Khu Phố Văn Hoá => Văn xuôi => Topic started by: RickkyMartin on 28/09/06, 23:12 Return to Full Version

Title: TUỔI THƠ DỮ DỘI {Phùng Quán}
Post by: RickkyMartin on 28/09/06, 23:12

PHẦN THỨ NHẤT
Trừ giặc, ba tuổi vẫn còn hiềm là muộn
Cao Bá Quát

1
Một tuần trước ngày Huế nổ súng kháng chiến, dân trong thành phố được lệnh tản cư hết về các vùng quê. Nhưng qua mấy ngày đầu đánh nhau, tin tức thắng lợi từ Mặt trận đưa về dồn dập. Tin thắng lợi một đồn mười, mười đồn trăm, nên đồng bào chắc mẩm tụi Tây sắp đầu hàng đến nơi rồi. Do đó, không ai bảo ai, mon men kéo dần về phía thành phố. Họ nóng lòng sốt ruột được mau mau trở về dọn dẹp lại nhà cửa, phố xá, trở về với công việc làm ăn thường ngày.
Cuối cùng họ tụ tập lại đông đúc phía bên này cầu Bao Vinh. Bên kia cầu thuộc khu vực mặt trận A, ai muốn sang phải có giấy phép của Ban chỉ huy Mặt trận cấp.
Như đã thành lệ, tờ mờ sáng là đồng bào túa hết ra đường, kéo đến đứng chen chúc ở đầu cầu, chờ nghe tin tức thắng lợi của Mặt trận đêm qua. Họ chen lấn, ùn ùn mỗi lúc một sát đến chỗ bậc đá bước lên cầu. Nếu không có anh Vệ Quốc Quân cầm ngang khẩu súng trường dài như cây sào chăn vịt đứng gác ngay trước mặt, chắc cả khối người chen chúc này đã tràn qua bên kia cầu như nước vỡ bờ.
Đồng bào nhao nhao hỏi anh lính gác:
-Đêm qua quân ta mần ăn có khá không anh?
-Nện tụi Tây ở vị trí mô mà súng, lựu đạn nổ như rang bắp cả đêm rứa?
-Liệu tụi hắn sắp sửa "hô-lê-manh" chưa, cho bà con về dọn dẹp nhà cửa, phố xá?
Bị bà con hỏi tối tăm mặt mũi, anh lính gác chỉ còn biết nhăn nhó đề nghị:
-Xin bà con đứng xê xê ra cho tôi một chút! Đứng sát vô tui ri còn biết gác xách làm răng?
Sáng hôm đó, từ trong đám đông chen chúc ồn ào ấy, có thằng bé lợi dụng đúng lúc anh lính gác còn mải nhăn nhó đề nghị với đồng bào, luồn ra sau lưng anh và chạy tót sang bên kia cầu. Anh chưa kịp quát gọi lại, nó đã mất vào dãy phố kê đầu cầu bên kia.
Không thể bỏ trống chỗ gác để đuổii theo, anh chỉ còn biết dậm chân dậm cẳng, làu bàu bực tức:
-Con cái nhà ai mà nghịch hơn quỉ!
Có mấy đứa bán kẹo gừng, đậu phộng rang cũng lấp lőm định bắt chước chú bé vừa rồi, nhưng anh lính gác đã nhanh tay tóm cổ áo lôi lại hết.
Một thằng bán kẹo gừng, mắt lác thiên lác địa, trề môi nói với đứa bạn vừa bị tóm cổ lôi lại:
-Tụi bay không bắt chước nổi thằng ni mô! Hắn lanh hơn chuột nhắt. Chơi trốn tìm, ù mọi, thả đỉa ba ba... với hắn chỉ có thua. Đừng hòng mà sờ được vào ngừơi hắn.
-Răng mi biết?
-Tao chơi mãi với hắn còn lạ chi.
-Hắn khoe từ hôm nổ súng, hắn đã tót được qua khu vực Mặt trận ba, bốn lần.- Chú bé bán đậu phụng rang nói chen vào.
Hắn lọt qua bên đó làm chi?
-Coi chơi!
-Hắn có kể chuyện chi hay không?
-Khối! Nhưng thú nhất là sáng mô hắn cũng gặp một toán Vệ Quốc Đoàn mà chỉ nhỏ bằng tụi ta thôi, nhiều đứa còn nhỏ hon. Toán ni chạy dọc theo bờ sông, tập quân sự một hai, tập ném lựu đạn, bắn súng...vui ghê lắm. Hắn đứng coi mà thčm rệu cả nuớc miếng!
-Vệ Quốc Đoàn mà chỉ nhỏ bằng tụi ta thì đánh tây răng được? Hay là hắn nói láo?
-Răng không đánh được? - Thằng bán đậu phụng rang vênh mặt lên nói. - Chánh phủ cứ thử lấy tau vô Vệ Quốc Đoàn coi, có chết cha tụi Tây không?
Thằng bán kẹo gừng mắt lác cười ngạo:
-Lấy mi vô Vệ Quốc Đoàn thì thà lấy tau còn hơn! Tau chẳng cần súng đạn gì hết - Nó rút trong túi quần ra một cái súng cao su, kéo căng hai sợi chun. - Có cái ni, tau nhắm trúng mắt tụi Tây, tụii Vê-giê* tau nẻ. Cha con hắn tha hồ mà mù.

