Đỗ anh Vũ đem quân lên đánh, Thân Lợi chạy lên Lạng-châu, tức là Lạng-sơn bị ông Tô hiến Thành đuổi bắt được, đem về kinh làm tội.


4. Việc Chính Trị.

Năm giáp-thân (1164) vua nhà Tống đổi Giao-chỉ quận làm An-nam quốc, và phong cho Anh-tông làm An-nam quốc-vương.
Nguyên khi trước Tàu gọi ta là Giao-chỉ quận, rồi sau đổi là Giao- châu, đến thời nhà Đường đặt An-nam đô-hộ-phủ. Nhà Đinh lên đặt Đại-Cồ-Việt, vua Lý Thánh-tông đổi là Đại-Việt. nhưng Tàu vẫn phong cho vua ta là Giao-chỉ quận-vương, đến bấy giờ mới đổi là An-nam quốc-vương. Nước ta thành tên là nước An-nam khởi đầu từ đấy.

Năm tân-mão và năm nhâm-thìn (1171-1172) Anh-tông đi chơi xem sơn-xuyên hiểm-trở, đường-sá xa gần và sự sinh-hoạt của dân-gian, rồi sai quan làm quyển địa-đồ nước An-nam33.

Năm ất-mùi (1175), Anh-tông phong cho Tô hiến Thành làm Thái- phó Bình-chương-quân-quốc trọng-sự và phong vương tước. Anh-tông đau, uỷ thác Thái-tử là Long Cán cho Tô hiến Thành. Anh-tông mất, trị vì được 37 năm, thọ 40 tuổi.


VII. LÝ CAO-TÔNG (1176-1210)

Niên-hiệu:

Trinh-phù (1176-1185)
Thiên-gia bảo-hữu (1202-1204)
Trị-bình-long-ứng (1205-1210).


1. Tô Hiến Thành Làm Phụ Chánh.

Khi vua Anh-tông mất, Thái-tử Long Cán chưa đầy 3 tuổi, bà Chiêu-linh Thái-hậu muốn lập người con trưởng là con mình tên là Long Xưởng33 lên làm vua, đem vàng bạc đút lót cho vợ Tô hiến Thành, nhưng ông nhất thiết không chịu, bèn cứ theo di-chiếu mà lập Long Cán, tức là vua Cao-tông.

Tô hiến Thành giúp vua Cao-tông trị nước, đến năm kỷ hợi(1179) thì mất. Sử chép rằng khi ông đau có quan Tham-tri chính sự là Vũ tán Đường, ngày đêm hầu hạ. Đến khi bà Đỗ Thái-Hậu34 ra thăm hỏi ngày sau ai thay được ông, ông tâu rằng: có quan Gián-nghị đại-phu Trần trung Tá. Thái-hậu ngạc nhiên nói rằng tại sao không cử Vũ tán Đường? Ông đáp: "Nếu bệ-hạ hỏi người hầu-hạ, thì xin cử người Tán Đường, hỏi người giúp nước thì tôi xin cử người Trung-Tá".

Tô hiến Thành không những là một người có tài thao-lược, dẹp giặc yên dân mà thôi, cách thờ vua thật là trung-thành cho nên người đời sau thường ví ông với Gia cát Lượng đời Tam-quốc bên Tàu.

Tô hiến Thành mất rồi, Triều-đình không theo lời ông ấy dặn, cử Đỗ yên Di làm phụ chính và Lý kính Tu làm đế-sư. Đình-thần bấy giờ có người đứng đắn, cho nên bà Chiêu-linh Thái-hậu không dám mưu sự phế-lập.

Đến khi Cao-tông lớn lên cầm quyền trị nước, thì cứ đi săn bắn chơi bời, làm cung xây điện, bắc trăm họ phải phục-dịch khổ-sở. Ngoài biên thì quân mường thổ ở bên Tàu sang quấy nhiễu ở phía bắc, người Chiêm-thành sang đánh ở phía nam; trong nước thì nổi lên như ong dấy. Vua tôi không ai lo nghĩ gì về chính-trị, chỉ làm những việc nhũng-lạm, mua quan bán chức, hà-hiếp nhân-dân, lấy tiền để làm những việc xa-xỉ.


2. Sự nổi loạn.

Năm bính-thìn (1208) ở Nghệ-an có Phạm Du, chiêu nạp những đồ vong mệnh, cho đi cướp các thôn dân, có bụng làm phản. Cao-tông sai quan Phụng-ngự là Phạm bỉnh Di đi đánh Phạm Du. Bỉnh Di đem quân vào đến nơi đánh đuổi Phạm Du đi và tịch-biên cả của-cải, đốt phá cả nhà cửa.

Phạm Du cho người về kinh, lấy vàng bạc đút lót với các quan trong triều, để vu cho Bỉnh Di làm việc hung bạo, giết hại những kẻ không có tội, và Phạm Du lại xin về triều để kêu oan.

Cao-tông nghe lời, cho vời Phạm Du vào chầu và triệu Phạm bỉnh Di về.

Bỉnh Di về kinh vào chầu, Cao-tông truyền bắt giam, lại toan đem làm tội. Bấy giờ có bộ tướng của Bỉnh Di là Quách Bốc đem quân phá cửa thành vào cứu Bỉnh Di.

Cao-tông thấy biến, bèn đem giết Phạm bỉnh Di đi, rồi cùng với Thái- tử chạy lên Qui Hóa (sông Thao-giang ở phía bắc huyện Tham-nông, Phú- thọ). Thái-tử Sam thì chạy về HảI-ấp, làng Lưu-gia (bây giờ là làng Lưu-xá, huyện Hưng-nhân).

Bọn Quách Bốc đưa xác Bỉnh Di ra mai táng xong rồi, lại vào điện tôn Hoàng-tử Thẩm lên làm vua.

Khi Thái-tử Sam chạy về Hải-ấp vào ở nhà Trần Lý. Nguyên Trần Lý là người làng Tức-mạc (huyện Mỹ-lộc, phủ Xuân-trường, tỉnh Nam-định) làm nghề đánh cá, nhà giàu, có nhiều người theo phục, sau nhân buổi loạn cũng đem chúng đi cướp phá. Đến khi Thái-tử Sam chạy về đấy, thấy con gái Trần Lý có nhan sắc, lấy làm vợ, rồi phong cho Trần Lý tước Minh-tự và phong cho người cậu Trần-thị là Tô trung Từ, người ở làng Lưu-gia làm Điện-tiền Chỉ-huy-sứ.

Anh em họ Trần mộ quân về kinh dẹp loạn, rồi lên Qui-hóa rước Cao-tông cho quân về làng Lưu-gia đón Thái-tử, còn Trần-thị thì về ở nhà Trần Lý.

Cao-tông về kinh được một năm thì phải bệnh, đến tháng 10 năm canh-ngọ (1210) thì mất, trị-vì được 35 năm, thọ 38 tuổi.


VIII. Lý Huệ Tông (1211-1225)

Niên-hiệu:

Kiến-gia (1211-1224)


1. Trần Thị.

Thái-tử Sam lên ngôi, tức là vua Huệ-tông, rồi sai quan đi rước Trần-thị về phong làm Nguyên-phi.

Bấy giờ Trần Lý đã bị quân cướp giết, chúng theo về người con thứ là Trần tự Khánh. Huệ-tông bèn phong cho tự Khánh làm Chương-tín-hầu và cho người cậu Trần-thị làm Thái-úy Thuận-lưu-bá.

Năm quí-dậu (1213) Thái-hậu làm khổ Trần-thị ở trong cung, anh Trần-thị là Tự Khánh đem quân đến chốn kinh sư, nói rằng xin rước vua đi. Huệ-tông không biết tình-ý gì, nghi Tự Khánh có ý phản-nghịch bèn giáng Trần-thị xuống làm Ngự-nữ. Tự Khánh nghe tin ấy, thân đến quân môn xin lỗi và rước vua đi. Huệ-tông càng nghi lắm, bèn cùng với Thái-hậu đi lên Lạng-châu (Lạng-sơn).

Tự Khánh lại phát binh xin rước vua như trước, Huệ-tông sợ lại rước Thái-hậu về huyện Bình-hợp (?).

Khi bấy giờ bà Thái-hậu cho Tự Khánh là phản-trắc, thường chỉ mặt Trần-thị mà xỉ mắng và xui Huệ-tông bỏ đi. Huệ-tông không nghe. Thái- hậu định bỏ thuốc độc cho Trần-thị, nhưng Huệ-tông biết ý, đến bữa ăn thì ăn một nửa, còn một nửa cho Trần-thị ăn và ngày đêm không cho đi đâu. Sau vì Thái-hậu làm ngặt quá, Huệ-tông và Trần-thị đêm bèn lẻn ra đi đến nhà tướng-quân Lê Mịch ở huyện Yên-duyên rồi lại đến Cửu-liên (?), cho đòi Tự Khánh đến chầu.


2. QUYỀN VỀ HỌ TRẦN.

Trần tự Khánh đem quân đến hộ giá. Huệ-tông phong Trần-thị làm Hoàng-hậu, Tự Khánh làm Phụ-chính và người anh Tự Khánh là Trần Thừa làm Nội-thị Phân-thủ. Trần tự Khánh cùng với Thượng-tướng-quân là Phân Lân sửa-sang quân ngũ, làm đồ chiến-khí, luyện-tập việc võ. Từ đấy quân-thế lại nổi dần dần lên.

Huệ-tông phải bệnh, thỉnh-thoaảng có cơn điên, rồi cứ uống rượu say cả ngày, có việc chính-trị đều ở tay Tự Khánh quyết đoán cả.

Đến tháng chạp năm quí-mùi (1228) Tự Khánh mất, Huệ-tông cho Trần Thừa làm Phụ-quốc Thái-úy, sang năm sau lại cho người em họ Hoàng-hậu là Trần thủ Độ làm Điện-tiền chỉ-huy-sứ. Từ đó việc gì ở trong triều cũng quyền ở Thủ Độ cả.

Huệ-tông có bệnh mãi không khỏi, mà Thái-tử thì chưa có, Trần-thị thì chỉ sinh được hai người con gái, người chị là Thuận-thiên công-chúa thì đã gả cho Trần Liễu là con trưởng của Trần Thừa; con người em là Chiêu- thánh công chúa tên là Phật-kim thì mới lên 7 tuổi, Huệ-tông yêu mến lắm, cho nên mới lập làm Thái-tử. Tháng 10 năm giáp-thân (1224) Huệ-tông truyền ngôi cho Chiêu-thánh công-chúa, rồi vào ở chùa Chân-giáo.

Huệ-tông trị vì được 14 năm.


IX. LÝ CHIÊU-HOÀNG (1225)

Niên-hiệu:

Thiên-chương-hữu-đạo (1224-1225)


Chiêu-thánh công-chúa lên ngôi, tức là vua Chiêu-hoàng. Bấy giờ quyền-chính ở cả Trần thủ Độ. Thủ Độ lại tư thông với Trần Thái hậu, đêm ngày mưu lấy cơ-nghiệp nhà Lý, bèn đòi các con quan vào trong cung để hầu Chiêu-hoàng, và lại cho cháu là Trần Cảnh vào làm chức Chính-thủ. Đến tháng chạp thì Chiêu-hoàng lấy Trần Cảnh và truyền ngôi cho chồng.

Nhà Lý đến đấy là hết, cả thảy làm vua được 216 năm, truyền ngôi được 9 đời.

Nhà Lý có công làm cho nước Nam ta nên được một nước cường-thịnh: ngoài thì đánh nước Tàu, bình nước Chiêm, trong thì chỉnh-đốn việc võ-bị, sửa-sang pháp-luật, xây vững cái nền tự-chủ. Vì vua Cao-tông hoang chơi, làm mất lòng người, cho nên giặc-giã nổi lên, loạn thần nhiễu sự. Vua Huệ-tông lại nhu-nhược bỏ việc chính-trị, đem giang-sơn phó-thác cho người con gái còn đang thơ-dại, khiến cho kẻ gian-hùng được nhân dịp mà lấy giang-sơn nhà Lý và lập ra cơ-nghiệp nhà Trần vậy.

{31 Tục truyền rằng Thần Tông là con cầu tự được, mà Ngài chính là ông Từ Đạo Hạnh hóa xác sinh ra. Ở Bắc Việt ai đi đến chùa Thầy (thuộc Sơn Tây) cũng nghe nói sự tích ông Từ Đạo Hạnh và ông Nguyễn Minh Không. Chuyện hoang đường, không thể tin là sự thật được.}

{32 Quyển địa đồ ấy bây giờ không thấy còn di tích ở đâu cả.}

{33 Long Xưởng trước đã lập làm Thái Tử, sau vì có tội phải giáng xuống làm thứ dân.}

{34 Đỗ Thái Hậu là mẹ đẻ ra Cao Tông.}


Chương 16

NHÀ TRẦN (1225-1400)

Thời kỳ thứ nhất (1225-1293)

I. TRẦN THÁI TÔNG

1. Trần thủ Độ
2. Việc đánh-dẹp giặc-giã
3. Việc cai-trị
4. Việc thuế-má
5. Việc đắp-đê
6. Việc học-hành
7. Pháp-luật
8. Quan-chế
9. Binh-chế
10. Việc đánh Chiêm-thành
11. Quân Mông-cổ xâm-phạm đất An-nam


II. TRẦN THÁNH TÔNG

1. Việc chính-trị
2. Sự giao-thiệp với Mông-cổ


III. TRẦN NHÂN-TÔNG

1. Việc chiến-tranh
2. Việc văn-học



I. TRẦN THÁI-TÔNG (1225-1258)

Niên-hiệu:

Kiến-trung (1225-1237)
Thiên-ứng chính-bình (1238-1350)
Nguyên-phong (1251-1258)


I. Trần Thủ Độ.

Tháng chạp năm ất-dậu (1225) Trần Cảnh lên làm vua, tức là Trần Thái-Tông phong cho Trần thủ Độ làm Thái-sư Thống-quốc hành-quân chinh-thảo-sự. Bấy giờ vua Thái-tông mới có 8 tuổi, việc gì cũng do ở Trần thủ Độ cả. Thủ Độ tuy là một người không có học-vấn nhưng là một tay gian-hùng, chủ ý cốt gây dựng cơ-nghiệp nhà Trần cho bền-chặt, cho nên dẫu việc tàn-bạo đến đâu, cũng làm cho được. Lý Huệ-tông tuy đã xuất gia đia ở chùa rồi nhưng Thủ Độ vẫn định bụng giết đi, cho khỏi sự lo về sau.

Một hôm Huệ-tông ngồi nhổ cổ ở sân chùa Chân-giáo, Thủ-Độ đi qua trông thấy, mới nói rằng: "Nhổ cỏ thì phải nhổ cả rể cái nó đi! " Huệ- tông nghe thế, phủi tay đứng dậy nói rằng: "Nhà ngươi nói ta hiểu rồi ". Được mấy hôm, Thủ Độ cho người đến mời Huệ-tông, Huệ-tông biết ý, vào nhà sau thắt cổ tự-tận. Thủ Độ đưa bách quan đến tế khóc xong rồi hỏa táng, chôn ở tháp Bảo-quang.

Còn Thái-hậu là Trần-thị giáng xuống làm Thiên-cực công-chúa để gả cho Trần thủ Độ (Trần thủ Độ và Thiên-cực công-chúa là hai chị em họ). Bao nhiêu những cung-nhân nhà Lý thì đưa gả cho những Tù-trưởng các mường.

Thủ Độ đã hại Huệ-tông rồi, lại muốn trừ nốt các tôn-thất nhà Lý. Đến năm nhăm-thìn (1232) nhân làm lễ Tiên-hậu nhà Lý ở thôn Thái-Đường, làng Hoa-lâm (huyện Đông-ngạn, tỉnh Bắc-ninh), Thủ Độ sai đào hầm, làm nhà lá ở trên, để đến khi các tôn-thất nhà Lý vào đấy tế-lễ, thì sụt cả xuống hố rồi đổ đất chôn sống cả.

Thủ Độ chỉ lo làm cho thế nào cho ngôi nhà Trần được vững-bền, cho nên không những là tàn ác với nhà Lý mà thôi, đến luân-thường ở trong nhà, cũng làm loạn cả. Chiêu-thánh Hoàng-hậu lấy Thái-tông đã được 12 năm mà vẫn chưa có con 35 , Thủ Độ bắt Thái-tông bỏ đi và giáng xuống làm công-chúa, rồi đem người chị bà Chiêu-thánh tức là vợ Trần Liễu vào làm Hoàng-hậu, bởi vì người chị đã có thai được 3 tháng.

Làm loạn nhân-luân như thế, thì tự thượng-cổ mới có là một. Trần Liễu tức giận, đem quân làm loạn. Vua Thái-tông bị Thủ Độ hiếp chế như thế, trong bụng cũng không yên, đến hôm trốn ra, lên chùa Phù-vân, trên núi Yên-tử (huyện Yên-hưng, tỉnh Quảng-yên). Trần thủ Độ biết tin ấy, đem quân thần đi đón Thái-tông về. Thái-tông không chịu về, nói rằng: "Trẫm còn nhỏ-dại, không kham nổi việc to lớn, các quan nên chọn người khác để cho khỏi nhục xã-tắc". Thủ Độ nói mãi không nghe, ngảnh lại bảo bác quan rằng: "Hoàng-thượng ở đâu là Triều-đình ở đấy!" Nói đoạn, truyền sắp sửa xây cung điện ở chùa Phù-vân. Quốc-sư ở chùa ấy thấy thế, vào van lạy Thái-tông về Triều, Thái-tông bất-đắc-dĩ truyền xa-giá về Kinh. Được ít lâu

Chiêu Thánh Hoàng Hậu bấy giờ mới có 19 tuổi. Trần Liễu biết sức mình không làm gì nổi, bèn nhân lúc Thái-tông ngự thuyền đi chơi, giả làm người đánh cá lẻn xuống thuyền ngự, xin hàng. Hai anh em ôm nhau mà khóc. Thủ Độ nghe tin, đến rút gươm toan giết Trần Liễu, Thái-tông can mãi mới thôi. Sau Thái-tông lấy đất Yên-phụ, Yên- đường, Yên-sinh và Yên-bang (ở huyện Đông-triều và phủ Kinh-môn, Hải- dương) cho Trần Liễu làm thái-ấp và phong cho làm An-sinh-vương. Thủ Độ đã hại hết cả dòng dỏi họ Lý, lại muốn cho họ Lý không còn ai nhớ đến họ Lý nửa, mới nhân vì tổ nhà Trần tên là Lý, bắt trong nước ai là họ Lý đều phải cải là họ Nguyễn.

Thủ Độ là người rất gian-ác đối với nhà Lý, nhưng lại là một người đại công-thần của nhà Trần. Một tay cáng-đán bao nhiêu trong-sự, giúp Thái-công bình-phục được giặc-giã trong nước và chỉnh-đốn lại một việc, làm cho nước Nam ta bấy giờ được cường thịnh, ngày sau có thể chống-cự với Mông-cổ, khỏi phải làm nô-lệ những kẻ hùng-cường.


2. Việc Đánh Dẹp Giặc Giã.

Nước An-nam từ khi vua Cao-tông nhà Lý thất chính, trong nước chỗ nào cũng có giặc-giã. ở mạn Quốc-oai thì có giặc Mường làm loạn, ở Hồng-châu thì có Đoàn Thượng chiếm giữ đất Đường hào, tự xưng làm vua, ở Bắc-giang thì có Nguyễn Nộn độc-lập xưng vương ở làng Phù-đổng. Ấy là một nước mà chia ra làm mấy giang-sơn. Khi Trần thủ Độ đã thu-xếp trong việc cướp ngôi nhà Lý rồi, mới đem quân đi đánh dẹp. Trước lên bình giặc Mường ở Quốc-oai, sau về đánh bọn Đoàn Thượng và Nguyễn Nộn. Nhưng thế-lực hai người ấy mạnh lắm, Trần thủ Độ đánh không lại, bèn chia đất cho hai người làm vương để giảng-hòa.

Năm mậu-tí (1228) Nguyễn Nộn đem quân đánh Đoàn Thượng, chiếm giữ lấy đất Đường-hào, thanh-thế lừng-lẫy. Trần thủ Độ đã lấy làm lo. Nhưng chỉ được mấy tháng, thì Nguyễn Nộn chết. Từ đó các châu huyện trong nước lại thống-hợp làm một.


3. Việc Cai Trị.

Cứ theo phép nhà Lý thì làng nào có bao nhiêu người đi làm quan văn, quan võ, thơ-lại, quân lính, hoàng-nam, lung-lão, tàn-tật, và những người đến ở ngụ cư, hay là những người xiêu-lạc đến trong làng, thì xã-quan phải khai vào cả quyển sổ gọi là trường-tịch. Ai có quan-tước mà có con được thừa ấm thì con lại được vào làm quan, còn những người giàu-có, mà không có quan-tước thì đời đời cứ phải đi lính. Thái-tông lên làm vua phải theo phép ấy, cho nên đến năm mậu-tí (1228) lại sai quan vào Thanh-hóa làm lại trường-tịch theo như lệ ngày trước.

Năm nhâm-dần (1242) Thái-tông chia nước Nam ra làm 12 lộ. Mỗi lộ đặt quan cai-trị là An-phủ-sứ, chánh-phó 2 viên. Dưới An-phủ-sứ có quan Đại-tư-xã và Tiểu-tư-xã. Từ ngũ phẩm trở lên thì làm Đại-tư-xã, lục phẩm trở xuống thì làm Tiểu-tư-xã, mỗi viên cai-trị, hoặc hai xã, hoặc ba bốn xã. Mỗi xã lại có một viên xã-quan là Chánh-sử-giám. Lộ nào cũng có quyển dân-tịch riêng của lộ ấy.


4. Việc Thuế Má.

Người trong nước phân ra từng hạng: con trai từ 18 tuổi thì vào hạng tiểu-hoàng-nam, từ 20 tuổi vào hạng đại-hoàng-nam. Còn từ 60 tuổi trở lên thì vào lão hạng.

Thuế thân: Thuế thân thời bấy giờ tùy theo số ruộng mà đánh, ai có một hai mẫu ruộng thì phải đóng một năm một quan tiền thuế thân; ai co ba bốn mẫu, thì phải đóng hai quan; ai co năm mẫu trở lên, thì đóng ba quan. Ai không có mẫu nào, thì không phải đóng thuế.

Thuế ruộng: Thuế ruộng thì đóng bằng thóc: cứ mỗi một mẫu thì chủ điền phải đóng 100 thăng thóc.

Còn như ruộng công, thì có sách chép rằng đời nhà Trần có hai thứ ruộng công, mỗi thứ phân ra làm ba hạng.

1. Một thứ gọi là ruộng quốc-khố: hạng nhất mỗi mẫu đánh thuế 6 thạch 80 thăng thóc; hạng nhì mỗi mẫu 4 thạch; hạng 3 mỗi mẫu 3 thạch. 2. Một thứ gọi là thác-điền 36 : hạng nhất mỗi mẫu đánh thuế một thạch thót; hạng nhì ba mẫu lấy một thạch, hạng ba, bốn mẫu lấy một thạch.

Còn ruộng ao của công-dân thì mỗi mẫu lấy ba thăng thóc thuế. Ruộng muối phải đóng bằng tiền.

Các thứ thuế: Có sách chép rằng nhà Trần đánh cả thuế trầu cau, thuế hương yên-tức, và tôm, cá, rau, quả, gì cũng đánh thuế cả.

Sử chép rằng ông Lê Phụng Hiểu đời vua Lý Thái Tông đi đánh giặc lập được nhiều công. Sau vua định phong tước cho ông, ông từ chối, xin lên núi ném con dao, hễ rơi đến đâu xin lấy đất làm tư nghiệp. Vua thuận cho. Lê Phụng Hiểu lên núi Băng Sơn ném con dao xuống xa được 10 dặm. Vua bèn lấy ruộng ở chung quanh núi Băng Sơn cho ông Lê Phụng Hiểu, gọi là thác đao điền. Sau thành ra tên thác điền là ruộng để thưởng công cho các quan. Còn như vàng bạc tiêu-dụng trong nước thì tiêu bằng phân, lượng đã đúc sẵn, có hiệu nhà nước. Khi nào đóng nộp cho vua quan, thì một tiền là 70 đồng, mà thường tiêu với nhau thì một tiền chỉ có 69 đồng mà thôi.


5. Việc Đắp Đê.

Nước Nam ta ở mạn đường ngược thì lắm núi, mà ở trung châu thì nhiều sông ngòi, cho nên đến mùa lụt nước ngàn, nước lũ chảy về ngập mất cả đồng-điền. Vì vậy năm mậu-thân (1244) Thái-tông sai quan ơở các lộ đắp đê ở hai bên bờ sông cái (Hồng-hà), gọi là Đỉnh-nhĩ-đê. Lại đặt quan để coi việc đê, gọi là Hà-đê chánh phó-sứ hai viên. Hễ chỗ nào mà đê đắp vào ruộng của dân, thì nhà nước cứ chiếu theo giá ruộng mà bồi thường cho chủ ruộng.

6. Việc Học Hành.

Năm nhăm-thìn (1232) mở khoa thi Thái-học-sinh (thi Tiến-sĩ). Từ đời nhà Lý cũng đã có thi nho-sĩ, nhưng chỉ thi Tam-trường mà thôi, đến bây giờ mới có khoa thi Thái-học-sinh, chia ra thứ bậc, làm ba giáp để định cao thấp. Đến khoa thi năm đinh-vị (1247) lại đặt ra tam-khôi: trạng nguyên, bảng-nhãn, thám-hoa. Khoa thi năm đinh-vị này có Lê văn Hưu, là người làm sử nước Nam trước hết cả, đổ bảng-nhãn. Năm ấy lại có mở khoa thi Tam-giáo: Nho, Thích, Lão, ai hơn thì đổ khoa giáp, ai kém thì đổ khoa ất.

Xem như thế thì sự học-vấn đời nhà Trần cũng rộng: Nho, Thích, Lão cũng trọng cả. Nhưng không rõ cách học-hành và phép thi-cử bấy giờ ra thế nào, bởi vì chỗ này sử chỉ nói lược qua mà thôi.

Năm quí-sửu (1253) lập Quốc-học-viện để giảng tứ-thư ngũ-kinh và lập giảng-võ-đường để luyện-tập-võ-nghệ.

7. Pháp Luật. Sử chép rằng năm giáp-thìn (1244) vua Thái-tông có định lại các luật-pháp, nhưng không nói rõ định ra thế nào. Xét trong sách " Lịch-triều hiến-chương " của ông Phan huy Chủ thì phép nhà Trần đặt ra là hễ những người phạm tội trộm-cắp đều phải chặt tay, chặt chân, hay là cho voi giày. Xem như thế thì hình-luật bấy giờ nặng lắm.

8. Quan Chế. Quan-chế đời nhà Trần cũng sửa-sang lại cả. Bấy giờ có Tam-công, Tam-thiếu, Thái-úy, Tư-mã, Tư-đồ, Tư-không, làm văn-võ đại- thần. Tể-tướng thì có Tả-hữu Tường-quốc, Thủ-tướng, Tham-tri. Văn-giai nột chức, thì có các bộ Thượng-thư, Thị-lang, Lang-trung, Viên-ngoại, Ngự- sử, v.v... Ngoại chức, thì có An phủ-sứ, Tri-phủ, Thông-phán, Thiêm-phám v.v... Còn võ-giai nội-chức, thì có Phiêu-kỵ thượng-tướng-quân, Cẩm-vệ thượng-tướng quân, Kim-ngô đại-tướng-quân, Võ-vệ đại-tướng-quân, Phó đô-tướng-quân v.v... Ngoại chức thì có Kinh-lược-sứ, Phòng-ngự-sứ, Thủ- ngự-sứ, Quan-sát-sứ, Đô-hộ, Đô-thống, Tổng-quản, v.v...

Quan-lại đời bấy giờ, cứ 10 năm, thì được thăng lên một hàm, và 15 năm mới được thăng lên một chức.

Đời nhà Trần tuy quan-lại thì nhiều, nhưng vua quan có ý thân-cận với nhau lắm. Hễ khi nào vua đãi yến, các quan uống rượu xong rồi, thì ra dắt tay nhau mà múa hát, không có giữ lễ-phép nghiêm-khắc như những đời sau.


9. Binh Chế.

Từ khi Thái-tông lên ngôi làm vua thì việc binh-lính một ngày một chỉnh-đốn thêm. Bao nhiêu những người dân-tráng trong nước đều phải đi lính cả. Các quân-vương ai cũng được quyền mộ tập quân-lính. Vì cớ ấy cho nên đến sau người Mông-cổ sang đánh, nước Nam ta có hơn 20 vạn quân để chống với quân nghịch. Trừ những giặc-giã nhỏ-mọn ở trong nước không kể chi, nước Nam ta bấy giờ ở phía nam có Chiêm-thành, phía bắc có quân Mông-cổ sang quấy-nhiễu cho nên phải đánh-dẹp luôn.


10. Việc Đánh Chiêm Thành.

Từ khi Thái-tông lên làm vua, nước Chiêm-Thành đã sang cống-tiến, nhưng thường vẫn sang cướp phá, và cứ đòi lại đất cũ. Thái-tông lấy làm tức giận, bèn sửa-soạn sự đi đánh Chiêm-thành. Năm nhăm-tí (1252) ngài ngự-giá đi đánh, bắt được vương- phi nước Chiêm tên là Bố-gia-la và quân dân nước ấy rất nhiều.


11. Quân Mông Cổ Xâm Phạm Đất An Nam.

Trong khi nhà Lý mất ngôi, nhà Trần lên làm vua ở An-nam, thì nhà Tống bên Tàu bị người Mông-cổ đánh phá. Nguyên ở phía bắc nước Tàu có một dân-tộc gọi là Mông-cổ, ở vào khoảng thượng-lưu sông Hắc-long-giang (Amour). Người Mông-cổ hung tợn, mà lại có tính hiếu chiến, người nào cưỡi ngựa cũng giỏi, và bắn tên không ai bằng. Binh-lính thường là quân-kị, mà xếp-đặt thành cơ nào đội ấy, thật là có thứ-tự, và người nào cũng tinh nghề chiến-đấu.

Bởi tính-chất và binh-pháp của người Mông-cổ như thế, cho nên Thiết-mộc-chân (Témoudjine) tức là Thành-cát-tư-hãn (Gengis khan), miêu- hiệu là Nguyên-thái-tổ, mới chiếm giữ được cả vùng Trung-Á, cùng đất Ba- tư, sang đến phía đông-bắc Âu-la-ba. Sau quân Mông-cổ lại lấy được nước Tây-hạ, phía tây nước bắc Tàu, dứt được nước Kim và tràn sang đến nước Triều-tiên (Cao-ly).

Thành-cát-tư-hãn mất, người con thứ ba là A-loa-đài (Agotai) lên làm vua tức là Nguyên-thái-tông. A-loa-đài truyền cho con là Quí-do (Gouyouk) tức là Nguyên Định-tông. Quí-do làm vua được non ba năm thì mất, ngôi vua Mông-cổ về chi khác. Người em con nhà chú là Mông-kha (Mong-ké) lên làm vua, tức là Nguyên Hiến-tông.

Mông-kha sai hai em là Hạt-lỗ (Houlagen) sang kinh-lý việc nước Ba- tư, và Hốt-tất-liệt (Koubilai) sang đánh nhà Tống bên Tàu. Trong khi quân Mông-cổ sang đánh nhà Tống, thì Mông-kha mất, Hốt-tất-liệt phải rút binh về lên ngôi vua, tức là Nguyên Thế-tổ. Hốt-tất-liệt lên làm vua rồi đổi quốc hiệu là Nguyên.

Hốt-tất-liệt lại sang đánh nhà Tống. Từ đó cả nước Tàu thuộc về Mông-cổ cai-trị.

Khi Mông-kha hãy còn, Hốt-tất-liệt đem quân sang đánh nhà Tống, có sai một đạo quân đi đánh nước Đại-lý (thuộc tỉnh Vân-nam bây giờ) tướng Mông-cổ là Ngột-lương-hợp-thai (Wouleangotai) sai sứ sang bảo vua Trần-thái-tông về thần-phục Mông-cổ.

Thái-tông không những là không chịu, lại bắt giam sứ Mông-cổ, rồi sai Trần quốc Tuấn đem binh lên giữ ở phía Bắc. Bấy giờ là năm đinh-tị (1257).

Trần Quốc Tuấn ít quân đánh không nổi, lùi về đóng ở Sơn-tây. Quân Mông-cổ kéo tràn xuống đến sông Thao. Thái-tông phải ngự-giá thân chinh, nhưng đánh không được, chạy về đóng ở sông Hồng-hà 37. Quân Mông-cổ tiến lên đánh đuổi quân nhà Trần đến Đông-bộ-đầu (phía đông sông Nhị-hà ở hạt huyện Thượng-phúc). Thái-tông phảI bỏ kinh-đô, chạy về đóng ở sông Thiên-mạc (về hạt huyện Đông-an, tỉnh Hưng-yên).

Quân Mông-cổ vào thành Thăng-long, thấy ba người xứ Mông-cổ còn phải trói, giam ở trong ngục, đến khi cởi trói ra thì một người chết. Ngột-lương-hợp-thai thấy thế tức giận quá, cho quân ra giết phá cả nam phụ lão ấu ở trong thành.

Bấy giờ thế nguy, Thái-tông ngự thuyền đến hỏi Thái-úy là Trần nhật Hiệu. Nhật Hiệu không nói gì cả, cầm sào viết xuống nước hai chữ "Nhập Tống". Thái-tông lại đến hỏi Thái-sư Trần thủ Độ. Thủ Độ nói rằng: " Đầu tôi chưa rơi xuống đất, thì xin Bệ-hạ đừng lo! ". Thái-tông nghe thấy Thủ Độ nói cứng-cỏi như thế, trong bụng mới yên.

Sử ta chép là sông Phú Lương.

Được ít lâu quân Mông-cổ ở nước Nam không quen thủy-thổ xem ra bộ mỏi-mệt. Thái-tông mới tiến binh lên đánh ở Đông-bộ-đầu. Quân Mông- cổ thua chạy về đến trại Qui-hóa, lại bi chủ trại đấy chiêu-tập thổ dân ra đón đánh. Quân Mông-cổ thua to, rút về Vân-nam, đi đường mỏi-mệt, đến đâu cũng không cướp-phá gì cả, cho nên người ta gọi là giặc Phật.

Quân Mông-cổ tuy thua phải rút về, nhưng chẳng bao lâu vua Mông- cổ dứt được nhà Tống, lấy được nước Tàu, rồi có ý muốn bắt vua nước Nam ta sang chầu ở Bắc-kinh, bởi vậy lại sai sứ sang đòi lệ cống. Vua Thái-tông sai Lê phụ Trần sang sứ xin cứ ba năm sang cống một lần.

Mùa xuân năm mậu-ngọ (1258), Thái-tông nhường ngôi cho Thái-tử là Trần Hoảng, để dạy-bảo mọi việc về cách trị nước, và đề phòng ngày sau anh em không tranh nhau. Triều-đình tôn Thái-tông lên làm Thái-thượng- hoàng để cùng coi việc nước. Thái-tông trị-vì được 33 năm, làm Thái- thượng-hoàng được 19 năm thì mất, thọ 60 tuổi.


II. TRẦN THÁNH-TÔNG (1258-1278)

Niên-hiệu: Thiệu-long (1258-1272)
Bảo-phù (1273-1278)


1. Việc Chính Trị.

Thái-tử Hoảng lên ngôi, tức là vua Thánh-tông, đổi niên-hiệu là Thiệu-long.

Thánh-tông là ông vua nhân-từ trung-hậu ở với anh em họ hàng rất là tử-tế. Thường hay nói rằng: " Thiên-hạ là của ông cha để lại, nên để cho anh em cùng hưởng phú-quí chung ". Rồi cho các hoàng-thân vào nội điện, cùng ăn một mâm, nằm một giường, thật là thân-ái, chỉ có lúc nào ra việc công, hoặc buổi chầu, thì mới phân thứ-tự theo lễ-phép mà thôi.

Còn việc nước thì thật ngài có lòng lo giữ cho dân được yên trị. Trong 21 năm, ngài làm vua không có giặc-giã gì cả. Việc học-hành cũng mở mang thêm: cho Hoàng-đệ Trần ích Tắc là một người hay chữ trong nước lúc ấy, mở học-đường để những người văn-sĩ học-tập. Danh nho Mạc đỉnh Chi cũng học ở trường ấy ra.

Đời bấy giờ Lê văn Hưu làm xong bộ Đại-Việt sử thành 30 quyển, chép từ Triệu Võ-vương đến Lý Chiêu-hoàng. Bộ sử này khởi đầu làm từ Trần Thái-tông đến năm nhâm-thân (1272) đời Thánh-tông mới xong. Nước Nam ta có quốc-sử khởi đầu từ đấy.

Thánh-tông lại bắt các vương-hầu, phò-mã phải chiêu-tập những người nghèo-đói lưu-lạc để khai-khẩn hoang điền làm trang hộ. Trang-điền có từ đấy.


2. Sự giao-thiệp với Mông-Cổ.

Nước tuy được yên, song việc giao-thiệp với Tàu một ngày một khó thêm. Đời bấy giờ Mông-cổ đã đánh được nhà Tống rồi, chỉ chực lấy nước An-nam, nhưng vì trước tướng Mông-cổ đã đánh thua một trận, vả trong nước Tàu vẫn chưa được yên, cho nên vua Mông-cổ muốn dụng kế dụ vua An-nam sang hàng-phục, để khỏi dùng can-qua. Vậy cứ vài năm lại cho sứ sang sách-nhiễu điều nọ điều kia, và dụ vua An-nam sang chầu, nhưng vua ta cứ nay lần mai lữa, không chịu đi. Sau nhân dịp Thái-tông nhờng ngôi cho Thánh-tông, vua Mông-cổ sai sứ sang phong vương cho Thánh-tông, và tuy không bắt nước Nam phải đổi phục-sắc và chính-trị, nhưng định cho ba năm phải một lần cống. Mà lệ cống thì phải cho nho-sĩ, thầy thuốc, thầy bói, thầy toán-số và thợ-thuyền mổi hạng ba người, cùng với các sản-vật như là sừng tê, ngà voi, đồi-mồi, châu-báu và các vật lạ. Vua Mông-cổ lại đặt quan Đạt-lỗ-hoa-xích (tiếng Mông-cổ tức là quan Chưởng-ấn), để đi lại giám-trị các châu-quận nước Nam.

Ý Mông-cổ muốn biết nhân-vật tài-sản nước Nam ta có những gì, và học-vấn xảo-kỹ ra sao, để liệu đường mà đánh lấy cho tiện. Và tuy rằng quyền chính-trị vẫn để cho vua nước Nam, nhưng đặt quan giám-trị để dần dần lập thành Bảo-hộ.

Thánh-tông bề ngoài tuy vẫn chịu thần-phục, nhưng trong bụng cũng biết rằng Mông-cổ có ý đánh lấy nước mình, cho nên cứ tu binh dụng võ để phòng có ngày tranh chiến. Vậy tuyển đinh-tráng các lộ làm lính, phân quân-ngũ ra làm quân và đô: mỗi quân có 30 đô, mỗi đô có 80 người, bắt phải luyện tập luôn.

Năm bính-dần (1266) nhân sứ Mông-cổ sang, Thánh-tông sai quan sang Tàu đáp lễ và xin đừng bắt nho-sĩ, thầy bói, và các thợ-thuyền sang cống. Vua Mông-cổ ưng cho, nhưng bắt chịu 6 điều khác:

1. Vua phải thân vào chầu
2. Vua phải cho con hay là em sang làm tin
3. Biên sổ dân sang nộp
4. Phải chịu việc binh-dịch
5. Phải nộp thuế-má



Vua An-nam cứ lần-lữa không chịu. Đến năm Tân-mùi (1271) vua Mông-cổ là Hốt-tất-liệt cải quốc-hiệu là Đại-nguyên, rồi cho sứ sang dụ Thánh-tông sang chầu nhưng Thánh-tông cáo bệnh không đi.

Năm sau Nguyên-chủ cho sứ sang tìm cột đồng-trụ của Mã Viện trồng ngày trước, nhưng Thánh-tông sai quan sang nói rằng: cột ấy lâu ngày mất đi rồi, không biết đâu mà tìm nữa. Việc ấy cũng thôi.

Đến năm ất-hợi (1275) Thánh-tông sai sứ sang Tàu nói rằng: nước Nam không phải là nước Mường-mán mà đặt quan giám-trị, xin đổi quan Đại-lỗ-hoa-xích làm quan Dẫn-tiến-sứ. Vua nhà Nguyên không cho, lại bắt theo 6 điều đã định trước. Thánh-tông cũng không chịu. Tự đấy vua nhà Nguyên thấy dụng-mưu không được, quyết ý cử binh sang đánh nước Nam, sai quan ở biên-giới do thám địa-thế nước ta. Bên An-nam cũng đặt quan phòng-bị.

Năm đinh-sửu (1277) Thái-thượng-hoàng mất ở Thiên-trường-phủ (tức là làng Tức-mạc). Năm sau (1278), Thánh-tông nhường ngôi cho Thái-tử Khâm, rồi về ở Thiên-trường làm Thái-thượng-hoàng.

Thánh-tông trị vì được 21 năm, làm Thái-thượng-hoàng được 13 năm, thọ 51 tuổi.


III. TRẦN NHÂN-TÔNG (1279-1293)

Niên-hiệu: Thiệu-bảo (1279-1284)
Trùng-hưng (1285-1293)


1. Việc Chính Trị.

Thái-tử Trần Khâm lên làm vua, tức là vua Nhân-tông.

Lúc bấy giờ sứ nhà Nguyên đi lại hạch điều này, trách điều nọ, triều- đình cũng có lắm việc bối-rối. Nhưng nhờ có Thánh-tông thượng-hoàng còn coi mọi việc và các quan triều-đình nhiều người có tài-trí, vua Nhân-tông lại là ông vua thông-minh, quả-quyết, mà người trong nước thì từ vua quan cho chí dân-sự đều một lòng cả, cho nên từ năm giáp-thân (!284) đến năm Mậu-tý (1288) hai lần quân Mông-cổ sang đánh rồi không làm gì được.

Trừ việc chiến-tranh với quân Mông-cổ ra, để sau sẽ nói, trong đời vua Nhân-tông lại còn giặc Lào, thường hay sang quấy-nhiễu ở chỗ biên-thùy, bởi vậy năm canh-dần (1290) vua Nhân-tông lại phải ngự giá đi đánh Lào.


2. Việc Văn Học.

Đời vua Nhân-tông có nhiều giặc-giã, tuy vậy việc văn-học cũng hưng-thịnh lắm. Xem bài hịch của Hưng-đạo-vương, thơ của ông Trần quan Khải và của ông Phạm ngũ Lão thì biết là văn-chương đời bấy giờ có khí-lực mạnh-mẽ lắm. Lại có quan Hình-bộ Thượng-thư là ông Nguyễn Thuyên khởi đầu dùng chữ Nôm mà làm thơ-phú. Ông Nguyễn Thuyên là người Thanh-lâm 38 , tỉnh Hải-dương, có tiếng tài làm văn như ông Hàn Dũ bên Tàu ngày xưa, bởi vậy vua cho đổi họ là Hàn. Về sau người mình theo lối ấy mà làm thơ, gọi là Hàn-luật.