--------------------------------------------------------------------------------------
*Việt gian
---------------------------------------------------------------------------------------

*
* *
Toán "Vệ Quốc Đoàn con nít" lúc này đang nối nhau thành hàng một, rầm rập lên phía cầu Đông Ba cũ.
Chạy dẫn đầu là anh Vệ Quỗc Quân chỉ huy. Anh trạc hai ba, hai bốn tuổi, dáng người tầm thước, vai rộng ngực nở, tóc búi kiểu móng lừa, cổ đeo lủng lẳng chiếc còi mạ kền sáng loáng. Sáng hôm đó trời lạnh cắt ruột, anh chỉ mặc độc chiếc may ô trắng và quần đùi xanh ống bó sát đùi.
Còn toán trẻ ăn mặc tạp nham. Quá nửa mặc áo quần Vệ Quốc Đoàn sửa ngắn lại. Nhiều đứa bơi trong những chiếc áo trấn thủ rộng nhu áo thụng tế. Có đến hơn chục đứa nai nịt "xanh-tuya-rông" da, có khoá đồng to tướng và đeo cả bao đạn. Có trời biết được trong những cái bao đạn sứt sẹo, méo mó ấy, chúng ních nhét những gì!
Dãy phố ven đường cửa đóng then cài kín mít. Đồng bào khu vực này đã tản cư hết từ đêm đầu kháng chiến. Hàng chục con chó lạc mất chủ, họp thành đàn chạy loăng quăng trên đường, tranh nhau ngửi bới các đống rác kiếm ăn. Con nào con ấy hai hông lép kẹp, xương sườn nhô cao như vừa nuốt hàng chục chiếc cạp rổ vào bụng.
Khi toán trẻ rầm rập chạy qua, lũ chó sợ hãi, tán toạn. Chúng chuồn hết vào các hẻm phố, chő mőm ra sủa váng. Bọn trẻ dậm chân, vỗ đùi, doạ lại lũ chó.
Con đường ồn ào hẳn lên trong chốc lát.
Lên đến cầu Đông Ba cũ, anh chỉ huy thổi một hồi còi dài lảnh lói. Toán trẻ dừng lại. Nhiều đứa nghịch ngợm vờ mất đà đâm chúi vào lưng đứa chạy trước...
-Tập hợp ba hàng dọc! - Anh chỉ huy quay lại dőng dạc hô.
Toán trẻ lập tức trở lại trật tự. Loáng một cái chúng đã sắp thành đội hình ba hàng dọc, với tư thế rất nghiêm chỉnh.
-Điểm số!
Đáp lại tiếng hô anh chỉ huy, những đứa dừng ở hàng dọc bên trái, nối tiếp nhau đếm to như hét : Một! Hai! Ba! Bốn! năm! Sáu! Bảy! Tám! Chín! Mười!...Hết.
-Ơ...ơ...Dạ chưa hết...Mười một! - Một đứa đứng lẻ ra một mình ở cuối đội cuống quýt kêu toáng lên. - Báp cáp anh, em bị lẻ hàng ạ!
_Lẻ là thế nào? - Anh chỉ huy hỏi vặn lại, như hoàn toàn không tin cái chuyện vô lý đó. - Toàn đội chúng ta có ba mươi em, tập hợp thành mười hàng ba, làm sao lại lẻ được.
-Dạ rứa mà em bị lẻ thiệt ạ. - Thằng bị lẻ hàng nhớn nhác nhìn ngược nhìn xuôi, nhăn nhó, bối rối trả lời.
-Các em kiểm tra lại xem có hàng nào đứng hai không? - Anh chỉ huy như vẫn tin chắc rằng đây chỉ là trò nghịch ngợm của bọn trẻ mà thôi.