Năm quý-tỵ (1293) Nhân-tông truyền ngôi cho Thái-tử tên là Thuyên, rồi về Thiên-trường làm Thái-thượng-hoàng. Nhân-tông trị-vì được 14 năm, nhường ngôi được 13 năm, thọ 51 tuổi.

Làng Lai Hạ, huyện Thanh Lâm, phủ Nam Sách, nay thuộc huyện Lang Tài, tỉnh Bắc Ninh.
^o^Nụ cười của em đã khiến bối rối tim này..-_-
--_..Anh biết đã yêu em rồi..__

cop_xong_paste

Chương 17

GIẶC NHÀ NGUYÊN I (1284-1288)


1. Sài Thung sang sứ An-nam
2. Trần di Ái theo nhà Nguyên
3. Thoát Hoan sang đánh lần thứ nhất
4. Trần Hưng-đạo-vương quân thua về vạn-kiếp
5. Thành Thăng-long thất-thủ
6. Toa Đô đánh Nghệ-an
7. Hưng-đạo-vương đem vua về Thanh-hóa
8. Trận Hàm-tử-quan: Trần nhật Duật phá quân Toa Đô
9. Trận Chương-dương-Độ: Trần quang Khải khôi-phục Thăng-long
10. Trận Tây-kết: tướng nhà Trần chém Toa-Đô
11. Trận Vạn-kiếp: Thoát Hoan trốn chạy về Tàu



1. Sài Thung Sang Sứ An Nam

Nhà Nguyên nghe tin Trần Thái-tông mới mất và Thánh-tông nhượng-vị, liền sai Lễ-bộ thượng-thư là Sài Thung sang sứ, đi tự Giang-lăng (Hồ-bắc), qua Ung-châu (Quảng-tây) rồi sang nước Nam, chứ không đi qua tỉnh Vân-nam như các sứ-thần trước.

Sài Thung đến kinh-thành, lên mặt kiêu-ngạo,cưỡi ngựa đi thẳng vào cửa Dương-minh, rồi cho người đưa thư vào trách Nhân-tông rằng: "Sao không xin phép triều-đình nhà Nguyên, mà dám tự-lập, vậy phải sang chầu Thiên-triều Hoàng-đế mới xong". Nhân-tông sai quan đại-thần ra tiếp. Thung không thèm đáp lễ; vua bày yến mời, Thung không thèm đến. Đình- thần An-nam ai cũng lấy làm tức giận nhưng không dám nói ra.

Sau vua phải dọn yến ở điện Tập-hiền, mời mãi Sài Thung mới đến. Đương khi uống rượu, Nhân-tông bảo Sài Thung rằng: "Quả-nhân xưa nay sinh-trưởng ở trong cung không quen phong-thổ, không thể nào đi được".

Được mấy hôm Sài Thung về nước. Nhân-tông sai sứ mang thư sang Tàu nói không thể sang chầu được. Nguyên-triều thấy vua An-nam không chịu sang chầu, và cứ đưa thư sang nói thoái-thác ra việc nọ việc kia, ý muốn cầm quân sang đánh, nhưng còn chưa quyết.


2. Trần Di Ái Theo Nhà Nguyên.

Năm nhâm-ngọ (1282) Nguyên-chủ lại cho sứ sang dụ rằng: "Nếu vua nước Nam không sang chầu được thì phải đưa vàng ngọc sang thay, và phải nộp hiền-sĩ, thầy âm-dương bói-toán, thợ khéo mỗi hạng 2 người ".

Nhân-tông sai người chú họ là Trần di Ái và Lê Tuân, Lê Mục sang thay cho mình. Nhưng Nguyên-chủ không bằng lòng, quyết ý chiếm giữ quyền cai-trị nước Nam, bèn xuống chỉ lập tòa Tuyên-phủ-ti, đặt quan liêu- thuộc để sang giám-trị các châu huyện. Quan nhà Nguyên sang đến nơi, Nhân-tông không nhận, đuổi về Tàu.

Nguyên-chủ thấy vậy giận lắm, bèn lập Trần di Ái làm An-nam quốc- vương, phong cho Lê Mục làm Hàn-lâm học-sĩ, Lê Tuân làm Thượng-thư- lệnh, và sai Sài Thung dẫn 1.000 quân đưa bọn ấy về nước.

Trần di Ái thấy Nguyên-chủ phong cho cũng nhận, đưa về cũng về; chắc trong bụng đồ là chuyến này nhờ sức Mông-cổ, may việc xong, thì được làm vua, nhược bằng không xong, thì đổ cho là Nguyên-chủ bắt-ép; vì thế mới theo Sài Thung về.

Sài Thung đưa bọn Trần di Ái đến gần ải Nam-quan, có tin phi-báo về Kinh-đô. Nhân-tông liền sai tướng dẫn một đội quân lên đón đường đánh lũ nghịch-thần. Sài Thung bị tên bắn mù mất một mắt, trốn chạy về Tàu, còn lũ Trần di Ái bị bắt, phải tội đồ làm lính.


3. Thoát Hoan Sang Đánh Lần Thứ Nhất.

Nguyên-chủ thấy Sài Thung bị thương chạy về tức giận lắm, bèn sai con là Thoát Hoan làm Trấn-nam-vương, cùng với bọn Toa-Đô, Ô mã Nhi dẫn 50 vạn quân, giả tiếng mượn đường đi qua nước Nam sang đánh Chiêm-thành.

Quan trấn-thủ Lạng-sơn do-thám được tin ấy, sai người về Kinh-đô phi báo. Nhân-tông ngự thuyền ra sông Bình-than 39

chỗ sông Đuống nối với sông Thái-bình, để hội các vương-hầu bách quan lại bàn kế chống giữ.

Các quan, người thì nói nên để cho quân Nguyên mượn đường, người thì bảo nên đưa đồ sang cống để xin hoãn binh. Duy có Trần quốc Tuấn và Trần khánh Dư quyết xin đem quân đi phòng-giữ các nơi hiểm-yếu,

Làng Bình Than, tổng Vạn Ti, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh. không cho quân Mông-cổ sang nước Nam. Nhân-tông ưng nghe lời ấy. Đến tháng mười năm quí-mùi (1283) phong cho Hưng-đạo-vương là Trần-quốc- Tuấn làm Tiết-chế thống-lĩnh mọi quân đi chống giữ với quân nhà Nguyên.

Qua tháng tám năm giáp-thân (1284) ông Trần quốc Tuấn truyền hịch cho các vương-hầu hội hết quân-sĩ tại bến Đông-bộ-đầu để điểm-duyệt. Quân thủy và quân bộ hết cả thảy 20 vạn.

Ông Trần quốc Tuấn truyền cho các tướng-sĩ rằng: "Bản-chức phụng-mệnh thống đốc quân-sĩ ra phá giặc. Các vương-hầu và các tướng-sĩ, ai nấy phải cần giữ phép-tắc, đi đâu không được nhiễu dân và phải đồng lòng hết sức đánh giặc, chớ thấy thua mà ngã lòng, chớ thấy được mà tự kiêu, việc quân có luật, phép nước không thân, các ngươi phải giữ ".

Xong rồi sai Trần bình Trọng đem quân đi đóng đồn ở trên sông Bình-than, Trần khánh Dư đem quân ra giữ mặt Vân-đồn (thuộc Vân-hải ở Quảng-yên), còn các tướng thì chia ra đóng các nơi hiểm-yếu. Trần quốc Tuấn tự dẫn đại quân đóng ở Vạn-kiếp (tức là làng Kiếp-bạc thuộc Hải-dương) để tiếp-ứng cho các nơi.

Được ít lâu, Nhân-tông nghe tin về báo rằng nhà Nguyên hội tại Hồ- quảng sắp sửa kéo sang mặt Lạng-sơn. Vua có ý lo quân ta không địch nổi, bèn sai sứ mang đồ lể sang Tàu, xin vua nhà Nguyên hoãn binh, để thương- nghị lại.

Vua nhà Nguyên không nghe, sai Thoát Hoan cứ việc tiến binh sang. Nhân-tông thấy vậy, lập tức cho triệu các bô-lão dân-gian hội tại điện Diên- hồng để bàn xem nên hòa hay nên đánh. Các bô-lão đều đồng thanh xin đánh. Vua thấy dân-gian một lòng như vậy, cũng quyết ý kháng cự.

Quân Nguyên chia ra làm hai đạo: một đạo do tướng Mông-cổ là Toa Đô đem 10 vạn quân từ Quảng-châu đi hải-đạo sang đánh Chiêm-thành; còn Thoát Hoan thì kéo đại binh đến ải-quan, sai người đưa thư sang nói cho mượn đường đi đánh Chiêm-thành.

Nhân-tông tiếp được thư của Thoát Hoan, trả lời lại rằng: "Tự bản- quốc sang Chiêm-thành, thủy lục không có đường nào tiện ". Sứ-giã về nói với Thoát Hoan, Thoát Hoan nổi giận, thúc quân kéo sang mạn Lạng-sơn, rồi sang quan Bả-tổng tên là A Lý đến dụ rằng: "Bản-súy chỉ nhờ đường Nam- quốc sang đánh Chiêm-thành, chứ không có bụng gì đâu mà ngại. Nên mở cửa ải cho quân bản-súy đi, và đi dến đâu, nhờ giúp ít nhiều lương-thảo, rồi khi nào phá xong Chiêm-thành thì sẽ có trọng ta về sau. Nhược bằng kháng-cự thiên binh, thì bản-súy sẽ không dong tình, phá tan bờ-cõi, bấy giờ dù hối lại cũng không kịp ".

Hưng-đạo-vương Trần quốc Tuấn nổi giận, đuổi A Lý về, rồi phân binh giữ ải Khả-li và Lộc-châu (thuộc Lạng-sơn) còn mình thì tự dẫn quân đi đóng giữ núi Kì-cấp. Những chiến thuyền thì đóng ở Bái-tân 40 giữ mặt thủy.


4. Trần Hưng Đạo Vương Quân Thua Về Vạn Kiếp.

Thoát Hoan thấy Hưng-đạo-vương giữ cả các nơi, liền tiến binh lên đánh núi Kì-cấp, ải Khả-li và ải Lộc-châu. Quân hai bên đánh nhau ở núi Kì-cấp hai ba trận không phân thắng bại. Nhưng sau vì Khả-li và Lộc-châu thất thủ, quân An-nam phải rút về ải Chi-lăng 41. Thoát Hoan dẫn đại binh đến đánh Chi- lăng, Hưng-đạo-vương kém thế, thua chạy ra bến Bái-tân, xuống thuyền cùng với bọn gia-tướng, là Dã Tượng và Yết Kiêu về Vạn-kiếp. Các tướng thu nhặt tàn quân dần dần cũng kéo về đấy cả.

Nhân-tông nghe Hưng-đạo-vương thua chạy về Vạn-kiếp, liền ngự một chiếc thuyền nhỏ xuống Hải-đông (tức là Hải-dương) rồi cho vời Hưng- đạo-vương đến bàn việc, nhân thấy quân mình thua, trong bụng lo sợ, mới bảo Hưng-đạo-vương rằng: "Thế giặc to như vậy, mà chống với nó thì dân- sự tàn-hại, hay là trẫm hãy chịu hàng đi để cứu muôn dân".

Hưng-đạo-vương tâu rằng: "Bệ-hạ nói câu ấy thì thật là lời nhân- đức, nhưng mà Tôn-miếu Xã-tắc thì sao? Nếu bệ-hạ muốn hàng, xin trước hãy chém đầu tôi đi đã, rồi sau sẽ hàng!". Vua nghe lời nói trung-liệt như vậy, trong bụng mới yên.

Hưng-đạo-vương chiêu-tập quân các đạo, hội tại Vạn-kiếp được hơn 20 vạn quân, thế lại nổi to. Bấy giờ Hưng-đạo-vương có soạn ra một quyển Bình-thư yếu-lược

rồi truyền hịch khuyên-răn các tướng-sĩ. Tờ hịch ấy làm bằng Hán-văn, nay dịch ra quốc âm như sau này:

"Ta thường nghe chuyện: Kỷ Tín liều thân chịu chết thay cho vua Cao-đế; Do Vu lấy mình đỡ ngọn giáo cho vua Chiêu-vương; Dư Nhượng nuốt than để báo thù cho chủ; Thân Khoái chặt tay để cứu nạn cho nước; Kính Đức là một chức quan còn nhỏ, mà liều thân cứu vua Thái-tông được thoát vòng vây; Kiểu Khanh là một bề tôi ở xa, mà kể tội mắng thằng Lộc Sơn là quân nghịch-tặc. Các bậc trung-thần nghĩa-sĩ ngày xưa, bỏ mình vì nước, đời nào không có? Giả-sử mấy người ấy cũng cứ bo bo theo lối thường tình, chết già ở xo nhà thì sao cho lưu danh sử-sách đến nghìn muôn đời như thế được? Nay các ngươi vốn dòng vũ-tướng, không hiểu văn-nghĩa, nghe những chuyện cổ-tích ấy, nửa tin nửa ngờ, ta không nói làm gì nửa; ta hãy đem chuyện đời Tống, Nguyên mới rồi mà nói: Vương công Kiên là người thế nào? Tỳ-tướng của Vương công Kiên là Nguyễn văn Lập lại là người thế nào, mà giữ một thành Điếu-ngư 42 nhỏ mọn, chống với quân Mông-kha 43 kể hàng trăm vạn, khiến cho dân sự nhà Tống, đến nay còn đội ơn sâu. Đường ngột Ngại là người như thế nào? Tỳ-tướng của Đường ngột Ngại là Xích tu Tư lại là người thế nào, mà xông vào chỗ lam-chướng xa xôi, đánh được quân Nam-chiếu trong vài ba tuần, khiến cho quân-trướng đời Nguyên đến nay còn lưu tiếng tốt. Huống chi ta cùng các ngươi sinh ở đời nhiễu- nhương, gặp phải buổi gian-nan này, trông thấy những ngụy-sứ đi lại rầm- rập ngoài đường, uốn lưỡi cú diều mà xỉ-mắng triều-đình, đem thân dê chó mà bắt-nạt tổ-phụ, lại cậy thế Hốt tất Liệt mà đòi ngọc-lụa, ỷ thế Vân-nam- vương 44 để vét bạc vàng; của kho có hạn, lòng tham không cùng, khác nào như đem thịt mà nuôi hổ đói, giữ sao cho khỏi tai-vạ về sau! Ta đây, ngày thì quên ăn, đêm thì quên ngủ, ruột đau như cắt, nước mắt đầm-đìa, chỉ căm-tức rằng chưa được sả thịt lột da của quân giặc, dẫu thân này phơi ngoài nội cỏ, xác này gói trong da ngựa, thì cũng đành lòng. Các ngươi ở cùng ta coi giữ binh-quyền, cũng đã lâu ngày, không có áo thì ta cho áo, không có ăn thì ta cho ăn, quan còn nhỏ thì ta thăng thưởng, lương có ít thì ta tăng cấp, đi thủy thì ta cho thuyền, đi bộ thì ta cho ngựa, lúc hoạn-nạn thì cùng nhau sống chết, lúc nhàn-hạ thì cùng nhau vui cười, những cách cư-xử so với Vương công Kiên, Đường ngột Ngại ngày xưa cũng chẳng kém gì. Nay các ngươi trông thấy chủ nhục mà không biết lo, trông thấy quốc-sĩ mà không biết thẹn, thân làm tướng phải hầu giặc, mà không biết tức, tai nghe nhạc để hiến ngụy sứ, mà không biết căm; hoặc lấy việc chọi gà làm vui- đùa, hoặc lấy việc đánh bạc làm tiêu-khiển, hoặc vui thú về vườn ruộng, hoặc quyến-luyến về vợ con, hoặc nghĩ về lợi riêng mà quên việc nước, hoặc ham về săn-bắn mà quên việc binh, hoặc thích rượu ngon, hoặc mê tiếng hát. Nếu có giặc đến, thì cựa gà trống sao cho đâm thủng được áo-giáp; mẹo cờ-bạc sao cho dùng nổi được quân mưu; dẫu rằng ruộng lắm vườn nhiều, thân ấy nghìn vàng khôn chuộc; vả lại vợ bìu con díu, nước này trăm sự nghĩ sao; tiền-của đâu mà mua cho được đầu giặc; chó săn ấy thì địch sao nổi quân thù; chén rượu ngon không làm được cho giặc say chết; tiếng

-----------------------------------------------------------------
42 Điếu Ngư là tên núi, thuộc phủ Trùng Khánh, tỉnh Tứ Xuyên.

43 Mông Kha (Mungke) là vua Mông Cổ, anh Hốt Tất Liệt.

44 Khi quân Mông Cổ lấy được đất Vân Nam rồi, Hốt Tất Liệt phong cho con là Hố Kha Kích làm Vân Nam Vương.
-----------------------------------------------------------------

hát hay không làm được cho giặc điết tai; khi bấy giờ chẳng những là thái-ấp của ta không còn, mà bổng-lộc của các ngươi cũng hết; chẳng những là gia- quyến ta bị đuổi, mà vợ con của các ngươi cũng nguy; chẳng những là ta chịu nhục bây giờ, mà trăm năm về sau, tiếng xấu hãy còn mãi mãi; mà gia thanh của các ngươi cũng chẵng khỏi mang tiếng nhục, đến lúc bấy giờ các ngươi dẫu muốn vui-vẻ, phỏng có được hay không? Nay ta bảo thật các ngươi: nên cẩn-thận như nơi củi lửa, nên giữ-gìn như kẻ húp canh, dạy-bảo quân-sĩ, luyện-tập cung tên, khiến cho người nào cũng có sức khỏe như Bàng Mông và Hậu Nghệ, thì mới có thể dẹp tan được quân giặc, mà lập nên được công-danh. Chẳng những là thái-ấp ta được vững- bền, mà các ngươi cũng đều được hưởng bổng-lộc; chẳng những là gia- quyến của ta được yên-ổn, mà các ngươi cũng đều được vui với vợ con, chẳng những là tiên-nhân ta được vẻ-vang, mà các ngươi cũng được phụng- thờ tổ-phụ, trăm năm vinh-hiển; chẳng những là một mình ta được sung- sướng, mà các ngươi cũng được lưu-truyền sử-sách, nghìn đời thơm-tho; đến bấy giờ các ngươi dầu không vui-vẻ, cũng tự khắc được vui-vẻ. Nay ta soạn hết các binh pháp của các nhà danh-gia hợp lại làm một quyển gọi là "Binh-thư yếu-lược". Nếu các ngươi biết chuyên-tập sách này, theo lời dạy-bảo, thì mới phải đạo thần-tử; nhược bằng khinh bỏ sách này, trái lời dạy-bảo, thì tức là kẻ nghịch-thù. Bởi cớ saỏ Bởi giặc Nguyên cùng ta, là kẻ thù không đội trời chung, thế mà các ngươi cứ điềm-nhiên không nghĩ đến việc báo thù, lại không biết dạy quân-sĩ, khác nào như quay ngọn giáo mà đi theo kẻ thù, giơ tay không mà chịu thu quân giặc, khiến cho sau trận Bình-lỗ 45 mà ta phải chịu tiếng xấu muôn đời, thì còn mặt-mũi nài đứng trong trời đất nữa. Vậy nên ta phải làm ra bài hịch này để cho các ngươi biết bụng ta".


5. Thành Thăng Long Thất Thủ.

Các tướng-sĩ được lời khuyên- răn ấy, ai nấy hết lòng luyện-tập, quyết chí đánh giặc, cho nên người nào cũng lấy mực thích vào cánh tay hai chữ "Sát Đát " nghĩa là giết quân Mông-cổ. Khi Thoát Hoan lấy xong các ải ở Lạng-sơn rồi, thừa thắng đánh xuống Vạn-kiếp, quân An-nam non thế, địch không nổi thua chạy, bao nhiêu chuyến thuyền mất cả. Quân Mông-cổ bắt được quân An-nam thấy người nào cũng có hai chử "Sát Đát" ở cánh tay, giận lắm, đem giết sạch cả, rồi kéo tràn sang mặt Kinh-bắc. Thoát Hoan thả quân cho cướp phá vùng Võ- ninh, Gia-lâm, Đông-ngạn rồi kéo về đóng tại bến Đông-bộ-đầu, Hưng-đạo- vương lập trại mé ngạn để phòng giữ.

-----------------------------------------------------------------
45 Bình Lỗ là tên thành, nhưng sử cũ không chép rõ ở đâu và ai xây lên. Sách "Khâm Định Việt Sử" chép rằng theo bộ "Dư Địa Chí" của ông Nguyễn Trãi, thì đời nhà Lý có đào con sông Bình Lỗ để đi lên Thái Nguyên cho tiện. Vậy thành Bình Lỗ có lẽ ở vào hạt Thái Nguyên. Xem lời dặn của Trần Hưng Đạo Vương thì thành Bình Lỗ này xây vào đời Đinh hay đời Tiền Lê, rồi Lý Thường Kiệt đời Lý đã đánh quân Tống ở đó.
-----------------------------------------------------------------

Thoát Hoan thấy phía nam ngạn sông Hồng-hà 46 có trại quân An- nam đóng giữ, mới sai quân lấy súng đại-bác bắn sang, phá tan cả các trại, quân-sĩ khiếp-sợ bỏ chạy hết sạch. Quân Mông-cổ bấy giờ làm cầu phao qua sông, kéo đến tận chân thành Thăng-long hạ trại.

Hưng-đạo-vương rước xa-gía Thượng-hoàng và vua ra ngoài Thăng- long, để các tướng ở lại giữ thành. Đến khi Thoát Hoan vây đánh, hạ được thành, biết rằng Hưng-đạo-vương đã rước xa-giá xuống mặt nam rồi, liền sai tướng dẫn quân đi đuổi đánh.


6. Toa Đô Đánh Nghệ An.

Toa Đô là tướng đạo thứ hai quân Nguyên, đi đường bể sang đánh Chiêm-thành, nhưng mà quân nước Chiêm giữ được các đường hiểm-yếu, đánh mãi không được. Nguyên chúa hạ chiếu sai Toa Đô theo đường bộ kéo ra mặt Nghệ-an, hợp với quân Thoát Hoan để đánh An-nam.

Thoát Hoan được biết tin ấy, liền sai tương Ô mã Nhi dẫn quân đi đường bể vào tiếp-ứng cho Toa Đô để đánh tự mặt trong đánh ra, còn ở mặt ngoài thì chiến thuyền của nhà Nguyên chia ra giữ các bến đóng ở sông Hồng-hà 47 từ Thăng-long xuống đến khúc sông Đại-hoàng (thuộc huyện Nam-xang, Hà-nam).


7. Hưng Đạo Vương Đem Vua Về Thanh Hóa.

Bấy giờ Hưng-đạo-vương dẫn các tương hộ-vệ xa-giá xuống Thiên-trường, nghe Toa Đô từ vùng trong kéo ra, Hưng-đạo-vương tâu vua xin sai Thượng-tướng Trần quang Khải đưa binh vào đóng mặt Nghệ-an, giữ chặn đường hẽm, không cho Toa Đô ra, và sai Trần bình Trọng ở lại giữ Thiên-trường cự nhau với quân Thoát Hoan, rồi rước xa-giá ra Hải-dương.

Trần quang Khải vào đến Nghệ-an, chia quân phòng giữ, nhưng mà quân nhà Nguyên thế mạnh, đi đến đâu đánh tan đến đấy, lại có Ô mã Nhi ở mặt bể đánh vào. Quang Khải đương không nổi, phải lui quân ra mặt ngoài. Còn quan trấn-thủ Nghệ-an là Trần Kiện đem cả nhà ra hàng với Toa Đô. Toa Đô cho đưa bọn Trần Kiện về Yên-kinh.

Hưng-đạo-vương nghe tin, sai tướng đem quân đi lẻn đường tắt đuổi theo. Khi quân Nguyên đưa Trần Kiện đến địa-phận Lạng-sơn, qua trại Ma-lục (?), thì có người thổ-hào ở đấy tên là Nguyễn thế Lộc và Nguyễn Lĩnh

------------------------------------------------------------------
46 Sử chép là Phú Lương Giang.

47 Sử chép là Phú Lương Giang. đem dân binh ra đánh. Lại có quan quân đuổi đến nơi, quân Nguyên bỏ chạy. Trần Kiện bị tên bắn chết, nhưng có người nhà là Lê Tắc cướp được thây chạy thoát, đưa đến gò Ôn-khâu (Lạng-sơn) mai-táng xong rồi trốn sang Tàu. Lê Tắc là dòng dõi Nguyễn Phu làm Thứ-sử Giao-châu về đời Đông-Tấn (317-419) ngày trước. Tự lúc trốn sang Tàu rồi, Lê Tắc có làm bộ sử "An-nam chí-lược". Bộ sử ấy hiện bây giờ còn có ở bên Tàu và bên Nhật-bản.
------------------------------------------------------------------


ở Thiên-trường, Trần bình Trọng thấy quân nhà Nguyên đã đến bãi Đà-mạc (ở khúc sông Thiên-mạc, huyện Đông-an, Hưng-yên) liền đem binh ra đánh, nhưng chẳng may bi vây, phảI bắt. Quân Nguyên đưa Bình Trọng về nộp cho Thoát Hoan. Thoát Hoan biết Bình Trọng là tướng khỏe-mạnh, muốn khuyên-dỗ về hàng, thết-đãi cho ăn-uống, nhưng Bình Trọng không ăn, dỗ-dành hỏi dò việc nước, Bình Trọng cũng không nói. Sau Thoát Hoan hỏi rằng: "Có muốn là vương đất Bắc không?" Bình Trọng quát lên rằng: "Tà thà làm quỉ nước Nam, chứ không thèm làm vương đất Bắc. Ta đã bị bắt thì có một chết mà thôi, can gì mà phải hỏi lôi-thôi!" Thoát Hoan thấy dỗ không được, sai quân đem chém.

Thánh-tông thượng-hoàng cùng Nhân-tông và Hưng-đạo-vương nghe tin Trần Bình Trọng tử-tiết, ai nấy động lòng thương-xót.

Hưng-đạo-vương thấy thế nguy-cấp lắm, bèn rước xa-giá ra Quảng- yên. Thuyền đi về đường sông Tam-chỉ (thuộc châu Tiên-yên), sai một tướng dẫn chiếc thuyền rồng ra cửa bể Ngọc-sơn (thuộc châu Vạn-ninh, tỉnh Quảng-yên) làm cho nghi tình quân giặc. Tướng nhà Nguyên là Lý Hằng và Khoan Triệt sai người do-thám biết thuyền ra Ngọc-sơn là giả, mới dẫn quân đuổi theo đến sông Tam-chỉ, Hưng-đạo-vương rước xa-giá lên bộ đi đến làng Thủy-chú rồi lại xuống thuyền ra sông Nam-triều (tức Bạch-đằng-giang, thuộc Hải-dương) rồi vaò tỉnh Thanh-hóa. Bấy giờ quân Nguyên thế lắm, đóng khắp các nơi, từ vùng Bắc-ninh, Thăng-long, Thiên-trường, chỗ nào cũng có quân đóng. Ở vùng Nghệ-an lại có Toa Đô, Đường ngột Ngải, Ô mã Nhi đánh ra. Nhân-tông kinh-hãi, Thượng-hoàng đêm ngày lo sợ. Nhà nước ngất-ngưởng nguy như trứng chồng. Bọn Hoàng-tộc là Trần ích Tắc, Trần tú Viên đều ra hàng Thoát Hoan cả. Chỉ có Hưng-đạo-vương phụng xa-giá đi, trèo non vượt bể, trải gió dầm mưa, thế lực tuy cùng, nhưng vẫn bền vững một lòng, tìm kế đánh giặc, lo liệu việc nước không rối sợ lúc nào. Thật là một người có tài đại-tướng, có thể cứu dân giúp nước, tiếng để muôn đời.


8. Trận Hàm Tử Quan - Trần Nhật Duật phá quân Toa Đô:

Đạo quân của Toa Đô ở Chiêm-thành kéo ra đánh lấy đất Nghệ-an. Trần quang Khải đem quân lùi ra mặt ngoài giữ các đường hiểm-yếu. Toa Đô đánh mãi không được, mà lương-thảo thì một ngày một cạn, bèn cùng với Ô mã Nhi dẫn quân xuống thuyền vượt bể ra ngoài Bắc để hợp binh với Thoát Hoan. Trần quang Khải được tin ấy, cho người về Thanh-hóa phi báo. Nhân-tông hội quân-thần lại hỏi kế, Hưng-đạo-vương tâu rằng: "Toa Đô tự Chiêm- thành trở ra, qua vùng Ô-lý (Thuận-hóa), Hoan (Nghệ-an), Ái (Thanh-hóa), đường sá gập-ghềnh, quân-sĩ vất-vả, nay lại vượt bể ra Bắc, thì sức-lực cũng đã mỏi-mệt. Vậy nay nên sai một tướng nên ra đón đường mà đánh thì chắc phá được".

Nhân-tông nghe lời, sai Chiêu-văn-vương Trần nhật Duật làm tướng và Trần quốc Toản 48

làm phó-tướng cùng với tướng-quân là Nguyễn Khoái đem 5 vạn quân ra đón đường đánh Toa Đô ở mặt Hải-dương. Tháng tư năm ất-dậu (1285) Trần nhật Duật ra đến Hàm-tử (thuộc huyện Đông-an, Hưng-yên) thì gặp chiến thuyền của Toa Đô, Nhật Duật liền phân binh ra đánh. Quân Nhật Duật bấy giờ có bọn Triệu Trung là tướng nhà Tống sang xin tùng chinh, mặc áo đeo cung như quân nhà Tống. Đến khi giáp trận, quân Nguyên trông thấy bọn Triệu Trung, tưởng là nhà Tống đã khôi-phục được nước Tàu, rồi cho quân sang cứu An-nam, đứa nào cũng sợ-hãi bỏ chạy. Quân ta đuổi đánh, quân giặc thua to chết hại rất nhiều. Toa Đô phải lùi ra ở bải Thiên-trường.

Trần nhật Duật thắng trận, cho Quốc Toản đưa tin về Thanh-hóa. Hưng-đạo-vương được tin mừng ấy, vào tâu với vua rằng: "Quân ta mới thắng, khí-lực đang hăng, mà quân Nguyên mới thua, tất cũng chột dạ. Vậy nên nhân dịp này mà tiến quân đánh Thoát Hoan để khôi phục Kinh-thành".

Vua nghe lời truyền sắp sửa tiến binh. Sực có Thượng tướng Trần quang Khải ở trong Nghệ-an ra, xin đi đánh Thoát Hoan. Vua liền sai Quang Khải thu-xếp quân-sĩ để ra đánh Thăng-long và truyền hịch sai Trần nhật Duật đóng quân giữ chặn đường không cho bọn Toa Đô kéo lên hợp với Thoát Hoan.

------------------------------------------------------------------
48 Sử chép rằng khi vua Nhân Tông hội các vương thần ở Bình Than để bàn việc chống giặc, Trần Quốc Toản bấy giờ mới có 15, 16 tuổi cũng theo ra hội. Vì còn nhỏ tuổi cho nên không được dự bàn, Quốc Toản căm tức vô cùng, trong tay cầm quả cam bóp vỡ nát ra lúc nào không biết. Khi tan hội, ai nấy về lo sửa soạn binh thuyền. Quốc Toản về nhà cùng tụ họp những người thân thuộc, sắm đồ khí giới, may lá cờ đề sáu chữ: "Phá Cường Địch Báo Hoàng Ân" Rồi đem quân đi đánh giặc. Đánh chỗ nào quân giặc cũng phải lùi.
------------------------------------------------------------------


9. Trận Chương-Dương-Độ - Trần Quang Khải khôi phục Thăng Long:

Khi bấy giờ đại binh của Thoát Hoan đóng tại Thăng-long, còn chiến thuyền thì lại đóng ở bến Chương-dương, địa phận huyện Thượng-phúc.

Trần quang Khải với Trần quốc Toản và Phạm ngũ Lảo đem quân từ Thanh-hóa đi thuyền vòng đường bể ra đến bến Chương-dương, sấn vào đánh chiến-thuyền của quân Nguyên. Quan quân đánh hăng quá, quân Nguyên địch không nổi phải bỏ chạy. Quan quân lên bộ đuổi đánh về đến chân thành Thăng-long hạ trại. Thoát Hoan đem đại quân ra cự địch, bị phục binh của Trần quang Khải đánh úp lại, quân Nguyên phải bỏ thành Thăng-long chạy qua sông Hồng-hà sang giữ mặt Kinh-bắc (Bắc-ninh).

Trần quang Khải đem quân vào thành mở tiệc khao quân. Đến khi uống rượu vui-vẻ, Quang Khải ngâm bài thơ rằng:

Đoạt sáo Chương-dương-độ
Cầm hồ Hàm-tử quan
Thái-bình nghi nỗ lực
Vạn cổ thủ giang-san

Dịch nôm:

Chương-dương cướp giáo-giặc
Hàm-tử bắt quân thù
Thái-bình nên gắng sức
Non nước ấy nghìn thu


Trần quang Khải sai người về Thanh-hoá dâng biểu báo tin thắng trận. Vua Nhân-tông thấy quân thế đã mạnh, trong hai tháng đánh được hai trận, quân-sĩ ai nấy đều nức lòng đánh giặc, bèn rước Thượng-hoàng và cất binh-mã ra đóng ở Tràng-an (Ninh-bình).


10. Trận Tây Kết - Tướng Nhà Trần Chép Được Toa Đô:

Toa Đô đóng quân ở Thiên-trường xa cách Thoát Hoan hơn 200 dặm, cho nên chưa biết Thoát Hoan đã thua chạy về Bắc-giang rồi, bèn tiến bình vào đóng ở sông Thiên-mạc 51

định để hợp sức với Thoát Hoan làm thế ỷ- giốc. Được mấy hôm Toa Đô biết đạo tiền quân của mình đã bại trận, mà

------------------------------------------------------------------
51 Thiên Mạc là một khúc sông Hồng Hà ở vào địa hạt huyện Đông An, tỉnh Hưng Yên.
------------------------------------------------------------------

các bến thì chỗ nào cũng có quân nhà Trần án ngữ, mới lui về đóng ở Tây- kết 52 rồi cho người đi dò xem quân Thoát Hoan đóng ở đâu.

Quân An-nam từ khi đánh được trận Hàm-tử và trận Chương-dương rồi, quân-thế phấn chấn lắm. Hưng-đạo-vương mừng rỡ, vào tâu với Nhân- tông xin một mặt sai Chiêu-văn-vương Trần nhật Duật, hợp với Thượng- tướng Trần quang Khải dẫn quân chặn các đường, không cho Thoát Hoan, Toa Đô đi lại thông tin với nhau, và một mặt xin tự tiến binh ra đánh Toa Đô, rồi đánh Thoát Hoan.

Nhân-tông nghe lời ấy, cho Hưng-đạo-vương tùy ý mà sai khiến. Khi quân ra đến Tây-kết, Hưng-đạo-vương chia quân ra đánh trại quân Nguyên, và đặt phục binh để bắt Toa Đô.

Quân ta đánh hăng quá, quân Nguyên không địch nổi, Toa Đô và Ô mã Nhi đem binh lên bộ chạy ra mặt bể, nhưng khi chạy đến mé sau một dãy núi, thì bị quân An-nam vây đánh, Toa Đô trúng tên chết, còn Ô mã Nhi thì tìm đường chạy vào Thanh-hóa, nhưng bị quân ta đánh đuổi ngặt quá, phải một mình lẻn xuống chiếc thuyền con chạy ra bể, trốn về Tàu được.

Khi các tướng thắng trận, đưa đầu Toa Đô về nộp, Nhân-tông thấy người dũng-kiện mà lại hết lòng với chúa, mới than rằng: "Làm bầy tôi nên như người này!" rồi cởi áo ngự-hào đắp vào đầu Toa Đô, sai quan dùng lễ mai-táng cho tử-tế.

Trận Tây-kết đánh vào tháng năm, năm ất-dậu (1285) quan quân bắt được quân Nguyên hơn 3 vạn người, và chiến-thuyền khí-giới không biết bao nhiêu mà kể. Hưng-đạo-vương được trận toàn thắng, mở tiệc khao thưởng ba quân, rồi lên đánh mặt bắc, để tiểu-trừ Thoát Hoan.


11. Trận Vạn Kiếp - Thoát Hoan Trốn Chạy Về Tàu:

Bấy giờ Thoát Hoan đóng quân ở Bắc-giang, nghe tin đồn Toa Đô tử trận, Ô mã Nhi đã trốn về Tàu, quân-binh tướng-sĩ ai nấy đều ngã lòng cả. Vả lại trời đang mùa hè nóng-nực khó chịu, sơn-lam chướng-khí bốc lên, quân-sĩ bị dịch-tễ chết hại cũng nhiều. Bởi thế có bụng muốn rút quân về Tàu.

Hưng-đạo-vương cũng biết cơ Thoát Hoan tất phải chạy, liền sai Nguyễn Khoái, Phạm ngũ Lão dẫn 3 vạn quân đi lên đường núi, phục sẵn hai bên rừng sậy ở bên sông Vạn-kiếp, để chờ lúc quân Nguyên chạy đến thì đổ

------------------------------------------------------------------
52 Hiện nay thuộc phủ Khoái Châu (Hưng Yên) có làng Đông Kết ở vào trong cách xa bờ sông Hồng Hà. Hoặc ở phía tây gần bờ sông, ngày xưa có làng Tây Kết mà nay đã lỡ mất đi chăng?
------------------------------------------------------------------

ra đánh; sai hai con là Hưng-võ-vương Nghiễn và Hưng-hiếu-vương Úy dẫn 3 vạn quân đi đường Hải-dương ra mặt Quảng-yên, giữ chặn đường về châu Tư-minh; Hưng-đạo-vương tự dẫn đại quân lên Bắc-giang đánh quân Nguyên. Quân Nguyên thua chạy, Thoát Hoan dẫn đại binh chạy đến bến Vạn-kiếp, gặp bọn Nguyễn Khoái ra đánh, quân Nguyên mười phần tổn-hại mất năm. Tướng nhà Nguyên là Lý Hằng bị tên bắn chết. Còn Thoát Hoan, Phàn Tiếp , A bát Xích, Lý Quán cố sức đánh lấy đường mà chạy. Sau thấy quân An-nam đuổi kíp quá, Thoát Hoan phải chui vào cái ống đồng để lên xe bắt quân kéo chạy. Về gần đến châu Tư-ninh lại gặp bọn Hưng-võ-vương Nghiễn và Hưng-hiếu-vương Úy đánh đuổi một trận nửa. Lý Quán trúng tên bắn chết. Thoát Hoan, A bát Xích và Phàn Tiếp chạy thoát về Tàu được.

Thế là Đại-quân của Thoát Hoan lúc đầu mới sang lừng-lẫy bao nhiêu, bây giờ tan nát mất cả. Trong sáu tháng trời, từ tháng chạp năm giáp thân (1284) đến tháng sáu năm ất dậu (1285), quân An-nam đuổi 50 vạn quân Mông-cổ ra ngoài bờ-cỏi, chỉnh-đốn giang-sơn lại như cũ. Ấy cũng nhờ có tay Hưng-đạo-vương có tài đại-tướng, cầm quân vững-chãi, gan bền tựa sắt, và lại khéo dùng lời khuyên-dỗ, khiến cho bụng người cảm-động, sinh lòng trung-nghĩa, cho nên tướng-sĩ ai nấy đều hết lòng giúp nước.

Vả nước An-nam thời bấy giờ vua tôi hòa-hợp, lòng người như một, nhân-tài lũ-lượt kéo ra; mà quân Nguyên sang An-nam thì đường xa muôn dặm, núi sông cách trở, hùng mạnh được lúc đầu mà thôi, sau thành ra bệnh-tật yếu-đau. Như thế mà lại gặp phải tay Hưng-đạo-vương Trần quốc Tuấn dụng binh biết đợi thời, biết thừa thế tiến thoái, cho nên sự quân nhà Nguyên thua tan-nát là sự tất-nhiên vậy.


{40 Ở Thượng lưu sông Lục Nam, có lẽ là bến Chữ. } {41 Cửa Chi Lăng, tục gọi là bầu Chi Lăng ở tổng Chi Lăng, gần ga Tuần Muội, thuộc về địa hạt châu Ôn, tỉnh Lạng Sơn. Chỗ ấy là một nơi hiểm địa nước Nam ta. Trần Hưng Đạo Vương sau lại phá quân Nguyên ở chỗ ấy, và đến đầu đời Lê, vua Thái Tổ giết tướng nhà Minh là Liễu Thăng cũng ở chỗ ấy.}
^o^Nụ cười của em đã khiến bối rối tim này..-_-
--_..Anh biết đã yêu em rồi..__

cop_xong_paste

Chương 18

GIẶC NHÀ NGUYÊN II (1284-1288)


1. Nguyên-chủ định khởi binh phục thù
2. Thoát Hoan sang đánh lần thứ hai
3. Trận Vân-đồn Trần khánh Dư cướp lương của quân Nguyên
4. Trận Bạch-đằng-giang Ô mã Nhi phải bắt
5. Hưng-đạo-vương đại phá Nguyên-binh
6. Sứ An-nam sang Tàu xin hòa
7. Định công, phạt tội
8. Định cuộc hòa-hiếu



1. Nguyên Chủ định khởi binh phục thù

Hưng-đạo-vương Trần quốc Tuấn phá được quân Nguyên rồi thì kéo quân về Trường-Yên, rước Thượng-hoàng và Nhân-tông ra Thăng-long. Giang-sơn nhà Trần lại khôi phục đâu vào đấy cả. Bọn Thoát Hoan bại trận về Tàu, nghĩ khi đi thì thanh- thế lừng-lẫy bao nhiêu, khi về thì hao binh tổn tướng, lấy làm xấu hổ lắm. Định xin Nguyên-chủ cho thêm binh-mã sang đánh báo thù. Nguyên-chủ thấy bọn Thoát Hoan bại trận về, giận lắm, muốn bắt chém cả, nhưng quân-thần can-ngăn mãi mới thôi.

Bấy giờ nhà Nguyên đang sắp sửa cất quân sang đánh Nhật-bản, bèn lập tức đình việc đi đánh Nhật-bản lại và sai đóng thêm 300 chiếc thuyền, truyền hịch cho ba tỉnh Giang-hoài, Hồ-quảng, Giang-tây tụ tập quân-sĩ, định đến tháng tám thì cất quân noi đường châu Khâm, châu Liêm sang đánh nước Nam để báo thù.

Quan tỉnh Hồ-nam là Tuyến Kha dâng sớ về can rằng: "Quân ta bại trận mới về, kẻ mang dấu-vết chưa khỏi, người đau-yếu chưa dậy, xin hãy cho quân-sĩ nghỉ-ngơi dưỡng sức ít lâu, rồi sẽ định kế xuất chinh".

Vua nhà Nguyên nghe lời, cho quân-sĩ nghĩ vài tháng. Còn Trần Ích Tắc đã theo Thoát Hoan về Tàu, thì cho ra ở Ngạc-châu.

Nhân-tông nghe tin Nguyên-triều sắp sửa cất quân sang đánh An- nam, bèn vời Hưng-đạo-vương vào hỏi rằng: "Thoát Hoan bại trận trở về, chuyến này căm-tức định sang đánh báo thù, quân-thế hẳn to hơn trước, ta nên dùng kế gì mà chống lại được?" Hưng-đạo-vương tâu rằng: "Nước ta xưa kia, quân-dân hưởng thái-bình đã lâu, không tập đến việc chiến-trận, cho nên năm trước quân Nguyên vào cướp còn có kẻ trốn-tránh theo hàng- giặc. May nhờ có oai-linh Tổ-tông, và thần-võ của Bệ-hạ, đi đến đâu đánh được đến đấy, cho nên mới quét sạch được bờ-cõi. Còn như bây giờ quân ta quen việc chinh-chiến, mà quân nghịch thì đi xa mỏi-mệt. Vả lại thấy Toa Đô, Lý Hằng, Lý Quán tử trận, tất cũng chột dạ, quân-tình đã sinh nghi-sợ, hẳn không dám hết sức mà đánh. Cứ như ý tôi, thì chuyến này dù có quân Nguyên sang đây, ta phá cũng dễ hơn phe trước, xin bệ-hạ đừng lo".

Nhân-tông mừng rỡ, sai Hưng-đạo-vương đốc-suất các vương-hầu, mộ thêm quân-sĩ, sử-sang khí-giới để phòng việc công thủ.


2. Thoát Hoan Sang Đánh Lần Thứ Hai.

Sang mùa xuân tháng hai năm đinh-hợi (1287) Nguyên-chủ kén lấy 7 vạn quân, 5 trăm chiếc thuyền, 6 nghìn quân Vân-nam và 1 vạn 5 nghìn quân ở bốn châu ngoài bể, sai Thoát Hoan làm Đại-nguyên-súy, A bát Xích làm Hành-tỉnh-tả-thừa, Áo lỗ Xích làm Bình-chương-chính-sự, Ô mã Nhi, Phàn Tiếp làm Tham-tri chính-sự, đem tất cả hơn 30 vạn quân sang đánh nước Nam, giả danh đưa Trần ích Tắc về nước, lập làm An-nam quốc-vương 53. Lại sai Vạn-hộ Trương văn Hổ theo đường bể tải hơn (17) 54 vạn thạch lương sang cấp cho quân-sĩ.

Qua tháng mười một, Thoát Hoan dẫn quân noi đường Châu-khâm, châu Liêm đến châu Tư-minh; sai bọn Trương Ngọc lĩnh 2,000 quân coi việc chở lương-thực, khí-giới lại sai Trình bằng Phi, Áo lỗ Xích, mỗi người dẫn 1 vạn quân đi đường bộ; Ô mã Nhi, Phàn Tiếp suất lĩnh thủy-quân đi đường bể, đều tiến sang An-nam.

Quan Trấn-thủ ở biên-thùy phi báo về Thăng-long. Các quan xin tuyển thêm binh. Hưng-đạo-vương nói rằng: "Binh cốt giỏi, chứ không cốt

------------------------------------------------------------------
53 Có sách chép rằng: Thoát Hoan sang đánh An Nam lần thứ hai này có đem một tên hướng đạo là Nguyễn Nhan, tên chữ là Nguyễn Bá Linh, phạm tội trảm quyết, tình nguyện đi đánh để lập công chuộc tội. Cha tên Nguyễn Nhan là người Quảng Đông sang buôn bán ở nước Nam, lấy vợ ở làng An Bài, huyện Đông Triều, đẻ ra Bá Linh, cho về Tàu học, thi đỗ tiến sĩ, lại cao tay phù thủy. Khi sang An Nam, nó dùng phép để giúp quân Nguyên. Sau Hưng Đạo Vương bắt được, đưa về chém ở làng An Bài, là quê mẹ nó. Tục truyền rằng khi tên Nguyễn Nhan chết rồi hồn nó bay hiện lên trêu ghẹo đàn bà con gái, mà hễ ai phạm đến nó thì chết, cho nên gọi là Phạm Nhan.

54 Sử cũ chép là 70 vạn thạch.
------------------------------------------------------------------

nhiều, nếu nhiều mà không giỏi, thí-dụ như Bồ Kiên có trăm vạn quân cũng không ích-gì!"

Nhân-tông sai Hưng-đạo-vương thống-lĩnh các vương-hầu, chia quân phòng-giữ các nơi.

Hưng-đạo-vương sai Trần nhật Duật, Nguyễn Khoái dẫn 3 vạn quân lên giữ mặt Lạng-sơn; sai Trần quốc Toản, Lê phụ Trần dẫn 3 vạn quân và giữ mặt Nghệ-an; tự mình thống đại quân ra giữ mặt Quảng-yên. Một mặt sai tiền-quân lên gần châu Tư-minh chia ra đóng làm ba đồn: Sa, Từ, Trúc, để chống-giữ quân Nguyên; một mặt sai tướng đem quân ra giữ chặt cửa sông Đại-than (thuộc Hải-dương) còn đại-quân của Hưng-đạo-vương thì đóng lại núi Phù-sơn.

Quan quân tuy đóng giữ như vậy, nhưng quân Nguyên thế to lắm, chống không nổi, phải rút về Vạn-kiếp; Thoát Hoan tiến lên chiếm giữ núi Phả-lại và núi Chí-linh, lập trại chống nhau với quân ta, rồi sai tướng là Trình bằng Phi đem hai vạn lính đánh lấy đồn Vạn-kiếp, lại sai Ô mã Nhi và A bát Xích dẫn quân từ sông Lục-đầu đánh xuống sông Hồng-hà.

Hưng-đạo-vương rút quân về giữ Thăng-long và sai tướng rước xa- giá tạm lánh về Hám-nam (?).

Nhưng sau khi bị bọn Ô mã Nhi đuổi ngặt quá, Thượng-hoàng và Nhân-tông phải xuống thuyền ra bể đi vào Thanh-hóa. Ô mã Nhi đuổi không kịp, đem quân trở về qua Long-hưng (phủ Tiên-hưng, Thái-bình) biết ở đấy có Thiên-lăng, là lăng tổ nhà Trần, bèn sai quân đến phá nát cả đi.

Thoát Hoan đem binh-mã tiến lên vây đánh Thăng-long không được, phải rút về giữ Vạn-kiếp, Chí-linh và Phả-lại, Hưng-đại-vương cũng tiến quân lên lập trại để chống với giặc.

Nhân-tông thấy quân Nguyên đã lùi rồi bèn rước Thượng-hoàng ra Bắc.


3. Trận Vân Đồn - Trần khánh Dư cướp lương của quân Nguyên. Quân Nguyên đóng mãi ở Vạn-kiếp lương-thực sắp cạn, Thoát Hoan bèn sai Ô mã Nhi dẫn thủy-quân ra cửa bể Đại-bàng (huyện

55 Huyện Nghi Dương nay thuộc về tỉnh Kiến An. Nghi-dương, Hải-dương) 56

đón thuyền lương của Trương văn Hổ. Ô mã Nhi đem thuyền đi đến ải Vân-đồn (Vân-hải, Quảng-yên) gặp quân của Nhân- huệ-vương Trần khánh Dư chặn đường không cho đi. Ô mã Nhi thúc quân đánh rát một trận, quân Khánh Dư thua bỏ chạy cả. Quân Nguyên kéo thẳng ra bể đi đón thuyền lương.

Thượng-hoàng nghe tin thủy-quân ở Vân-đồn bại trận, cho sứ ra bắt Khánh Dư về hỏi tội.

Khánh Dư từ khi thất trận, đang nghĩ kế phục binh thù, bỗng thấy sứ ra bắt, Khánh Dư tiếp sứ rồi nói rằng: "Tôi sai tướng-lệnh đành thôi chịu tội, nhưng xin khoan cho tôi một vài hôm, may mà tôi lập được công khác để chuộc tội chăng?"

Được mấy hôm Ô mã Nhi ra bể gặp thuyền lương của Trương văn Hổ, lại đem quân trở vào đi trước dẹp đường. Trương văn Hổ đem thuyền lương theo vào sau.

Khánh Dư đồ rằng Ô mã Nhi đã phá được quân ta, trong bụng hắn chắc rằng không còn ai ngăn-trở gì nữa, cho nên mới khinh thường đem binh thuyền đi trước. Khánh Dư bèn nhặt-nhạnh thuyền-bè phục quân sẵn đợi thuyền lương của Trương văn Hổ đến thì kéo ra đánh.

Quả-nhiên Trương văn Hổ tải các thuyền lương vào cửa bể Lục-thủy- dương (phía đông-nam huyện Hoành-bồ tức là vịnh cửa Lục bây giờ). Khánh Dư đổ quân ra đánh. Văn Hổ địch không nổi, bao nhiêu thuyền lương bị quân của Khánh Dư phá cướp mất cả, và bắt được khí giới rất nhiều. Còn Trương văn Hổ thì chạy xuống chiếc thuyền nhỏ trốn về Quỳnh-châu.

Khánh Dư thắng trận đưa thư về báo tiệp. Thượng-hoàng mừng rỡ, xá tội trước không hỏi, và bảo Hưng-đạo-vương rằng: "Quân Nguyên cốt trông cậy có lương-thảo khí-giới, nay đã bị ta cướp được cả rồi, thì thế nó không tràng-cửu được nữa. Nhưng nó chưa biết tất còn đắc chí, vậy ta nên tha những quân bị bắt cho về báo tin với Thoát Hoan, thì quân-sĩ của nó tất ngã lòng, bấy giờ mới phá rất dễ".

Hưng-đạo-vương tuân lệnh, cho lũ quân Nguyên về. Từ đấy quân của Thoát Hoan xôn-xao, có bụng muốn về Tàu, mà lương-thực một ngày một cạn.

------------------------------------------------------------------
56 Bấy giờ thuộc huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh, liền với Bình Than.
------------------------------------------------------------------

Ô mã Nhi từ khi ở ải Vân-đồn trở về, chờ mãi không thấy thuyền lương đến, bèn đem quân đến phá trại An-hưng (thuộc Quảng-yên) rồi rút về Vạn-kiếp.


4. Trận Bạch Đằng Giang - Ô mã Nhi phải bắt.

Quân Nguyên từ khi thua trận Vân-đồn, lương-thảo một ngàymột cạn đi, Thoát Hoan muốn cho người về Tàu cầu viện và lấy thêm lương, Hưng-đạo-vương biết ý, sai tướng lên giữ núi Kỳ-cấp và ải Nữ-nhi ở mặt Lạng-sơn không cho người Tàu đi lại.

Các tướng thấy vậy bèn vào bàn với Thoát Hoan rằng: "Quân ta đóng ở đây, thành-trì đã không có, kho-tàng lại cạn cả; và bây giờ là đang lúc hết xuân sang hạ, khí trời nồng-nực, mà lại những chổ hiểm-yếu đều mất cả, chi bằng hãy rút quân về, rồi sau sẽ liệu kế khác".

Thoát Hoan thấy quân thế của Hưng-đạo-vương mạnh lắm, chưa có thể phá được, bèn nghe lời các tướng, sai Ô mã Nhi, Phàn Tiếp dẫn thủy- quân theo đường sông Bạch-đằng 57

về trước. Còn mặt bộ thì sai Trình bằng Phi, Trương Quân dẫn binh đi chặn hậu. Sửa-soạn định vài hôm nữa thì rút về.

Hưng-đạo-vương biết mưu ấy, bèn sai Nguyễn Khoái dẫn binh lẻn qua đường tắt mé sông thượng-lưu sông Bạch-đằng, kiếm gỗ đẽo nhọn bịt sắt đóng khắp giửa giòng sông, rồi phục binh chờ đến lúc nào nước thủy- triều lên thì đem binh ra khiêu-chiến, nhử cho thuyền giặc qua chỗ đóng cọc. Hễ lúc nào nước thủy-triều xuống thì quay binh lại hết sức mà đánh. Lại sai Phạm ngũ Lão, Nguyễn chế Nghĩa dẫn quân lên phục ở ải Nội-bàng (thuộc Lạng-sơn) chờ quân Nguyên chạy lên đến đấy thi đổ ra mà đánh.

Các tướng đi đâu đấy cả rồi. Hưng-đạo-vương tiến quân lên đánh giặc, sực nghe tin báo rằng Ô mã Nhi đã kéo quân về đến Bạch-đằng, Hưng- đạo-vương mới hô quân-sĩ , trỏ sông Hóa-giang (58) mà thề rằng: "Trận này không phá xong giặc Nguyên, thì không về đến sông này nửa!" Quân-sĩ ai nấy đều xin quyết chiến, kéo một mạch đến sông Bạch-đằng.

Những chiến-thuyền của Ô mã Nhi, Phàn Tiếp theo giòng sông Bạch- đằng, bỗng chốc thấy tướng nhà Trần là Nguyễn Khoái dẫn chiến thuyền đến khiêu-chiến. Ô mã Nhi tức giận thúc quân xông vào đánh, Nguyễn

------------------------------------------------------------------
57 Sông Bạch Đằng bây giờ thuộc huyện Thụy Nguyên, tỉnh Kiến An.

58 Hóa Giang là một ngọn sông thuộc về sông Thái Bình, ở giáp giới tỉnh Kiến An và tỉnh Thái Bình. Nay ở đấy dân sở tại còn nhớ chỗ con voi của Hưng Đạo Vương qua sông Hóa sa lầy mà chết.
------------------------------------------------------------------

Khoái liền quay thuyền chạy. Bấy giờ đang lúc thủy-triều lên, mặt nước mênh-mông, Ô mã Nhi vô tình, thấy địch quân chạy, cứ việc thúc thuyền đuổi theo. Nguyễn Khoái nhử quân đi khỏi xa chỗ đóng cọc, rồi mới quay thuyền đánh vật lại. Hai bên đánh đang hăng, thì đại quân của Hưng-đạo-vương tiếp đến. Ô mã Nhi, Phàn Tiếp thấy quan quân to thế lắm, mới quay thuyền chạy trở lại. Khi chạy đến khúc sông có cọc đóng thì nước thủy-triều đã rút xuống, thuyền của quân Nguyên vướng mắc phải cọc, đổ nghiêng đổ ngửa, đắm vở mất nhiều. Quan quân thừa thắng đánh cực hăng, quân Nguyên chết như rạ, máu loang đỏ cả khúc sông. Tướng Nguyên là Ô mã Nhi, Phàn Tiếp, Tích Lệ, Cơ Ngọc đều bị bắt cả.

Trận Bạch-đằng-giang đánh vào tháng ba năm mậu-tí (1288) lấy được chiến thuyền của quân Nguyên hơn 400 chiếc và bắt được quân-sĩ rất nhiều.


5. Hưng Đạo Vương Đại Phá Nguyên Binh.

Thoát Hoan nghe tin quân thủy vở tan rồi, dẫn bọn Trình bằng Phi, A bát Xích, Áo lỗ Xích, Trương Quân, Trương Ngọc, đi đường bộ chạy về đến ải Nội-bàng, bỗng gặp quân phục của Phạm ngũ Lão đổ ra đánh. Các tướng hết sức giữ gìn Thoát Hoan, vừa đánh vừa chạy. Trương Quân dẫn 3,000 quân đi đoạn hậu cố sức đánh lấy đường chạy, bị Phạm ngũ Lão chém chết. Thoát Hoan chạy thoát ra được cửa ải, quân-sĩ mười phần, tổn hại mất 5, 6 phần.

Bọn Thoát Hoan đang đi, bỗng lại có tin báo rằng tự cửa ải Nữ-nhi đến mãi núi Kì-cấp hơn 100 dặm, chổ nào cũng có đồn ải. Nghe tin ấy quân-sĩ đều xôn-xao sợ-hãi, và mé sau lại nghe tiếng ầm-ầm quan quân đuổi theo và sắp kéo đến. Thoát Hoan vội-vàng sai A bát Xích, Trương Ngọc dẫn quân đi trước mở đường, Áo lỗ Xích đi đoạn hậu.

A bát Xích, Trương Ngọc gặp phải quan quân chặn đường phục ở hai bên sườn núi bắn tên thuốc độc xuống như mưa. Hai tướng đều tử trận, và quân-sĩ chết thây nằm ngổn-ngang từng đống. Còn Trình bằng Phi hết sức giữ-gìn Thoát Hoan chạy ra Đan-kỹ, qua Lộc-châu rồi đi lẻn con đường tắt về châu Tư-minh. Áo lỗ Xích đi sau, chạy thoát được, mới nhặt-nhạnh tàn quân theo cả Thoát Hoan về Yên-kinh.

Hưng-đạo-vương chuyến này thực là trừ hết quân Mông-cổ mới hội cả tướng, dẫn quân rước xa-giá Thượng-hoàng và Nhân-tông về kinh-sư. Khi về đến Long-hưng, Nhân-tông đem bọn tướng Nguyên bị bắt là Ô mã Nhi, Phàn Tiếp, Tích Lệ, Cơ Ngọc vào làm lễ hiến-phù ở trước Chiêu-lăng.

Nhân thấy giang-sơn lại được như cũ, Thánh-tông Thượng-hoàng có làm hai câu thơ để làm kỹ-niệm:


Xã-tắc lưỡng hồi lao thạc mã,
Sơn-hà thiên cổ điện kim âu.

Dịch nôm:

Xã-tắc hai phen bọn ngựa đá,
Non sông thiên cổ vững âu vàng.

Về đến Thăng-long vua sai mở tiệc khao thưởng tướng-sĩ, cho dân- sự mở hội vui-vẻ ba ngày, gọi là Thái-bình diên-yến.


6. Sứ An Nam Sang Tàu Xin Hòa.

Quân nhà Nguyên sang đánh An-nam tuy thua hai ba phen thật, nhưng thế nhà Nguyên vẫn mạnh lắm, mà nước Nam ta sánh với nước Tàu lại là một nước nhỏ-mọn, cô-lập một mình, không nương tựa vào đâu được; nếu cứ tranh chiến mãi thì sự thắng-bại chưa biết ra thế nào, mà muôn dân lại phải lầm-than, khổ-sở. Vì những lẽ ấy, cho nên đến tháng mười năm mậu-tí (1288) vua Nhân-tông sai quan là Đỗ thiên Thứ sang sứ nhà Nguyên, xin theo lệ cống hiến như xưa.

Nguyên-chủ thấy quân mình thua mấy lần rồi, trong bụng cũng nản, cho nên cũng thuận cho thông hòa.

Tháng hai năm kỷ-sửu (1289) Nhân-tông sai quan đưa bọn tướng Nguyên bị bắt là Tích Lệ, Cơ Ngọc về Tàu. Còn Phàn Tiếp vì lo mà thành bệnh chết, vua sai hỏa táng, rồi cấp người ngựa cho vợ con đem hài-cốt về nước. Các đầu mục cũng tha cho về cả. Duy có Ô mã Nhi giết hại nhiều người, vua căm-tức vô cùng, không muốn tha về, nhưng lại ngại đường hòa- hiếu, bèn dùng mưu của Hưng-đạo-vương sai người đưa đi đến giửa bể, đánh đắm thuyền, cho chết đuối, mà Nguyên-triều cũng không trách vào đâu được. Về sau vua Dực-tông bản triều nhà Nguyễn xem đến chỗ này, có phê bốn chữ: " bất nhân phi nghĩa". Tưởng lời phê ấy cũng là chính đáng.


7. Định công, phạt tội.

Tháng tư năm kỷ-sửu (1289) mới định công, phạt tội. Bao nhiêu những vương hầu đi đánh giặc Nguyên có công đều được thăng trật cả, còn các tướng-sĩ khác họ mà ai có công to thì cho quốc-tính. Nguyễn Khoái được phong tước hầu, cho ăn lộc một làng Khoái- lộ (tức là phủ Khoái bây giờ); Phạm ngũ Lão được thăng làm Quản Thánh- dực quân. Các chúa Mường mà có công đem dân binh ra cự giặc cũng được phong hầu.

Vua lại sai văn-thần ghi-chép công-trạng của các tướng hợp biên làm quyển sách gọi là Trung hưng thực lục và lại sai thợ vẽ tranh các tướng để treo ở gác công thần.

Định công xong rồi mới xét đến tội những người hàng giặc. Khi quân Nguyên đang cường thịch, triều thần lắm kẻ hai lòng, có giấy-má đi lại với giặc. Sau giặc thua chạy về bắc, triều-đình bắt được tráp biểu hàng của các quan. Đinh-thần muốn lục ra để trị tội, nhưng Thượng-hoàng nghĩ rằng làm tội những đồ tiểu-nhân cũng vô ích, bèn sai đem đốt cả tráp đi, cho yên lòng mọi người. Duy những người nào quả thực là hàng với giặc, thì mới trị tội; hoặc đem cày, hoặc xử-tử. Vì thế bọn Trần Kiện, Trần văn Lộng tuy đã chết rồi, nhưng con cháu phải tước họ tôn-thất đổi ra họ Mai. Còn Trần ích Tắc, thì vua nghĩ tình cận-thân không nở bỏ họ, nhưng phải gọi là ả Trần, nghĩa là bảo nhút-nhát như đàn-bà vậy.

Những quân-dân thì được thứ tội cả, duy có hai làng Bàng-hà, Ba điểm trước hết theo giặc, cả làng phải đồ làm binh-lính, không khi nào được làm quan.

Thưởng công, phạt tội xong rồi, Thượng-hoàng về phủ Thiên- trường, đến tháng năm, năm canh-dần (1290) thì mất. Nhân-tông sai sứ sang cáo tang và xin phong.


8. Định cuộc hòa-hiếu.

Tự lúc Thoát Hoan thua về, vua nhà Nguyên đã thuận cho hòa-hiếu, nhưng trong bụng vẫn chưa nguôi giận, ý lại muốn cất binh sang đánh báo thù. Đình-thần can, xin để cho sứ sang dụ vua An-nam sang chầu xem đã, nếu không sang rồi hãy liệu. Nguyên-chủ nghe lời, sai Thượng-thư Trương lập Đạo sang sứ An-nam. Nhưng vua Nhân-tông lấy cớ có tang không đi. Sai quan là Nguyễn đại Phạp đi thay. Nguyễn đại Phạp sang Tàu nói năm sau vua An-nam sẽ sang chầu.

Qua năm sau Nguyên-triều không thấy vua An-nam sang, lại sai Lại- bộ thượng-thư là Lương Tằng và Lễ-bộ thượng-thư là Trần Phu sang giục Nhân-tông sang chầu.

Nhân-tông không đi, sai sứ là Đào tử Kỳ đưa đồ vật sang cống Tàu. Nguyên-triều thấy vua An-nam không sang định khởi binh sang đánh, bèn bắt giam Tử Kỳ ở Giang-lăng, rồi sai Lưu quốc Kiệt và các tướng sửa-soạn binh-lương, chọn ngày phát binh. Lại sai Trần ích Tắc đi theo, về hội ở Tràng sa. Nhưng lúc đang sửa soạn, thì Nguyên Thế-tổ là Hốt-tất-Liệt mất, Nguyên Thánh-tông lên ngôi, mới bãi việc binh và cho sứ An-nam là Đào tử Kỳ về nước.

Từ đó nhà Nguyên với nước Nam thông hòa, không có sự tranh chiến nữa.
^o^Nụ cười của em đã khiến bối rối tim này..-_-
--_..Anh biết đã yêu em rồi..__

cop_xong_paste

Chương 19

Thời Kỳ Thứ Hai (1293 - 1341)


I. Trần Anh Tông

1. Đức Độ Vua Anh Tông
2. Trần Hưng Đạo Vương mất
3. Việc Đánh Ai Lao
4. Sự Giao Thiệp Với Chiêm Thành


II. Trần Minh Tông


III. Trần Hiến Tông
1. Giặc Ngưu Hống
2. Giặc Ai Lao



I. Trần Anh Tông (1293-1314)

Niên-hiệu: Hưng Long



1. Đức Độ Vua Anh Tông.

Thái tử Trần Thuyên lên ngôi, tức là vua Anh Tông.

Anh Tông lúc đầu hay uống rượu và đêm thường hay lén ra ngoài đi chơi, có khi bị đồ vô lại phạm đến.

Một hôm uống rượu say đến nỗi Nhân Tông Thượng Hoàng ở Thiên Trường về kinh, các quan đều ra đón rước cả, mà vua vẫn nằm ngủ. Thượng Hoàng giận lắm, truyền xa giá lập tức về Thiên Trường và hạ chiếu cho bách quan phải về đấy hội nghị. Khi Anh Tông tỉnh rượu, biết thượng hoàng về kinh, sợ hãi quá, vội vàng chạy ra ngoài cung gặp một người học trò tên là Đoàn Nhữ Hài, mượn thảo bài biểu để dâng lên tạ tội, rồi cùng với Nhữ Hài xuống thuyền đi suốt đêm đến phủ Thiên Trường. Thượng Hoàng xem biểu rồi quở mắng một lúc, và tha lỗi cho Anh Tông. Về đến kinh sư, Anh Tông cho Đoàn Nhữ Hài làm ngự sử trung tán, và từ đấy không uống rượu nữa. Từ xưa đến nay vua An Nam vẫn có tục lấy chàm vẽ rồng vào đùi, nhưng Anh Tông không muốn theo tục này. Một hôm Thượng Hoàng bảo Anh Tông rằng: " Dòng dõi nhà mình vẫn vẽ mình để nhớ gốc ngày xưa, nay nhà vua phải theo tục ấy mới được". Anh Tông tuy vâng mệnh nhưng lừa khi Thượng Hoàng bận việc khác, lẩn đi không cho vẽ. Từ đấy, vua An Nam mới không vẽ mình nữa.

Tính vua Anh Tông hay vẽ: thường có làm một tập Thủy Vân Tùy Bút, nhưng đến lúc sắp mất đem đốt đi không cho để lại. Sử có chép rằng khi Anh Tông đau nặng, hoàng hậu cho đi gọi thầy tăng về để làm lễ xem sự sinh tử, Anh Tông gạt đi mà bảo rằng: " Thầy tăng đã chết đâu mà biết được sự chết". Xem thế thì biết Anh Tông là một ông vua hiếu thảo và lại thông minh, cho nên việc triều chính thời bấy giờ có cương kỷ lắm.

Trong triều lại có những người tài giỏi hết lòng giúp việc nước. Văn như bọn ông Trương Hán Siêu, võ như ông Phạm Ngũ Lão đều là người có tài trí cả.

Phạm Ngũ Lão là người làng Phù Ủng, huyện Mỹ Hào, tỉnh Hải Dương (59) , trước theo Trần Hưng Đạo Vương đánh giặc Nguyên, lập được công to. Triều đình trọng dụng cho làm đại tướng. Ngũ Lão trị quân có kỷ luật, đãi tướng hiệu như người nhà, ở với sĩ tốt cùng chịu cam khổ, cho nên vẫn gọi quân của ông ấy là phụ tử chi binh, đánh đâu được đấy, thành một người danh tướng nước Nam ta.

Ông Phạm Ngũ Lão đã giỏi nghề võ, lại hay nghề văn, thường ngâm bài thơ thuật hoài sau này:

Hoành sáo giang sơn cáp kỷ thu (60)
Tam quân tỳ hổ khí thôn ngưu
Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu.

Thời bấy giờ vua hiền, tôi trung, phép tắc nghiêm trang, thưởng phạt phân minh, chính trị không có điều gì hồ đồ. Việc học hành mở mang rộng rãi, cho nên những người có tài văn học như bọn ông Mạc Đĩnh Chi, ông Nguyễn Trung Ngạn đều được thi đỗ, ra làm quan giúp việc triều đình. Thật là một thời rất thịnh về đời nhà Trần vậy.

----------------------------------------------------
59 Bây giờ thuộc tỉnh Hưng Yên

60 Bài này có người dịch ra nôm như sau:

Ngọn giáo non sông trải mấy thâu
Ba quân hùng hổ khí thôn ngưu
Công danh nếu để còn vương nợ
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu
----------------------------------------------------


2. Trần Hưng Đạo Vương mất.

Trong đời vua Anh Tông có mấy người danh tướng như là: Thượng Tướng Trần Quang Khải, thắng trận Chương Dương ngày trước, mất năm giáp ngọ (1294), và Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, mất ngày 20 tháng tám năm canh tí (1300).

Hưng Đạo Vương là một danh tướng đệ nhất nước Nam, đánh giặc Nguyên có công to với nước, được phong làm Thái Sư, Thượng Phụ, Thượng Quốc Công, Bình Bắc Đại Nguyên Súy, Hưng Đạo Đại Vương. Vua lại sai người về Vạn Kiếp làm sinh từ để thờ ngài ở chỗ dinh cũ của ngày đóng ngày trước.

Hưng Đạo Vương làm quan đến đời vua Anh Tông thì xin về trí sĩ ở Vạn Kiếp. Khi ngài sắp mất, vua Anh Tông có ngự giá đến thăm, nhận thấy ngài bệnh nặng, mới hỏi rằng: "Thượng phụ một mai khuất núi, phỏng có quân bắc lại sang thì làm thế nào?"

Hưng Đạo Vương tâu rằng: "Nước ta thuở xưa, Triệu Võ Vương dựng nghiệp, Hán Đế đem binh đến đánh, Võ Vương sai dân đốt sạch đồng áng, không để lương thảo cho giặc chiếm được, rồi đem đại quân sang châu Khâm, châu Liêm đánh quận Tràng Sa (61) dùng đoản binh mà đánh được, đó là một thời. Đến đời Đinh, Lê, nhiều người hiền lương giúp đỡ, bấy giờ nước Nam đang cường, vua tôi đồng lòng, bụng dân phấn chấn; mà bên Tàu đang lúc suy nhược, cho nên ta đắp thành Bình Lỗ (thuộc Thái Nguyên) phá được quân nhà Tống, đó là một thời. Đến đời nhà Lý, quân Tống sang xâm, Lý Đế sai Lý Thường Kiệt đánh mặt Khâm, Liêm, dồn đến Mai Lĩnh, quân hùng, tướng dũng, đó là có thế đánh được. Kế đến bản triều, giặc Nguyên kéo đến vây bọc bốn mặt, may được vua tôi đồng lòng, anh em hòa mục, cả nước đấu sức lại mà đánh, mới bắt được tướng kia, cũng là lòng trời giúp ta mới được thế.

Đại để, kẻ kia cậy có tràng trận, mà ta thì cậy có đoản binh; lấy đoản chống nhau với tràng, phép dùng binh thường vẫn phải như thế. Còn như khi nào quân giặc kéo đến ầm ầm, như gió, như lửa, thế ấy lại dễ chống. Nếu nó dùng cách dần dà, như tằm ăn lá, thong thả mà không ham của dân, không cần lấy mau việc, thế ấy mới khó trị; thì ta nên kén dùng tướng giỏi, liệu xem quyền biến, ví như đánh cờ, phải tùy cơ mà ứng biến, dùng binh phải dồn lòng như cha con một nhà, thì mới có thể đánh được.

----------------------------------------------------
61 Chỗ này Hưng Đạo Vương nói lầm: Triệu Võ Vương đóng đô ở Phiên Ngung tức là ở gần thành Quảng Châu bây giờ, mà châu Khâm, châu Liêm thì ở giáp giới nước ta. Lẽ nào đi đánh Trường Sa ở tỉnh Hồ Nam mà lại quay trở lại châu Khiêm, châu Liêm. Chắc hẳn người mình ngày trước không thuộc địa đồ và có lẽ rằng Hưng Đạo Vương lúc nói chuyện đó cũng tưởng là kinh đô của Triệu Võ Vương ở đâu bên nước ta bây giờ, cho nên mới nói như thế chăng?
----------------------------------------------------

Cách ấy cốt phải tự lúc bình thì khoan sức cho dân, để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là cái thuật giữ nước hay hơn cả."

Anh Tông chịu lời ấy rất là phải.

Được mấy hôm thì ngài mất, vua cùng các quan ai nấy đều cảm thương lắm.

Hưng Đạo Vương thực là hết lòng với vua, với nước, tuy rằng uy quyền lừng lẫy, mà vẫn giữ chức phận làm tôi, không dám điều gì kiêu ngạo. Đang khi quân Nguyên quấy nhiễu, ngài cầm binh quyền, Thánh Tông, Nhân Tông cho ngài được chuyên quyền phong tước: trừ ra tự tước hầu trở xuống, cho ngài được phong trước rồi mới tâu sau. Thế mà ngài không dám tự tiện phong thưởng cho ai cả; phàm những nhà giàu mà ngài có quyên tiền gạo để cấp cho quân ăn, ngài chỉ phong cho làm giả lan tướng mà thôi, nghĩa là tướng cho vay lương. Ngài cẩn thận như thế và ở với ai cũng thật là công chính cho nên đến khi ngài mất, tự vua cho chí bách tính ai cũng thương tiếc. Nhân dân nhiều nơi lập đền thờ phụng để ghi nhớ cái công đức của ngài.


3. Việc Đánh Ai Lao.

Từ khi quân nhà Nguyên thua chạy về Tàu rồi, phía bắc được yên, nhưng ở phía tây nam có quân Ai Lao thường hay sang quấy nhiễu ở mạn Thanh Hóa, Nghệ An. Trước vua Nhân Tông đã thân chinh đi đánh giặc lại sang cướp phá. Sau Anh Tông sai tướng quân là Phạm Ngũ Lão đi đánh ba bốn phen nữa. Đánh trận nào quân Lào cũng bị giết hại rất nhiều, cho nên từ đó phía Thanh, Nghệ, mới được yên.


4. Sự Giao Thiệp Với Chiêm Thành.

Nước Chiêm Thành đối với An Nam từ ngày nhà Trần lên làm vua, hai nước không có điều gì lôi thôi. Đến khi Nhân Tông đi đánh Lào trở về, thì bỏ đi tu, trước ở chùa Võ Lâm (làng Võ Lâm, phủ Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình), sau về ở An Tử Sơn (huyện Yên Hưng, tỉnh Quảng Yên). Năm tân sửu (1301) Thượng Hoàng đi sang Chiêm Thành sang phong cảnh, có ước gả Huyền Trân Công Chúa cho vua Chiêm là Chế Mân. Được ít lâu Chế Mân cho người đưa vàng bạc và các sản vật sang cống và xin cưới. Triều thần có nhiều người không thuận. Chế Mân lại xin dâng Châu Ô và Châu Rí để làm lễ cưới, bấy giờ Anh Tông mới quyết ý thuận gả. Đến tháng sáu năm bính ngọ (1306) cho công chúa về Chiêm Thành.

Sang năm sau (1307) vua Anh Tông thu nhận hai Châu Ô và Châu Rí, đổi tên là Thuận Châu và Hóa Châu, rồi sai quan là Đoàn Nhữ Hài vào kinh lý và đặt quan cai trị.

Huyền Trân Công Chúa lấy Chế Mân chưa được một năm thì Chế Mân mất, mà theo tục Chiêm Thành, hễ khi vua đã chết, thì các hậu phải hỏa thiêu chết theo.

Anh Tông được tin ấy, sai Trần Khắc Chung, giả mượn tiếng vào thăm để tìm kế đưa công chúa về.

Từ khi Chế Mân mất rồi, Chế Chí lên làm vua Chiêm Thành. Nhưng Chế Chí hay phản trắc, không giữ những điều giao ước trước, cho nên năm tân hợi (1311), Anh Tông cùng với Huệ Võ Vương Trần Quốc Chân, Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư phân binh làm ba đạo sang đánh Chiêm Thành, bắt được Chế Chí đem về An Nam và phong cho người em là Chế Đà A Bà làm vua Chiêm Thành.

Chế Chí về An Nam được phong là Hiệu Thuận Vương, nhưng chẳng được bao lâu thì mất ở huyện Gia Lâm. Vua sai đưa hỏa táng. Từ đó về sau nước Chiêm và nước Nam thành ra có điều thù oán mãi.

Năm mậu thân (1308) Nhân Tông Thượng Hoàng mất ở chùa Yên Tử Sơn. Năm giáp dần (1314) Anh Tông nhường ngôi cho thái tử Mạnh, rồi về làm Thái Thượng Hoàng ở phủ Thiên Trường đến năm canh thân (1320) thì mất.

Anh Tông trị vì được 21 năm, nhường ngôi được 6 năm, thọ 54 tuổi.


II. Trần Minh Tông (1314-1329)

Niên-hiệu: Đại Khánh (1314 - 1323)
Khai Thái (1324 - 1329)


Năm giáp dần (1314) Thái Tử Mạnh lên ngôi làm vua, tức là vua Minh Tông.

Thời bấy giờ làm quan tại triều có Đoàn Nhữ Hài, Phạm Ngũ Lão, Trương Hán Siêu, Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Trung Ngạn, Chu Văn An, v.v... đều là những người có tài cán trí lự cả.

Trong nước được yên trị; giao hiếu với nước Tàu thì tuy rằng có lôi thôi về đường phân địa giới, nhưng đại khái vẫn được hòa hảo. Duy chỉ có nước Chiêm Thành tự khi Chế Chí chết rồi, thì người Chiêm cứ hay sang quấy nhiễu ở phía nam, cho nên phải dùng đến can qua. Năm mậu ngọ (1318), Minh Tông sai Huệ Võ Vương Trần Quốc Chân và tướng quân Phạm Ngũ Lão đem binh đi đánh, vua Chiêm là Chế Năng phải bỏ thành mà chạy.

Còn những việc chính trị trong nước, thì năm ất mão (1315), lập lệ cấm người trong họ không được đi thưa kiện nhau; năm bính thìn (1316) duyệt định văn võ quan cấp; năm quý hợi (1323) mở khoa thi Thái Học Sinh; năm ấy lại cấm quân sĩ không được vẽ mình như trước. Nước ta bỏ thói vẽ mình từ đấy.

Minh Tông vốn là ông vua có lòng nhân hậu, hay thương yêu nhân dân, nhưng chỉ vì nghe nịnh thần cho nên giết oan Huệ Võ Vương Trần Quốc Chân, là người làm quan có công với nước.

Trần Quốc Chân là thân sinh ra hoàng hậu và lại có công đi đánh Chiêm Thành thắng trận mấy lần. Nhưng vì Hoàng Hậu chưa có hoàng tử, triều thần phân ra làm 2 đảng, một đảng thì có Văn Hiến Hầu và Trần Khắc Chung, xin lập hoàng tử Vượng là con bà thứ, làm thái tử. Một đảng thì có Trần Quốc Chân xin chờ cho hoàng hậu có con trai rồi sẽ lập thái tử.

Sau Văn Hiến Hầu cho tên Trần Nhạc là đầy tớ của Trần Quốc Chân một trăm lạng vàng xúi nó vu cáo cho Quốc Chân làm mưu phản. Minh Tông bắt Quốc Chân đem giam ở chùa Tư Phúc.

Trần Khắc Chung xin vua trừ Quốc Chân đi, lấy lẽ rằng bắt hổ thì dễ, thả hổ thì khó. Minh Tông nghe lời ấy, cấm không cho Quốc Chân ăn uống gì cả, đến đổi khát nước quá, Hoàng Hậu phải lấy áo nhúng xuống nước rồi mặc vào vắt ra cho uống. Uống xong thì chết. Sau có người vợ lẽ tên Trần Nhạc ghen nhau với vợ cả, đi tố cáo ra sự Trần Nhạc lấy vàng và sự vu cáo cho Trần Quốc Chân. Bấy giờ mới rõ cái tình oan của một người trung thần.

Minh Tông làm vua đến năm ất tị (1329), thì nhường ngôi cho thái tử Vượng, rồi về làm Thái Thượng Hoàng.


III. Trần Hiến Tông (1329-1341)

Niên-hiệu: Khai Hữu

Thái Tử Vượng mới có 10 tuổi, lên làm vua tức là vua Hiến Tông.

Hiến Tông chỉ làm vua lấy vì mà thôi, quyền chính ở cả tay Minh Tông Thượng Hoàng, cho nên tuy ngài có làm vua được non 13 năm, nhưng không được tự chủ việc gì.


1. Giặc Ngưu Hống.

Minh Tông Thượng Hoàng vừa nhường ngôi xong, thì ở mạn Đà Giang có Mường Ngưu Hống làm loạn. Thượng Hoàng phải thân chinh đi đánh. Người Ngưu Hống ở trại Chiêm Chiêu đưa thư đến giả xin hàng. Nhưng khi đạo quân ở Thanh Hóa đi đến nơi, thì bị người ở trại ấy đổ ra đánh, phải thua chạy. Thượng hoàng đem đại binh tiến lên, thanh thế lừng lẫy, quân Ngưu Hống bỏ chạy cả vào rừng. Quân giặc tuy thua nhưng không trừ hết được, mãi đến năm đinh sữu (1377) tướng nhà Trần là Hưng Hiếu Vương chém được thủ đảng Ngưu Hống ở trại Trịnh Kỳ, thì giặc ấy mới yên.


2. Giặc Ai Lao.

Trong khi giặc Ngưu Hống còn đang quấy nhiễu, giặc Ai Lao lại sang đánh phá. Năm giáp tuất (1384) Minh Tông Thượng Hoàng lại phải thân chinh đi đánh. Sai ông Nguyễn Trung Ngạn vào Thanh Hóa sung chức Phát Vận Sứ để vận lương đi trước, Thượng Hoàng đem đại quân vào sau. Khi đại quân vào đến Kiềm Châu (thuộc huyện Tương Dương, Nghệ An), quân Ai Lao nghe tiếng đều bỏ chạy cả.

Thượng Hoàng bèn sai ông Nguyễn Trung Ngạn làm bài bia khắc trên núi để ghi công. Bài bia ấy chữ to bằng bàn tay, khắc vào đá sâu một tấc, đến nay vẫn còn.

Văn bài bia ấy dịch ra chữ nôm như sau này:

"Chương nghiêu Văn triết Thái thượng hoàng là vua thứ sáu đời nhà Trần, nước Hoàng Việt chịu mệnh trời nhất thống cõi trung hạ, trong đất ngoài bể đâu cũng thần phục. Nước Ai Lao nhỏ mọn kia dám ngạnh vương hóa; cuối mùa thu năm ất hợi vua thân đem sáu quân đi tuần cõi tây, Thế tử nước Chiêm Thành, nước Chân Lạp, nước Tiêm La và tù trưởng các dạo mán là Quì, Cầm, Xa, Lạc, tù trưởng rợ Bồ Man mới phụ và các bộ Mán Thanh xa đều mang phương vật tranh nhau đến đón rước. Chỉ có tên nghịch Bổng cứ giữ mê tối, sợ phải tội chưa lại chầu ngay. Cuối mùa đông vua đóng quân ở cánh đồng Cự, thuộc châu Mật, sai các tướng và quân rợ mọi vào tận nước, nghịch Bổng theo gió chạy trốn. Vua mới xuống chiếu đem quân về. Lúc bấy giờ là ngày tháng chạp nhuận năm ất hợi, niên hiệu Khai Hữu thứ 7, khắc vào đá".

Xem văn từ thì hình như việc Minh Tông Thượng Hoàng đi đánh Ai Lao thật là hống hách lắm, nhưng cứ sự thực thì quân ta bấy giờ chưa ra khỏi cõi, mà giặc Ai Lao thì chưa trừ được. Còn như việc thế tử nước Chân Lạp và nước Tiêm La, v.v.... sang chầu, thì thiết tưởng đấy là một lối làm văn của nhà làm bia nói cho trân trọng đó mà thôi, chứ chưa chắc đã hợp với sự thực.

Năm sau quân Ai Lao lại sang cướp ở ấp Nam Nhung (thuộc huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ An). Minh Tông thượng hoàng lại ngự giá đi đánh lần nữa. Ngài sai quan Kinh Lược Đại Sứ tỉnh Nghệ An là Đoàn Nhữ Hài làm Đô Đốc chư quân. Đoàn Nhữ Hài khi quân Lào hèn yếu, chắc đánh là tất được. Đến khi đem quân đến ấp Nam Nhung qua sông Tiết La, chẳng may phải hôm có sương mù, bị phục binh của Lào đổ ra đánh, quan quân thua chạy cả xuống sông, chết đuối nhiều lắm. Đoàn Nhữ Hài cũng chết đuối.