Nhưng cả đội sau khi nhốn nháo kiểm tra hàng ngũ, đồng thanh trả lời:
-Báo cáo anh, hàng mô cũng đứng đủ ba cả ạ!
Anh chỉ huy rời chỗ đứng, đi dọc xuống phía dưới, đưa mắt kiểm tra từng hàng một, miệng lẩm bẩm:
-Quan số dội đang ba mươi bỗng hoá ra băm mốt là nghĩa lý gì?
Nhưng chính anh cũng đam ngơ ngác. Đứng là hàng nào cũng đứng đủ ba và cuối đội vẫn lẻ ra một đứa.
Anh liền đi ngược trở lên, soát kỹ lại lần nữa. Kết quả anh lôi được một thằng lạ hoắc, không biết từ đâu chui ra đứng lọt vào giữa đội.
Cả đội trợn tròn mắt kêu lên: Ủa!
Hai đứa đứng cùng hàng với thằng bé lạ hoắc này, há hốc mồm vì quá sửng sốt:
-Uơ trời! Rứa mà từ nãy tới chừ tố cứ tưởng hắn là thằng Hoà-đen! Nước da hắn cũng đen thui có khác chi anh Hoà-đen nhà mình mô các cậu!
Cái đứa có tên là Hoà-đen đứng cách dố hai hàng, nghe vậy liền cau mặt , nói với lên:
-Lầm, lầm cái chi lạ rứa? Tớ đen nhưng chỉ đen vừa vừa!...
Một đứa đứng bên trái vẻ mặt liến láu, đưa tay vuốt vuốt ngực Hoà-đen ngoác miệng ra cười:
-Đưa ta vuốt bớt cục tự ái xuỗng cho. Hề, hề, hề...đen vừa vừa hay đen thu ithì cũng là họ "cột nhà cháy" cả thôi mà.
Thằng bé lạ hoắc chui bừa vào hàng ngũ đội, chính là cái thằng luồn sau lưng anh lính gác, tót qua cầu Bao Vinh lúc nãy. Nó cũng trạc tuổi Hoà-đen, vóc dáng cũng sàn sàn, nhưng nước da, của đáng tội, có đen hơn tý chút, Hoà-đen tự ái kể cũng phải. Cách ăn mặc nó cũng kém xa Hoà-đen. Hoà-đen diện quân phục với áo trấn thủ rộng như áo tế, còn thằng này đánh độc cái áo cộc nâu ngắn hở cả rốn với cái quần đùi xanh bạc phếch, đít vá hai miếng to tướng.
Anh chỉ huy nắm chặt cánh tay nó kéo lại sát trước mặt, hỏi to gần như quát:
-Em ở đâu? Tên là chi? Sao dám cả gan chui bừa vào hàng ngũ Vệ Quốc Đoàn?
Thằng bé sợ hãi cúi mặt nhìn xuống đường, bàn chân di di một hòn đất, trả lời lý nhí trong cổ họng, chẳng ai nghe được gì. Anh chỉ huy sốt ruột không muốn mất thì giờ thêm, bỏ tay nó ra, nghiêm mặt nói:
-Em phải ra ngay khỏi khu vực này. Đây là khu vực Mặt trận em nhớ chưa?
Anh quay lại nói với cả đội:
-Các em thật lơ là, vô ý thức. Có một kẻ lạ mặt chui vào hàng ngũ mà chẳng hay biết gì hết!
Cả đội thì thào hỏi nhau:
-Không biết hắn lọt vô giữa đội mình lúc mô mà tài rứa hč?
-Chắc cái lúc tụi mình còn mải trêu chọc lũ chó.
-Thằng ấy chui cổng rạp hát rạp xiếc chắc bợm phải biết!
-Tớ cho hắn chơi cú ấy được. Tớ là tớ phục đó! - Cái đứa có bộ dạng liến láu vừa trêu chọc Hoà-đen lúc nãy, vừa nói vừa gật gật đầu.