Xét ra nước Ai Lao đã sang quấy nhiễu đất An Nam từ đời vua Nhân Tông và vua Anh Tông. Quan quân đã phải đi đánh nhiều lần, nhưng lần nào đánh xong thì cũng chỉ yên được độ vài ba năm, rồi giặc lại sang đánh phá. Mà quan quân có đi đánh thì cũng đánh cho nó đừng sang ăn cướp ở đất mình nữa mà thôi, chứ không có lúc nào định chiếm giữ đất Lào cả. Có lẽ là tại đất Lào nhiều rừng lắm núi, phải sơn lam thủy chướng, đường xá xa sôi, vận tải khó nhọc, cho nên quân ta không ở được lâu. Còn người Lào thì họ thuộc đường xá, quen phong thổ, tiến thoái tùy tiện; thắng trận thì họ tiến lên đánh, bại trận thì họ rút quân đi, mình không biết đâu mà đuổi. Bởi thế cho nên quân ta vẫn đánh được giặc mà giặc vẫn còn, thành ra cứ phải đi đánh mãi.

Hiến Tông làm vua đến năm tân tị (1341) thì mất, trị vì được 13 năm, thọ 23 tuổi.
^o^Nụ cười của em đã khiến bối rối tim này..-_-
--_..Anh biết đã yêu em rồi..__

cop_xong_paste

Chương 20

Thời Kỳ Thứ Ba (1341 - 1400)


I. Trần Dụ Tông

1. Việc chính trị
2. Việc giao thiệp với nước Tàu
3. Việc giao thiệp với Chiêm Thành
4. Dương Nhật Lễ

II. Trần Nghệ Tông


III. Trần Duệ Tông

1. Việc chính trị
2. Sự thi cử
3. Việc đánh Chiêm Thành


IV. Trần Phế Đế

1. Chiêm Thành sang phá Thăng Long
2. Tình thế nước Nam
3. Nhà Minh sách nhiễu
4. Nghệ Tông thất chính
5. Lê Quý Ly giết Đế Hiễn


V. Trần Thuận Tông

1. Phạm Sư Ôn khởi loạn
2. Chế Bồng Nga tử trận
3. Lê Quý Ly chuyên quyền
4. Nghệ Tông mất


VI. Lê Quý Ly mưu sự thoán đoạt

1. Việc tài chánh
2. Việc học hành
3. Việc cai trị
4. Lập Tây Đô
5. Sự phế lập: Trần Thiếu Đế



I. Trần Dụ Tông (1341-1369)

Niên-hiệu: Thiệu Phong (1341 - 1357)
Đại Trị (1358-1369)


1. Việc Chính Trị.

Hiến Tông không có con, Minh Tông thượng hoàng lập người em tên là Hạo lên làm vua, tức là vua Dụ Tông.

Trong những năm Thiệu Phong, là mười mấy năm đầu, tuy Dụ Tông làm vua, nhưng quyền chính trị ở Minh Tông thượng hoàng quyết đoán cả, cho nên dẫu có phải mấy năm tai biến mất mùa đói khổ, nhưng việc chính trị còn có thứ tự. Từ năm Đại Trị nguyên niên (1358) trở đi, Thượng Hoàng mất rồi, bọn cựu thần như ông Trương Hán Siêu, ông Nguyễn Trung Ngạn cũng mất cả, từ đó việc chính trị bỏ trễ nãi. Kẻ gian thần mỗi ngày một đắc chí. Ông Chu Văn An là một nhà danh nho thời bấy giờ và đang làm quan tại triều, thấy chính trị bại hoại, làm sớ dâng lên xin chém bảy người quyền thần. Vua không nghe, ông ấy bỏ quan về ở núi Chí Linh.

Vua Dụ Tông về sau cứ rượu chè chơi bời, xây cung điện, đào hồ đắp núi, rồi lại cho gọi những người nhà giàu vào trong điện để đánh bạc. Bắt vương hầu công chúa phải đặt chuyện hát tuồng (62) và bắt các quan thi nhau uống rượu, ai uống rượu được một trăm thăng thì thưởng cho hai trật.

Chính sự như thế, cho nên giặc cướp nổi lên như ong dấy: ở mạn Hải Dương thì có giặc Ngô Bệ làm loạn ở núi Yên Phụ; ở các nơi thì chỗ nào cũng có giặc nổi lên cướp phá. Dân tình khổ sở, năm nào cũng phải đói kém. Cơ nghiệp nhà Trần bắt đầu suy từ đấy.


2. Việc Giao Thiệp Với Nước Tàu.

Bấy giờ ở bên Tàu, nhà Nguyên đã suy, trong nước rối loạn, có bọn Trần Hữu Lượng, Trương Sĩ Thành, Chu Nguyên Chương khởi binh đánh phá.

Chu Nguyên Chương dấy binh ở đất Từ Châu (tỉnh An Huy), chiếm giữ thành Kim Lăng, rồi trong 15 năm dứt được nhà Nguyên dẹp yên thiên hạ, dựng nên cơ nghiệp nhà Minh.

Năm Mậu Thân (1368) Minh Thái Tổ sai sứ đưa thư sang dụ nước ta, Dụ Tông sai quan Lễ Bộ Thị Lang là Đào Văn Đích sang cống.

----------------------------------------------------
62 Khi quân nhà Trần đánh được quân nhà Nguyên, có bắt được một tên hát bội là Lý Nguyên Cát, sau nó ở lại nước ta lấy cổ truyện mà đặt thành bài tuồng, rồi dạy người mình hát. Khi con hát ra làm trò thì mặc áo gấm, áo vóc, theo nhịp đàn nhịp trống mà hát. Sự hát tuồng của Việt Nam bắt đầu từ đấy.
----------------------------------------------------

Nước Nam ta bấy giờ tuy đã suy nhược, nhưng mà nhà Minh mới định xong thiên hạ, còn phải sửa sang việc nước, chưa dòm đến nước mình, cho nên cũng chưa có việc gì quan trọng lắm.


3. Việc Giao Thiệp Với Chiêm Thành.

Từ khi vua nước Chiêm Thành là Chế A Nan mất rồi, con là Chế Mộ và rể là Bồ Đề tranh nhau làm vua. Người Chiêm Thành bỏ Chế Mộ mà theo Bồ Đề; qua năm nhâm thìn (1352) Chế Mộ chạy sang An Nam cầu cứu.

Đến năm Quý Tỵ (1353) Dụ Tông cho quân đưa Chế Mộ về nước, nhưng quan quân đi đến đất Cổ Lụy (thuộc Quảng Nghĩa) thì bị quân Chiêm đánh thua, phải chạy trở về. Chế Mộ cũng buồn rầu chẳng bao lâu thì chết.

Người Chiêm Thành từ đấy được thể cứ sang cướp phá ở đất An Nam.

Năm đinh mùi (1367), Dụ Tông sai Trần Thế Hưng và Đỗ Tử Bình đi đánh Chiêm Thành. Quan quân đi đến Chiêm Động (thuộc phủ Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam) bị phục quân của Chiêm Thành đánh bắt mất Trần Thế Hưng, Đổ Tử Bình đem quân chạy trở về.

Người Chiêm thấy binh thế nước Nam suy nhược, có ý khinh dễ, cho nên qua năm mậu thân (1368) vua nước Chiêm cho sứ sang đòi đất Hóa Châu. Việc đòi Hóa Châu này thì sử chỉ chép qua đi mà thôi. Vả bấy giờ ở nước Nam ta, vua Dụ Tông chỉ lo việc hoang chơi, không tưởng gì đến việc Võ bị; mà ở bên Chiêm Thành thì có Chế Bồng Nga, là một ông vua anh hùng, có ý đánh An Nam để rửa những thù trước. Vậy cho nên hết sức tập trận, luyện binh; bắt quân lính phải chịu khó nhọc cho quen, dàn trận voi cho tiện đường lui tới: thắng thì cho voi đi trước để xông đột, bại thì cho voi đi sau để ngăn giữ quân nghịch. Nhờ cách xếp đặt có thứ tự, dụng binh có kỷ luật như thế, cho nên quân Chiêm Thành từ đó mạnh lắm, sau dánh phá thành Thăng Long mấy lần, làm cho vua tôi nhà Trần phải kính sợ mấy phen.


4. Dương Nhật Lễ (1369 - 1370).

Năm kỷ dậu (1369), vua Dụ Tông mất, không có con. Triều đình định lập Cung Định Vương là anh Dụ Tông lên làm vua, nhưng mà bà Hoàng Thái Hậu nhất định lập người con nuôi của Cung Túc Vương là Dương Nhật Lễ.

Nguyên mẹ Nhật Lễ là người con hát, lấy người hát bội tên là Dương Khương, có thai rồi mới bỏ Dương Khương mà lấy Cung Túc Vương, sinh ra Nhật Lễ. Nay lên làm vua, Nhật Lễ muốn cải họ là Dương để dứt ngôi nhà Trần, rồi giết bà Hoàng Thái Hậu và Cung Định Vương.

Bấy giờ Cung Tĩnh Vương ở chỗ Kinh Sư cũng sợ bị hại, vả lại tính khí cũng nhu nhược, không có ý tranh cạnh, mới bỏ trốn lên mạn Đà Giang. Các quan Tôn thất nhà Trần mới hội nhau đem binh về bắt Nhật Lễ giết đi, rồi rước Cung Tĩnh Vương về làm vua. Tức là vua Nghệ Tông.


II. Trần Nghệ Tông (1370-1372)

Niên-hiệu: Thiệu Khánh

Khi Nghệ Tông giết Nhật Lễ rồi, mẹ Nhật Lễ chạy sang Chiêm Thành, xin vua nước ấy là Chế Bồng Nga đem quân sang đánh An Nam. Quân Chiêm vược bể vào cửa Đại An, kéo lên đánh Thăng Long. Quan quân đánh không nổi. Nghệ Tông phải lánh mình chạy sang Đông Ngạn (ở Cổ Pháp làng Đình Bảng). Quân Chiêm vào thành, đốt sạch cung điện, bắt đàn bà con gái, lấy hết các đồ báu ngọc, rồi rút quân về.

Nghệ Tông là một ông vua nhu nhược, việc gì cũng để cho người ngoại thích là Lê Quý Ly quyết đoán cả.

Quý Ly là dòng dõi người ở Chiết Giang bên Tàu, tổ là Hồ Hưng Dật, từ đời Ngũ Quý sang ở nước ta, làng Bào Đột, huyện Quỳnh Lưu. Sao ông tổ tứ đại là Hồ Liêm dời ra ở Thanh Hóa, làm con nuôi nhà Lê Huấn, cho nên mới đổi họ là Lê. Lê Quý Ly có hai người cô lấy vua Minh Tông. Một người sinh ra vua Nghệ Tông, một người sinh ra vua Duệ Tông. Vì thế cho nên Nghệ Tông càng tin dùng lắm, phong cho làm Khu Mật Đại Sứ, lại gia tước Trung Tuyên Hầu.

Năm nhâm tý (1372) Nghệ Tông truyền ngôi cho em là Kính, rồi về ở phủ Thiên Trường làm Thái Thượng Hoàng.


III. Trần Duệ Tông (1372-1377)

Niên-hiệu: Long Khánh

1. Việc Chính Trị.

Thái Tử Kính lên ngôi, tức là vua Duệ Tông, lập Lê Thị làm hoàng hậu (Lê Thị là em họ Quý Ly).

Duệ Tông có tính quyết đoán hơn Nghệ Tông, nhưng mà quyền bính vẫn ở tay Nghệ Tông thượng hoàng cả.

Bấy giờ quân Chiêm Thành cứ sang quấy nhiễu mãi, vua Duệ Tông quyết ý đi đánh báo thù, bèn hạ chiếu luyện tập quân lính, làm chiến thuyền, và tích lương thảo để phòng việc chinh chiến, rồi đặt thêm quân hiệu, cho Quý Ly làm Tham mưu quân sự; dổi đất Hoan Châu làm Nghệ An, Diễn Châu làm Diễn Châu Lộ, Lâm Bình Phủ làm Tân Bình Phủ, rồi sai quan bắt dân sửa sang đường sá tự Cửu Chân (Thanh Hóa) cho đến huyện Hà Hoa (tức là huyện Kỳ Anh bây giờ).


2. Sự Thi Cử.

Tuy bấy giờ lo việc võ bị nhiều, nhưng cũng không quên việc văn học; năm giáp dần (1374) mở khoa thi tiến sĩ, lấy hơn 50 người cho áo mão vinh quy. Trước vẫn có thi thái học sinh, đến bấy giờ mới đổi ra là thi tiến sĩ.


3. Việc Đánh Chiêm Thành.

Năm bính thìn (1376) quân Chiêm lại sang phá ở Hóa Châu. Duệ Tông định thân chinh đi đánh. Đình thần can không được. Sai quân dân Thanh Hóa, Nghệ An, vận tải 5 vạn thạch lương vào Hoá châu, rồi rước Thượng Hoàng lên duyệt binh ở Bạch Hạc. Nhân năm ấy vua Chiêm Thành là Chế Bồng Nga đem sang cống 15 mâm vàng, quân trấn thủ Hóa châu tên là Đỗ Tử Bình lấy đi, rồi dâng sớ về nói rằng Chế Bồng Nga ngạo mạn vô lễ, xin vua cử binh sang đánh. Được tin ấy, Duệ Tông quyết ý đi đánh; sai Quý Ly đốc vận lương thực đến cửa bể Di Luân (thuộc huyện Bình Chính, Quảng Bình) và tự lĩnh 12 vạn quân, cả thủy bộ cùng tiến; đi đến cửa bể Nhật Lệ (ở làng Đồng Hới, huyện Phong Lộc, Quảng Bình) đóng lại một tháng để luyện tập sĩ tốt.

Quan tháng giêng năm đinh tị (1377) mới tiến quân vào cửa Thị Nại (tức là cửa Quy Nhơn) đánh lấy đồn Thạch Kiều và động Kỳ Mang, rồi kéo quân đến đánh thành Đồ Bàn là Kinh đô Chiêm Thành (63).

Chế Bồng Nga lập đồn giữ ở ngoài thành, rồi cho người sang giả hàng nói Chế Bồng Nga đã bỏ thành chạy trốn rồi, chỉ còn có thành không mà thôi, xin tiến binh sang ngay. Duệ Tông lấy điều ấy làm thật, hạ lệnh truyền tiến binh vào thành. Đại tướng là Đỗ Lễ can mãi vua không nghe. Khi quân gần đến thành Đồ Bàn, quả nhiên bị quân Chiêm đổ ra vây đánh. Quan quân thua to; Duệ Tông chết ở trận, tướng sĩ quân lính chết mười phần đến bảy tám.

Bấy giờ Đỗ Tử Bình lĩnh hậu quân không đem binh lên cứu, Lê Quý Ly cũng bỏ chạy về. Thế mà hai người về kinh, Nghệ Tông thượng hoàng chỉ giáng Đổ Tử Bình xuống làm lính mà thôi.

----------------------------------------------------
63 Thành Đồ Bàn bây giờ hãy còn di tích ở huyện Tuy Viễn, tỉnh Khánh Hòa.
----------------------------------------------------


IV. Trần Phế Đế (1377-1388)

Niên-hiệu: Xương Phù

Thượng Hoàng được tin Duệ Tông chết trận rồi, bèn lập con Duệ Tông là Hiễn lên nối ngôi, tức là vua Phế Đế.


1. Chiêm Thành Sang Phá Thăng Long.

Quân Chiêm Thành đã phá được quân An Nam và giết được Duệ Tông rồi, qua tháng sau đem quân sang đánh Thăng Long. Thượng hoàng nghe tin giặc đến, sai tướng ra giữ Đại An hải khẩu. Giặc biết chỗ ấy có phòng bị, đi vào cửa Thần Phù (sông Chính Đại, thuộc huyện Yên Mô, Ninh Bình) rồi lên cướp phá thành Thăng Long, không ai chống giữ được.

Tháng năm năm mậu ngọ (1378) quân Chiêm Thành lại sang đánh đất Nghệ An, rồi lại vào sông Đại Hoàng lên đánh Thăng Long lần nữa.

Quân Chiêm Thành biết nước Nam suy nhược, cứ sang cướp phá. Năm canh thân (1380) lại sang phá ở đất Thanh Hóa, Nghệ An. Vua sai Lê Quý Ly lĩnh thủy binh, Đỗ Tử Bình lĩnh bộ binh vào giữ ở Ngu Giang, huyện Hoằng Hóa (Thanh Hóa). Lê Quý Ly đánh đuổi được quân Chiêm về. Đến năm nhâm tuất (1382) quân Chiêm lại sang đánh ở đất Thanh Hóa. Lê Quý Ly cùng với tướng quân Nguyễn Đa Phương giữ ở bến Thần Đầu (Ninh Bình). Nguyễn Đa Phương phá được quân Chiêm, đuổi đánh đến đất Nghệ An mới thôi.

Từ khi đánh được trận Ngu Giang và trận Thần Đầu, quân thế An Nam đã hơi nổi, cho nên sang tháng giêng năm quý hợi (1383). Thượng hoàng sai Quý Ly vào đến Lại Bộ Nương Loan (tức là cửa Nương Loan bây giờ ở huyện Kỳ Anh, Hà Tĩnh) phải bão đánh nát mất nhiều thuyền, lại phải rút quân về.

Qua tháng sáu năm ấy, Chế Bồng Nga cùng với tướng là La Khải đem quân đi đường sơn lộ ra đóng ở Khổng Mục, đất Quảng Oai. Ở kinh sư nghe tin giặc Chiêm lại sang, Thượng hoàng sai tướng là Mật Ôn ra giữ ở châu Tam Kỳ ở địa hạt Quốc Oai, nhưng Mật Ôn bị quân Chiêm đánh bắt mất. Thượng Hoàng sợ hãi, sai Nguyễn Đa Phương ở lại kinh sư làm đồn giữ thành, rồi cùng với vua chạy sang Đông Ngạn. Bấy giờ có người níu thuyền lại xin Thượng hoàng cứ ở lại kinh sư mà chống giữ với giặc. Thượng hoàng không nghe.

Quân Chiêm Thành bấy giờ ra vào nước Nam ta như đi vào chỗ không người, cho nên trong mấy năm mà vào phá kinh thành 3 lần; ba lần thượng hoàng cùng Đế Hiễn phải bỏ thành mà chạy. Thế mà đến khi giặc về rồi, cũng không sửa sang gì để phòng bị về sau, thật là làm nhục cái tiếng con cháu Trần Hưng Đạo Vương.


2. Tình Thế Nước Nam.

Trong nước bấy giờ dân tình đói khổ, nhà vua thì sợ giặc phải đưa của đi chôn ở trên núi Thiên Kiện, tức là núi Kiện Khê, huyện Thanh Liêm. Ở ngoài bờ cõi thì người Chiêm hay vào đánh chỗ này, mai vào phá chỗ khác, nhà nước mỗi ngày một hèn yếu, đến nỗi phải nhờ đến lũ tăng nhân là bọn Đại Nạn Thiền Sư đi đánh giặc Chiêm.

Thuế má thì càng ngày càng nặng. Trước dân An Nam cứ phải định nghạch chịu thuế, sống không kể, chết không trừ, ai đã làm lính, thì cả đời chỉ phải làm lính, chứ không bao giờ được làm quan. Còn những người có điền thổ thì phải đóng tiền, ai không có gì thì thôi. Khi nào có binh sự, thì những người có ruộng, có đồng dâu, hay là có đầm cá phải chịu thóc, tiền và vải, để cho quân dùng. Đến nay giặc giã luôn, kho tàng trống thốc, Đỗ Tử Bình (64) xin với vua bắt mỗi suất đinh mỗi năm phải đóng 3 quan tiền thuế. Thuế thân sinh ra từ đấy.


3. Nhà Minh Sách Nhiễu.

Ở bên Tàu thì bấy giờ nhà Minh đã dứt được nhà Nguyên, lại có ý dòm đất An Nam. Thường thường cho sứ đi lại sách cái nọ, đòi cái kia; năm giáp tí (1384) Minh Thái Tổ cho sứ sang bắt An Nam phải cấp 5000 thạch lương cho quân nhà Minh đóng ở Vân Nam. Năm sau (1385) lại cho sứ sang đem 20 tăng nhân An Nam về Kim Lăng, rồi lại đòi phải cống cây quý, phải nộp lương, chủ ý là xem tình thế nước Nam ra thế nào.


4. Nghệ Tông Thất Chính.

Vua Nghệ Tông tuy giữ quyền chính trị, nhưng việc gì cũng do ở Lê Quý Ly. Triều đình thì chỉ có mặt xu nịnh, người nào cũng chỉ lo lấy thân mà thôi, việc nước an nguy thế nào không ai lo nghĩ đến. Những người tôn thất như Trần Nguyên Đán (65) thấy quốc chính rã rời, xin về trí sĩ. Một hôm Thượng hoàng đến thăm bàn đến hậu sự, Nguyên Đán tâu rằng: " Xin bệ hạ thờ nhà Minh như cha, yêu nước Chiêm Thành như con, thì quốc gia sẽ không việc gì, mà lão thần chết cũng không hẩm!" Ấy là chỉ bàn những chuyện làm tôi tớ mà thôi, chứ không có chí muốn cho nước mình cường thịnh. Nguyên Đán biết rằng Quý Ly sau này tất cướp ngôi nhà Trần, bèn kết làm thông gia, vì thế cho nên sau dòng dõi nhà Trần chết cả, duy chỉ có con cái nhà Nguyên Đán được phú quý mà thôi.

----------------------------------------------------
64 Đỗ Tử Bình trước đi đánh Chiêm Thành có tội phải đày đi làm lính. Nay không biết làm thế nào đã được phục chức.

65 Trần Nguyên Đán là cháu tằng tôn Trần Quang Khải.
----------------------------------------------------

Nghệ Tông Thượng Hoàng thì cứ mờ mịt, không biết ai trung ai nịnh, vẫn tưởng là Lê Quý Ly hết lòng với nhà vua, bèn cho Lê Quý Ly gươm và cờ có chữ đề rằng: "Văn Võ Toàn Tài, Quân Thần Đồng Đức". Lê Quý Ly làm thơ nôm dâng tạ.


5. Lê Quý Ly Mưu Giết Đế Hiễn.

Bấy giờ Đế Hiễn thấy Thượng hoàng yêu dùng Quý Ly, mới bàn với các quan thấy rằng nếu không trừ đi rồi sau tất thành ra vạ to. Quý Ly biết mưu ấy, đến kêu van với Thượng hoàng rằng: " Cổ lai chỉ bỏ cháu nuôi con, chứ chưa thấy ai bỏ con nuôi cháu bao giờ". Thượng hoàng nghe lời, xuống chiếu trách Đế Hiễn còn tính trẻ con và lại có ý hại kẻ công thần, làm nguy xã tắc; vậy phải giáng xuống làm Minh Đức Đại Vương, và lập Chiêu Định Vương là con Nghệ Tông lên nối ngôi.

Khi tờ chiếu ấy bố cáo ra ngoài, có mấy người tướng quân đã toan đưa quân vào điện cứu Đế Hiễn ra, nhưng vua viết hai chữ "giải giáp" và không cho được trái mệnh của Thượng hoàng. Sau Đế Hiễn bị thắt cổ chết, còn những tướng sĩ đồng mưu giết Quý Ly đều bị hại cả.


V. Trần Thuận Tông (1388-1398)

Niên-hiệu: Quang Thái

1. Phạm Sư Ôn khởi loạn.

Nghệ Tông Thượng Hoàng đã nghe Quý Ly mà giết Đế Hiễn rồi lập người con út của mình là Chiêu Định Vương lên làm vua, tức là vua Thuận Tông.

Bấy giờ trong triều thì Lê Quý Ly chuyên quyền, chọn những chân tay cai quản các đội quân để làm vây cánh, ngoài các trấn thì giặc giã nổi lên nhiều lắm. Ở Thanh Hóa có tên Nguyễn Thanh tự xưng là Linh Đức Vương làm loạn ở Lương Giang; tên Nguyễn Kị tự xưng là Lỗ Vương làm loạn ở Nông Cống. Ở Quốc Oai thì có người sư tên là Phạm Sư Ôn nổi lên đem quân về đánh Kinh Sư. Thượng Hoàng, Thuận Tông và Triều đình phải bỏ chạy lên Bắc giang. Phạm Sư Ôn lấy được Kinh sư, ở ba ngày rồi rút về Quốc Oai. Bấy giờ có tướng quân là Hoàng Phụng Thế đóng ở Hoàng Giang (66) để phòng giữ quân Chiêm Thành, nghe tin Sư Ôn phạm đất Kinh sư mới đem quân về đánh lẻn bắt được Sư Ôn và phá tan giặc ấy.

----------------------------------------------------
66 Hoàng Giang là khúc sông Hồng Hà ở về huyện Nam Xang, Hà Nam.
----------------------------------------------------


2. Chế Bồng Nga Tử Trận.

Năm kỷ tỵ (1389) Chế Bồng Nga lại đem quân ra đánh Thanh Hóa. Vua sai Lê Quý Ly đem binh vào chống giữ ở làng Cổ Vô. Quan quân đóng cọc ngăn sông ra giữ nhau với giặc hơn 20 ngày. Giặc bèn phục binh, rồi giả tảng rút quân về. Lê Quý Ly đem quân thủy bộ đuổi đánh, bị phục binh của giặc đổ ra đánh, giết hại mất nhiều. Quý Ly trốn chạy về kinh để người tỳ tướng là Phạm Khả Vĩnh, và tướng quân là Nguyễn Đa Phương chống nhau với giặc ở Ngu Giang. Bọn Nguyễn Đa Phương thấy quân mình yếu thế, giả tảng bày cờ giàn thuyền ra rồi đến đêm rút quân về.

Qua tháng mười một, quân Chiêm lại vào sông Hoàng gian, Thượng hoàng sai quan Đô tướng là Trần Khát Chân (67) đem binh đi chống giữ với giặc. Trần Khát Chân khóc và lạy rồi ra đi, Thượng hoàng cũng khóc. Xem thế thì biết vua tôi nhà Trần, bấy giờ lấy quân Chiêm thành làm khiếp sợ lắm.

Trần Khát Chân đem quân đến Hoàng Giang xem không có chỗ nào đóng quân được tiện lợi, bèn rút về đóng ở sông Hải Triều (ở vào địa phận Huyện Hưng Nhân, tỉnh Thái Bình và huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên, tức là ở sông Luộc).

Đến tháng giêng năm canh ngọ (1390) Chế Bồng Nga đi thuyền đến xem hình thế quân của Trần Khát Chân. Bấy giờ có thằng đầy tớ của Chế Bồng Nga có tội, sợ phải giết, chạy sang hàng với Trần Khát Chân. Nhân khi Chế Bồng Nga đem hơn 100 chiếc thuyền đến gần trại của quân nhà Trần đóng, tên đầy tớ ấy chỉ cái thuyền của Chế Bồng Nga cho Khát Chân. Khát Chân mới truyền lấy súng bắn vào thuyền ấy. Chế Bồng Nga trúng phải đạn chết.

Quan quân đổ ra đánh, quân Chiêm thấy quốc vương chết đều bỏ chạy cả. Quan quân đánh đuổi rồi cắt lấy đầu Chế Bồng Nga đem về dâng triều đình. Thượng Hoàng thấy đầu Chế Bồng Nga, tự ví mình như Hán Cao Tổ thấy đầu Hạng Vũ, rất là vui vẽ. Đoạn rồi định công thưởng tước các tướng sĩ.

Tướng Chiêm Thành là La Khải đem xác Chế Bồng Nga hỏa táng xong rồi, dem quân trở về nước, chiếm lấy ngôi vua Chiêm Thành. Hai người con Chế Bồng Nga phải chạy sang hàng An Nam, đều được phong tức hầu cả.

----------------------------------------------------
67 Trần Khát Chân là dòng dõi Trần Bình Trọng.
----------------------------------------------------


3. Lê Quý Ly Chuyên Quyền.

Từ khi giặc Chiêm đã yên, Lê Quý Ly càng ngày càng kiêu hãnh. Bao nhiêu những người mà không tòng phục mình thì xui Thượng hoàng giết đi; hoàng tử, thân vương đều bị giết hại. Mà Thượng hoàng thì cứ tin Quý Ly một cách lạ lùng. Sĩ phu có người dâng sớ tâu với Thượng hoàng rằng Quý Ly có ý muốn dòm cơ nghiệp nhà Trần, thì Thượng hoàng lại đưa sớ cho Quý Ly xem, cho nên những người trung thần không ai nói năng gì nữa.

Uy quyền của Quý Ly một ngày một to, vây cánh một ngày một nhiều, Thượng hoàng sau tỉnh dần dần lại biết lấy làm sợ, nhưng đã chậm lắm rồi, thế không sao được nữa; mới bắt người vẽ cái tranh tứ phụ cho Quý Ly. Trong tranh ấy vẽ ông Chu công giúp vua Thành Vương, ông Hoắc Quang giúp vua Chiêu Đế, ông Gia Cát Lượng giúp vua Hậu Chủ, ông Tô Hiến Thành giúp vua Lý Cao Tông, rồi bảo Quý Ly rằng nhà ngươi giúp con trẫm cũng nên như thế. Một hôm Thượng hoàng gọi Quý Ly vào trong điện mà bảo rằng: "Nhà ngươi là thân tộc, cho nên bao nhiêu việc nước, trẫm đều ủy thác cho cả; nay quốc thế suy nhược, trẫm thì già rồi; ngày sau con trẫm có nên giúp thì giúp, không thì nhà ngươi tự làm lấy". Thượng hoàng bắt chước câu ấy của ông Lưu Bị nói với ông Khổng Minh ngày trước, tưởng để mua chuộc được lòng Quý Ly.

Quý Ly cởi mũ, khấu đầu khóc lóc mà thề rằng: "Nếu hạ thần không hết lòng, hết sức giúp nhà vua, thì trời tru đất diệt. Vả ngày trước Linh Đức Vương (tức là Phế Đế) có lòng làm hại, nếu không có uy linh của bệ hạ, thì nay đã ngậm cười dưới đất, còn đâu ngày nay nữa mà mài thân nghiền cốt để báo đền vạn nhất! Vậy hạ thần đâu có ý gì khác, xin bệ hạ tỏ lòng ấy cho và đừng lo gì!"


VI. Lê Quý Ly Mưu Sự Thoán Đoạt

Nghệ Tông mất rồi, Quý Ly lên làm Phụ Chính Thái Sư vào ở trong điện, dịch thiên Vô Dậu ra chữ Nôm để dạy vua và bắt người ta gọi là Phụ Chính Cai Giáo Hoàng Đế.

Từ đấy Quý Ly cứ chuyên làm mọi việc để chực đường thoán đoạt. Việc trong nước, Quý Ly xếp đặt lại cả, hoặc để mua chuộc lấy những người vây cánh.


1. Việc Tài Chính.

Quý Ly đặt ra một cách làm tiền giấy để thu tiền của dân: Tờ giấy ăn 10 đồng, thì vẽ cây rêu bể; ăn 30 đồng thì vẽ cái sóng; ăn một tiền, thì vẽ đám mây; hai tiền thì vẽ con rùa; ba tiền thì vẽ con lân; năm tiền thì vẽ con phượng; một quan thì vẽ con rồng. Hễ ai làm giấy giả thì phải tội chém. Khi đã có dấu đóng rồi thì phát ra bắt dân phải tiêu, còn bao nhiêu tiền đồng thì thu nộp nhà vua; ai mà dấu giếm thì phải tội như là tội làm giấy giả vậy.

Việc ruộng đất thì khi trước những nhà tôn thất cứ sai đầy tớ ra chỗ đất bồi ở ngoài bể, đắp đê để một vài năm cho hết nước mặn, rồi khai khẩn thành ruộng, để tư trang. Nay Quý Ly lập lệ rằng trừ những bậc đại vương, công chúa ra, thì những người thứ dân không được có hơn 10 mẫu, ai có thừa ra thì phải đưa nộp quan, và ai có tội thì được phép lấy ruộng mà chuộc tội.


2. Việc Học Hành.

Tư trước thì phép thi không có định văn thể; bây giờ định lại làm tứ trường văn thể và bỏ thi ám tả; nhất trường làm bài kinh nghĩa; nhị trường làm bài thi phú; tam trường làm chiếu, chế, biểu; tứ trường làm bài văn sách. Còn như kỳ thi, thì năm trước thi Hương, năm sau thi Hội, ai đã trúng Hội thì vào thi một bài văn sách nữa để định cao thấp.

Những quan làm giáo chức ở các lộ, phủ, châu thì được cấp ruộng; như ở các lộ thì có quan đốc họ; ở phủ và châu lớn thì các quan giáo thụ được ruộng 15 mẫu, ở phủ và châu vừa thì được 12 mẫu, ở phủ và châu nhỏ thì được 10 mẫu.


3. Việc Cai Trị.

Ở trong triều thì Quý Ly định lại phẩm phục của các quan; nhất phẩm mặc áo sắc tía; nhị phẩm sắc đỏ; tam phẩm sắc hồng; tứ phẩm sắc lục; ngũ lục, thất phẩm sắc biếc; bát, cửu phẩm sắc sanh; vô phẩm và hoằng nô (68) sắc trắng.

Ở ngoài thì cải các lộ làm trấn, và đặt thêm quan chức ở lộ, phủ, v.v.... Thanh Hóa đổi ra Thanh Đô Trấn; Quốc Oai là Quảng Oai Trấn; Đà Giang Lộ là Thiên Hưng Trấn; Nghệ An Lộ là Lâm An Trấn; Tràng An Lộ là Thiên Quan Trấn; Diễn Châu Lộ là Vọng Giang Trấn; Lạng Sơn Phủ là Lạng Sơn Trấn; Tân Bình Phủ là Tây Bình Trấn. Và bỏ các ti xã, chỉ để quản giáp như cũ mà thôi.

Ở các lộ, phủ, châu, huyện thì đặt lại quan chức. Lộ thì đặt chánh phó An phủ sứ; phủ thì đặt chánh phó Trấn Phủ Sứ; châu thì đặt Thông phán, Thiêm phán; huyện thì đặt Lĩnh Úy, Chủ Bạ. Lộ coi phủ coi châu, châu coi huyện. Lộ nào cũNg phải có một tập sổ sách về những việc đinh, điền, kiện tụng, đến cuối năm thì đệ về Kinh để kê cứu.

----------------------------------------------------
68 Hoằng Nô là đầy tớ nhà quan.
----------------------------------------------------


4. Lập Tây Đô.

Quý Ly định dời Kinh Đô vào Thanh Hóa cho dễ đường thoán đoạt, bèn sai quan vào xây thành Tây Đô ở động Yên Tôn (nay còn di tích ở xã Yên Tôn, huyện Vĩnh Lộc, tục gọi là Tây Giai). Đến năm Bính tý (1396) Quý Ly bắt Thuận Tông phải dời kinh về Tây Độ Qua tháng ba năm sau, Quý Ly lập mưu cho người đạo sĩ vào trong cung xui Thuận Tông nhường ngôi mà đi tu tiên. Thuận Tông phải nhường ngôi cho con, rồi đi tu tiên ở cung Bảo Thanh tại núi Đại Lại (thuộc huyện Vĩnh Lộc, Thanh Hóa).


5. Sự Phế Lập: Trần Thiếu Đế (1398 - 1400).

Quý Ly bắt Thuận Tông nhường ngôi rồi, lập Thái Tử là Án lên làm vua. Thái tử bấy giờ mới có 3 tuổi, tức là Thiếu Đế, niên hiệu là Kiến Tân.

Lê Quý Ly làm phụ chính tự xưng làm Khâm Đức Hưng Liệt Đại Vương, rồi sai người giết Thuận Tông đi.

Bấy giờ triều đình có những người như là Thái Bảo Trần Nguyên Hảng, Thượng tướng quân là Trần Khát Chân lập hội để mưu trừ Quý Ly, chẳng may sự lộ ra, bị giết đến hơn 370 người (69).

Lê Quý Ly lại xưng là Quốc Tổ Chương Hoàng, ở cung Nhân Thọ, ra vào dùng nghi vệ của Thiên Tử. Đến tháng hai năm canh thìn (1400) Quý Ly bỏ Thiếu Đế rồi tự xưng làm vua thay ngôi nhà Trần.

Nhà Trần làm vua nước Nam ta kể từ Trần Thái Tông đến Trần Thiếu Đế, với 12 ông vua, được 175 năm, công việc trong nước sửa sang được nhiều, chính trị luật lệ đều chỉnh đốn lại, học hành thi cử thì mở mang rộng thêm ra. Lại chống với nhà Nguyên giữ được giang sơn, lấy đất Chiêm Thành mở thêm bờ cõi, thật là có công với nước Nam. Nhưng chỉ có điều luân thường trong nhà thì bậy: cô cháu, anh em, trong họ cứ lấy lẫn nhau, thật là trái với thế tục.

Còn như cơ nghiệp nhà Trần xiêu đổ là tại vua Duệ Tông và vua Nghệ Tông. Dụ Tông thì hoang chơi, không chịu lo gì đến việc nước và lại làm loạn cả cương kỷ để đến nổi dân nghèo nước yếu. Nghệ Tông thì không biết phân biệt hiền gian để kẻ quyền thần được thế làm loạn, thành ra tự mình nối giáo cho giặc, tự mình làm hại nhà mình vậy.
----------------------------------------------------
69 Nay ở Thanh Hóa có nhiều nơi làm đền thờ Trần Khát Chân.
^o^Nụ cười của em đã khiến bối rối tim này..-_-
--_..Anh biết đã yêu em rồi..__

cop_xong_paste

Chương 21

Nhà Hồ (1400 - 1407)


I. Hồ Quý Ly


II. Hồ Hán Thương

1. Việc võ bị
2. Sự sưu thuế
3. Việc học hành
4. Việc giao thiệp với Chiêm Thành
5. Việc giao thiệp với nhà Minh
6. Nhà Minh đánh họ Hồ
7. Thành Đa Bang thất thủ
8. Trận Mộc Phàm Giang
9. Trận Hàm Tử Quan
10. Họ Hồ phải bắt


I. Hồ Quý Ly ( 1400 )

Niên-hiệu: Thánh Nguyên


Quý Ly bỏ Thiếu Đế, nhưng vị tình cháu ngoại cho nên không giết, chỉ giáng xuống làm Bảo Ninh Đại Vương, rồi tự xưng làm đế, đổi họ là Hồ. Nguyên họ Hồ là dòng dõi nhà Ngu bên Tàu, cho nên Quý Ly đặt quốc hiệu là Đại Ngu.

Bấy giờ vua Chiêm Thành là La Khải mới mất, con là Ba Đích Lại mới nối nghiệp, Quý Ly nhân dịp ấy sai tướng là Đỗ Mãn làm thủy quân đô tướng, Trần Tùng làm bộ quân đô tướng lĩnh 15 vạn quân đi đánh Chiêm Thành. Nhưng Trần Tùng đem quân đi đường núi sang gần đất Chiêm Thành, cách thủy quân xa, hai bên không tiếp ứng được nhau, thành ra bộ quân thiếu lương phải rút về. Trần Tùng về phải tội, đày ra làm lính.

Quý Ly làm vua chưa được một năm, muốn bắt chước tục nhà Trần, nhường ngôi cho con là Hồ Hán Thương rồi làm Thái Thượng Hoàng để cùng coi việc nước.


II. Hồ Hán Thương (1401 - 1407)

Niên-hiệu: Thiệu Thành (1401 - 1402)
Khai Đại (1403 - 1407)


1. Việc Võ Bị.

Hồ Quý Ly đã nhường ngôi rồi, nhưng việc gì cũng quyết đoán ở mình cả. Hồ Hán Thương chỉ làm vua lấy vì mà thôi.

Nhà Hồ không làm vua được bao lâu, nhưng mà công việc sửa sang cũng nhiều. Trước hết Hồ Quý Ly chỉnh đốn việc võ bị: bề ngoài tuy lấy lễ mà đối đãi với nhà Minh, nhưng vẫn biết nhà Minh có ý muốn dòm đất An Nam, cho nên thường cứ hỏi các quan rằng: "Ta làm thế nào cho có 100 vạn quân để đánh giặc Bắc?" Bèn lập ra hộ tịch bắt người trong nước cứ hai tuổi trở lên thì phải biên vào sổ, ai mà ẩn lậu thì phải phạt. Đến lúc hộ tịch làm xong rồi, số người từ 15 tuổi đến 60 tuổi hơn gấp mấy phần lúc trước. Từ đó số quân lại thêm ra được nhiều.

Còn như thủy binh để giữ mặt sông, mặt bể thì Quý Ly bắt làm những thuyền lớn ở trên có sàn đi, ở dưới thì để cho người chèo chống, thật tiện cho sự chiến đấu.

Quý Ly lại đặt ra bốn kho để chứa đồ quân khí và bắt những người xảo nghệ vào làm những đồ khí giới.

Ở các cửa bể và những chỗ hiểm yếu ở trong sông lớn đều bắt lấy gỗ đóng cọc để ngự bị quân giặc.

Việc quân chế thì nam bắc phân ra làm 12 vệ, đông tây phân ra 8 vệ. Mỗi vệ có 18 đội, mỗi đội có 18 người. Đại quân thì có 30 đội, trung quân thì có 20 đội. Mỗi doanh có 15 đội, mỗi đoàn có 10 đội. Còn những cấm vệ, thì chỉ có 5 đội, có một người đại tướng thống lĩnh cả.


2. Việc Sưu Thuế.

Những thuyền đi buôn bán đều phải chịu thuế cả. Những thuyền hạng nhất mỗi chiếc phải 5 quan, hạng nhì 4 quan, hạng ba 3 quan.

Thuế điền thì ngày trước nhà Trần đánh thuế ruộng tư mỗi mẫu ba thăng thóc, ruộng dâu mỗi mẫu hoặc 9 quan, hoặc 7 quan. Thuế đinh thì mỗi người phải đóng 3 quan. Nay nhà Hồ định lại: ruộng tư điền thì phải đóng 5 thăng; còn ruộng dâu thì chia ra làm 3 hạng: hạng nhất 5 quan, hạng nhì 4 quan, hạng ba 3 quan. Thuế đinh thì lấy ruộng làm ngạch: ai có 2 mẫu 6 sào trở lên thì phải đóng 3 quan, ai có kém số ấy được giảm bớt, ai không có ruộng, và những người cô nhi quả phụ thì được tha thuế.


3. Việc Học Hành.

Việc học hành, thi cử đều sửa sang lại, lấy toán học đặt thêm ra một trường nữa, nghĩa là trong những khoa thi, có đặt thêm ra một kỳ thi toán pháp. Còn những cách thi, thì những người đã đỗ hương thi, sang năm sau phảI vào bộ Lễ thi lại, ai đỗ thì mới được tuyển bổ, rồi qua năm sau nữa thì lại thi hội, bấy giờ có đỗ, thì mới được là Thái Học Sinh.

Nhà Hồ lại sửa hình luật, và đặt ra y tỳ để coi việc thuốc thang.


4. Việc Giao Thiệp Với Chiêm Thành.

Năm nhâm ngọ (1402) tướng nhà Hồ là Đỗ Mãn đem quân sang đánh Chiêm Thành. Vua nước ấy là Ba Đích Lại sai cậu là Bồ Điền sang dâng đất Chiêm Động (phủ Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam) để xin bãi binh. Quý Ly lại bắt phải dân đất Cổ Lụy (Quảng Nghĩa) rồi phân đất ra làm châu Thăng, Châu Hoa, châu Tư, châu Nghĩa, và đặt quan An Phủ Sứ để cai trị bốn châu ấy. Lại bắt những dân có của mà không có ruộng ở các bộ khác đem vợ con vào ở để khai khẩn đất những châu ấy, bởi vì khi vua Chiêm nhường đất Chiêm Động và Cổ Lụy, người Chiêm đều bỏ đất mà đi cả.

Năm quý mùi (1403) nhà Hồ lại muốn lấy những đất Bạt Đạt Gia, Hắc Bạch, và Sa Ly Nha về phía nam những đất đã nhường năm trước, bèn sai Phạm Nguyên Khôi và Đỗ Mãn đem thủy bộ cả thảy 20 vạn quân sang đánh Chiêm Thành. Quân nhà Hồ vào vây thành Đồ Bàn hơn một tháng trời mà đánh không đổ, lương thực hết cả, phải rút quân về. Lần này hao binh tổn tướng mà không có công trạng gì.


5. Việc Giao Thiệp Với Nhà Minh.

Khi Hồ Hán Thương mới lên ngôi, thì cho sứ sang nhà Minh nói dối rằng: vì chưng dòng dõi nhà Trần không còn người nào nữa, cho nên cháu ngoại lên thay để quyền lý việc nước.

Đến khi vua Thái Tổ nhà Minh mất, Hoàng Thái Tôn lên ngôi tức là vua Huệ Đế. Bấy giờ hoàng thúc là Yên Vương Lệ, đóng ở Yên Kinh, quyền to thế mạnh, có ý tranh ngôi của cháu, bèn khởi binh đánh lấy Kim Lăng, rồi lên làm vua, tức là vua Thành Tổ, đóng đô ở Yên Kinh (Bắc Kinh).

Khi Thành Tổ dẹp xong dư đảng nhà Nguyên ở phía bắc rồi, có ý muốn sang lấy nước An Nam, cho nên nhân khi Hồ Hán Thương sai sứ sang xin phong, vua Thành Tổ sai quan là Dương Bột sang xem hư thực thể nào. Hồ Quý Ly bèn bắt những quan viên phụ lão làm tờ khai nói y như lời sứ An Nam dã sang nói. Vì thế cho nên Thành Tổ không có cớ gì mà từ chối, phải phong cho Hồ Hán Thương làm An Nam Quốc Vương.

Đến năm giáp thân (1404) có Trần Khang ở mạn Lão Qua đi đường Vân Nam sang Yên Kinh, đổi tên là Trần Thiêm Bình, xưng là con vua Nghệ Tông rồi kể rõ sự tình Hồ Quý Ly tiếm nghịch. Vua Thành Tổ nhà Minh sai quan ngự sử Lý Ỷ sang tra xét việc ấy. Lý Ỷ về tâu quả thật là họ Hồ làm điều thoán đoạt.

Từ đấy nhà Minh muốn mượn tiếng đánh Hồ để lấy đất An Nam. Ở bên này cha con họ Hồ cũng biết ý ấy, hết sức tìm cách chống giữ.

Năm ất dậu (1405) nhà Minh sai sứ sang đòi đất Lộc Châu. Trước Hồ Quý Ly đã không chịu, sau phải cắt ra 59 thôn ở Cổ Lâu nhường cho Tàu.

Tuy vậy nhà Minh vẫn cứ cứ trách nhà Hồ làm điều tiếm nghịch. Sứ nhà Hồ sang Tàu thì nhà Minh giữ lại, không cho ai về, lại cho người sang An Nam dò xem sơn xuyên đạo lộ hiểm trở thế nào, để liệu đường tiến binh.

Họ Hồ biết thế nào rồi quân Minh cũng sang đánh, bèn sai đắp thành Đa Bang (bây giờ ở xã Cổ Pháp, huyện Tiên Phong, tỉnh Sơn Tây), bắt lấy gỗ đóng cọc ở sông Bạch Hạc để chặn đường quân Minh sang, và chia các vệ quân ở Đông Đô ra giữ mọi đường hiểm yếu. Đoạn rồi hội cả nội ngoại bách quan văn võ lại bàn việc nên đánh hay là nên hòa. Người thì bàn đánh, người thì bàn hòa, nhưng Quý Ly nhất định đánh.

Từ khi Lý Ỷ trở về Tàu, nhà Hồ cho sứ sang dâng biểu tạ tội, và xin rước Trần Thiêm Bình về. Vả bấy giờ Thiêm Bình cứ kêu van với vua nhà Minh, xin cho đem binh sang đánh báo thù, vì vậy năm Bính Tuất (1406) Minh Thành Tổ sai đốc tướng là Hàn Quan và bọn Hoàng Trung dẫn 5000 quân đưa Thiêm Bình về nước.

Khi Hồ Quý Ly được tin ấy, liền sai tướng lên đón ở cửa Chi Lăng, đánh quân Minh, bắt được Thiêm Bình đem về giết đi. Đoạn rồi biết quân Minh tất lại sang, một mặt cho sứ sang biện bạch việc Thiêm Bình nói dối, và xin theo lệ tiếng cống như cũ, một mặt cho những công hầu được quyền mộ những người đào vong làm lính, đặt thiên hộ, bách hộ để làm quản những lính mộ ấy. Và ở các cửa sông thì đóng cừ lại, để giữ quân giặc ở mặt bể vào. Về phía nam ngạn sông Nhị Hà (tức là sông Hồng Hà) thì đóng cừ dài hơn 700 dặm. Lại sai dân ở Bắc Giang và Tam [em xin lỗi, em là người chửi bậy] sang làm nhà sẵn ở phía nam sông lớn để phòng khi giặc đến, thì bỏ sang bên này mà ở.


6. Nhà Minh Đánh Họ Hồ.

Vua nhà Minh trước đã cho hoạn quan là Nguyễn Toán sang An Nam do thám, biết nước ta phú thịnh, đã có ý đánh lấy, cho nên thường cứ tìm chuyện để lấy cớ dấy binh. Nay nhân việc Hồ Hán Thương giết Thiêm Bình, vua Thành Tổ mới sai Thành Quốc Công là Chu Năng làm đại tướng, Tân Thành Hầu là Trương Phụ, Tây Bình Hầu là Mộc Thạnh, làm tả hữu phó tướng, Phong Thành Hầu là Lý Bân, Vân Dương Bá là Trần Húc làm tả hữu tham tướng, chia binh ra làm hai đạo sang đánh An Nam.

Khi quân nhà Minh đến Long Châu thì đại tướng Chu Năng chết, phó tướng Trương Phụ lên thay.

Đạo quân của Trương Phụ ở Quảng Tây đi từ đất Bằng Tường sang đánh lấy cửa Ba Lụy, tức Nam Quan bây giờ, rồi tiến sang phía tây bắc về mé sông Cái (70). Còn đạo quân của Mộc Thạnh ở Vân Nam theo đường Mông Tự sang đánh lấy cửa Phú Lĩnh (thuộc tỉnh Tuyên Quang) rồi tiến sang đến sông Thao. Cả hai đạo hội ở Bạch Hạc, đóng đồn ở bờ sông phía bắc.

Tuy rằng nhà Hồ trước đã phòng bị, nhưng mà tướng nhà Minh biết rằng người An Nam không phục họ Hồ, bèn làm hịch kể tội họ Hồ, và nói rằng quân Tàu sang là để lập dòng dõi nhà Trần lên, cứu cho dân khỏi sự khổ sở. Trương Phụ sai viết hịch ấy vào những mảnh ván nhỏ bỏ xuống sông, trôi đến đâu, quân sĩ An Nam bắt được, nhiều người không đánh và theo hàng quân Minh; vì thế cho nên quân Minh đi đến đâu đánh được đến đấy. Quân Hồ phải lui về giữ thành Đa Bang.

Ở chỗ thành Đa Bang, quân Hồ lập đồn ải liên tiếp ở phía nam sông Thao và sông Cái tức là dọc sông Hồng Hà, rồi đóng cọc cắm ở giữa sông, thuyền bè không đi lại được, có ý để cho quân Minh mỏi mệt rồi sẽ đánh.


7. Thành Đa Bang thất thủ.

Quân Minh tiến lên mặt có thành Đa Bang ngăn trở. Mộc Thạnh mới bàn với Trương Phụ rằng: "Mọi nơi đồn An Nam đóng gần bờ sông, quân sang không được, còn thành Đa Bang thì lũy cao hào sâu, nhưng ở đằng trước có bãi cát, quân có thể sang đấy được, vả ta có đồ chiến cụ, nếu đánh thì tất thành ấy phải đổ". Trương Phụ bèn hạ lệnh rằng: "Quân kia trông cậy có thành này, mà ta lập công cũng ở đó; hễ quân sĩ ai lên được trước thì có thưởng to !" Rồi ngay đêm hôm ấy đốt lửa thổi tù và làm hiệu, Trương Phụ, Hoàng Trung đánh mặt tây bắc, Mộc Thạnh, Trần Tuấn đánh mặt đông nam, dùng thang vân thê để lên thành; quân Hồ đánh không được phải lui vào thành, đến sáng hôm sau đào thành

----------------------------------------------------
70 Sử chép là Phú Lương.
----------------------------------------------------

cho voi ra đánh. Quân Minh vẽ sư tử trùm lên ngựa rồi xông vào và dùng súng bắn hăng lắm, voi sợ chạy trở vào, quân Minh theo sau voi chạy ồ vào thành, quân Hồ thua to, phải bỏ chạy vào Hoàng Giang 71. Quân Minh thừa thế đánh tràn xuống sông Cái, đốt sạch cả các đồn ải, rồi tiến lên đánh lấy Đông Đô (tức là Thăng Long), bắt đàn bà con gái, cướp lấy của cải. Bọn Trương Phụ tích trữ lương thực, đặt quan làm việc, định kế ở lâu dài.


8. Trận Mộc Phàm Giang (Hoàng Giang tức là khúc sông Hồng Hà thuộc về huyện Nam Xang tỉnh Hà Nam)

Qua tháng ba năm đinh hợi (1407) Mộc Thạnh biết rằng con trưởng Hồ Quý Ly là Hồ Nguyên Trừng đóng ở Hoàng Giang, bèn đem thủy lục cùng tiến lên đến hạ trại ở sông Mộc Phàm (ở làng Mộc Phàm, huyện Phú Xuyên tiếp với Hoàng Giang).

Hồ Nguyên Trừng đem 30 chiếc thuyền ra đánh bị quân Mộc Thạnh ở hai bên bờ sông đánh ụp lại. Nguyên Trừng thua chạy về cửa Muộn Hải (ở Giao Thủy, Nam Định). Bấy giờ tướng nhà Hồ là Hồ Đỗ và Hồ Xạ cũng bỏ bến Bình Than (ở làng Trần Xá, huyện Chí Linh, Hải Dương) chạy về cửa Muộn Hải để cùng với Nguyên Trừng tìm kế phá giặc; nhưng quân Minh sực đến, lại bỏ chạy ra giữ cửa Đại An (thuộc phủ Nghĩa Hưng bây giờ).

Quân Minh ở Muộn Hải phải bệnh, lui về đóng ở bến Hàm Tử, để đợi quân Hồ lên sẽ đánh.

Bọn Hồ Nguyên Trừng rước Quý Ly và Hán Thương ở Tây Đô ra, rồi đem quân lên Hoàng Giang để chống giữ với giặc.


9. Trận Hàm Tử Quan.

Quân Hồ bấy giờ cả thủy và bộ được 7 vạn, giả xưng là 21 vạn, rồi phân quân bộ ra làm hai đạo đi men hai bên sông, quân thủy đi giữa, tiến lên Hàm Tử Quan. Vừa đi đến nơi bị quân Minh hai mặt xông lại mà đánh, quân bộ của nhà Hồ đương không nổi, bỏ chạy cả, phần thì hàng giặc, phần thì chạy xuống xông chết đuối. Còn thủy quân thì chạy thoát được, nhưng bao nhiêu thuyền lương thì đắm mất cả.

Bấy giờ có quan An Phủ Sứ Bắc Giang tên là Nguyễn Hy Chu bị quân Minh bắt được, không chịu hàng phải giết.

Hồ Quý Ly và Hồ Hán Thương đưa bọn liêu thuộc chạy ra bể, rồi về Thanh Hóa, vào đến Lỗi Giang (tức là Mã Giang) gặp quân Minh đuổi đến, quân Hồ không đánh mà tan. Tướng nhà Hồ là Ngụy Thức thấy thế nguy cấp lắm, bảo Quý Ly rằng: " Nước đã mất, làm ông vua không nên để cho người ta bắt được, xin Bệ Hạ tự đốt mà chết đi còn hay hơn! "Quý Ly giận lắm, bắt Ngụy Thức chém rồi chạy vào Nghệ An.


10. Họ Hồ Phải Bắt.

Trương Phụ, Mộc Thạnh biết là Quý Ly chạy vào Nghệ An, bèn đem binh đi đường bộ đuổi theo, lại sai Liễu Thăng đem thủy sư đi đuổi mặt thủy. Quý Ly vào đến cửa Kỳ La (thuộc huyện Kỳ Anh, Hà Tĩnh) bị quân nhà Minh bắt được. Hán Thương và những con cháu họ Hồ đều bị giặc bắt được cả ở núi Cao Vọng. Những quan nhà Hồ, người thì ra hàng, người thì bị bắt, người thì không chịu nhục nhảy xuống sông tự tử.

Nhà Hồ chỉ làm vua được từ năm canh thìn (1400) đến năm đinh hợi (1407), kể vừa 7 năm thì mất.

Xem công việc của Hồ Quý Ly làm thì không phải là một người tầm thường, nhưng tiếc thay một người có tài kinh tế như thế, mà giả sử cứ giúp nhà Trần cho có thủy chung, thì dẫu giặc Minh có thế mạnh đến đâu đi nữa, cũng chưa hầu dễ đã cướp được nước Nam, mà mình lại được cái tiếng thơm để lại nghìn thu. Nhưng vì cái lòng tham xui khiến, hễ đã có thế lực là sinh ra bụng muốn tranh quyền, cướp nước. Bởi thế Hồ Quý Ly mới làm sự thoán đoạt, và nhà Minh mới có cái cớ mà sang đánh lấy nước An Nam. Cũng vì cái cớ ấy, cho nên lòng người mới bỏ họ Hồ mà đem theo giặc, để đến nỗi cha con họ Hồ thua chạy, bị bắt, phải đem thân đi chịu nhục ở đất nước người!

Nhưng đấy là cái tội làm hại riêng cho một họ Hồ mà thôi, còn cái tội làm mất nước Nam, thì ai gánh vác cho Quý Ly ? May mà sau có một tay đại anh hùng là vua Lê Thái Tổ hết sức ra tay trong hơn mười năm trời, cứu vớt được người mình ra khỏi tay quân Tàu, chứ không thì cái khổ làm nô lệ nước Tàu lại biết mấy mươi đời nữa mới giải thoát được.
^o^Nụ cười của em đã khiến bối rối tim này..-_-
--_..Anh biết đã yêu em rồi..__

cop_xong_paste

Chương 22

Nhà Hậu Trần (1407 - 1413)


1. Nhà Minh chiếm giữ đất An Nam
2. Giản Định Đế
3. Trận Bồ Cô
4. Trần Quý Khoách
5. Trương Phụ trở sang An Nam
6. Hóa Châu thất thủ


1. Nhà Minh Chiếm Giữ Đất An Nam.

Nhà Minh không phải có yêu gì nhà Trần mà sang đánh nhà Hồ, chẳng qua là nhân lấy cái cớ nhà Trần mất ngôi mà đem binh sang lấy nước Nam. Lại nhân vì người An Nam ta hay có tính ỷ lại, có việc gì thì chỉ muốn nhờ người, chứ tự mình không biết kiên nhẫn, không có cố gắng mà làm lấy. Một ngày gì nữa mà còn lạ cái lòng hùm beo của người Tàu, thế mà hễ khi nào trong nước có biến loạn, lại chạy sang van lạy để rước chúng sang. Khác nào đi rước voi về giày mồ vậy.

Dẫu người Tàu có lòng vị nghĩa mà sang giúp mình nữa thì nghĩ cũng chẳng vẻ vang gì cái việc đi nhờ người ta, huống chi kỳ thực thì lúc nào chúng cũng chực đánh lừa mình, như đánh lừa trẻ con, để bóp cổ mình, thế mà người mình vẫn không biết cái dại, là tại làm sao?

Tại là cái nghĩa dân với nước ta không có mấy người hiểu rõ. Nhà nào làm vua, cho cả nước là của riêng của nhà ấy; hễ ai lấy mất thì đi tìm cách lấy lại, lấy không được thì lại đi nhờ người khác lấy lại cho, chứ không nghĩ đến cái lợi chung trước cái lợi riêng, cái quyền nước trước cái quyền nhà, thế cho nên mình cứ dại mãi, mà vẫn không biết là dại.

Xem như lúc còn nhà Trần, nhà Minh đã có ý lấy đất An Nam, sau nhà Trần mất rồi lại dùng lời nói khéo, và lấy tiếng điếu phạt đem binh sang đánh họ Hồ. Đến khi bắt được cha con Hồ Quý Ly rồi, lại bày kế để chiếm giữ đất An Nam: giả treo bảng gọi con cháu họ Trần, rồi bắt quan lại và kỳ lão làm tờ khai rằng: Họ Trần không còn ai nữa và đất An Nam vốn là đất Giao Châu ngày trước, nay xin đặt quận huyện như cũ.

Nhà Minh lấy cái cớ giả dối ấy để chiếm giữ lấy nước Nam, rồi chia đất ra làm 17 phủ là: Giao Châu, Bắc Giang, Lạng Giang, Lạng Sơn, Tân An, Kiến Xương, Phong Hóa, Kiến Bình, Trấn Man, Tam Giang, Tuyên Hóa, Thái Nguyên, Thanh Hóa, Nghệ An, Tân Bình, Thuận Hóa, Thăng Hoa, và 5 châu là: Quảng Oai, Tuyên Hóa, Qui Hóa, Gia Bình, Diễm Châu.

Còn những nơi yếu hại thì đặt ra 12 vệ để phòng giữ. Lại đặt ra 3 ti là: Bố Chính Ti, Án Sát Ti, Chưởng Đô Ti, và cả thảy ở trong nước lập ra 472 nha môn để cai trị, sai quan thượng thư là Hoàng Phúc coi cả Bố Chính và Án Sát Ti; Lữ Nghị chi Chưởng Đô Ti, Hoàng Trung làm phó.

Vua quan nhà Hồ thì đều phải đem cả về Kim Lăng. Quý Ly về bên Tàu phải giam, rồi sau đày ra làm lính ở Quảng Tây, còn con cháu và các tướng sĩ thì được tha cả không phải tội.

Vua nhà Minh lại truyền cho Trương Phụ tìm kiếm những người ẩn dật ở sơn lâm, những kẻ có tài có đức, hay văn học rộng, quen việc, hiểu toán pháp, nói năng hoạt bát cùng những người hiếu đễ, những người lực điền mà mặt mũi khôi ngô, hoặc có gân sức khoẻ mạnh, những người thầy đồ, thầy bói, thầy thuốc, v.v.... để đưa sang Kim Lăng, ban thưởng cho phẩm hàm, rồi cho về làm quan phủ, quan châu, hay là quan huyện. Bấy giờ những đồ bôn cạnh tranh nhau mà ra, duy chỉ có vài người như ông Bùi Ứng Đẩu, ông Lý Tử Cấu biết liêm sĩ, không chịu ra làm quan với nhà Minh.

Công việc xếp đặt đâu vào đấy rồi. Lữ Nghị và Hoàng Phúc ở lại trấn đất Giao Chỉ, còn Trương Phụ và Mộc Thạnh đem quân về Tàu, đưa địa đồ An Nam về dâng vua nhà Minh.

Bấy giờ tuy rằng nhà Minh đã chiếm giữ đất An Nam, nhưng con cháu nhà Trần còn có người muốn khôi phục nghiệp cũ, vả nước ta còn có nhiều người không muốn làm nô lệ nước Tàu, cho nên nhà Hậu Trần lại hưng khởi lên được mấy năm nữa.


2. Giản Định Đế (1407 - 1409).

Khi trước Trương Phụ treo bảng gọi con cháu nhà Trần là ý giả dối để chực giết hại, cho nên không ai dám ra. Bấy giờ có Giản Định Vương tên là Quĩ, con thứ vua Nghệ Tông chạy đến Mô Độ (thuộc làng Yên Mô, huyện Yên Mô, Ninh Bình) gặp Trần Triệu Cơ đem chúng đi theo, bèn xưng là Giản Định Hoàng Đế, để nối nghiệp nhà Trần, đặt niên hiệu là Hưng Khánh.

Giảng Định khởi nghĩa chống với quân Minh, nhưng vì quân mình là quân mới góp nhặt được, đánh không nổi, phải thua chạy vào Nghệ An; bấy giờ có Đặng Tất là quan nhà Trần, trước đã ra hàng nhà Minh được làm đại tri châu ở Hóa Châu, nay thấy Giản Định Đế khởi nghĩa, liền giết quan nhà Minh đi, rồi đem quân ra Nghệ An để giúp việc khôi phục. Lại ở đất Đông Triều có Trần Nguyệt Hồ cũng khởi binh đánh quân nhà Minh, nhưng chẳng được bao lâu mà phải bắt, còn dư đảng chạy vào Nghệ An theo vua Giản Định. Vì vậy cho nên quân thế của Giản Định mới mạnh lên. Ông Đặng Tất lại giết được hàng tướng nhà Minh là Phạm Thế Căng ở cửa Nhật Lệ. Lúc bấy giờ đất An Nam từ Nghệ An trở vào lại thuộc về nhà Trần.


3. Trận Bô Cô.

Tháng chạp năm mậu tý (1408) Giản Định Đế hội tất cả quân Thuận Hóa, Tân Bình, Nghệ An, Diễn Châu, Thanh Hóa, rồi tiến ra đánh Đông Đô. Quân ra đến Trường Sơn (Ninh Bình) thì các quan thuộc và những kẻ hào kiệt ở các nơi ra theo nhiều lắm.

Quan nhà Minh đem tin ấy về báo cho Minh Đế biết. Minh Đế sai Mộc Thạnh đem 4 vạn quân ở Vân Nam sang đánh dẹp. Mộc Thạnh cùng với các quan đô chưởng là Lữ Nghị vào đến bến Bô Cô (thuộc xã Hiếu Cổ, huyện Phong Doanh) thì gặp quân Trần. Hai bên giao chiến, vua Giản Định tự cầm trống thúc quân, tướng sĩ ai nấy hết sức xung đột, phá tan được quân nhà Minh, chém được Lữ Nghị ở trận tiền và đuổi Mộc Thạnh về đến thành Cổ Lộng (thành nhà Minh xây, bấy giờ ở làng Bình Cách, huyện Ý Yên).

Bấy giờ vua Giản Định muốn thừa thắng đánh tràn ra để lấy lại Đông Quan (tức Đông Đô). Nhưng ông Đặng Tất ngăn lại muốn để đợi quân các lộ về đã, rồi sẽ ra đánh. Từ đó vua tôi không được hòa thuận, vua Giản Định lại nghe người nói gièm, bắt Đặng Tất và quan tham mưu là Nguyễn Cảnh Chân đem giết đi, thành ra lòng người ai cũng chán ngán cả, không có lòng giúp rập nữa.


4. Trần Quý Khoách (1403 -1413).

Giặc nước hãy còn, mà vua tôi đã nghi hoặc nhau, rồi đem giết hại những người có lòng vì nước, thật là tự mình gây nên cái vạ cho mình.

Bấy giờ con ông Đặng Tất là Đặng Dung và con ông Nguyễn Cảnh Chân là Nguyễn Cảnh Dị thấy thân phụ bị giết, đều bỏ vua Giản Định, đem quân bản bộ về Thanh Hóa rước vua Quý Khoách vào huyện Chi La (tức là huyện La Sơn, Hà Tĩnh) rồi tôn lên làm vua, đặt niên hiệu là Trùng Quang.

Lúc ấy vua Giản Định đương chống nhau với quân nhà Minh ở thành Ngự Thiên (thuộc huyện Hưng Nhân). Quý Khoách sai tướng là Nguyễn Súy ra đánh lẻn bắt đem về Nghệ An. Quý Khoách tôn Giản Định lên làm Thái Thượng Hoàng để cùng lo việc khôi phục.


5. Trương Phụ Trở Sang An Nam.

Vua nhà Minh thấy Mộc Thạnh bại binh, lại sai Trương Phụ làm thống binh, Vương Hữu làm phó đem binh sang cứu viện.

Quân nhà Trần bấy giờ chia ra là mấy đạo đi đánh dẹp các châu huyện ở mạn Hải Dương. Giản Định đóng quân ở Hạ Hồng (Ninh Giang), Quý Khoách đóng ở Bình Than.

Khi Trương Phụ sang đến nơi, tiến binh đánh đuổi, Giản Định đem binh thuyền chạy về đến huyện Mỹ Lương (giáp Sơn Tây và phủ Nho Quan) gặp quân Trương Phụ đuổi đến bắt được giải về Kim Lăng.

Giản Định bị bắt rồi, Quý Khoách ở Bình Than sai Đặng Dung đến giữ Hàm Tử Quan (huyện Đông An, Hưng Yên). Nhưng quân của Đặng Dung thiếu lương, phải bỏ chạy. Quý Khoách thấy quân của Đặng Dung đã thua, liệu thế giữ không nổi, bèn bỏ Bình Than chạy về Nghệ An.

Trương Phụ thắng trận, đi đến đâu giết hại quân dân, và làm những điều tàn bạo gớm ghê như là: xếp người thành núi, hoặc rút ruột người treo lên cây, hoặc nấu thịt người để lấy đầu. Còn những người An Nam ai tòng phục nhà Minh mà giết được nhiều người bản quốc thì được thưởng cho làm quan. Thật bấy giờ tha hồ cho bọn hung ác đắc chí!

Năm canh dần (1410) Trần Quý Khoách cùng với bọn Nguyễn Cảnh Dị lại đem quân ra đánh quân Minh ở Hồng Châu, được thắng trận, rồi lại ra đóng ở Bình Than. Ở các nơi lại nổi lên đánh giết quân nhà Minh; nhưng chỉ vì quân không có thống nhiếp, hiệu lệnh bất nhất, cho nên đến khi quân giặc đến đánh, quân nhà Trần lại thua, phải chạy về Nghệ An.

Trương Phụ một mặt đưa chiếu của vua Minh lấy lời giả nhân nghĩa mà dụ quan lại nhân dân, một mặt thì tiến quân vào đánh Trần Quý Khoách.

Tháng tư năm quý tị (1413) Trương Phụ đưa quân đánh Nghệ An, quân Quý Khoách bấy giờ mười phần chỉ còn ba bốn, lương thực lại không có, phải bỏ chạy và Hóa Châu.

Trước Quý Khoách đã mấy lần cho người sang Tàu cầu phong, Minh Đế không cho, đem giết sứ thần đi. Nay Quý Khoách lại sang Nguyễn Biểu ra cầu phong với Trương Phụ. Trương Phụ bắt giữ không cho về. Nguyễn Biểu giận mắng Trương Phụ rằng: " Chúng bay trong bụng thì chỉ lo đường chiếm giữ, ngoài mặt lại giương tiếng đem quân nhân nghĩa đi đánh dẹp; trước thì nói sang lập họ Trần, sau lại đặt quận huyện để cai trị, rồi tìm kế để vơ vét của cải, ức hiếp sinh dân; chúng bay thật đồ ăn cướp hung ngược !" Trương Phụ tức giận đem giết đi.


6. Hóa Châu Thất Thủ.

Đến tháng sáu năm quý tị (1413) quân Trương Phụ vào đến Nghệ An, quan Thái Phó nhà Hậu Trần là Phan Quý Hữu ra hàng, nhưng được mấy hôm thì mất. Trương Phụ cho con là Quý Hữu là Liêu làm tri phủ Nghệ An. Phan Liêu muốn tâng công, Quý Khoách có bao nhiêu tướng tá người nào giỏi, người nào dở, quân số nhiều ít, sơn xuyên chổ hiểm, chỗ không thế nào, khai cả cho Trương Phụ biết. Trương Phụ bèn quyết ý vào Hóa Châu, và hội chư tướng lại để bàn kế tiến binh.

Mộc Thạnh nói rằng: " Hóa Châu núi cao bể rộng khó lấy lắm".

Trương Phụ nhất định vào đánh cho được, nói rằng: "Ta sống cũng ở đất Hóa Châu này, mà chết cũng ở đất Hóa Châu này. Hóa Châu mà không lấy được thì không mặt mũi nào về trông thấy chúa thượng!" Lập tức truyền cho quân thủy bộ tiến vào đánh Hóa Châu.

Đến tháng chín, quân Trương Phụ vào đến Thuận Hóa, Nguyễn Súy và Đặng Dung nửa đêm đem quân đến đánh trại Trương Phụ. Đặng Dung đã vào được thuyền của Trương Phụ định để bắt sống lấy nhưng không biết mặt, vì thế Trương Phụ mới nhảy xuống xông lấy cái thuyền con mà chạy thoát được.

Bấy giờ quân nhà Trần ít lắm. Trương Phụ thấy vậy đem binh đánh úp lại, bọn Đặng Dung địch không nổi phải bỏ chạy.

Từ khi thua trận ấy rồi, Trần Quý Khoách thế yếu quá không thể chống với quân giặc được nữa, phải vào ẩn núp ở trong rừng núi. Chẳng được bao lâu Trần Quý Khoách, Nguyễn Cảnh Dị, Đặng Dung, Nguyễn Súy đều bị bắt, và phải giải về Yên Kinh cả. Đi đến giữa đường, Quý Khoách nhảy xuống bể tự tử, bọn ông Đặng Dung cũng tử tiết cả.

Cha con ông Đặng Dung đều hết lòng giúp nước phò vua, tuy không thành công được, nhưng cái lòng trung liệt của nhà họ Đặng cũng đủ làm cho người đời sau tưởng nhớ đến, bởi vậy hiện nay còn có đền thờ ở huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh.

Ông Đặng Dung có làm bài thơ thuật hoài như sau này, mà ngày nay còn có nhiều người vẫn truyền tụng:

Thế sự du du nại lão hà !
Vô cùng thiên địa nhập hàm ca
Thời lai đồ điếu thành công dị
Sự khứ anh hùng ẩm hận đa
Trí chủ hữu hoài phù địa trục
Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà
Quốc thù vị phục đầu tiên bạch
Kỷ độ long tuyền [em xin lỗi, em là người chửi bậy] nguyệt ma!

Dịch

Việc đời bối rối tuổi già vay
Trời đất vô cùng một cuộc say
Bần tiện gặp thời lên cũng dễ
Anh hùng lỡ bước ngẫm càng cay
Vai khiêng trái đất mong phò chúa
Giáp gột sông trời khó vạch mây
Thù trả chưa xong đầu đã bạc
Gươm mài bóng nguyệt biết bao rày.


Nhà Hậu Trần nổi lên toan đường khôi phục, nhưng hiềm vì nỗi lòng người còn ly tán, thế lực lại hèn yếu, cho nên chỉ được 7 năm thì mất.
^o^Nụ cười của em đã khiến bối rối tim này..-_-
--_..Anh biết đã yêu em rồi..__

cop_xong_paste

Chương 23

Thuộc Nhà Minh (1414 - 1427)


1. Việc chính trị nhà Minh
2. Việc tế tự
3. Cách ăn mặc
4. Sự học hành
5. Việc trạm dịch
6. Việc binh lính
7. Phép hộ thiếp và hoàng sách
8. Việc thuế má
9. Việc sưu dịch
10. Quan lại



1. Việc Chính Trị Nhà Minh.

Trương Phụ lấy được châu Thuận Hóa và châu Tân Bình rồi, làm sổ biên số dân đinh ở hai châu ấy, đặt quan cai trị và để quân binh ở lại phòng giữ chỗ giáp giới nước Chiêm Thành. Đến htáng 8 năm giáp ngọ (1414) Trương Phụ và Mộc Thạnh về Tàu, đem những đàn bà con gái về rất nhiều.

Bọn Hoàng Phúc ở lại sửa sang các việc trong nước để khiến cho người An Nam đồng hóa với người Tàu. Lập ra đền miếu, bắt người mình cúng tế theo tục bên Tàu, rồi từ cách ăn mặc cho chí sự học hành, việc gì cũng bắt theo như người Tàu cả. Còn cái gì là di tích của nước mình như là sách vở thì thu nhặt đem về Tàu hết sạch. Lại đặt ra thuế lệ, bổ thêm sưu dịch để lấy tiền của, làm cho dân ta bấy giờ phải nhiều điều khổ nhục


2. Việc Tế Tự.

Hoàng Phúc bắt các phủ, châu, huyện phải lập văn miếu và lập bàn thờ bách thần, xã tắc, sơn xuyên, phong vân để bốn mùa tế tự.


3. Cách Ăn Mặc.

Bắt con trai con gái không được cắt tóc, đàn bà con gái thì phải mặt áo ngắn quần dài theo như người Tàu cả.


4. Sự Học Hành.

Quan nhà Minh bắt mở nhà học ở các phủ, châu, huyện, rồi chọn những thầy âm dương, thầy thuốc, thầy chùa, đạo sĩ, ai giỏi nghề gì thì làm cho quan để dạy nghề ấy.

Vua nhà Minh lại xuống chỉ truyền lấy Ngũ Kinh, Tứ Thư và bộ Tính Lý Đại Toàn, sai quan đưa sang ban cấp cho người An Nam học ở các châu huyện, rồi lại sai thầy tăng và đạo sĩ ở Tăng Đạo Ti 73 , đi truyền giảng đạo Phật và đạo Lão. Còn bao nhiêu sách vở của nước Nam, từ nhà Trần về trước thì thu lấy cả rồi đem về Kim Lăng.

Cứ theo sách Lịch Triều Hiến Chương Văn Tịch Chí của ông Phan Huy Chú thì những sách của nước Nam mà Tàu lấy về là những sách này:

- Hình Thư, của vua Thái Tông nhà Lý

3 quyển. - Quốc Triều Thông Lễ, của vua Thái Tông nhà Trần 10 quyển - Hình Luật, của vua Thái Tông nhà Trần 1 quyển - Thường Lễ, niên hiệu Kiến Trung

10 quyển - Khóa Hư Tập

1 quyển - Ngự Thi

1 quyển - Di Hậu Lục, của vua Thái Tông nhà Trần 2 quyển - Cơ Cầu Lục

1 quyển - Thi Tập

1 quyển - Trung Hưng Thực Lục, của Trần Nhân Tông

2 quyển - Thi Tập

1 quyển - Thủy Vân Tùy Bút, của Trần Anh Tông

2 quyển - Thi Tập, của Trần Minh Tông

1 quyển - Trần Triều Đại Điển, của Trần Dụ Tông 2 quyển - Bảo Hòa Điện Dư Bút, của Trần Nghệ Tông

8 quyển - Thi Tập

1 quyển - Binh Gia Yếu Lược, của Trần Hưng Đạo 1 bộ - Vạn Kiếp Bí Truyền, của Trần Hưng Đạo 1 bộ - Tứ Thư Thuyết Ước, của Chu Văn Trinh 1 bộ - Tiều Ẩn Thi

1 tập - Sầm Lâu Tập, của Uy Văn Vương Trần Quốc Toại 1 quyển - Lạc Đạo Tập, của Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải 1 quyển - Băng Hồ Ngọc Hác Tập, của Trần Nguyên Đán 1 quyển - Giới Hiên Thi Tập, của Nguyễn Trung Ngạn 1 quyển - Giáp Thạch Tập, của Phạm Sư Mạnh

1 quyển - Cúc Đường Di Thảo, của Trần Nguyên Đào 2 quyển

73

Nhà Minh bấy giờ không những là mở mang Nho Học mà thôi, lại lập ra Tăng Cương Ti và Đạo Kỳ Ti để coi những việc thuộc về Đạo Phật và Đạo Lão. - Thảo Nhàn Hiệu Tần, của Hồ Tôn Vụ

1 quyển - Việt Nam Thế Chí

1 bộ - Việt Sử Cương Mục

1 bộ - Đại Việt Sử Ký, của Lê Văn Hưu 30 quyển - Nhị Khê Thi Tập, của Nguyễn Phi Khanh

1 quyển - Phi Sa Tập, của Hàn Thuyên

1 quyển - Việt Điện U Linh Tập, của Lý Tế Xuyên

1 quyển


Những sách ấy bây giờ không biết mất đâu cả, không thấy quyển nào nữa, thật là một cái thiệt hại cho người nước mình.

Còn những người đi học, ở các phủ, châu, huyện, trước thì ở phủ mỗi năm 2 người, ở châu 2 năm 3 người, ở huyện mỗi năm 1 người, sau cải lại ở phủ mỗi năm 1 người, ở châu 3 năm 2 người, ở huyện 2 năm 1 người, được làm học trò tuế cống cho vào học Quốc Tử Giám, rồi bổ đi làm quan.


5. Việc Trạm Dịch.

Từ thành Đông Quan (tức là Hà Nội) cho đến huyện Gia Lâm, phủ Từ Sơn, thì đặt trạm để chạy giấy bằng ngựa; từ huyện Chí Linh, huyện Đông Triều cho đến phủ Vạn Ninh là nơi giáp đất Khâm Châu nước Tàu thì đặt trạm chạy giấy bằng thuyền.


6. Việc Binh Lính.

Việc bắt lính thì cứ theo sổ bộ mà bắt. Ở những nơi gọi là vệ sở thì mỗi một bộ phải ba suất đinh đi lính, nhưng từ Thanh Hóa về nam người ở ít, thì mỗi hộ chỉ phải hai suất đinh đi lính mà thôi. Những chỗ nào mà không có vệ sở thì lập đồn ở chỗ hiểm yếu rồi lấy dân binh ra giữ.


7. Phép Hộ Thiếp và Hoàng Sách.

Việc điền hộ ở An Nam bấy giờ phải theo như lệ bên Tàu. Những dân đinh trong nước, thì ai cũng phải có một cái giấy biên tên tuổi và hương quán để lúc nào có khám hỏi thì phải đưa ra. Cái giấy ấy biên theo như ở trong quyển sổ của quan giữ. Hễ giấy của ai mà không hợp như ở trong sổ thì người ấy phải bắt đi lính.

Việc cai trị ở trong nước thì chia ra làm lý và giáp. Ở chỗ thành phố thì gọi là phường; ở chung quanh thành phố thì gọi là tương; ở nhà quê thì gọi là lý. Lý lại chia ra giáp.

Cứ 110 hộ làm một lý và 10 hộ làm một giáp. Lý thì có lý trưởng, giáp thì có giáp thủ.

Mỗi một năm có người làm lý trưởng coi việc trong lý.

Mỗi một lý, một phường hay là một tương có một quyển sách để biên tất cả số đinh số điền vào đấy. Còn những người tàn tật cô quả thì biên riêng ra ở sau, gọi là kỷ linh. Ở đầu quyển sách lại có cái địa đồ.

Khi nào quyển sổ ấy xong rồi, thì biên ra làm 4 bản, một bản có bìa vàng, cho nên gọi là hoàng sách để gửi về bộ Hộ, còn 3 bản bìa xanh, thì để ở bố chính ti, ở phủ và huyện, mỗi nơi một bản.

Cứ mười năm lại tùy số dinh điền hơn lên hay kém đi thế nào, phải làm lại cái mẫu sổ khác, gửi đi cho các lý, phường và tương để cứ theo mẫu ấy mà làm.

Bấy giờ lý trưởng và giáp thủ phải đập đánh cực khổ lắm.


8. Việc Thuế Má.

Phép nhà Minh đánh thuế cứ mỗi mẫu ruộng phải nộp năm thăng thóc, mỗi một mẫu bãi để trồng dâu phải nộp một lạng tơ, và mỗi cân tơ phải nộp một tấm lụa.

Lại đặt ra thuế muối. Dân mà nấu muối mỗi một tháng được bao nhiêu phải đưa vào để ở tòa Đề Cử, đợi khi nào tòa Bố chính khám rồi mới được bán. Ai mà nấu lậu hay là bán lậu thì cũng phải phạt như nhau.

Ở châu, huyện nào cũng có một tòa Thuế Khóa để thu thuế.


9. Việc Sưu Dịch.

Phàm những chỗ nào có mỏ vàng mỏ bạc thì đặt quan ra để đốc dân phu đi khai mỏ. Những chỗ rừng núi, thì bắt dân đi tìm ngà voi, sừng tên; ở chỗ gần bể, thì bắt dân phải đi mò ngọc trai. Còn những thổ sản như: hồ tiêu, hương liệu, cũng phải bắt cống nộp. Đến những hươu, voi, rùa, chim, vượn, rắn, cái gì cũng vơ vét đem về Tàu.

Từ khi bọn Lý Bân, Mã Kỳ sang thay Trương Phụ, dân ta bị bọn ấy sách nhiễu thật là khổ sở.


10. Quan Lại.

Trừ những quan lại ở bên Tàu sang cai trị ra không kể, những người An Nam như những tên Nguyễn Huân, Lương Nhữ Hốt, Đỗ Duy Trung theo hàng nhà Minh, khéo đường xu nịnh, được làm quan to, lại càng ỷ thế của giặc, làm những điều tàn bạo hung ác hơn người Tàu. Vả, trong những lúc biến loạn như thế, thì những đồ tham tàn gian ác, không có nghĩa khí, không biết liêm sĩ, lại càng đắc chí lắm, cho nên dân tình cực khổ, lòng người sầu oán. Cũng vì lẽ ấy, có nhiều kẻ tức giận nổi lên đánh phá, làm cho trong nước không lúc nào được yên ổn.
^o^Nụ cười của em đã khiến bối rối tim này..-_-
--_..Anh biết đã yêu em rồi..__

cop_xong_paste

Chương 24


Mười Năm Đánh Quân Tàu (1418 - 1427)


1. Lê Lợi khởi nghĩa ở Lam Sơn
2. Về Chí Linh lần thứ nhất
3. Về Chí Linh lần thứ hai
4. Bình Định Vương về đóng Lư Sơn
5. Bình Định Vương về đóng Lỗi Giang
6. Nguyễn Trãi
7. Bình Định Vương phá quân Trần Trí
8. Về Chí Linh lần thứ ba
9. Bình Định Vương hết lương phải hòa với giặc.
10. Bình Định Vương lấy đất Nghệ An
11. Vây thành Tây Đô
12. Lấy Tân Bình và Thuận Hóa
13. Quân Bình Định Vương tiến ra Đông Đô
14. Trận Tụy Động: Vương Thông thất thế
15. Vây thành Đông Đô
16. Vương Thông ước hòa lần thứ nhất
17. Bình Định Vương đóng quân ở Bồ Đề
18. Bình Định Vương đặt pháp luật để trị quân dân
19. Trận Chi Lăng: Liễu Thăng tử trận
20. Vương Thông xin hòa lần thứ hai
21. Trần Cao dâng biểu xin phong
22. Tờ Bình Ngô Đại Cáo



1. Lê Lợi Khởi Nghĩa ở Lam Sơn.

Từ khi nhà Minh sang cai trị An Nam, dân ta ph?i khổ nhục trăm đường, tiếng oan không kêu ra được, lòng tức giận ngấm nghía ở trong tâm can, chỉ mong mỏi ra cho khỏi đống than lửa. May lúc ấy có một đấng anh hùng nổi lên, kéo cờ nghĩa để chống với giặc Minh, trong 10 năm ấy lại được giang sơn cũ, và xây đắp lại nền độc lập cho nước Nam.