Title: Hồi âm: TUỔI THƠ DỮ DỘI {Phùng Quán}
Post by: RickkyMartin on 28/09/06, 23:13

2
Anh chỉ huy thổi một hồi còi dài, cắt đứt tiếng thì thào bàn tán. Anh đứng nghiêm, nói:
-Anh báo trước để các em biết, khoa mục tập hôm nay hơi khó, đòi hỏi các em phải gan dạ, bình tĩnh. - Anh cao giọng hỏi to. - Trong đội ta có em nào chưa biết bơi, đưa tay lên anh xem?
Không một đứa nào giơ tay. Trẻ con sinh ra và lớn lên bên bờ sông Hương, không biết bơi lặn là chuyện hiếm.
-Tốt lắm. - Anh gật đầu. - Khoa mục tập hôm nay là nhảy từ trên thành cầu xuống sông. - Anh đưa tay chỉ lên cái thành cầu sắt sơn đen, ngay phía trên đầu bọn trẻ.
Cả đội nhìn theo tay anh chỉ. Tất cả cùng rụt vai, lắc đầu lč lưỡi:
-Đội trưởng chơi cú khoa mục ni coi bộ gay go đây!
-Cao đến ba mét chứ không ít!
-Ba mét răng được! Xoàng xoàng cũng phải năm mét!
Bọn trẻ nhớn nhác hết nhìn xuống sông lại nhìn lên thành cầu, ước lượng chiều cao sắp phải nhảy.
Cả đội nhảy qua các bậc đá xây, chạy lên cầu. Vẫn không quên nghịch ngợm, chúng dẫm chân thật mạnh, làm cho ván cầu kêu rầm rầm.
Mưa phùn đã tạnh, nhưng gió lạnh vẫn thổi từng cơn không ngớt. Bọn trẻ cởi áo quần vắt lên thành cầu. Tất cả rét run, nổi hết da gà. Chúng đứng nép sát vào nhau, miệng suýt xoa như ăn ớt, hai tay vòng lên ôm cổ, lưng cong lại như lưng tôm.
Đội trưởng troà đứng lên cái cột bê tông giữa cầu, quay lại nhìn cả dội, nghiêm mặt nói:
-Tất cả các em đứng thẳng lên! Bỏ hai tay ra khỏi cổ. Hiên ngang lên anh xem nào? Đàng hoàng là những Vệ Quốc Quân sắp ra trận giết giặc cứu nước mà sợ gió, sợ lạnh à! Thế thì trước bom đạn như mưa của giặc, các em sẽ còn sợ đến mức nào? Các em có muốn mang tiếng là những chiến sĩ hčn nhát không?
-Không ạ! Không ạ! - Cả đội nhao nhao trả lời. Tất cả lập tức đứng thẳng người, miệng thôi xít xoa. Có đứa còn làm bộ hiên ngang, ngực ưỡn ra, bụng thót lại, tay khuỳnh khuỳnh chống nạnh. Nhìn bộ điệu chúng, anh chỉ huy mặt đang nghiêm thế mà phải bật phì cười. Anh rất hiểu, đối với các chiến sĩ nhỏ tuổi của mình, không có lời động viên nào hiệu quả bằng chạm đến lòng tự trọng. Anh nói tiếp:
- Khoa mục hôm nay tuy khó nhưng các em phải gắng tập cho được. Trong hoàn cảnh địa hình chiến đấu của thành phố Huế chúng ta, rất có thể các em sẽ gặp trường hợp phải nhảy từ những vị trí rất cao xuống sông. Do đó, chúng ta cần phải tập trước cho quen. Các em chú ý, xem anh nhảy thị phạm rồi các em tiếp tục nhảy theo sau.
Anh quay mặt ra sông, đứng thẳng tắp trên cột trụ như pho tượng trên bệ, hai cánh tay đưa thẳng trước mặt, đôi cẳng chân vạm vỡ săn chắc những bắp thit, khẽ nhún nhún rất dẻo. Anh tung người lên cao. Thân hình anh như một mũi tên bay chênh chếch xuống sông, cắp phập vào làn nước xanh ngăn ngắt, lăn tăn gợn sóng. Cả đội chồm hết lên thành cầu nhìn theo. Chúng chặc chặc lưỡi trầm trồ:
-Đội trưởng "lông-giông" * tuyệt đẹp bay hč!