Đấng anh hùng ấy, người ở làng Lam Sơn, huyện Thụy Nguyên, phủ Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa, họ Lê, tên là Lợi. Đã mấy đời làm nghề canh nông, nhà vẫn giàu có, lại hay giúp đỡ cho kẻ nghèo khó, cho nên mọi người đều phục, và những tôi tớ ước có hàng nghìn người. Ông Lê Lợi khẳng khái, có chí lớn, quan nhà Minh nghe tiếng, đã dỗ cho làm quan, nhưng ông không chịu khuất, thường nói rằng: " Làm trai sinh ở trên đời, nên giúp nạn lớn, lập công to, để tiếng thơm muôn đời, chứ sao lại chịu bo bo làm đầy tớ người ta!" Bèn giấu tiếng ở chỗ sơn lâm, đón mời những kẻ hào kiệt, chiêu tập những kẻ lưu vong.

Đến mùa xuân năm mậu tuất (1418) đời vua Thành Tổ nhà Minh, niên hiệu Vĩnh Lạc thứ 16, ông Lê Lợi cùng với tướng là Lê Thạch, Lê Liễu khởi binh ở núi Lam Sơn, tự xưng là Bình Định Vương, rồi truyền hịch đi gần xa kể tội nhà Minh để rõ cái mục đính của mình khởi nghĩa đánh kẻ thù của nước.

Việc đánh giặc Minh tuy là thuận lòng người và hợp lẽ công bằng, nhưng mà thế lực của Bình Định Vương lúc đầu còn kém lắm, tướng sĩ thì ít, lương thực không đủ. Dẫu có dùng kế đánh được đôi ba trận, nhưng vẫn không có đủ sức mà chống giữ với quân nghịch, cho nên phải về núi Chí Linh (74) ba lần, và phải nguy cấp mấy phen, thật là gian truân vất vả. Sau nhờ hồng phúc nước Nam, Bình Định Vương lấy được đất Nghệ An, rồi từ đó mới có thể vẫy vùng, đánh ra mặt Bắc, lấy lại được giang sơn nước nhà.

2. Về Chí Linh Lần Thứ Nhất.

Khi quan nhà Minh là Mã Kỳ ở Tây Đô, nghe tin Bình Định Vương nổi lên ở núi Lam Sơn, liền đem quân đến đánh. Vương sang đóng ở núi Lạc Thủy (Cẩm Thủy, phủ Quảng Hóa) để đợi quân Minh. Đến khi quân Mã Kỳ đến, phục binh của Vương đổ ra đánh, đuổi được quân nghịch, nhưng vì thế yếu lắm chống giữ không nổi, Vương phải bỏ vợ con để giặc bắt được, đem bại binh chạy về đóng ở núi Chí Linh.

----------------------------------------------------
74 Sách "Khâm Định Thông Giám" chép là núi Chí Linh này ở phủ Trấn Định, tỉnh Nghệ An, tức là ở vào đất Cam Môn, Cam Cát giáp tỉnh Hà Tĩnh. Nhưng xem kỹ địa đồ thì vua Thái Tổ khởi binh ở Lam Sơn, thuộc huyện Thụy Nguyên, phủ Thiệu Hóa, và lúc ấy vẫn lui tới ở vùng Lạc Thủy, tức là Cẩm Thủy và ở vùng Nga Sơn. Vậy thì núi Chí Linh này không phải ở miền Trấn Định, mà chắc là chỉ ở trong vùng Thanh Hóa mà thôi. Xem như khi ngài thua ở Chí Linh thì chạy về Lư Sơn ở châu Quan Hóa, thuộc phủ Quảng Hóa thì biết. Vả lại ngày khởi nghĩa từ năm mậu tuất (1418) mà mãi đến năm giáp thìn (1424) thì ngài mới bàn sự đi đánh mạng Nghệ An, như thết mà nói rằng núi Chí Linh ở phủ Trấn Định, tức là xứ Ngọc Ma ngày trước, ở phía nam tỉnh Nghệ An bấy giờ thì chắc là lầm.
----------------------------------------------------


3. Về Chí Linh Lần Thứ Hai.

Tháng tư năm kỷ hợi (1419) Bình Định Vương lại ra đánh lấy đồn Nga Lạc (thuộc huyện Nga Sơn, Thanh Hóa) giết được tướng nhà Minh là Nguyễn Sao, nhưng quân của Vương bấy giờ hãy còn ít, đánh lâu không được, lại phải rút về Chí Linh.

Quan nhà Minh biết rằng Chí Linh là chỗ Bình Định Vương lui tới, bèn đem binh đến vây đánh. Vương bị vây nguy cấp lắm, mới hỏi các tướng rằng: Có ai làm được như người Kỷ Tín ngày trước chịu chết thay cho vua Hán Cao không? Bấy giờ có ông Lê Lai liều mình vì nước, xin mặc thay áo ngự bào cưỡi voi ra trận đánh nhau với giặc. Quân nhà Minh tưởng là Bình Định Vương thật, xúm nhau lại vây đánh, bắt được giết đi rồi rút quân về Tây Đô.


4. Bình Định Vương Về Đóng Lư Sơn.

Vương nhờ có ông Lê Lai chịu bỏ mình cứu chúa, mới trốn thoát được nạn lớn, rồi một mặt cho người sang Ai Lao cầu cứu, một mặt thu nhặt những tàn quân về đóng ở Lư Sơn (ở phía tây châu Quan Hóa).

Ngay năm ấy, ở Nghệ An có quan tri phủ là Phan Liêu làm phản nhà Minh; ở Hạ Hồng có Trịnh Công Chứng, Lê Hành; ở Khoái Châu có Nguyễn Đặc; ở Hoàng Giang có Nguyễn Đa Cấu, Trần Nhuế; ở Thủy Đường có Lê Ngà, nổi lên làm loạn, quân nhà Minh phải đi đánh dẹp các nơi cho nên Bình Định Vương ở vùng Thanh Hóa cũng được nhân dịp mà dưỡng uy súc nhuệ.


5. Bình Định Vương Về Đóng Lỗi Giang.

Năm canh tí (1420) Bình Định Vương đem quân ra đóng ở làng Thôi, định xuống đánh Tây Đô, tướng nhà Minh là Lý Bân được tin ấy, đem quân đến đánh, đi đến chỗ Thi Lang, bị phục binh của Vương đánh phá một trận, quân Minh bỏ chạy. Vương lại đem quân lên đóng ở Lỗi Giang (75) và ở đồn Ba Lậm. Quân Minh phải lùi về đóng ở Nga Lạc và Quan Du để phòng giữ Tây Đô.


6. Nguyễn Trãi.

Khi Bình Định Vương về đánh ở Lỗi Giang, thì có ông Nguyễn Trãi (76), vào yết kiến, dâng bài sách bình Ngô, vua xem lấy làm hay, dùng ông ấy làm tham mưu.

----------------------------------------------------
75 Lỗi Giang là tên một khúc sông Mã Giang ở vùng trên huyện Cẩm Thủy.

76 Ông Nguyễn Trãi là cháu ngoại ông Trần Nguyên Đán, bởi vậy ông cùng với Trần Nguyên Hãn có tình thân. Ông Nguyễn Trãi và ông Trần Nguyên Hãn là người đại công thần nhà Lê, sau đều bị giết hại cả.
----------------------------------------------------


Ông Nguyễn Trãi là con ông Bảng Nhãn Nguyễn Phi Khanh. Đời nhà Hồ, ông đã thi đỗ tiến sĩ (1400). Khi ông Nguyễn Phi Khanh bị nhà Minh bắt về Kim Lăng, ông theo khóc, lên đến cửa Nam Quan không chịu trở lại. Ông Phi Khanh bảo rằng: " Con phải trở về mà lo trả thù cho cha, rửa thẹn cho nước, chứ đi theo khóc lóc mà làm gì ? " Từ đó ông trở lại, ngày đêm lo việc phục thù. Nay ra giúp Bình Định Vương, bày mưu định kế để lo sự bình định.


7. Bình Định Vương Phá Quân Trần Trí.

Đến tháng 11 năm tân sửu (1421) tướng nhà Minh là Trần Trí đem mấy vạn quân đến đánh Bình Định Vương ở đồn Ba Lậm, lại ước với người Lào sang cùng đánh hai mặt. Vương mới hội các tướng lại bàn rằng: Quân kia tuy nhiều nhưng ở xa đến, còn đang nhọc mệt, ta nên đưa quân ra đón đành tất là phải được. Bàn xong, đến đêm đem quân vào cướp trại Minh, giết được hơn 1.000 người. Trần Trí thấy vậy giận lắm, sáng hôm sau truyền lệnh kéo toàn quân đến đánh. Quân An Nam đã phục sẳn trước, thấy quân Minh đến, liền đổ ra đánh hăng quá, quân Minh lại phải lui về.

Đang khi hai bên còn đối địch, có ba vạn người Lào giả xưng sang làm viện binh cho Bình Đình Vương. Vương không biết là dối, quân Lào nửa đêm kéo đến đánh, tướng của Vương là Lê Thạch bị tên bắn chết. Nhưng mà quân ta giữ vững đồn trại, quân Lào phải lùi về.


8. Về Chí Linh Lần Thứ Ba.

Sang năm sau là năm nhâm dần (1422) Bình Định Vương tự đồn Ba Lậm tiến lên đánh đồn Quan Gia, bị quân Minh và quân Lào hai mặt đánh lại, phải thua chạy về giữ đồn Khôi Sách. Quân Minh và quân Lào thừa thế đổ đến vây kín bốn mặt. Vương thấy thế nguy quá, mới bảo các tướng rằng: "Quân giặc vây kín rồi, nếu không liều sống chết đánh tháo lấy đường chạy ra, thì chết cả !" Quân sĩ ai nấy đều cố sức đánh phá, quân giặc phải lùi. Vương lại đem quân về núi Chí Linh.

Từ khi Bình Định Vương đem binh về Chí Linh, lương thực một ngày một kém, trong hai tháng trời quân sĩ phải ăn rau ăn cỏ có bao nhiêu voi ngựa làm thịt ăn hết cả. Tướng sĩ mỏi mệt, đều muốn nghỉ ngơi, xin Vương hãy tạm hòa với giặc. Vương bất đắc dĩ sai Lê Trăn đi xin hòa. Quan nhà Minh bấy giờ thấy đánh không lợi, cũng thuận cho hòa.


9. Bình Định Vương Hết Lương Phải Hòa Với Giặc.

Năm quý mão (1423) Bình Định Vương đem quân về Lam Sơn. Bấy giờ tướng nhà Minh là bọn Trần Trí, Sơn Thọ thường hay cho Vương trâu, ngựa, cá mắm và thóc lúa; Vương cũng cho Lê Trăn đưa vàng bạn ra tạ. Nhưng sau bọn Trần Trí ngờ có bụng giả dối, bắt giữ Lê Trăn lại, không cho về, vì vậy Vương mới tuyệt giao không đi lại nữa, rồi đem quân về đóng ở núi Lư Sơn.


10. Bình Định Vương Lấy Đất Nghệ An.

Năm giáp thìn (1424) Bình Định Vương hội các tướng bàn kế tiến thủ. Quan thiếu úy là Lê Chích nói rằng: " Nghệ An là đất hiểm yếu, đất rộng người nhiều, nay ta hãy vào lấy Trà Long (phủ Tương Dương) rồi hạ thành Nghệ An, để làm chỗ trú chân đã, nhiên hậu sẽ quay trở ra đánh lấy Đông Đô, như thế thiên hạ có thể bình được."

Vương cho kế ấy là phải, bèn đem quân về nam, đánh đồn Đa Căng, tướng nhà Minh là Lương Nhữ Hốt bỏ chạy.

Lấy được đồn Đa Căng rồi, Vương tiến quân vào đánh Trà Long, đi đến núi Bồ Liệp, ở phủ Quì Châu, gặp bọn Trần Trí, Phương Chính đem binh đến đánh, Vương bèn tìm chỗ hiểm phục sẳn; khi quân Minh vừa đến, quân ta đổ ra đánh, chém được tướng nhà Minh là Trần Trung, giết được sĩ tốt hơn 2.000 người, bắt được hơn 100 con ngựa. Quân Minh bỏ chạy, Vương đem binh đến vây đánh Trà Long. Quan tri phủ là Cầm Bành chờ cứu binh mãi không được, phải mở cửa thành ra hàng.

Từ khi Bình Định Vương khởi nghĩa cho đến giờ, đánh với quân nhà Minh đã nhiều phen, được thua đã trải qua mấy trận, nhưng quan nhà Minh vẫn lấy làm khinh thường, cho nên không tâu về cho Minh Triều biết. Bấy giờ Hoàng Phúc về Tàu rồi, vua nhà Minh sai Binh Bộ Thượng Thư là Trần Hiệp sang thay.

Trần Hiệp thấy Bình Định Vương lấy được châu Trà Long, thanh thế lừng lẫy, bèn vội vàng làm sớ tâu cho vua nhà Minh biết. Minh Đế mới xuống chiếu trách mắng bọn Trần Trí, Phương Chí, bắt phải dẹp ngay cho yên giặc ấy. Bọn Trần Trí sợ hãi đem cả thủy bô, cùng tiến lên đánh Bình Định Vương.

Vương sai Đinh Liệt đem 1.000 quân đi đuờng tắt ra giữ Đỗ Gia (77), còn Vương thì đem cả tướng sĩ đến ở mạn thượng du đất Khả Lưu ở bắc ngạn sông Lam Giang (thuộc huyện Lương Sơn), rồi tìm chỗ hiểm yếu phục binh để đợi quân Minh.

Khi quân Minh đã đến Khả Lưu, Vương bèn sai người ban ngày thì kéo cờ đánh trống, ban đêm thì bắt đốt lửa để làm nghi binh, rồi cho binh sang bên kia sông phục sẵn. Sáng hôm sau quân Minh tiến lên bị phục binh

----------------------------------------------------
77 Vào quãng gần đồn Linh Cảm, huyện Hương Sơn, Hà Tĩnh.
----------------------------------------------------


bốn mặt đổ ra đánh, tướng nhà Minh là Chu Kiệt phải bắt, Hoàng Thành phải chém, còn quân sĩ bỏ chạy cả. Trần Trí phải thu quân về giữ thành Nghệ An.

Tháng giêng năm ất tị (1425) Vương đem binh về đánh thành Nghệ An, đi đến làng Đa Lôi ở huyện Thổ Du (bây giờ là huyện Thanh Chương) dân sự đưa trâu đưa rượu ra đón rước, già trẻ đều nói rằng: không ngờ ngày nay lại thấy uy nghi nước cũ. Bấy giờ lại có quan tri phủ Ngọc ma (phủ Trấn Định) là Cầm Quý đem binh mã về giúp.

Vương bèn xuống lệnh rằng: "Dân ta lâu nay đã phải khổ sổ về chính trị bạo ngược của người Tàu, quân ta đi đến đâu cấm không được xâm phạm đến chút gì của ai. Những gạo thóc trâu bò mà không phải là của người nhà Minh thì không được lấy". Đoạn rồi, phân binh đi đánh lấy các nơi, đi đến đâu các quan châu huyện ra hàng cả, đều tình nguyện đi đánh thành Nghệ An. Vương bèn đem quân về vây thành; quân Minh hết sức giữ gìn không dám ra đánh.

Đương khi vây đánh ở Nghệ An, tướng nhà Minh là Lý An ở Đông Quan đem quân đi dường bể vào cứu. Quân của Trần Trí ở trong thành cũng đổ ra đánh, Vương nhử quân Minh đến cửa sông Độ Gia, rồi dùng phục binh đánh tan quân giặc. Trần Trí bỏ chạy về Đông Quan, còn Lý An vào giữ thành, Vương lại đem quân về vây thành.


11. Vây Thành Tây Đô.

Đến tháng năm, Vương sai quan Tư Không là Đinh Lễ đem binh đi đánh Diễn Châu, Đinh Lễ đi vừa đến nơi, thì gặp tướng nhà Minh là Trương Hùng đem 300 chiếc thuyền lương ở Đông Quan mới vào, quân ở trong thành ra tiếp, bị phục binh của Đinh Lễ đánh đuổi. Bao nhiêu thuyền lương Đinh Lễ cướp lấy được cả, rồi đuổi Trương Hùng ra đến Tây Đô. Bình Định Vương được tin ấy liền sai Lê Sát và Lưu Nhân Chú đem binh ra tiếp ứng Đinh Lễ. Đinh Lễ nhân dịp tiến lên vây thành Tây Đô.


12. Lấy Tân Bình và Thuận Hóa.

Qua tháng bảy, Vương sai quan Tư Đồ Trần Nguyên Hãn (78), Thượng Tướng Lê Nỗ đem hơn một nghìn quân vào lấy châu Tân Bình và châu Thuận Hóa. Đi đến Bố Chính thì gặp tướng nhà Minh là Nhâm Năng, hai bên đánh nhau, quân nhà Minh bị phục binh đánh chạy tan cả. Bấy giờ lại có đạo thủy quân của Lê Ngân đem hơn 70 chiếc thuyền đi đường bể vào, Trần Nguyên Hãn liền đem cả thủy bộ tiến

----------------------------------------------------
78 Trần Nguyên Hãn, có nơi chép là Trần Hãn, là cháu Trần Nguyên Đán, dòng dõi Trần Quang Khải.
----------------------------------------------------


lên đánh hạ được hai thành ấy, mộ thêm mấy vạn tinh binh đưa ra đánh mặt bắc.

Từ đây binh thế của Bình Định Vương một ngày một mạnh, các tướng tôn ngài lên làm "Đại Thiên Hành Hóa", nghĩa là thay trời làm mọi việc.


13. Quân Bình Định Vương Tiến Ra Đông Đô.

Năm bính ngọ (1426) Vương thấy tinh binh của nhà Minh ở cả Nghệ An, ở ngoài Đông Đô không có bao nhiêu người, bèn sai Lý Triện, Phạm Văn Xảo, Trịnh Khả, Đỗ Bí ra đánh Quốc Oai, Quảng Oai, Gia Hưng, Quý Hóa, Đà Giang, Tam [em xin lỗi, em là người chửi bậy] (Bạch Hạc), Tuyên Quang để chặn đường viện binh ở Vân Nam sang. Sau Lưu Nhân Chú và Bùi Bị ra đánh Thiên Trường, Kiến Xương, Tân Hưng, Thượng hồng (Bình Giang), Hạ Hồng (Ninh Giang), Bắc Giang, Lạng Giang để chặn đường viện binh ở Lưỡng Quảng sang. Lại sai Đinh Lễ, Nguyễn Xí đem binh đi thẳng ra đánh Đông Quan.

Quân của Bình Định Vương đi đến đâu giữ kỷ luật rất nghiêm, không xâm phạm đến của ai chút gì, cho nên ai ai cũng vui lòng theo phục. Bọn Lý Triện lấy được Quốc Oai và Tam [em xin lỗi, em là người chửi bậy] rồi đem quân về đánh Đông Quan.

Quan tham tướng nhà Minh là Trần Trí đem binh ra đóng ở Ninh Kiều (79) (phía tây phủ Giao Châu) và ở Ứng Thiên (?) để chống giữ; quân Lý Triện đến đánh, Trần Trí thua chạy về đóng ở phía tây sông Ninh Giang (khúc trên sông Đáy). Chợt có tin báo rằng có hơn một vạn quân Vân Nam sang cứu. Lý Triện sợ để hai đạo quân của Minh hợp lại thì khó đánh, bèn bảo Phạm Văn Xảo đem hơn một nghìn người đi đón chặn đường quân Vân Nam; còn mình thì cùng với Đỗ Bí đem quân đến đánh Trần Trí. Trần Trí thua chạy; bọn Lý Triện đuổi đến làng Nhân Mục bắt được tướng nhà Minh là Vi Lạng, chém được hơn 1.000, rồi lại quay trở về Ninh Giang hợp binh với Văn Xảo để đánh quân Vân Nam.

Phạm Văn Xảo đến cầu Xa Lộc (?) thì gặp quân Vân Nam sang, đánh một trận, quân nghịc thua chạy về giữ thành tam giang.

Trần Trí thấy thế ở Đông Quan yếu lắm bèn viết thư vào Nghệ An gọi Phương Chính đem binh ra cứu, để giữ lấy chỗ căn bản. Phương Chính

----------------------------------------------------
79 Những tên Ninh Kiều, Ninh Giang, Ứng Thiên chắc là ở vùng huyện Từ Liêm, huyện Thanh Oai, về quãng sông Nhuệ Giang và sông Đáy. Mà Ninh Giang có lẽ là khúc sông Đáy ở vào quãng Từ Liêm hay Thanh Oai gì đó.
----------------------------------------------------


được thư bèn sai Thái Phúc ở lại giữ thành Nghệ An, rồi đem quân xuống thuyền đi đường bể ra Đông Quan.

Bình Định Vương nghe tin ấy, liền sai Lê Ngân, Lê Văn An, Lê Bôi, Lê Thận, Lê Văn Linh ở lại vây thành Nghệ An; Vương tự đem đại quân cả thủy bộ Phương Chính ra bắc. Ra đến Thanh Hóa, Vương đem binh vào đánh thành Tây Đô, nhưng quân Minh giữ vững thành trì đánh không được, Vương đem quân đến đóng ở Lỗi Giang.


14. Trận Tụy Động - Vương Thông Thất Thế.

Từ khi Bình Định Vương ở Lư Sơn vào đánh Nghệ An đến giờ, đánh đâu được đấy, thanh thế lừng lẫy, quân Minh khiếp sợ, đem tin về cho Minh Triều biết, Minh Đế liền sai Chinh Di Tướng Quân là Vương Thông và Tham Tướng là Mã Anh đem 5 vạn quân sang cứu Đông Quan. Trần Trí và Phương Chính thì phải cách hết cả quan tước bắt phải theo quân đi đánh giặc, còn Trần Hiệp thì cứ giữ chức Tham Tán Quân Vụ.

Vương Thông sang đến đất Đông Quan hội tất cả quân sĩ lại được mười vạn, cùng với bọn Trần Hiệp chia làm ba đạo đi đánh Bình Định Vương.

Vương Thông đem quân đến đóng ở bến Cổ Sở (thuộc huyện Thạch Thất, phủ Quốc Oai, Sơn Tây). Phương Chính đóng ở Sa Thôi (thuộc huyện Từ Liêm), Mã Kỳ đóng ở Thanh Oai, đồn lũy liên tiếp nhau một dãy dài hơn mấy mươi dặm.

Bọn Lý Triện, Đỗ Bí ở Ninh Kiều đem quân và voi đến phục ở Cổ Lãm, rồi cho quân đến đánh nhữ Mã Kỳ. Mã Kỳ đem tất cả quân đuổi đến cầu Tam La (ở giáp giới huyện Thanh Oai và huyện Từ Liêm), quân phục binh của Lý Triện đổ ra đánh, quân Minh thua chạy, nhiều người xuống đồng lầy, chạy không được, bị chém hơn 1.000 người. Lý Triện đuổi quân Minh đến Nhân Mục, bắt được hơn 500 người. Mã Kỳ một mình một ngựa chạy thoát được.

Bọn Lý Triện thừa thắng tiến lên đánh đạo quân Phương Chính. Nhưng Phương Chính thấy Mã Kỳ đã thua cũng rút quân lui, rồi cùng Mã Kỳ về hội với Phương Thông ở bến Cổ Sở.

Vương Thông liệu tất thế nào quân An Nam cũng đến đánh, bèn phục binh và phòng bị trước cả. Chợt có quân của Lý Triện đến. Quân Minh giả ra đánh rồi bỏ chạy, nhử quân ta và chỗ hiểm có chông sắt. Đi đến đấy, voi xéo phải chông đi không được, rồi lại có phục binh đổ ra đánh, Lý Triện thua chạy về giữ Cao Bộ (ở vùng Chương Đức, Mỹ Lương) và cho người về Thanh Đàm (tức là huyện Thanh Trì bây giờ) gọi bọn Đinh Lễ và Nguyễn Xí đến cứu.

Đinh Lễ và Nguyễn Xí đem 3.000 quân và hai con voi lập tức đêm hôm ấy đến Cao Bộ, rồi phân binh ra phục sẵn ở Tụy Động (thuộc huyện Mỹ Lương) và ở Chúc Động (thuộc huyện Chương Đức) (80). Chợt bắt được tên thám tử của quân Minh, tra ra thì biết rằng quân Vương Thông đóng ở Ninh Kiều, có một đạo quân đi lẻn ra đường sau quân Lý Triện để đánh tập hậu, đại quân sang đò chỉ chờ lúc nào nghe súng thì hai mặt đổ lại cùng đánh.

Biết mưu ấy rồi, đến canh năm đêm hôm ấy, Đinh Lễ sai người bắn súng làm hiệu để đánh lừa quân giặc. Quả nhiên quân giặc nghe tiếng súng đều kéo ùa đến đánh. Bấy giờ phải độ trời mưa, đường lầy, quân Minh vừa đến Tụy Động thì bị quân ta bốn mặt đổ ra đánh, chém được quan Thượng Thư là Trần Hiệp, và Nội Quan là Lý Lượng. Còn những quân sĩ nhà Minh thì chết hại nhiều lắm: phần thì giày xéo lẫn nhau mà chết, phần thì ngã xuống sông chết đuối, cả thảy đến hơn năm vạn người; còn bị bắt sống hơn một vạn người, các đồ đạc khí giới thì lấy được không biết bao nhiêu mà kể. Trận Tụy Động đánh vào tháng mười năm bính ngọ (1426).

Phương Chính và Mã Kỳ chạy thoát được, rồi cùng với Vương Thông về giữ thành Đông Quan.

Bọn Đinh Lễ thừa thắng đem binh về vây thành và cho người về Lỗi Giang báo tin thắng trận cho Bình Định Vương biết.

Vương liền tiến binh ra Thanh Đàm, rồi một mặt sai Trần Nguyên Hãn đem 100 chiếc thuyền đi theo sông Lung Giang (81) ra cửa Hát Giang (cửa sông Đáy thông với sông Cái) rồi thuận dòng sông Nhị Hà xuống đóng ở bến Đông Bộ Đầu ; một mặt sai bọn Bùi Bị đem hơn 1 vạn quân đi lẻn ra đóng ở Tây Dương Kiều (?), Vương tự dẫn đại quân đến hạ trại ở gần thành Đông Quan. Quân Minh giữ ở trong thành không ra đánh, bao nhiêu chiến thuyền thì Vương lấy được cả.

Kể từ ngày Bình Định Vương đem binh vào đánh Nghệ An đến giờ, tuy rằng đánh đâu được đấy, nhưng chưa có trận nào quan hệ bằng trận Tụy Động này. Bởi vì việc thắng bại trong 10 phần, đánh xong trận này, thì đã chắc được 7, 8 phần rồi. Quân thế nhà Minh chỉ còn ở trong mấy thành bị vây

----------------------------------------------------
80 Tụy Động và Chúc Động ở vào quãng huyện Chương Mỹ, phía đông có sông Đáy, phía tây có con sông con gọi là sông Bùi, chảy vào sông Đáy, chỗ Ngã Ba Thá.

81 Chắc là một khúc sông Đáy thuộc hạt tỉnh Hà Đông bây giờ.
----------------------------------------------------


nữa mà thôi, mặt ngoài thì viện binh lại chưa có, mà dẫu cho có sang nữa, thì thế của Bình Định Vương cũng đã vững lắm rồi.

Nhưng cứ trong Việt Sử thì quân của Lý Triện và Đinh Lễ chẳng qua chỉ có mấy nghìn người mà thôi, làm thế nào mà phá được hơn 10 vạn quân tinh binh của Vương Thông? Vả lại sử chép rằng đánh trận Tụy Động quân An Nam giết được hơn 5 vạn quân Minh, lại bắt được hơn 1 vạn người, như thế chẳng hóa ra quân Minh hèn lắm ru! E rằng nhà làm sử có ý thiên vị, cho nên sự thực không được rõ lắm. Nhưng dẫu thực hư thế nào mặc lòng, đại khái trận Tụy Động là một trận đánh nhau to, mà Vương Thông thì thua, phải rút quân về giữ thành Đông Quan rồi bị vây, còn Bình Định Vương thì ra bắc thu phục các châu huyện. Việc ấy chắc là thật có.


15. Vây Thành Đông Đô.

Từ khi Bình Định Vương ra Đông Đô, những kẻ hào kiệt ở các nơi đều nô nức về theo, xin hết sức đi đánh giặc. Vương dùng lời úy dụ và lấy cái nghĩa lui tới mà giảng giải cho mọi người nghe, rồi cứ tùy tài mà thu dùng.

Vương chia đất Đông Đô ra làm bốn đạo, đặt quan văn võ để coi việc chính trị.

Cứ theo sách "Lịch Triều Hiến Chương Địa Dư Chí" của ông Phan Huy Chú thì những trấn Tam Giang, Tuyên Quan, Hưng Hóa, Gia Hưng thuộc về Tây Đạo; những trấn Thượng Hồng, Hạ Hồng, Thượng Sách, Hạ Sách cùng với lộ An Bang thuộc về Đông Đạo; những trấn Bắc Giang, Thái Nguyên thuộc về Bắc Đạo; những lộ Khoái Châu, Lý Nhân, Tân Hưng, Kiến Xương, Thiên Trường thuộc về Nam Đạo.


16. Vương Thông Xin Hòa Lần Thứ Nhất.

Vương Thông ở Đông Quan cứ bị thua mãi, liệu thế đánh không được nữa, muốn bãi binh về Tàu, nhưng sợ mang tiếng, bèn lục tờ chiếu của vua nhà Minh, niên hiệu Vĩnh Lạc (1407), nói về việc tìm con cháu họ Trần, rồi cho người ra nói với Bình Định Vương tìm người dòng dõi họ Trần lập lên, để xin bãi binh.

Vương nghĩ đánh nhau mãi, trong nước tàn hại, dân tình khổ sở, bèn y theo lời Vương Thông. Nhân lúc bấy giờ có người tên là Hồ Ông trốn ở Ngọc Ma, xưng là cháu ba đời vua Nghệ Tông, vương bèn cho người đi đón Hồ Ông về đổi tên là Trần Cao, lập nên làm vua, mà Vương thì xưng làm Vệ Quốc Công để cầu phong với nhà Minh, cho chóng xong việc.

Vương Thông cho người đưa thư ra xin hòa, và xin cho đem toàn quân về nước. Bình Định Vương thuận cho, định ngày để Vương Thông gọi quân ở các nơi về hội tại Đông Đô, rồi về Tàu. Việc đã định như thế, nhưng mà bấy giờ có mấy người An Nam theo nhà Minh, như những tên Trần Phong, Lương Nhữ Hốt, sợ rằng quân Minh về thì mình phải giết, bèn lấy chuyện Ô Mã Nhi ngày trước can Vương Thông đừng rút quân về. Vương Thông nghe lời, bề ngoài tuy nói hòa, nhưng bề trong sai người đào hào, rắc chông, rồi cho người đi lẻn đem thư về Tàu cầu cứu.

Bình Định Vương bắt được người đưa thư, giận lắm, không giao thông với quân Minh nữa, rồi sai Lê Quốc Hưng đánh thành Điêu Diêu (huyện Gia Lâm, Bắc Ninh) và thành Thị Kiều (tức là Thị Cầu thuộc huyện Võ Giang, Bắc Ninh); Trịnh Khả và Lê Khuyển đánh thành Tam Giang (tức là Tam [em xin lỗi, em là người chửi bậy], nay là huyện Bạch Hạc); Lê Sát và Lê Thụ đánh thành Xương Giang ( tức là Phủ Lạng Thương bây giờ); Trần Lựu, Lê Bôi đánh thành Kỳ Ôn. Chẳng bao lâu những thành ấy đều lấy được cả.


17. Bình Định Vương Đóng Quân ở Bồ Đề.

Tháng giêng năm đinh mùi (1427), Bình Định Vương tiến quân lên đóng ở chỗ Bồ Đề, ở phía bắc sông Nhị Hà, rồi sai tướng đánh thành Đông Quan: Trịnh Khả đánh cửa Đông, Đinh Lễ đánh cửa Nam, Lê Cực đánh cửa Tây, Lý Triện đánh cửa Bắc.


Quân nhà Minh một ngày một kém, tướng nhà Minh giữ thành Nghệ An và thành Diễn Châu là bọn Thái Phúc và Tiết Tụ đều ra hàng cả. Bình Định Vương lại sai Lại Bộ Thượng Thư là ông Nguyễn Trãi, làm hịch đi khuyên tướng sĩ các nơi về hàng.

Nhưng cũng vì thấy quân Minh đã yếu thế, có ý khinh định cho nên quân ta mất hai viên đại tướng. Trước thì Lý Triện đóng ở Từ Liêm, không cẩn thận, bị quân của Phương Chính đến đánh lẻn giết mất; sau Vương Thông ở Đông Quan đem binh ra đánh Lê Nguyễn ở Tây Phù Liệt (thuộc huyện Thanh Trì), Vương sai Đinh Lễ và Nguyễn Xí đem 500 quân đi cứu. Đi đến Mỹ Động (thuộc Hoàng Mai, huyện Thanh Trì) gặp quân Minh, hai bên đánh nhau. Vương Thông thấy quân Đinh Lễ có ít, bèn vây lại đánh bắt được Đinh Lễ và Nguyễn Xí. Nguyễn Xí trốn đi được, còn Đinh Lễ bị giết.


18. Bình Định Vương Đặt Pháp Luật Để Trị Quân Dân.

Bình Định Vương cứ một mặt vây đánh thành Đông Quan và các thành khác, một mặt lo việc cai trị, đặt ra các điều lệ để cho việc binh có kỷ luật và cho lòng dân được yên.

Trước hết Vương dụ cấm tà đạo: ai mà dùng những phép tà ma giả dối để đánh lừa người ta thì phải tội. Còn những dân sự bị loạn phải lưu tán đi chỗ khác cho về nguyên quán, cứ việc làm ăn như cũ.

Những vợ con gia quyến của những người ra làm quan với giặc, thì được phép theo lệ, lấy tiền mà chuộc (82); còn những quân lính nhà Minh đã hàng thì đưa về Thiên Trường, Kiến Xương, Lý Nhân, Tân Hưng để nuôi nấng tử tế.

Vương đặt ra ba điều để răn các quan:

1. Không được vô tình.
2. Không được khi mạn.
3. Không được gian dâm

Và lại dụ rằng những quân lính ngày thường có tội không được giết càn, trừ lúc nào ra trận mà trái quân lệnh thì mới theo phép mà thi hành.

Vương lại đặt ra 10 điều để làm kỷ luật cho các tướng sĩ:

1. Trong quân ồn ào không nghiêm.
2. Không có việc gì mà đặt chuyện ra để làm cho mọi người sợ hãi.
3. Lúc lâm trận nghe trống đánh, thấy cờ phất, mà chùng chình không tiến.
4. Thấy kéo cờ dừng quân mà không dừng.
5. Nghe tiếng chiêng lùi quân mà không lùi
6. Phòng giữ không cẩn thận, để mất thứ ngũ.
7. Lo riêng việc vợ con, mà bỏ việc quân.
8. Tha binh đinh về để lấy tiền, và làm sổ sách mập mờ.
9. Theo bụng yêu ghét của mình mà làm lòa mất công quả của người ta.
10. Gian dâm, trộm cắp.

Hễ tướng sĩ ai mà phạm vào 10 điều ấy thì phải tội chém.

Còn quân lính, thì hễ nghe một tiếng súng mà không có tiếng chiêng, thì các tướng hiệu phải đến dinh nghe lệnh; hễ nghe hai ba tiếng súng và hai ba tiếng chiêng ấy là có việc cảnh cấp, quan chấp lệnh phải sắp hàng ngũ, còn quan thiếu úy thì đến dinh mà nghe lệnh; hễ đến lúc lâm trận mà lùi hoặc là bỏ những người sau không cứu, thì phải tội chém, nhưng gián hoặc đã có ai không may chết trận mà mình hết sức mang được xác ra thì khỏi tội.

----------------------------------------------------
82 Vợ con của quan Bố Chính thì phải 70 quan; vợ con những sinh viên và thổ quan thì 10 quan; còn những con trai, con gái đầy tớ, đứa ở thì 5 quan.
----------------------------------------------------

Đại khái kỷ luật ở trong quân của Bình Định Vương như thế, cho nên đi đâu, dân gian kính phục lắm.


19. Trận Chi Lăng - Liễu Thăng Tử Trận.

Từ khi quân Minh thua trận Tụy Động, Trần Hiệp bị giết, Vương Thông cho người về tâu với Minh Đế để xin thêm binh. Minh Đế thất kinh, liền sai Chinh Lỗ Phó Tướng Quân An Viễn Hầu là Liễu Thăng, Tham Tướng Bảo Định Bá là Lương Minh, Đô Đốc là Thôi Tụ, Binh Bộ Thượng Thư là Lý Khánh, Công Bộ Thượng Thư là Hoàng Phúc, Hữu Bố Chính Sứ là Nguyễn Đức Huân, đem 10 vạn quân, hai vạn ngựa, đi đường Quảng Tây sang đánh cửa Ba Lụy, bấy giờ là tháng chạp năm bính ngọ (1427). Lại sai Chinh Nam Đại Tướng Quân Kiềm Quốc Công là Mộc Thạnh, Tham Tướng Anh Hưng Bá là Từ Hanh, Tây Ninh Bá là Đàm Trung đi đường vào Vân Nam sang đánh cửa Lê Hoa.

Khi các tướng nghe viện binh của quân Minh sắp đến, nhiều người khuyên Vương đánh ngay lấy thành Đông Quan để tuyệt đường nội ứng, nhưng Vương không nghe, bảo rằng: "Việc đánh thành là hạ sách, nay ta hãy cứ dưỡng binh súc nhuệu để đợi quân địch đến thì ra đánh. Hễ viện quân mà thua, thì quân trong thành tất phải ra hàng. Thế có phải làm một việc mà thành được hai không?" Đoạn rồi bắt phải giữ gìn mọi nơi cho nghiêm nhặt, lại bắt người ở Lạng Giang, Bắc Giang, Tam [em xin lỗi, em là người chửi bậy], Tuyên Quan, Quy Hóa đi chỗ khác, bỏ đồng không để tránh quân Minh.

Đến tháng mười (1427) Bình Định Vương nghe tin quân của bọn Liễu Thăng đã sắp sang đất An Nam, liền hội các tướng lại bàn rằng: "Quân kia cậy khoẻ khinh yếu, lấy nhiều bắt nạt ít, chỉ cốt đánh cho được, chứ không tưởng đến điều khác. Nay đường xa nghìn dặm, mà đi có mấy ngày, nếu ta nhân lúc người ngựa của chúng đang mỏi mệt, ta "dĩ dật đãi lao", đánh là tất được". Bèn sai Lê Sát, Lưu Nhân Chú, Lê Linh, Đinh Liệt, Lê Thụ đem 1 vạn quân và 5 con voi lên phục sẵn ở cửa Chi Lăng, để đợi quân Minh. Lại sai Lê Lý, Lê Văn An, đem 3 vạn quân cứ lục tục kéo lên đánh giặc.

Bấy giờ Trần Lựu đang giữ cửa Ba Lụy (Nam Quan) thấy quân Minh đến, lui về giữ Ai Lưu; đến khi quân giặc đến đánh Ai Lưu, Trần Lựu lại lùi về giữ Chi Lăng, cứ cách từng đoạn, chỗ nào cũng có đồn, quân Minh đi đến đâu không ai dám chống giữ, phá luôn một lúc được những mấy cái đồn. Liễu Thăng đắc ý đuổi tràn đi. Bình Định Vương lại làm ra bộ khiếp sợ, cho người đưa thư sang nói với Liễu Thăng xin lập Trần Cao lên làm vua để xin bãi binh. Liễu Thăng tiếp thư không mở ra xem cho người đưa về Bắc Kinh, rồi cứ tiến lên đánh.

Ngày 18 tháng 9, quân Liễu Thăng đến gần cửa Chi Lăng. Lê Sát sai Trần Lựu ra đánh rồi bỏ chạy. Liễu Thăng mừng lắm, chỉ đem 100 lính kỵ đuổi theo, bỏ đại đội ở lại sau. Đuổi được một đoạn, phải chỗ bùn lầy đi không được, phục binh ta đổ ra đánh, chém Liễu Thăng ở núi Đảo Mã Pha (bây giờ là Mã Yên Sơn, ở làng Mai Sao, thuộc Ôn Châu). Việc ấy vào ngày 20 tháng 9 năm đinh mùi.

Bọn Lê Sát, Trần Lựu thừa thắng đuổi đánh quân Minh giết hơn 1 vạn người. Lúc bấy giờ đạo quân của Lê Lý cũng vừa đến, hội lại tiến lên đánh quân Minh, chém được Lương Minh ở giữa trận (ngày 25). Lý Khánh thì tự tử (ngày 28). Còn bọn Hoàng Phúc và Thôi Tụ đem bại binh chạy về thành Xương Giang (thành của nhà Minh xây ở xã Thọ Xương, phủ Lạng Giang), đi đến nữa đường bị quân của Lê Sát đuổi đến đánh phá một trận; Thôi Tụ cố đánh lấy đường chạy về Xương Giang, không ngờ thành ấy đã bị bọn Trần Nguyên Hãn lấy mất rồi, quân Minh sợ hãi quá bèn lập trại đắp lũy ở giữa đồng để chống giữ.

Bình Định Vương sai quân thủy bộ vây đánh, sai Trần Nguyên Hãn chặn đường tải lương của quân Minh, lại sai Phạm Vấn, Lê Khôi, Nguyễn Xí đem quân thiết đội vào đánh chém quân Minh được hơn 5 vạn, bắt sống được Hoàng Phúc, Thôi Tụ và 3 vạn quân. Thôi Tụ không chịu hàng phải giết.

Bấy giờ Mộc Thạnh với bọn Phạm Văn Xảo và Trịnh Khả đang giữ nhau ở cửa Lê Hoa. Trước Vương cũng đã liệu rằng Mộc Thạnh là người lão luyện tất chờ xem quân Liễu Thăng thắng bại thế nào rồi mới tiến, bèn sai đưa thư dặn bọn Văn Xảo cứ giữ vững chứ đừng ra đánh. Đến khi quân Liễu Thăng thua rồi, Vương cho những tên tì tướng đã bắt được, đem những giấy má ấn tín lên cho Mộc Thạnh biết.

Mộc Thạnh được tin ấy, sợ quá, đem quân chạy, bị quân Trịnh Khả đuổi theo chém được hơn 1 vạn người và bắt được cả người lẫn ngựa mỗi thứ hơn một nghìn.


20. Vương Thông Xin Hòa Lần Thứ Hai.

Bình Định Vương sai đưa bọn Hoàng Phúc và hai cái hổ phù, hai dấu đài ngân của quan Chinh Lỗ Phó Tướng Quân về Đông Quan cho Vương Thông biết.

Vương Thông biết rằng viện binh sang đã bị thua rồi, sợ hãi quá, viết thư xin hòa. Vương thuận cho, rồi cùng với Vương Thông lập đàn thề ở phía nam thành Đông Quan, hẹn đến tháng chạp thì đem quân về Tàu.


21. Trần Cao Dâng Biểu Xin Phong.

Bình Định Vương đã hòa với Vương Thông rồi, quân Minh ở Tây Đô và ở các nơi đều giải binh cả. Vương sai Lê Thiếu Dĩnh, Lê Quang Cảnh và Lê Đức Huy đem tờ biểu và phương vật sang sứ nhà Minh.

Những đồ phương vật là:

1. Hai người bằng vàng để thay mình.
2. Một lư hương bằng bạc.
3. Một đôi bình hoa bằng bạc
4. Ba mươi tấm lượt.
5. Mười bốn đôi ngà voi.
6. Mười hai bình hương trầm.
7. Hai vạn nén hương duyến.
8. Hai mươi bố cây hương trầm.

Và lại đem hai cái dấu đài ngân, đôi hổ phù của Chính Lỗ Phó Tướng Quân cùng với sổ kê những người quan quân nhân mã đã bị bắt đem trả lại Minh Triều.

Còn tờ biểu thì đứng tên Trần Cao, đại lược như sau này:

"Khi vua Thái Tổ Cao Hoàng Đế mới lên ngôi, tổ tiên tôi là Nhật Khuê vào triều cống trước nhất, bấy giờ ngài có ban thưởng, phong cho tước Vương. Từ đó nhà tôi vẫn nối đời giữ bờ cõi, không bỏ thiếu lễ triều cống bao giờ.

Mới rồi nhân họ Hồ thoán nghịch, vua Thái Tông Văn Hoàng Đế quân sang hỏi tội. Sau khi đã dẹp yên rồi, ngài có hạ chiếu tìm con cháu họ Trần để giữ lấy dòng dõi cúng tế. Bấy giờ quan tổng binh Trương Phụ tìm chưa được khắp, đã xin đặt làm quận huyện.

Nguyên tôi lúc trước vì trong nước có loạn, chạy trốn vào xứ Lão Qua, cũng là muốn để tìm chốn yên thân mà thôi, không ngờ người trong nước, vẫn quen thói mọi, nhớ đến ân trạch nhà tôi thuở trước, lại cố ý ép tôi phải về, bất đắc dĩ tôi cũng phải theo.

Dẫu rằng trong khi vội vàng, bị người trong nước cố ép, nhưng cũng là cái tội tôi không biết liệu xử. Mới đây tôi đã có xin lỗi trước hàng quân, nhưng không ai chịu nghe, bấy giờ người nước tôi sợ phải tai vạ, liền đem nhau ra phòng bị các cửa ải, cũng là một kế giữ mình.

Ngờ đâu quan quân xa xôi mới đến thấy voi sợ hãi, tức khắc vỡ tan. Việc đã xảy ra như vậy, dẫu bởi sự bất đắc dĩ của người trong nước cũng là lỗi của tôi. Nhưng bao nhiêu những quân và ngựa bắt được đều phải thu dưỡng tử tế, không dám xâm phạm một tí gì.

Dám xin hoàng thượng ngày nay lại theo như lời chiếu của vua Thái Tông Văn Hoàng Đế, tìm lấy con cháu họ Trần, nghĩ đến cái lòng thành vào triều cống trước nhất của tổ tiên tôi ngày xưa, mà xá cái tội to như gò núi ấy, không bắt phải cái phạt nặng bằng búa rìu, khiến cho tôi được nối nghiệp ở xứ nam, để giữ chức triều cống.

Tôi đã sai người thân tín mang tờ biểu tạ và đưa trả những ấn tín nhân mã tới chốn kinh sư, nay lại xin đệ tâu những danh số ấy"

Vua nhà Minh bấy giờ là Tuyên Tông xem biểu biết rằng giả dối, nhưng cũng muốn nhân dịp ấy để thôi việc binh, bèn đưa tờ biểu cho quần thần xem, mọi người đều xin hòa. Minh Đế sai quan Lễ Bộ Thị Lang là Lý Kỳ đưa chiếu sang phong cho Trần Cao làm An Nam Quốc Vương, bỏ tòa Bố Chính và triệt quân về Tàu.

Đến tháng chạp năm đinh mùi, Vương Thông theo lời ước với Bình Định Vương, đem bộ binh qua sông Nhị Hà, còn thủy quân theo sau.

Bấy giờ có người xui Vương rằng: lúc trước người Minh tàn ác lắm, nên đem giết cả đi. Vương nói rằng: " Phục thù báo oán là cái thường tình của mọi người, nhưng cái bản tâm người có nhân không muốn giết người bao giờ. Vả người ta đã hàng mà lại còn giết thì không hay. Nếu mình muốn thỏa cơn giận một lúc, mà chịu cái tiếng muôn đời giết kẻ hàng, thì sao bằng để cho muôn vạn con người sống mà khỏi được cái mối tranh chiến về đời sau, lại để tiếng thơm lưu truyền thiên cổ trong sử xanh".

Vương không giết người Minh lại cấp cho thủy quân 500 chiếc thuyền giao cho Phương Chính và Mã Kỳ quản lĩnh; cấp lương thảo cho lục quân giao cho Sơn Thọ, Hoàng Phúc quản lĩnh; còn 2 vạn người đã ra hàng và đã bị bắt thì giao cho Mã Anh quản lĩnh đem về Tàu. Vương Thông thì lĩnh bộ binh đi sau. Bình Định Vương tiễn biệt rất hậu.

Giặc Minh lục tục về bắc, bấy giờ mới thật là: Nam Quốc Sơn Hà, Nam Đế Cư; nước Nam lại được tự chủ như cũ.


23. Tờ Bình Ngô Đại Cáo.

Bình Định Vương dẹp xong giặc Minh rồi, sai ông Nguyễn Trãi làm tờ bá cáo cho thiên hạ biết.

Tờ Bình Ngô Đại Cáo này làm bằng Hán Văn, là một bản văn chương rất có giá trị trong đời Lê. Nay theo nguyên văn ở trong tập Hoàng Việt Văn Tuyển mà chép ra như sau này:

Bình Ngô Đại Cáo

Tượng mảng:

Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân, quân điếu phạt chỉ vì khử bạo. Như nước Việt từ trước, vốn xưng văn hiến đã lâu. Sơn hà cương vực đã chia, phong tục bắc nam cũng khác. Từ Đinh, Lê, Lý, Trần, gây nền độc lập; cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên, hùng cứ một phương. Dẫu cường nhược có lúc khác nhau, song hào kiệt đời nào cũng có.

Vậy nên:

Lưu Cung sợ uy mất vía, Triệu Tiết nghe tiếng giật mình. Cửa Hàm Tử giết tươi Toa Đô, sông Bạch Đằng bắt sống Ô Mã. Xét xem cổ tích, đã có minh trưng 83.

Vừa rồi:

Vì họ Hồ chính sự phiền hà, để trong nước nhân dân oán bạn. Quân cuồng Minh đã thừa cơ tứ ngược 84 , bọn gian tà còn bán nước cầu vinh. Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn, vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ. Chước dối đủ muôn nghìn khóe, ác chứa ngót hai mươi năm. Bại nhân nghĩa, nát cả càn khôn, nặng khoa liễm 85

vét không sơn trạch. Nào lên rừng đào mỏ, nào xuống bể mò châu, nào hố bẫy hươu đen, nào lưới dò chim sả. Tàn hại cả côn trùng thảo mộc; nheo nhóc thay quan quả điên liên 86. Kẻ há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán. Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục dịch cho vừa. Nặng nề về những nỗi phu phen, bắt bớ mất cả nghề canh cửi. Độc ác thay ! trúc rừng không ghi hết tội; dơ bẩn thay ! nước bể không rửa sạch mùi. Lẽ nào trời đất tha cho, ai bảo thần nhân nhịn được.

Ta đây:

Núi Lam Sơn dấy nghĩa, chốn hoang dã nương mình. Ngắm non sông căm nỗi thế thù, thề sống chết cùng quân nghịch tặc. Đau lòng nhức óc, chốc là mười mấy nắng mưa; nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối. Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh; ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ. Những trằn trọc trong cơn mộng mị, chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi. Vừa khi cờ nghĩa dấy lên, chính lúc quân thù đang mạnh.

Lại ngặt vì:

----------------------------------------------------
83 Minh trưng: chứng cớ rõ ràng.

84 Tứ ngược: Hết sức tàn ngược.

85 Khoa liễm: Thuế má.

86 Quan: Người không vợ; Quả: người góa chồng; Điên Liên: những kẻ không có nhà ở, không trông cậy vào đâu được.
----------------------------------------------------

Tuấn kiệt như sao buổi sớm, nhân tài như lá mùa thu. Việc bôn tẩu thiếu kẻ đỡ đần, nơi duy ác hiếm người bàn bạc. Đôi phen vùng vẫy, vẫn đăm đăm con mắt dục đông 87 ; mấy thủa đợi chờ, luống đằng đẵng cỗ xe hư tả 88. Thế mà trông người, người càng vắng ngắt, vẫn mịt mờ như kẻ vọng dương 89. thế mà tự ta, ta phải lo toan, thêm vội vã như khi chửng nịch 90. Phần thì giận hung đồ ngang dọc, phần thì lo quốc bộ khó khăn. Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần; khi Khôi huyện quân không một lữ. Có lẽ trời muốn trao cho gánh nặng, bắt trải qua bách chiết thiên ma; cho nên ta cố gắng gan bền, chấp hết cả nhất sinh thập tử. Múa đầu gậy, ngọn cờ phất phới, ngóng vân nghê bốn cõi đan hồ. Mở tiệc quân, chén rượu ngọt ngào, khắp tướng sĩ một lòng phụ tử. Thế giặc mạnh, ta yếu mà ta địch nổi; quân giặc nhiều, ta ít mà ta được luôn.

Dọn hay:

Đem đại nghĩa để thắng hung tàn, lấy chí nhân mà thay cường bạo. Trận Bồ Đằng sấm vang sét dậy, miền Trà Lân trúc phá tro baỵ Sĩ khí đã hăng, quân thanh càng mạnh. Trần Trí, Sơn Thọ mất vía chạy tan; Phương Chính, Lý An tìm đường trốn tránh. Đánh Tây Kinh phá tan thế giặc, lấy Đông Đô thu lại cõi xưa. Dưới Ninh Kiều máu chảy thành sông; bến Tụy Động xác đầy ngoại nội. Trần Hiệp đã thiệt mạng. Lý Lương lại phơi thây. Vương Thông hết cấp lo lường, Mã Anh không đường cứu đỡ. Nó đã trí cùng lực kiệt, bó tay không biết tính sao; ta đây mưu phạt tâm công, chẳng đánh mà người chịu khuất. Tưởng nó phải thay lòng đổi dạ, hiểu lẽ tới lui; ngờ đâu còn kiếm kế tìm phương, gây mầm tội nghiệt. Cậy mình là phải, chỉ quen đổ vạ cho người; tham công một thời, chẳng bỏ bày trò dơ duốc. Đến nỗi đứa trẻ ranh như Tuyên Đức 91 , nhàm võ không thôi; lại sai đồ nhút nhát như Thạnh, Thăng, đem dầu chữa cháy. Năm đinh mùi tháng chín, Liễu Thăng từ Khâu Ôn tiếng san; lại năm nay tháng mười, Mộc Thạnh tự Vân Nam kéo đến. Ta đã điều binh giữ hiểm để ngăn lối Bắc quân; ta lại sai tướng chẹn ngang để tuyệt đường lương đạo. Mười tám, Liễu Thăng thua ở Chi Lăng, hai mươi, Liễu Thăng chết ở Mã Yên. Hai mươi lăm, Lương Minh trận vong; hai mươi tám, Lý Khánh tự vẫn. Lưỡi dao ta đang sắc, ngọn giáo giặc phải lùi. Lại thêm quân bốn mặt vây thành, hẹn đến rằm tháng mười diệt tặc. Sĩ tốt ra oai tì hổ, thần thứ đủ mặt trảo nha. Gươm mài đá, đá núi cũng mòn; voi uống nước, nước sông phải cạn. Đánh một trận sạch không kình ngạc, đánh hai trận tan tác chim muông. Cơn gió to trút sạch lá khô, tổ kiến hổng sụt toang đê cũ. Thôi Tụ phải quì mà xin lỗi, Hoàng Phúc tự trói

----------------------------------------------------
87 Dục đông: ý nói muốn về lấy Đông Đô.

88 Hư tả: Cỗ xe không bên trái để đợi người hiền.

89 Vọng dương: Trông ra biển không thấy gì.

90 Chửng nịch: Vớt người chết đuối.

91 Vua Tuyên Tông nhà Minh, niên hiệu Tuyên Đức.
----------------------------------------------------


để ra hàng. Lạng Giang, Lạng Sơn thây chất đầy đường, Xương Giang, Bình Than máu trôi đỏ nước. Gớm ghê thay ! sắc phong vân cũng đổi; thảm đạm thay ! sáng nhật nguyệt phải mờ. Binh Vân Nam nghẽn ở Lê Hoa, sợ mà mất mật; quân Mộc Thạnh tan chưn Cần Trạm, chạy để thoát thân. Suối máu Lãnh Câu, nước sông rền rĩ; thành xương Đan Xá, cỏ nội đầm đìa. Hai mặt cứu binh, cắm đầu trốn chạy; các thành cùng khấu, cởi giáp xuống đầu. Bắt tướng giặc mang về, nó đã vẫy đuôi phục tôi; thể lòng trời bất sát, ta cũng mở đường hiếu sinh. Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến bể chưa thôi trống ngực. Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến Tàu còn đổ mồ hôi. Nó đã sợ chết cầu hòa, ngỏ lòng thú phục; ta muốn toàn quân là cốt, cả nước nghỉ ngơi.

Thế mới là mưu kế thật khôn, vả lại suốt xưa nay chưa có. Giang san từ đây mở mặt, xã tắc từ đầy vững nền. Nhật nguyệt hối mà lại minh, càn khôn bĩ mà lại thái. Nền vạn thế xây nên chăn chắn, thẹn nghìn thu rửa sạch làu làu. Thế là nhờ trời đất tổ tông khôn thiêng che chở, giúp đỡ cho nước ta vậy.

Than ôi !

Vẫy vùng một mảng nhung y nên công đại định, phẳng lặng bốn bề thái vũ mở hội vĩnh thanh. Bá cáo xa gần, ngỏ cùng cho biết.

-----

Bản Hán Việt:

Bình Ngô Đại Cáo

Cái văn : nhân nghĩa chi cử, yếu tại an dân; điếu phạt chi sư, mạc tiên khử bạo. Duy ngã Đại-Việt chi quốc, thực vi văn-hiến chi bang. Sơn xuyên chi phong vực ký thù, Nam Bắc chi phong-tục diệc dị. Tự Triệu Đinh Lý Trần chi triệu tạo ngã quốc, dữ Hán Đường Tống Nguyên nhi các đế nhất phương. Tuy cường nhược thì hữu bất đồng, nhi hào kiệt thế vị thường phạp.

Cố Lưu Cung tham công dĩ thủ bại, nhi Triệu Tiết hiếu đại dĩ xúc vong. Toa Đô ký cầm ư Hàm-tử quan, Ô Mã hựu ế ư Bạch-đằng hải. Kê chư vãng cổ, quyết hữu minh trưng.

Khoảnh nhân Hồ-chính chi phiền-hà, trí-sử nhân-tâm chi oán-bạn. Cuồng-Minh tứ khích, nhân dĩ độc ngã dân; ngụy đảng hoài gian, cánh dĩ mãi ngã quốc. Hân thương-sinh ư ngược-diễm, hảm xích-tử ư họa-khanh. Khi thiên võng dân, quỷ-kế cái thiên vạn trạng; liên binh kết hấn, nẫm ác đãi nhị thập niên. Bại nghĩa thương nhân, kiền khôn ky hồ dục tức; trọng khoa hậu liễm, sơn trạch mỹ hữu kiết di. Khai kim-trường, tắc mạo lam-chướng nhi phủ sơn đào sa; thái minh-châu, tắc xúc giao-long nhi hoàn yêu thộn hải. Nhiễu dân thiết huyền lộc chi hãm tịnh, điễn vật chức thúy cầm chi võng la. Côn trùng thảo mộc giai bất đắc dĩ toại kỳ sinh, quan quả điên-liên câu bất hoạch dĩ an kỳ sở. Tuấn sinh dân chi huyết, dĩ nhuận kiệt-hiệt chi vẫn nha; cực thổ mộc chi công, dĩ sùng công tư chi giải vũ. Châu lý chi chinh dao trọng khốn, lư diêm chi trữ trục giai không. Quyết Đông-hải chi thủy, bất túc dĩ trạc kỳ ô; Khánh Nam-sơn chi trúc, bất túc dĩ thư kỳ ác. Thần nhân chi sở cộng phẫn, thiên địa chi sở bất dung.

Dư phấn tích Lam-sơn, thê thân hoang dã. Niệm thế-thù khởi khả cộng [em xin lỗi, em là người chửi bậy], thệ nghịch-tặc nan dữ câu sinh. Thống tâm tật thủ giả thùy thập dư niên, thường đảm ngọa tân giả cái phi nhất nhật. Phát phẫn vong thực, mỗi nghiên đàm thao-lược chi thư; tức cổ nghiệm kim, tế suy cứu hưng vong chi lý. Đồ hồi chi chí, ngộ mỵ bất vong. Đương nghĩa kỳ sơ khởi chi thì, chính tặc thế phương trương chi nhật.

Nại dĩ nhân tài thu diệp, tuấn kiệt thần tinh. Bôn tẩu tiền hậu giả ký phạp kỳ nhân, mưu mô duy ác giả hựu quả kỳ trợ. Đặc dĩ cứu dân chi niệm, mỗi uất-uất nhi dục đông; cố ư đãi hiền chi xa, thường cấp-cấp dĩ hư tả. Nhiên kỳ đắc nhân chi hiệu, mang nhược vọng dương; do kỷ chi thành, thậm ư chửng nịch. Phẫn hung-đồ chi vị diệt, niệm quốc-bộ chi tao truân. Linh-sơn chi thực tận kiêm tuần, Khôi-huyện chi chúng vô nhất lữ. Cái thiên dục khốn ngã dĩ giáng quyết nhâm, cố dư ích lệ chi dĩ tế vu nạn. Yết can vi kỳ, manh lệ chi đồ tứ tập; đầu giao hưởng sĩ, phụ tử chi binh nhất tâm. Dĩ nhược chế cường, hoặc công nhân chi bất bị; dĩ quả địch chúng, thường thiết phục dĩ xuất kỳ.

Tốt năng dĩ đại nghĩa nhi thắng hung-tàn, dĩ chi nhân nhi dịch cường-bạo. Bồ-đằng chi đình khu điện xiết, Trà-lân chi trúc phá khôi phi. Sĩ khí dĩ chi ích tăng, quân thanh dĩ chi đại chấn. Trần Trí, Sơn Thọ, văn phong nhi trĩ phách; Lý An, Phương Chính, dả tức dĩ thâu sinh. Thừa thắng trường khu, Tây-kinh ký vi ngã hữu; tuyển phong tiến thủ, Đông-đô tận phục cựu cương. Ninh-kiều chi huyết thành xuyên, lưu tinh vạn lý; Tụy-động chi thi tích dã, di xú thiên niên. Trần Hiệp tặc chi phúc tâm, ký kiêu kỳ thủ; Lý Lượng tặc chi gian đố, hựu bộc quyết thi. Vương Thông lý loạn nhi phần giả ích phần, Mã Anh cứu đấu nhi nộ giả ích nộ. Bỉ trí cùng nhi lực tận, thúc thủ đãi vong; ngã mưu phạt nhi tâm công, bất chiến tự khuất. Vị bỉ tất dịch tâm nhi cải lự, khởi ý phục tác nghiệt dĩ tốc cô. Chấp nhất kỷ chi kiến, dĩ giá họa ư tha nhân; tham nhất thì chi công, dĩ di tiếu ư thiên-hạ. Toại lệnh Tuyên- đức chi giảo đồng, độc binh vô yếm; nhưng mệnh Thạnh Thăng chi nhụ tướng, dĩ du cứu phần. Đinh-vị cửu nguyệt, Liễu Thăng toại dẫn binh do Khâu-ôn nhi tiến; bản niên bản nguyệt, Mộc Thạnh diệc phân đồ tự Vân-nam nhi lai. Dư tiền ký tuyển binh tắc hiểm dĩ tồi kỳ phong, dư hậu tái điều binh tiệt lộ dĩ đoạn kỳ thực. Bản nguyệt thập bát nhật, Liễu Thăng vi ngã quân sở công, kế đọa ư Chi-lăng nhi dã; bản nguyệt nhị thập nhật, Liễu Thăng vi ngã quân sở bại, thân tử ư Mã-yên chi sơn. Nhị thập ngũ nhật, Bảo-định bá Lương Minh trận hãm nhi táng khu; nhị thập bát nhật, thượng-thư Lý Khánh kế cùng nhi vẫn thủ.

Ngã toại nghinh nhận nhi giải, bỉ tự đảo qua tương công. Kế nhi tứ diện thiêm binh dĩ bao vi, kỳ dĩ thập nguyệt trung tuần nhi điễn diệt. Viên tuyển tỳ hưu chi sĩ, thân mệnh trảo nha chi thần. Ẩm tượng nhi hà thủy can, ma đao nhi sơn thạch khuyết. Nhất cổ nhi kình khô ngạc đoạn, tái cổ nhi điểu tán quân kinh. Quyết hội nghị ư băng đê, chấn cương phong ư cảo diệp. Đô-đốc Thôi Tụ tất hàng nhi tống khoản, thượng-thư Hoàng Phúc diện phược dĩ tựu cầm. Cương-thi tắc Lạng-giang, Lạng-sơn chi đồ; chiến-huyết xích Xương-giang, Bình-than chi thủy. Phong vân vị chi biến sắc, nhật nguyệt thảm dĩ vô quang.

Kỳ Vân-nam binh vi ngã quân sở ách ư Lê-hoa, tự đỗng nghi hư hát nhi tiên dĩ phá đảm. Kỳ Mộc Thạnh chúng văn Thăng quân đại bại ư Cần- trạm, toại lận tạ bôn hội nhi cận đắc thoát thân. Lãnh-câu chi huyết xử phiêu, giang-thủy vị chi ô yết; Đan-xá chi thi sơn tích, dã thảo vị chi ân hồng. Lưỡng lộ cứ binh, ký bất tuyền chủng nhi âu bại; các thành cùng khấu, diệc tương giải giáp dĩ xuất hàng. Tặc thủ thành cầm, bỉ ký điệu ngạ- hổ khất liên chi vỹ; thần vũ bất sát, dư diệc thể Thượng-đế hiếu sinh chi tâm. Tham-tướng Phương Chính, nội-quan Mã Kỳ, tiên cấp hạm ngũ bách dư sưu, ký độ hải nhi do thả hồn phi phách táng. Tổng-binh Vương Thông, tham-chính Mã-Anh, hựu cấp mã sổ thiên dư thất, dĩ hoàn quốc nhi ích tự cổ lật tâm kinh. Bỉ ký úy tử tham sinh, nhi tu hiếu hữu thành; dư dĩ toàn quân vi thượng, nhi dục dân đắc tức.

Phi duy kế mưu chi cực kỳ thâm viễn, cái diệc cổ kim chi sở vị kiến văn. Xã-tắc dĩ chi điện an, sơn xuyên dĩ chi cải quán. Kiền khôn ký bĩ nhi phục thái, nhật nguyệt ký hối nhi phục minh. Vu dĩ khai vạn thế thái bình chi cơ, vu dĩ tuyết thiên cổ vô-cùng chi sỉ. Thị do thiên địa tổ tông chi linh, hữu dĩ mặc tương âm hựu, nhi trí nhiên dã.

Ô-hô! Nhất nhung đại-định, ngật thành vô cạnh chi công; tứ hải vĩnh-thanh, dản bố duy-tân chi cáo. Bá cáo hà nhĩ, hàm sử văn tri.
^o^Nụ cười của em đã khiến bối rối tim này..-_-
--_..Anh biết đã yêu em rồi..__

cop_xong_paste

Chương 25

NHÀ LÊ (1428-1788)

Thời-Kỳ Thống-Nhất (1428-1527)

I. Lê Thái Tổ


1. Bình-định-vương lên ngôi tôn
2. Việc học-hành
3. Luật-lệ
4. Việc cai-trị
5. Phép quân-điền
6. Việc binh-lính
7. Công thần bị giết


II. Lê Thái Tông


III. Lê Nhân Tông


1. Cai-trị
2. Việc thuế-lệ
3. Việc canh-nông
4. Nhà sinh-tế
5. Việc sửa phong-tục
6. Địa-đồ nước Nam
7. Đại-Việt sử-ký
8. Việc văn-học
9. Việc vũ-bị
10. Đánh Chiêm-thành
11. Đánh Lão-qua
12. Đánh Bồn-man
13. Việc giao-thiệp với Tàu


V. Lê Hiến Tông


VI. Lê Túc Tông và Lê Uy Mục


VII. Lê Tương Dực


1. Việc thuế-má
2. Đại-Việt thông-giám
3. Sự biến-loạn


VIII. Lê Chiêu Hoàng và Lê Cung Hoàng

1. Giặc Trần Cao quấy-nhiễu ở Đông-đô
2. Quan trong Triều làm loạn
3. Mạc đăng Dung chuyên quyền



I. Lê Thái Tổ ( 1428 - 1433 )

Niên-hiệu: Thuận Thiên


1. Bình Định Vương Lên Ngôi Tôn.

Bình-định-vương là Lê Lợi có công dẹp giặc Minh, đem lại giang-sơn cho nước nhà. Nhưng vì trước phải lấy cớ lập con cháu nhà Trần để cầu hòa với nhà Minh, cho nên phải tôn Trần Cao lên làm vua. Nay việc chiến-tranh đã xong, lòng người theo về Bình-định-vương, mà Trần Cao cũng biết chừng không ai để cho mình ở yên, bèn trốn vào châu Ngọc-Ma (thuộc phủ Trấn-ninh) nhưng bị quan quân đuổi bắt được, đem về bắt phải uống thuốc độc mà chết.

Trần Cao chết rồi, Bình-định-vương lên ngôi tức là vua Thái-tổ nhà Lê, đặt quốc-hiệu là Đại-Việt. Năm ấy là năm Mậu-thân, lịch Tây là năm 1428.

Vua Thái-tổ sai sứ sang cầu phong bên Tàu, nhưng mà nhà Minh không chịu, bắt phải tìm con cháu nhà Trần để lập lên làm vua. Sứ nhà Minh đi về hai ba lần, sau vua Thái-tổ bắt các quan viên và phụ lão trong nước làm tờ khai rằng con cháu nhà Trần thật không còn ai nữa, và xin phong cho ngài là Lê Lợi làm vua nước Nam. Vua nhà Minh thấy vậy mới thuận phong vương cho ngài.

Từ đấy lệ cứ 3 năm phải sang cống nhà Minh một lần, mà lần nào cũng phải đúc hai người bằng vàng gọi là: "đại thân kim nhân ". Có lẽ là lúc đánh trận Chi-lăng có giết mất tướng nhà Minh là Liễu Thăng và Lương Minh, cho nên phải đúc hai người bằng vàng thế mạng.

Việc cầu phong và việc chịu cống nước Tàu là việc thế bất-đắc-dĩ, vì rằng nước ta đối với nước Tàu thì lớn nhỏ khác nhau nhiều lắm; vả lại nước ta một mình lẻ-loi ở phía nam không có vây-cánh nào cả, như vậy, nếu mà cứ kháng-cự, không chịu kém một tí, thì không bao giờ yên được. Mà dẫu bề ngoài mình chịu kém nước Tàu, nhưng kỳ thực bề trong vẫn tự chủ, chứ người Tàu không xâm-phạm gì đến việc nước mình. Thế cũng là một sự giao-thiệp khôn-khéo, làm cho nước được yên-trị.

Vua Thái-tổ lên ngôi rồi, phong thưởng cho các công-thần: bên văn thì ông Nguyễn Trãi đứng đầu, bên võ thì ông Lê Vấn đứng đầu, cả thảy là 227 người đều được quốc-tính cả. Ngài lại phong cho ông Nguyễn Trãi là Quan-phục-hầu, ông Trần nguyên Hãn là Tả-tướng-quốc, ông Phạm văn Xảo làm Thái-úy.

Những người công-thần vào bậc thứ nhất thì được thưởng tước là Thượng-trí-tự, bậc thứ nhì thì được tước là Đại-trí-tự, bậc thứ ba thì được tước là Trí-tự.


2. Việc Học Hành.

Vua Thái-tổ sửa-sang việc học-hành, đặt trường Quốc-tử-giám ở đất kinh-đô để cho con cháu các quan viên và những người thường dân tuấn-tú vào học-tập; mở nhà học và đặt thầy dạy nho-học ở các phủ và các lộ. Rồi lại bắt các quan văn vũ từ tứ phẩm trở xuống phải vào thi Minh-kinh-khoa,

nghĩa là quan văn thì phải thi kinh-sử, quan vũ thì phải thi vũ-kinh. ở các lộ cũng mở khoa thi Minh-kinh

để cho những người ẩn-dật ra ứng-thí mà chọn lấy nhân-tài.

Những người đi tu đạo Phật, đạo Lão cũng bắt phải thi kinh điển những đạo ấy; hễ ai thi trúng thì mới cho phép được làm tăng và đạo-sĩ, ai thi hỏng thì phải về tục làm ăn.


3. Luật Lệ.

Đặt ra luật-lệ mới theo như hình-luật nhà Đường: có tội xuy, tội trượng, tội đồ, tội lưu và tội tử.

Tội xuy chia ra làm 5 bậc từ 10 roi đến 50 roi; tội trượng cũng chia ra làm 5 bậc, từ 60 đến 100 trượng; tội đồ chia ra làm 3 bậc: đồ làm dịch đinh, đồ làm lính chuồng voi, và đồ làm lính đồn-điền; tội lưu chia ra làm 3 bậc : lưu đi cận châu, lưu đi viễn châu và lưu đi ngoại châu 92 ; tội tử cũng chia ra làm 3 bậc: tội thắt cổ và chém, tội chém bêu đầu và tội lăng-trì.

Hễ ai được vào hàng bát nghị (93) thì trước phải tâu xin nghị, khi vào nghị xong rồi lại phải tâu để vua xét lại. Những người cựu thần có công từ ngũ-phẩm dĩ thượng, có ai phạm tội đồ hay là tội lưu thì cũng tha cả; con cháu những người được nghị công mà có tội, thì cứ theo cái thứ bậc tập

----------------------------------------------------
92 Lưu đi cận châu là vào Nghệ-an, đi viễn châu là vào Bố-chính, đi ngoại châu là vào Tân-bình.

93 Bát nghị là : Nghị thân, nghị cố, nghị hiền, nghị năng, nghị công, nghị quí, nghị cần, nghị tân. Xem ở sách Chu-lễ thì biết rõ.
----------------------------------------------------


ấm của ông cha mà giảm cho. Những quan viên, quân dân ai có lầm-lỗi, nhỡ ra phạm đến tội lưu trở xuống thì được cho chuộc. Những người 70 tuổi trở lên, 15 tuổi trở xuống hay là có phế-tật mà phạm tội lưu trở xuống, thì cũng được cho chuộc. Những người 80 tuổi trở lên, 10 tuổi trở xuống hay là đốc-tật, thì cứ thứ-tự giảm bớt cho. Những người phạm tội gì hay là phạm tội ăn-trộm, ăn-cắp của người ta mà tự mình ra thú nhận trước, thì được lượng tội mà giảm cho ít nhiều.

Trong nước bấy giờ có nhiều người du-đãng cứ rượu chè cờ bạc, không chịu làm ăn tử-tế, vậy nên đặt ra phép nghiêm để trừng-trị : ai đánh đổ-bác bắt được phải chặt ngón tay mất ba phân; đánh cờ, bắt được phải chặt ngón tay mất một phân; không có việc gì quần-tụ nhau để rượu chè, phải đánh 100 trượng, người dung chứa những kẻ ấy cũng phải tội, nhưng mà được giảm đi một bậc.

Sự nghiêm-phạt như thế, thì có thái-quá thật, vì là làm tàn-hại đến thân-thể người ta, nhưng mà cũng có công-hiệu, khiến cho trong nước bớt có thứ người cả đời không chịu làm gì, chỉ đi đánh lừa người mà kiếm ăn.


4. Việc Cai Trị.

Khi vua Thái-tổ mới ở Nghệ-an ra Đông-đô, thì đã chia nước ra làm bốn đạo, nay lại đặt thêm một đạo nữa gọi là Hải-tây-đạo, gồm cả Thanh-hóa, Nghệ-an, Tân-bình và Thuận-hóa.

Trong các đạo, đạo nào cũng có quan Hành-khiển để giữ sổ-sách về việc quân-dân. Còn như các xã-thôn thì cứ xã nào có hơn 100 người trở lên, gọi là đại xã, đặt ba người xã quan; xã nào có 50 người trở lên, gọi là trung xã, đặt hai xã quan; xã nào có 10 người trở lên gọi là tiểu xã, đặt một người xã quan để coi việc trong xã.


5. Phép Quân Điền.

Bấy giờ thường những người không có công-lao gì với nhà-nước thì lắm ruộng nhiều nương, mà những kẻ phải đánh đông dẹp bắc lao-lung khổ-sở, lúc về một tấc đất cũng không có. Vì thế cho nên vua Thái-tổ định ra phép quân-điền

để lấy công điền, công thổ mà chia cho mọi người, từ quan đại-thần cho đến những người già yếu cô quả, ai cũng có một phần ruộng, khiến cho sự giàu nghèo ở trong nước khỏi chênh-lệch lắm.


6. Việc Binh Lính.

Khi giặc Minh hãy còn ở nước Nam, thì phải cần có nhiều quân binh, cho nên lúc quân An-nam ta mới ra Đông-đô, cả thảy được 25 vạn, sau lấy được Đông-đô rồi cho 15 vạn về làm ăn, chỉ để lại 10 vạn để phòng-vệ mà thôi, nay lại chia quân ra làm 5 phiên, một phiên ở lại lưu ban còn bốn phiên cho về làm ruộng, cứ lần lượt thay đổi nhau mà về.


7. Công Thần Bị Giết.

Vua Thái-tổ vẫn là một ông vua anh tài, đánh đuổi được giặc Minh, mà lại sửa-sang được nhiều công-việc ích-lợi cho nước, nhưng khi ngài lên làm vua rồi, có tính hay nghi-ngờ, chém giết những người công-thần như ông Trần nguyên Hãn và ông Phạm văn Xảo. Hai ông ấy giúp ngài đã có công to, về sau chỉ vì sự gièm-pha mà đều phải chết oan cả.

Nghĩ mà buồn thay cho mấy người công-thần đời xưa, chỉ lầm về hai chữ công danh, mà đem tấm lòng son sắt đi phù-tá quân-vương trong lúc nguy-nan, mong được chút hiển-vinh để cho thỏa cái chí trượng-phu ở đời. Ngờ đâu: chim bay đã hết, cung tốt cất đi, thỏ nhanh chết rồi, chó săn phải giết; đến khi công việc xong rồi, thì không những là một thân mình cũng không được trọn vẹn mà cả họ-hàng thường cũng phải vạ lây. Thế mới biết chỉ có ôn Trương tử Phòng nhà Hán là người kiến cơ hơn cả!

Vua Thái-tổ làm vua được 6 năm thì mất, thọ được 49 tuổi.


II. Lê Thái Tông (1434 - 1442)

Niên-hiệu: Thiệu Bình (1434 - 1442)
Đại Bảo ( 1440 - 1442 )


Khi vua Thái-tông lên làm vua thì ngài mới có 11 tuổi, cho nên công-việc gì cũng ở quan Phụ-chính là Lê Sát quyết định hết cả.

Lê Sát là một người ít học nhưng vì trước theo vua Thái-tổ lập được công to, quan làm đến Đại-tư-đồ. Nay làm Phụ-chính, thường hay cậy quyền, trái phép, làm nhiều điều kiêu-hãnh, hễ triều-thần ai là người không tòng-phục thì tìm cách làm hại.

Vua Thái-tông tuy còn trẻ tuổi nhưng vốn có tính thông-minh, làm vua được ít lâu thì ra thân chính lấy, rồi giết Lê Sát đi để thu lấy quyền. Song cũng vì ít tuổi mà lại không có người phù-tá, cho nên sau thành say- đắm tửu sắc làm lắm điều không được chính-đính.

Đời Thái-tông làm vua thì trong nước phải mấy năm đại hạn, nước lụt và hoàng-trùng làm hại mùa-màng, dân phải đói khổ. Ở mạn mường-mán lại có đôi ba đám giặc nổi lên làm loạn, có khi vua phải thân chinh đi đánh, có khi chỉ sai quan đi tiểu-trừ, cũng dẹp yên được. Còn việc giao-thiệp với những nước lân-bang, như Tiêm-la (Thái-lan), Chiêm-thành, Ai-lao thì những nước ấy đều có sứ thần đi lại và thường có tiến cống cả.

Ở trong thì chỉnh-đốn việc thi-cử lại. Lệ cứ 5 năm một lần thi hương, 6 năm một lần thi hội. Phép thi thì kỳ đệ-nhất làm một bài kinh- nghĩa, bốn bài tứ-thư nghĩa, mỗi bài phải 300 chữ trở lên; kỳ đệ-nhị thì làm bài chiếu, bài chế và bài biểu; kỳ đệ-tam làm bài thi phú; kỳ đệ-tứ thì làm một bài văn sách phải 1.000 chữ trở lên.

Đến năm nhâm-tuất (1442) mở khoa thi tiến-sĩ, bao nhiêu những người thi đỗ đều được khắc tên vào bia đá để phấn-chấn lòng người văn- học. Các tiến-sĩ được khắc tên vào bia ở Văn-miếu khởi đầu từ đấy.

Những cách-thức tiêu-dùng tiền và lụa vải ở trong nước cũng định lại cả; cứ 60 đồng là một tiền; lụa thì cứ dài 30 thước, rộng 1 thước 5 tấc trở lên là một tấm; giấy thì 100 tờ làm một tập.

Tháng bảy năm nhâm-tuất (1442), Thái-tông đi duyệt binh ở huyện Chí-linh. Bấy giờ ông Nguyễn Trãi đã về trí sĩ ở trại Côn-sơn, thuộc huyện Chí-linh. Khi vua đi qua đó có vào thăm, và thấy người hầu ông ấy là Nguyễn thị Lộ có tài sắc, bèn bắt theo hầu. Đi đến huyện Gia-định (nay là huyện Gia-bình ở Bắc-ninh) thì vua mất. Triều-đình đổ tội cho Nguyễn thị Lộ giết vua, bắt ông Nguyễn Trãi làm tội và tru di cả ba họ.

Vua Thái-tông làm vua được 9 năm, thọ được 20 tuổi.


III. Lê Nhân Tông (1443 - 1459)

Niên-hiệu: Đại Hòa (1443 - 1453)
Diên Ninh (1454 - 1459)

Khi vua Thái-tông mất, thái-tử là Băng Cơ mới lên 2 tuổi. Các quan đại-thần là bọn Lê Khả, Nguyễn Xí, lập thái-tử lên làm vua, tức là Nhân-tông, để bà Hoàng-thái-hậu ra nhiếp chính.

Trong mấy năm bà thái-hậu cầm quyền, thì có mấy việc quan-trọng như là đặt ra 14 điều hộ-luật về việc tư-điền; đổi cách thi để lấy người làm lại, bỏ thi ám-tả và thi kinh-nghĩa, chỉ thi viết và thi tính mà thôi. Lại đào sông Bình-lỗ (94) ở tỉnh Thái-Nguyên để cho tiện đường vận-tải.

Còn ở ngoài, thì vua nước Chiêm-thành là Bí Cai cứ hay sang cướp phá ở đất Hóa-châu. Triều-đình đã mấy phen sai quan vào đánh đuổi, nhưng vẫn không chừa. Đến năm bính-dần (1446) Triều-đình sai Lê Thụ, Lê Khả đem quân sang đánh Chiêm-thành lấy được thành Đồ-bàn, bắt được Bí Cai và cả phi tần đem về để ở Đông-kinh, rồi lập người cháu vua Bồ-đề là Mã-kha-qui-Lai lên làm vua.

Năm mậu-thìn (1448) lại có xứ Bồn-man xin nội thuộc nước ta, đặt làm châu Qui-hợp. Đất Bồn-man phía đông-nam giáp tỉnh Nghệ-an, tỉnh Quảng-bình, phía tây-bắc giáp tỉnh Hưng-hóa, tỉnh Thanh-hóa.

Tuy vậy, nhưng vì bà Thái-hậu hay nghe những lời nói gièm, chém giết các quan cựu-thần như là Lê Khả, Lê khắc Phục, làm cho nhiều người không phục.

Năm Quý-dậu (1453), Nhân-tông mới bắt đầu thân chính. Trước hết ngài truy-tặng cho những người công-thần và cấp ruộng quan-điền cho con cháu các ông Lê Sát, Lê Ngân, và Lê khắc Phục.

Lại sai ông Phan phù Tiên làm bộ quốc-sử kể từ vua Thái-tông nhà Trần cho đến khi thuộc nhà Minh, cả thảy là 10 quyển.

Trước các vương-hầu và các quan văn-vũ đều cứ theo phẩm-hàm của mình mà ăn lộc lấy thuế trong 50 hộ hay là 100 hộ. Nay Nhân-tông lại cho thêm tiền tuế-bổng nữa.

Vua Nhân-tông có lẽ cũng nên được một ông vua hiền, nhưng chẳng may ngài có người anh là Lạng-sơn-vương Nghi Dân, trước đã làm Thái-tử, sau vì người mẹ phải tội cho nên phải bỏ. Đến năm kỷ-mão (1459), Nghi Dân đồng mưu với bọn Lê đắc Ninh, Phạm Đồn, Phan Ban và Trần Lăng, nửa đêm trèo thành vào giết Nhân-tông và Hoàng-thái-hậu, tự xưng làm vua, rồi cho sứ sang Tàu cầu phong.

Nhân-tông trị-vì được 17 năm, thọ 19 tuổi.

----------------------------------------------------
94 "Khâm-định Việt-sử" chép rằng sông Bình-lỗ chảy từ Thái-nguyên về đến Phù-lộ, thì có lẽ sông Bình-lỗ là sông Cà-lồ chăng?
----------------------------------------------------


IV. Lê Thánh Tông (1460 - 1497)

Niên-hiệu: Quang Thuận (1460 - 1469)
Hồng Đức (1470 - 1497)

Nghi Dân cướp ngôi vua được 8 tháng, nhưng vì tính hay nghe lời dua-nịnh, chém giết kẻ cựu thần, cho nên lòng người không ai phục, đến tháng sáu năm Canh-thìn (1460) các quan đại-thần là bọn Nguyễn Xí, Đinh Liệt mưu chém Phạm Đồn và Phan Ban ở giữa nghị-sự-đường, rồi đóng cữa thành lại vào bắt Nghi Dân giết đi, rước con thứ tư vua Thái-tông là Bình-nguyên-vương Tư-Thành lên làm vua, tức là vua Thánh-tông.

Thánh-tông là một ông vua thông-minh, thờ mẹ rất có hiếu, ở với bề tôi đãi lấy lòng thành. Ngài trị-vì được 38 năm, sửa-sang được nhiều việc chính-trị, mở-mang sự học hành, chỉnh-đốn các việc vũ-bị, đánh dẹp nước Chiêm, nước Lào, mở thêm bờ-cõi, khiến cho nước Nam ta bấy giờ đuợc văn-minh thêm ra và lại lừng-lẫy một phương, kể từ xưa đến nay chưa bao giờ cường-thịnh như vậy.

Thánh-tông lên ngôi rồi phong tước và cấp ruộng quan điền cho các công-thần. Ngài lại truy-tặng những người công-thần bị giết oan ngày trước, và cho tìm con cháu ông Nguyễn Trãi về, cấp cho 100 mẫu ruộng để phụng- thờ tổ-tiên.

Những người mà được quốc-tính, nay ngài cho phục tính lại để cho khỏi mất tên họ.


1. Việc Cai Trị.

Từ trước đến giờ triều-chính vẫn theo lối cũ của nhà Trần : trên thì có tả hữu Tướng-quốc, rồi đến Lễ-bộ, Lại-bộ, Nội- các-viện, Trung-Thư, Hoàng-Môn, và ba sở Môn-hạ, lại có ngũ-đạo Hành- khiển để coi sổ-sách quân-dân các đạo. Đến khi Nghi Dân cướp ngôi, đặt ra lục Bộ và lục Khoa. Lục Bộ là : Lại-bộ, Hộ-bộ, Lễ-bộ, Binh-bộ, Công-bộ và Hình-bộ. Lục khoa là : Lại-khoa, Lễ-khoa, Binh-khoa, Hình-khoa, Hộ-khoa và Công-khoa.

Quan lục bộ thì có Thượng-thư làm đầu, rồi đến tả hữu Thị-lang, Lang-trung, Viên-ngoại-lang, Tư-vụ.

Thánh-tông đặt thêm ra lục tự là : Đại-lý-tự, Thái-thường-tự, Quang- lộc-tự, Thái-bộc-tự, Hồng-lô-tự, Thượng-bảo-tự. Quan Lục Tự thì có Tự- khanh, Thiếu-khanh và Tự-thừa.

Ngài lại lập ra quan chế và lễ-nghi theo như bên Tàu. Các quan văn võ có phần ruộng đất, lại được tiền tuế bổng. Nhưng ai mà làm điều gì nhũng-lạm thì đều phải nghiêm trị.

Ngài lại định lệ trí sĩ, cho các quan nội ngoại : ai làm quan đến 65 tuổi thì được xin về trí sĩ, còn những người làm nha-lại đến 60 tuổi cũng được xin về.

Trước vua Thái-tổ chia ra làm 5 đạo, có phủ, lộ, trấn, châu, huyện, xã. Đạo thì đặt quan Hành-khiển, Tuyên-phủ chánh phó-sứ; phủ thì đặt Tri- phủ; lộ thì đặt An-phủ-sứ; trấn thì đặt Trấn-phủ-sứ; huyện thì đặt Chuyển- vận-sứ và Tuần-sát-sứ; xã thì đặt Xã-quan.

Thánh-tông chia nước ra làm 12 đạo là Thanh-hóa, Nghệ-an, Thuận-hóa, Thiên-trường, Nam-sách, Quốc-oai, Bắc-giang, An-bang, Hưng- hóa, Tuyên-quang, Thái-nguyên, Lạng-sơn. Mỗi đạo có tòa Đô, tòa Thừa và tòa Hiến. Tòa Đô thì có chánh phó Đô-tổng-binh, coi về việc binh; tòa Thừa thì có Thừa-chính chánh-phó-sứ, coi về việc chính; tòa Hiến thì có Hiến-sát chánh-phó-sứ, coi về việc hình.

Lại đặt ra chức Giám sát-ngự-sử để đi xem xét công-việc ở các đạo cho khỏi sự nhũng-nhiễu.

Sau nhân có đất Quảng-nam mới lấy của Chiêm-thành lại đặt ra làm 13 xứ là Thanh-hóa, Nghệ-an, Sơn-nam (trước là Thiên-trường), Sơn-tây (trước là Quốc-oai), Kinh-bắc (trước là Bắc-giang), Hải-dương (trước là Nam- sách), Thái-nguyên, Tuyên-quang, Hưng-hóa, Lạng-sơn, An-bang, Thuận- hóa, Quảng-nam. Ở những xứ hiểm-yếu như Nghệ-an, Thuận-hóa, Tuyên- quang, Hưng-hóa, Thái-nguyên, Lạng-sơn, Quảng-nam đều đặt chức Thủ- ngự kinh-lược-sứ để phòng giữ. Trong 13 xứ ấy lại chia làm 52 phủ, 172 huyện và 50 châu. Còn ở dưới phủ huyện thì có hương, phường, xã, thôn, trang, sách, động, nguyên, trưởng cả thảy là 8.006.


2. Việc Thuế Lệ.

Bấy giờ thuế đinh mỗi người đồng niên đóng 8 tiền; còn thuế ruộng, thuế đất và thuế đất bãi trồng dâu thì cứ kể mẫu mà đóng thuế, mà thứ đất nào cũng chia ra làm ba hạng.

Việc làm sổ hộ, thì cứ 6 năm một kỳ, quan phủ huyện phải dẫn các xã-trưởng về Kinh để khai số hộ-khẩu ở các xã.


3. Việc Canh Nông.

Vua Thánh-tông lấy sự nông-tang làm trọng, cho nên ngài chú ý về việc ấy lắm. Thường thường ngài sắc cho phủ huyện phải hết sức khuyên bảo dân làm việc cày ruộng trồng dâu.

Đặt quan Hà-đê và quan Khuyến-nông để coi việc cày cấy trong nước. Bắt quan Hộ-bộ và quan Thừa-chính ở các xứ phải tâu cho ngài biết những đất bỏ hoang để bắt phủ huyện đốc dân phu khai-khẩn làm ruộng.

Lập ra cả thảy 42 sở đồn-điền, đặt quan để trông-nom sự khai-khẩn, khiến cho dân khỏi phải đói-khổ.


4. Nhà Tế Sinh.

Vua Thánh-tông lại lo đến các chứng bệnh làm hại dân. Ngài lập nhà Tế-sinh để nuôi những người đau-yếu, và khi nào ở đâu có dịch tễ thì sai quan đem thuốc đi chữa bệnh.


5. Việc Sửa Phong Tục. Dân ta bấy giờ sùng-tín đạo Phật, hay làm đình làm chùa. Những lễ hôn và lễ tang thì làm những điều trái với lẽ thường, như là nhà nào có tang-chế thì làm cỗ bàn ăn-uống, rồi bày ra các trò hát xướng, làm một cuộc vui chơi. Lễ hôn thì ăn lễ hỏi rồi, để ba bốn năm mới cho rước dâu về nhà chồng.

Thánh-tông cấm không cho làm chùa mới, để tiền của và công-phu mà làm việc có ích. Cấm những nhà có lễ tang không được bày cuộc hát xướng. Việc hôn thì khi đã nhận lễ hỏi rồi, phải chọn ngày cho rước dâu, và lệ cứ cưới rồi ngày hôm sau đi chào cha mẹ, ba ngày thì đi lễ từ đường.

Ngài lại đặt ra 24 điều, sức cho dân-xã thường thường giảng đọc để giữ lấy thói tốt :

1. Cha mẹ dạy con phải có phép-tắc, trai gái đều có nghề-nghiệp, không được rượu-chè cờ-bạc, tập nghề hát-xướng để hại phong-tục.

2. Người gia-trưởng tự mình phải giữ lễ-phép để cho cả nhà bắt-chước; nếu con em làm càn, thì bắt tội người gia trưởng.

3. Vợ chồng cần-kiệm làm ăn, ân-nghĩa trọn-vẹn, duy chỉ có khi nào người vợ phạm tội thất-xuất thì mới được bỏ, chứ không được khiên ái cẩu dung làm hại đến phong-hóa.

4. Làm kẻ tử-đệ nên yêu-mến anh em, hòa-thuận với hương-đảng, phải lấy lễ-nghĩa mà cư-xử; nếu trái phép thì người tôn-trưởng đánh-đập dạy-bảo, có tội to thì phải đem nộp quan để trừng-trị.

5. Ở chốn hương-đảng tông-tộc, có việc hoạn-nạn thì phải giúp-đỡ lẫn nhau; nếu ai có tiếng là người hạnh-nghĩa tốt, thì các quan phủ huyện sở tại phải bẩm lên tòa Thừa, tòa Hiến, để tâu vua mà tinh biểu cho.

6. Đàn-bà có lỗi mà cha mẹ và chồng đã trừng-trị thì nên phải sửa mình đổi lổi, không được tự-tiện trốn đi, làm hư mất nết đàn-bà.

7. Người đàn-bà góa không được chứa những đứa trai trẻ ở trong nhà, nói dối là con nuôi để ám hành những việc gian dâm.

8. Người đàn-bà góa chồng, đối với các con vợ cả, hoặc vợ lẽ, nàng hầu, nên có lòng thương-xót, không được mưu-mô để chiếm đoạt gia-tài làm của riêng mình.

9. Đàn-bà góa chồng, chưa có con-cái, phải ở nhà chồng để giữ đủ tang-lễ, không được chuyển-vận, của-cải mang về nhà mình.

10. Làm đàn-bà thì phải theo chồng, không được cậy cha mẹ mình phú-quí mà khinh nhà chồng, nếu không như thế thì bắt tội đến cha mẹ.

11. Kẻ sĩ-phu nên quí phẩm-hạnh và giữ phép quan, nếu cứ xu-nịnh những kẻ quyền quí để cậy thế làm càn thì phải cách bỏ đi không kể đến nữa.

12. Kẻ điển-lại chỉ việc giữ sổ-sách giấy-má để làm việc quan, nếu làm những sự điên-đảo án từ, thì quan trên sẽ xét ra mà trừng trị.

13. Quan dân đều phải hiếu-để, và chăm-chỉ làm ruộng, cùng giúp đỡ lẫn nhau; khi đi làm việc quan, không được trễ biếng, trốn-tránh. Nếu ai có tiếng là người lương-thiện thì các quan phủ huyện phải trình tòa Thừa, tòa Hiến để tâu mà tinh biểu cho.

14. Kẻ thương-mãi phải tùy thời giá mà buôn-bán với nhau, không được thay đổi thưng đấu, và tụ-tập đồ-đảng để đi trộm-cướp; nếu phạm điều ấy thì trị tội rất nặng.

15. Việc hôn-giá tế-tự phải giữ lễ-phép, không được làm càn.

16. Chỗ dân-gian có mở trường du-hí hoặc cúng-tế, thì con-trai con-gái đến xem, không được đứng lẫn lộn, để khỏi thói dâm.

17. Các hàng quán bên đường, có phụ-nữ đi xa đến trọ, thì phải phòng giữ. Nếu để hà-hiếp ô-nhục người ta, việc phát-giác ra, thì người phạm cùng với chủ nhà đều phải trị tội cả.

18. Phủ huyện phải lập bia ở các nơi sở-tại để cấm con-trai con-gái không được cùng tắm một bến, để cho có phân biệt.

19. Các xã-thôn phải chọn một vài người già-cả, đạo-đức làm trưởng, những ngày thong-thả đem dân ra đình, tuyên giảng những lời cáo dụ, để khiến dân bắt-chước làm điều thiện, thành ra mỹ tục.

20. Trong hạt phủ huyện có kẻ cường-hào xâm-chiếm điền-thổ, ức-hiếp cô- độc và xui-giục người ta kiện-tụng, thì cho xã-thôn cáo giác lên để quan xử- trị, nếu mà ẩn-nặc thì phải biếm-bãi.

21. Các nhà vương, công, đại-thần dung túng những đứa tiểu-nhân, đưa người khấn lễ, và để cho người nhà đi ức-hiếp dân-gian mà mua rẻ các đồ vật, thì cho dân được đầu cáo để trọng trị.

22. Những người làm quan phủ, huyện mà biết khuyên-bảo dân-gian làm điều lễ-nghĩa khiêm-nhượng, có quan Thừa-chính, Hiến-sát xét thực, thì được cho vào hạng tốt; nếu ai không chăm dạy-bảo dân thì cho là người không xứng chức.

23. Các người huynh-trưởng ở chốn xã-thôn và phường biết dạy bảo con em trong làng cho nên được phong-tục tốt, thì quan phủ huyện phải bẩm tòa Thừa, tòa Hiến để tâu vua ban khen cho.

24. Các dân mường-mán ở ngoài bờ-cõi, nên giữ lời di-huấn, không được trái đạo luân-thường như cha, anh, chú, bác đã chết thì con em không được chiếm lấy những thê-thiếp, nếu mà trái phép, thì sẽ trị tội rất nặng.


6. Địa Đồ Nước Nam.

Từ xưa đến nay nước Nam ta vẫn không có địa-đồ, Thái-tông bèn sai quan ở các đạo xem xét ở trong hạt mình có những núi sông gì, hiểm-trở thế nào phải vẽ địa-đồ ra cho rõ-ràng và chỗ nào tự cổ chí kim có những sự-tích gì phải ghi-chép vào cho tường-tận, rồi gửi về bộ Hộ để làm quyển địa-dư nước ta.


7. Đại Việt Sử Ký.

Thánh-tông sai Ngô sĩ Liên làm bộ Đại-Việt sử-ký chia ra làm 2 bản. Một bản kể từ Hồng-bàng-thị cho đến thập-nhị Sứ-quân có 5 quyển. Một bản kể từ Đinh Tiên-hoàng cho đến Lê Thái-tổ có 10 quyển. Cả thảy là 15 quyển.


8. Việc Văn Học.

Vua Thánh-tông định phép thi hương, sửa phép thi hội, để chọn lấy nhân-tài. Thường ngài ra làm chủ các kỳ thi đình, và ngài lập ra lệ xướng danh các Tiến-sĩ và lệ cho về vinh qui.

Ngài mở rộng nhà Thái-học ra. Phía trước thì làm nhà Văn-miếu, phía sau thì làm nhà Thái-học, và làm ra các phòng ốc để cho những kẻ sinh-viên ở học. Làm kho Bí-thư để mà chứa sách. Sự học bấy giờ càng ngày càng mở-mang thêm.

Ngài lại hay ngâm thi, đặt ra Quỳnh-uyển cửu-ca, xưng làm Tao-đàn nguyên-súy, cùng với kẻ triều-thần là bọn ông Thân nhân Trung, Đỗ Nhuận, cả thảy 28 người xướng họa với nhau. Non xanh nước biếc chỗ nào cũng có thơ của ngài.

Ngài sai ông Thân nhân Trung và ông Đỗ Nhuận làm bộ Thiên-nam dư-hạ-tập, 100 quyển nói về việc chính là hình-luật đời Hồng-đức. Ngài làm ra một quyển Thân-chinh ký-sự, kể việc ngài đi đánh Chiêm-thành, Lão-qua và các mường.


9. Việc Võ Bị.

Tuy rằng vua Thánh-tông hết lòng sửa-sang mọi việc trong nước, nhưng ngài cũng hiểu rằng phàm một nước mà cường-thịnh thì tất là phải có võ-bị, cho nên ngài bắt các quan tổng-binh phải chăm giảng-tập trận-đồ, phải luyện-tập sĩ-tốt để phòng khi có việc.

Ngài đổi năm Vệ-quân ra làm năm phủ là : Trung-quân phủ, Nam quân-phủ, Bắc-quân phủ, Đông-quân phủ và Tây-quân phủ. Mỗi một phủ thì có 6 vệ, mỗi vệ có 5 hay là 6 sở, mỗi sở có số quân độ 400 người. Quân cả 5 phủ ước chừng 6, 7 vạn người. Ngài lại đặt ra 31 điều quân lệnh để tập thủy trận; 42 điều để tập bộ trận.

Lại đặt ra lệ cứ ba năm một kỳ thi võ. Tướng-sĩ ai đậu thì thưởng, ai hỏng thì phạt, để khiến mọi người đều vui lòng về việc võ-bị.

Đời vua Thánh-tông mấy năm về trước cũng được yên ổn, nhưng mấy năm về sau thì phải chinh-chiến nhiều lần. Khi thì phải đánh giặc Lào, khi thì đánh những giặc cỏ ở trong nước; nhưng chỉ có đánh Chiêm-thành, đánh Lão-qua và đánh Bồn-man là phải dùng đến đại-binh.


10. Đánh Chiêm Thành.

Năm canh-thìn (1470) là năm Hồng-đức nguyên-niên, vua nước Chiêm-thành là Trà Toàn muốn sinh sự với nước Nam. Một mặt thì cho người sang cầu viện-binh bên nhà Minh, một mặt thì đem quân sang đánh phá ở đất Hóa-châu.

Vua Thánh-tông cho sứ sang Tàu kể chuyện Trà Toàn làm nhiễu, rồi ngài tự làm tướng, cử đại-binh hơn 20 vạn sang đánh Chiêm-thành; khi quân vào đến Thuận-hóa, Thánh-tông đóng quân lại để luyện-tập và sai người lẻn sang vẽ địa-đồ nước Chiêm-thành để biết cho rõ chỗ hiểm chỗ không rồi mới tiến binh lên đánh lấy cửa Thị-nại (cửa Bình-định).

Trà Toàn đánh thua, rút quân về giữ kinh-thành Đồ-bàn. Quân An- Nam kéo đến vây đánh, phá được thành, bắt được Trà Toàn.

Bấy giờ có tướng Chiêm-thành là Bô trì Trì chạy về đất Phan-lung, sai sứ vào cống và xin xưng thần. Thánh-tông có ý muốn làm cho nước Chiêm yếu thế đi, mới chia đất ra làm ba nước, phong làm ba vua, một nước gọi là Chiêm-thành, một là Hóa-anh và một nước nữa là Nam-phan.

Còn đất Đồ-bàn, đất Đại-chiêm và đất Cổ-lũy thì vua Thánh-tông lấy để lập thêm đạo Quảng-nam, có 3 phủ, 9 huyện, rồi đặt quan cai-trị, và chọn dân đinh từ 15 tuổi trở lên, ai là người thông-minh ham học thì cho làm sinh-đồ, để dạy cho sự học-hành và sự lễ-nghĩa.

Khi Trà Toàn đã phải bắt rồi, em là Trà Toại trốn vào núi, sai người sang kêu với nhà Minh và xin phong làm vua. Thánh-tông biết tin ấy liền sai ông Lê Niệm đem 3 vạn quân vào bắt được Trà Toại giải về kinh-sư. Sau vua nhà Minh có sai sứ sang bảo ngài phải trả đất Chiêm-thành, nhưng ngài không chịu.

Từ khi vua Thánh-tông đánh được Chiêm-thành rồi, thanh-thế nước Nam lừng-lẫy, nước Lào và các mường ở phía tây đều về triều cống cả.


11. Đánh Lão Qua.

Đến năm kỷ-hợi (1479) có tù-trưởng xứ Bồn-man là Cầm Công có ý làm phản, xui người Lão-qua (95) đem binh quấy- nhiễu ở miền tây nước ta. Thánh-tông liền sai quan Thái-úy là Lê thọ Vực

----------------------------------------------------
95 Lão-qua, là đất thượng Lào ở về phía tây Bắc-Việt bây giờ tức là Luang-Prabang. Có khi gọi là nước Nam-chướng.
----------------------------------------------------


cùng với các tướng quân là Trịnh công Lộ, Lê đình Ngạn, Lê Lộng và Lê nhân Hiếu chia làm 5 đạo đi từ Nghệ-an, Thanh-hóa và Hưng-hóa sang đánh đuổi vua Lão-qua đến sông Kim-sa (96) giáp với nước Diến-điện. Trận ấy quân An- nam được toàn thắng.


12. Đánh Bồn Man.

Gây nên sự đánh Lão-qua là cũng vì họ Cầm ở Bồn-man muốn làm điều phản-nghịch.

Nguyên đất Bồn-man trước đã xin nội thuộc, đổi làm châu Qui-hợp, nhưng vẫn để cho tù-trưởng là họ Cầm được đời đời làm Phụ-đạo. Sau đổi làm Trấn-ninh phủ, có 7 huyện, và đặt quan phủ huyện để giám-trị. Nay Cầm Công cậy có người Lão-qua giúp-đỡ, bèn đuổi quân An-nam đi, chiếm lấy đất, rồi đem quân chống giữ với quan quân.

Thánh-tông bèn ngự giá thân-chinh, nhưng đi đến Phù-liệt, được tin thắng trận của quân ta sang đánh Lão-qua, ngài trở về, sai ông Lê Niệm đem binh đi đánh. Cầm Công đánh thua chết, còn những người Bồn-man xin hàng.

Thánh-tông phong cho người họ Cầm Công là Cầm Đông làm Tuyên- úy-đại-sứ và đặt quan cai-trị như trước.


13. Việc Giao Thiệp Với Tàu.

Nước ta bấy giờ tuy phải theo lệ xưng thần với nhà Minh, nhưng vua Thánh-tông vẫn hết lòng phòng- bị mặt bắc. Thỉnh-thoảng có những người thổ-dân sang quấy-nhiễu, thì lập tức cho quan quân lên tiễu-trừ và cho sứ sang Tàu để phân-giải mọi sự cho minh-bạch. Có một hôm được tin rằng người nhà Minh đem binh đi qua địa-giới, Thánh-tông liền cho người lên do-thám thực hư. Ngài bảo với triều-thần rằng : "Ta phải giữ-gìn cho cẩn-thận, đừng để cho ai lấy mất một phân núi, một tấc sông của vua Thái-tổ để lại."

Ngài có lòng vì nước như thế, cho nên dẫu nước Tàu có ý muốn dòm-ngó cũng không dám làm gì. Vả lại quân An-nam bấy giờ đi đánh Lào, dẹp Chiêm, thanh-thế bao nhiêu, nhà Minh cũng phải lấy lễ-nghĩa mà đãi An-nam, cho nên sự giao-thiệp của hai nước vẫn được hòa-bình.

Xem những công việc của vua Thánh-tông thì ngài thật là một đấng anh-quân. Những sự văn-trị và sự võ-công ở nước Nam ta không có đời nào thịnh hơn là đời Hồng-đức. Nhờ có vua Thái-tổ thì giang-sơn nước Nam mới

----------------------------------------------------
96 Theo địa-dư nước Tàu, thì Kim-sa-giang là khúc trên sông Trường-giang. Sông ấy chảy ở phía bắc qua tỉnh Tây-khương và Tứ-xuyên. Đây có lẽ là nhà chép sử lẫn với khúc sông Lan-thương- giang là khúc trên Cửu-long-giang còn, và nhờ có vua Thánh-tông thì văn-hóa nước ta mới thịnh, vậy nên người An-nam ta không bao giờ quên công đức hai ông vua ấy.
----------------------------------------------------


Thánh-tông làm vua được 38 năm thọ được 56 tuổi.


V. Lê Hiến Tông (1497 - 1504) Niên-hiệu: Cảnh Thống


Thái-tử là Tăng lên nối ngôi làm vua, tức là vua Hiến-tông.

Ngài là một ông vua thông-minh hòa-hậu. Thường khi bãi triều rồi, ngài ra ngồi nói chuyện với các quan, hễ ai có điều gì trái phải, ngài lấy lời êm-ái mà nhủ-bảo, chứ không gắt mắng bao giờ. Ngài vẫn hay nói rằng : "Vua Thái-tổ đã gây-dựng cơ-đồ, vua Thánh-tông đã sửa-sang mọi việc, ta nay chỉ nên lo gìn-giữ nếp cũ, và mở-mang sự nhân-chính ra cho sáng rõ công-đức của ông cha trước."

Ngài theo cái chủ-ý ấy mà trị dân, cho nên trong mấy năm ngài làm vua không có giặc-giã gì, mà những việc chính-trị đều theo như đời Hồng-đức, chứ không thay-đổi gì cả. Nhất là về việc cày ruộng trồng dâu, ngài lưu tâm khuyên-nhủ quan dân, khiến mọi người phải hết sức giữ-gìn, bắt đào sông, khai ngòi, đắp đường, làm xe nước, để cho tiện việc vệ nông. Việc văn-học cũng vậy, không bao giờ ngài để trể-nải. Nhưng ngài trị-vì được có 7 năm thì mất, thọ được 44 tuổi.


VI. Lê Túc Tông (1504) và Lê Uy Mục (1505 - 1509)

Niên-hiệu: Thái Trinh và Đoan Khánh


Hiến-tông mất, truyền ngôi lại cho người con thứ ba tên là Thuần, tức là vua Túc-tông.

Túc-tông làm vua được 6 tháng thì mất. Triều-đình tôn người anh thứ hai của ngài là Tuấn lên làm vua, tức là vua Uy-mục.

Từ vua Uy-mục trở đi thì cơ-nghiệp nhà Lê mỗi ngày một suy dần, vì rằng từ đó về sau không có ông vua nào làm được việc nhân-chính, và lại thường hay say-đắm tửu sắc, làm những điều tàn-ác, cho nên thành ra sự giặc-giã, thoán-doạt, đến nỗi về sau dẫu có trung-hưng lên được, nhưng quyền chính-trị vẫn về tay kẻ cường-thần.

Vua Uy-mục mới lên làm vua thì giết tổ-mẫu là bà Thái-hoàng Thái-hậu, giết quan Lễ-bộ Thượng-thư là ông Đàm văn Lễ và quan Đô-ngự-sử là ông Nguyễn quang Bật, vì lẽ rằng khi vua Hiến-tông mất, bà Thái-hậu và hai ông ấy có ý không chịu lập ngài.

Đã làm điều bạo-ngược, lại say đắm tửu-sắc; đêm nào cũng cùng với cung-nhân uống rượu, rồi đến khi say thì giết đi. Có khi bắt quân sĩ lấy gậy đánh nhau để làm trò chơi. Tính đã hung-ác, mà lại hay phản-trắc. Cho nên sứ Tàu sang làm thơ gọi Uy-mục là Quỷ-vương.

Bấy giờ Uy-mục lại hay tin dùng mấy kẻ ngoại-thích và tìm những người có sức mạnh để làm túc-vệ. Bởi thế cho nên Mạc đăng Dung là người đánh cá vào thi đỗ đô-lực-sĩ, được làm chức Đô-chỉ-huy-sứ. Còn những tôn- thất và công-thần thì bị đánh-đuổi, dân sự thì bị hà-hiếp, lòng người ta-oán, thiên-hạ mất cả trông-cậy, triều-thần có nhiều người bỏ quan trốn đi.

Tháng chạp năm kỷ-tị (1509) có Giản-tu-công tên là Oanh cháu vua Thánh-tông, là anh em con chú con bác với ngài, bị bắt giam. Ông đút tiền cho người canh ngục mới được ra, trốn về Tây-đô, rồi hội với các quan cựu-thần đem binh ra đánh bắt vua Uy-mục và Hoàng-hậu Trần-thị giết đi.


VII. Lê Tương Dực (1510 - 1516)

Niên-hiệu: Hồng Thuận

Giản-tu-công giết vua Uy-mục rồi tự lập làm vua, tức là vua Tương- dực.

Vua Tương-dực tính hay chơi-bời và xa-xỉ, như là sai người thợ tên là Vũ như Tô làm cái điện 100 nóc, xây cái Cửu-trùng-đài, bắt quân dân làm trong mấy năm trời không xong, mà thật là hao-tổn tiền-của, chết hại nhiều người. Rồi lại đóng chiến-thuyền bắt đàn-bà chèo chơi ở hồ Tây. Lại tư-thông cả với những cung-nhân đời tiền triều. Vì hoang dâm như thế cho nên sứ nhà Minh sang trông thấy ngài, bảo rằng ngài là tướng lợn, sự loạn-vong chắc là sắp tới vậy.


1. Việc Thuế Má.

Việc thuế-má lúc bấy giờ thì đại-khái cũng như mấy triều trước, nhưng không biết rõ tiền-tài sản-vật đồng-niên thu được những gì. Đến đời vua Tương-dực thấy sử chép rằng trước thì thuế vàng thuế bạc đồng niên thu được:

Vàng mười, thứ tốt gọi là "kiêm-kim".. 480 lượng

Vàng mười 2.883 lượng

Bạc 4.930 lượng

Nay vua Tương-dực định lệ đổi lại mỗi năm thu được:

Vàng mười thứ "kiêm-kim" 449 lượng

Vàng mười 2.901 lượng

Bạc 6.125 lượng

Những vàng bạc ấy là nộp vào kho để chi vua tiêu-dùng. Còn cách thu-nộp thế nào thì không rõ.


2. Đại Việt Thông Giám.

Đời bấy giờ có quan Binh-bộ Thượng-thư là ông Vũ Quỳnh làm xong bộ Đại-Việt thông-giám; chia ra từ họ Hồng-Bàng cho đến thập-nhị Sứ-quân làm ngoại-kỷ, còn từ Đinh Tiên- hoàng đến Lê Thái-tổ làm bản-kỷ, cả thảy là 26 quyển. Vua sai ông Lê Tung soạn bài tổng-luận về bộ sử ấy.


3. Sự Biến Loạn.

Thời bấy giờ vua thì hoang chơi, triều-thần thì tuy là có bọn ông Nguyễn văn Lang, ông Lê Tung, ông Lương đắc Bằng, v.v... nhưng người thì già chết, người thì xin thôi quan về. Vả cũng không có ai là người có thể ngăn giữ được vua và kinh-doanh được việc nước, cho nên trong nước giặc-giã nổi lên khắp cả mọi nơi. ở đất Kinh-bắc thì có Thân duy Nhạc, Ngô văn Tổng, làm loạn ở huyện Đông-ngạn và huyện Gia-lâm; đất Sơn-tây thì có Trần Tuân đánh phá. Lại có tên Phùng Chương làm giặc ở núi Tam-đảo; Trần công Ninh chống giữ ở huyện An-lãng. Đất Nghệ-an thì có Lê Hy, Trịnh Hưng, Lê văn Triệt làm phản. Lại ở huyện Thủy-đường (Hải- dương) có Trần Cao thấy sấm nói rằng ở phương đông có thiên-tử khí,

bèn cùng với đồ-đảng đánh lấy đất Hải-dương, Thủy-đường, Đông-triều, rồi tự xưng là vua Đế-thích giáng sinh, bởi thế thiên-hạ theo có hàng vạn người.

Trần Cao đem quân về đóng ở đất Bồ-đề, bên kia sông Nhị-hà, chực sang lấy Kinh-đô. Sau quan quân sang đánh, Trần Cao lui về đóng ở Châu- sơn, thuộc phủ Từ-sơn. Vua sai An-hòa-hầu là Nguyễn hoằng Dụ sang đóng quân ở Bồ-đề để chống giữ.

Tuy trong nước giặc cướp như thế, nhưng vua cũng không chịu sửa- sang việc gì cả, lại khinh-dể các quan triều-thần. Bấy giờ có Nguyên-quận- công là Trịnh duy Sản, trước vẫn có công đi đánh giặc, nhưng sau vì hay can vua mà phải đánh. Trịnh duy Sản tức giận bèn mưu với Lê quảng Độ và Trình chí Sâm để lập vua khác, rồi giả mượn tiếng đi đánh giặc, đêm đem binh vào cửa Bắc-thần giết vua Tương-dực.


Ngài trị-vì được 8 năm, thọ được 24 tuổi.


VIII. Lê Chiêu Tông và Lê Cung Hoàng (1516 - 1527)

Niên-hiệu: Quang Thiệu (1516 - 1526) Thống Nguyên (1527)

Bọn Trịnh duy Sản giết vua Tương-dực rồi, hội triều-đình lại định lập con Mục-ý-vương là Quang Trị, mới có 8 tuổi, nhưng Võ-tá-hầu là Phùng Mại bàn nên lập cháu ba đời vua Thánh-tông là con Cẩm-giang-vương tên là Y, đã 14 tuổi. Đảng Trịnh duy Sản bắt Phùng Mại chém ngay ở chỗ nghị-sự, rồi lập Quang Trị. Quang Trị mới làm vua được ba ngày, chưa kịp đổi niên-hiệu thì bị Trịnh duy Đại là anh Trịnh duy Sản đem vào Tây-kinh. Quang Trị vào đấy được mấy ngày lại bị giết.

Lúc trong triều còn đang rối loạn, chưa biết ai là vua thì Nguyễn hoằng Dụ ở bến Bồ-đề được tin Trịnh duy Sản đã giết vua Tương-dực, bèn đem quân về đốt phá Kinh-thành và bắt Vũ như Tô, là người đốc việc làm đền-đài cho vua Tương-dực, đem chém ở ngoài thành.

Bọn Trịnh duy Sản lại lập con Cẩm-giang-vương là Y lên làm vua, tức là vua Chiêu-tông.

Nhưng bây giờ Kinh-thành đã bị tàn-phá rồi, Trịnh duy Sản phải rước vua vào Tây-kinh.


1. Giặc Trần Cao Quấy Nhiễu ở Đông Đô.

Giặc Trần Cao thấy Triều-đình đã bỏ kinh-đô, bèn đem quân sang chiếm lấy, rồi tiếm hiệu làm vua.

Triều-đình vào đến Tây-kinh, truyền hịch đi các nơi lấy binh ra đánh Trần Cao.

Trịnh duy Sản, Nguyễn hoằng Dụ, Trịnh Tuy, Trần Chân và các quan cựu thần phân binh ra vây Đông-kinh. Trần Cao phải bỏ thành chạy lên đất Lạng-nguyên (có lẽ là Lạng-sơn).

Triều-đình lại về Đông-kinh, rồi sai Trịnh duy Sản lên Lạng-nguyên đuổi đánh Trần Cao. Trịnh duy Sản khinh địch quá, bị giặc giết mất. Quan giặc lại về đóng ở Bồ-đề. Vua sai Thiết-sơn-bá là Trần Chân đem quân đánh tập hậu, phá được quân của giặc.

Trần Cao lại chạy về Lạng-nguyên, và thấy sự-nghiệp không thành, bèn nhường quyền lại cho con là Thăng rồi cắt tóc đi tu để trốn cho khỏi nạn.


2. Quan Trong Triều Làm Loạn.

Tuy giặc Trần Cao đã phá được, nhưng mà lúc bấy giờ vua Chiêu-tông hãy còn trẻ tuổi, chưa quyết-đoán được, mà Triều-thần thì không có ai là người có chí giúp nước, đến nỗi ngoài thì giặc làm loạn, trong thì các quan sinh ra hiềm-thù, đem quân đánh lẫn nhau, như là Nguyễn hoằng Dụ và Trịnh Tuy, hai người đi đánh giặc về rồi mỗi người đóng quân một nơi để chống-cự với nhau, vua can ngăn cũng không được. Ở trong triều thì bọn Trịnh duy Đại mưu sự làm phản, bị người tố cáo ra, phải giết cả đảng.

Bọn Nguyễn hoằng Dụ và Trịnh Tuy cứ đánh nhau mãi, sau Trần Chân bênh Trịnh Tuy đem quân đánh Nguyễn hoằng Dụ. Nguyễn hoằng Dụ bỏ chạy về giữ Thanh-hóa.

Vua sai bọn Mạc đăng Dung đi đánh Nguyễn hoằng Dụ. Nhưng Đăng Dung tiếp được thư của Hoằng Dụ viết riêng cho mình, bèn không đánh, đem quân trở về.

Bấy giờ quyền-bính về cả Trần Chân và lại có người nói rằng Trần Chân có ý làm phản, vua bèn cho người vời Trần Chân vào thành rồi đóng cửa thành lại, bắt giết đi.

Bộ tướng của Trần Chân là bọn Hoàng duy Nhạc, Nguyễn Kính, Nguyễn Áng nghe tin Trần Chân phải giết, bèn đem quân vào đánh phá kinh-thành. Vua phải chạy sang lánh mình ở đất Gia-lâm, rồi cho người vào Thanh-hóa vời Nguyễn hoằng Dụ ra đánh giặc. Nguyễn hoằng Dụ không ra.

Chiêu-tông không biết mong cậy vào ai được, phải cho người sang Hải-dương vời Mạc Đăng Dung về giúp. Mối thoán-đoạt gây nên từ đó.

Nguyên Mạc đăng Dung là cháu 7 đời ông Mạc đĩnh Chi, ngày trước vốn ở làng Đông-cao, huyện Bình-hà (thuộc Hải-dương), sau dời sang ở làng Cổ-chai (thuộc huyện Nghi-dương, tỉnh Kiến-an bây giờ). Mạc đăng Dung thủa trẻ nhà nghèo, làm nghề đánh cá, nhưng có sức mạnh, thi đỗ Đô-lực-sĩ, làm đến Đô-chỉ-huy-sứ về triều vua Uy-mục; đến triều vua Tương-dực được phong là Vũ-xuyên-hầu.

Nay vua Chiêu-tông gọi sang, nhất thiết trao cả binh quyền để đánh giặc Hoàng duy Nhạc.

Mạc đăng Dung đem vua về ở Bồ-đề rồi cho người mật dụ bọn Nguyễn Kính, Nguyễn Áng về hàng. Bọn ấy nói rằng Trần Chân bị giết là tại Chử Khải, Trịnh Hựu, Ngô Bính gièm-pha. Nếu nhà vua làm tội ba người ấy thì xin về hàng.

Vua bắt ba người đem giết đi, nhưng bọn tên Kính tên Áng vẫn không giải binh. Mạc đăng Dung lại dời vua về Bảo-châu (thuộc huyện Từ- liêm). Thế giặc vẫn mạnh, rồi lại có Trịnh Tuy và Nguyễn Sư làm phản, thông với bọn tên Kính lập Lê Do lên làm vua, đóng hành-điện ở Từ-liêm.

Vua lại phải cho người vào gọi Nguyễn hoằng Dụ lần nữa. Nguyễn hoằng Dụ đem binh Thanh-hóa ra để cùng với Mạc đăng Dung đi đánh giặc. Nhưng Hoằng Dụ xuất binh đánh trước, bại trận, phải rút quân về Thanh.

Được ít lâu Mạc đăng Dung trừ được bọn Lê Do, Trịnh Tuy và Nguyễn Sư, rồi lại hàng được bọn Hoàng duy Nhạc, Nguyễn Kính, Nguyễn Áng đem về làm vây-cánh của mình. Từ đó quyền bính về cả Đăng Dung.


3. Mạc Đăng Dung Chuyên Quyền.

Mạc đăng Dung bây giờ quyền-thế hống-hách, ra vào cung cấm tiếm dụng nghi-vệ thiên-tử. Các quan ai có vì nhà vua mà can-gián điều gì, thì Đăng Dung tìm cách giết đi. Các quan triều-thần có nhiều người thấy quyền lớn về cả họ Mạc, cũng bỏ vua mà theo phò Mạc đăng Dung.

Vua Chiêu-tông thấy vậy, mới mưu ngầm với bọn nội thần là Phạm Hiến và Phạm Thứ để đánh Mạc đăng Dung, lại cho người vào Tây-kinh vời Trịnh Tuy đem binh ra làm ngoại ứng. Đêm đến canh hai vua chạy lên Sơn-tây để thu-xếp binh-mã đánh họ Mạc.

Sáng hôm sau Mạc đăng Dung mới biết vua xuất ngoại, liền sai Hoàng duy Nhạc đem quân đuổi theo, đến Thạch-thất, Duy Nhạc bị quân sở-tại bắt được giết đi.

Mạc đăng Dung cùng với các quan ở trong triều lập Hoàng-đệ là Xuân lên làm vua, tức là Cung-hoàng, đổi niên-hiệu là Thống-nguyên. Nhưng ở kinh-thành sợ vua Chiêu-tông viện quân về đánh, cho nên Mạc đăng Dung rước Hoàng-đệ Xuân về ở đất Gia-phúc, nay là Gia-lộc thuộc tỉnh Hải-dương.

Khi vua Chiêu-tông chạy lên Sơn-tây, những người hào-kiệt ở các nơi theo về cũng nhiều, nhưng vì vua nghe lời những kẻ hoạn-quan là bọn Phạm Điền, không theo lời bàn của các tướng, cho nên lòng người ly-tán, mọi việc hỏng cả. Vua cho người vào Thanh-hóa vời Trịnh Tuy ba bốn lần, Trịnh Tuy do-dự mãi không ra. Sau Trịnh Tuy cùng với Trịnh duy Tuấn đem hơn một vạn quân ra giúp, thì vua lại nghe lời bọn Phạm Điền bắt Nguyễn bá Kỷ là thuộc tướng của Trịnh Tuy đem giết đi. Trịnh Tuy tức giận đem quân bắt vua Chiêu-tông về Thanh-hóa.

Năm giáp-thân (1524) Mạc đăng Dung đem quân vào đánh Thanh- hóa, Trịnh Tuy thua trận rồi chết, vua Chiêu-tông bị bắt đem về để ở Đông- hà (thuộc huyện Thọ-xương), rồi cho người đến giết đi.

Vua Chiêu-tông làm vua được 11 năm, thọ 26 tuổi.

Cách hai năm sau là năm đinh-hợi (1527), Mạc đăng Dung bắt các quan nhà Lê thảo bài chiếu truyền ngôi cho nhà Mạc.

Cung-hoàng và bà Hoàng-thái-hậu đều bị giết cả. Bấy giờ triều-thần có Vũ Duệ, Ngô Hoán, quan Đô-ngự-sử là Nguyễn văn Vận, quan Hàn-lâm hiệu-lý là Nguyễn thái Bạt, quan Lễ-bộ thượng-thư là Lê tuấn Mậu, quan Lại- bộ thượng-thư là Đàm thận Huy, quan Tham-chính-sứ là Nguyễn duy Tường, quan Quan-sát-sứ là Nguyễn tự Cường, tước Bình-hồ-bá là Nghiêm bá Ký, quan Đô-ngự-sử là Lại kim Bảng, quan Hộ-bộ thượng-thư là Nguyễn thiệu Tri, quan Phó Đô-ngự-sử là Nguyễn hữu Nghiêm, quan Lễ-bộ tả Thị-Lang là Lê vô Cương đều là người khoa-giáp cả, người thì nhổ vào mặt Mạc đăng Dung hay là lấy nghiên mực đập vào mặt, hay chửi mắng, bị Đăng Dung giết đi. Có người thì theo vua không kịp, nhảy xuống sông mà chết, người thì quay đầu về Lam-sơn lạy rồi tự-tử. Những người ấy đều là người có nghĩa-khí để tiếng thơm về sau.

Nhà Lê, kể từ vua Thái-tổ cho đến vua Cung-hoàng vừa một trăm năm (1428-1527), được 10 ông vua. Nhưng trong bấy nhiêu ông, trừ vua Thái-tổ ra, thì chỉ có vua Thánh-tông và vua Hiến-tông là đã lớn tuổi mới lên ngôi, còn thì ông nào lên làm vua cũng còn trẻ tuổi cả. Vì thế cho nên việc triều-chính mỗi ngày một suy-kém, lại có những ông vua hoang-dâm, làm lắm điều tàn-bạo để đến nổi trong nước xảy ra nhiều sự biến loạn.

Vậy vận nhà Lê phải lúc trung-suy, nhưng công-đức vua Thái-tổ và vua Thánh-tông làm cho lòng người không quên nhà Lê, cho nên dầu nhà Mạc có cướp ngôi cũng không được lâu bền, và về sau họ Trịnh tuy có chuyên-quyền nhưng cũng chỉ giữ ngôi chúa, chứ không dám cướp ngôi vua.
^o^Nụ cười của em đã khiến bối rối tim này..-_-
--_..Anh biết đã yêu em rồi..__

SEO ngành nghề, cỏ nhân tạo, chuyên sửa máy rửa bát tại hà nội, tình yêu độ xe Mercedes, chuyên sửa chữa tivi tại nhà ở Hà Nội, đặt hàng tượng phật đồ thờ tâm linh làng nghề Sơn Đồng | Điện lạnh Bách Khoa Hà Nội