---------------------------------------------------------------------------------------
*Plongeon: nhảy (tiếng Pháp)
---------------------------------------------------------------------------------------

-Còn phải nói trước đây anh từng làm "săm-pi-ông" * bơi của Huế mình mà!

--------------------------------------------------------------------------------------
*Champion: vô địch (tiếng Pháp)
--------------------------------------------------------------------------------------

Dưới sông, đội trưởng đã trồi đầu khỏi mặt nước. Anh đưa tay vuốt vuốt mặt, nhìn lên cầu giục:
-Nào các em nhảy đi! Em nào bị chuột rút đã có anh cứu.
Bọn trẻ đứa nọ đùn đứa kia:
-Cậu nhảy trước đi!
-Thì cậu nhảy trước đi!
-Thành cầu chật ri đứng nhảy một lần răng được!
Nhưng rồi chẳng đứa nào dám nhảy trước. Mấy đứa trčo lên thành cầu lại tụt xuống, lč lưỡi:
-Ngợp quá! Cứ như là đứng trên nóc lầu chợ Đông Ba mà nhảy xuống ấy!
-Đội trưởng bày ra chi ra cái khoa mục gay go ri không biết!
-Xê ra, xê ra! - Cái thằng có bộ mặt liến láu ban nãy trêu chọc Hoà-đen đưa tay gạt các bạn ra hai bên, làm điệu bộ hăng hái trčo lên thành cầu. - Không cậu mô dám nhảy thì để tớ nhảy trước cho coi, rồi gắng mà bắt chước nghe! Khó cóc chi mà cứ kêu là khó!
-A, a, anh Tư-dát lại dám xung phong nhảy trước! Chuyến ni e trời sập cái rầm mất thôi. - Cả đội reo ầm lên.
-Anh Tư-dát chuyến ni nhảy được, nhất định tụi mình phải đổi tên là Tư-gan.
-Nhưng gan chi mới được chứ?
-Gan thỏ!
Mặc cho các bạn trêu chọc, Tư-dát mặt vẫn phớt tỉnh. nó đã đứng thẳng lên được trên cái trụ đội trưởng vừa đứng, hai đầu gối va nhau lập cập. Nó nói với các bạn, đầu không ngoái lại:
-Anh em mở to mắt mà coi tài lão gia!
Tư-dát làm điệu bộ in hệt đội trưởng. Hai tay cũng đưa thẳng ra đằng trước, bộ dò như hai ống sậy cũng nhún nhún khá dẻo. Nhưng đội trưởng chỉ nhún vài cái, còn nó thì nhún liền tù tì hàng chục cái, làm các bạn nhìn theo hoa cả mắt.
Tư-dát bất thình lình hô to.
-Hai...ba!Này!
Nó hô dőng dạc đến nỗi làm cho cả đội tưởng là nó đang lao xuống sông. Nhưng bất ngờ nó ngồi thụp xuống cột cầu, nghẹo đầu, méo mồm, trợn mặt làm trò hề. Cả đội bị mắc lỡm ôm bụng cười bò. Hình như cả đội đã quá quen với những trò đùa của Tư-dát.
Đội trưởng chạy lên cầu, hỏi to:
-Em nào dám xung phong nhảy trước làm gương cho cả đội anh xem nào?
Cả đội thin thít đưa mắt nhìn nhau. Cái vinh dự "nhảy trước làm gương cho cả đội" xem ra đứa nào cũng thčm. Nhưng cứ nhìn từ thành cầu xuống sông, cặp dò chúng đã bủn rủn.
Đội trưởng gặng hỏi:
-Không em nào dám nhảy à?
-Dạ em! Em xin nhảy!
Cả đội quay lại. Thật không ngờ. "Em xin nhảy" lại chính là thằng bé lạ hoắc chui bừa vào hàng ngũ đội lúc nãy. Nãy giờ nó vẫn chưa chịu đi mà lén trčo lên cầu, đứng co ro ở lề cầu bên kia, tò mò theo dői buổi tập.
Với vẻ sợ sệt, lo lắng, vừa nói nó vừa hấp tấp bước sang lề cầu bên nay. Không đợi đội trưởng có đồng ý hay không, nó bíu tay trò phắt lên thành cầu.
-Ai mượn mà cũng làm trạng!...
-Tau đó dám nhảy!
-Chắc lại nhảy kiểu Tư-dát chớ chi!
Như không thčm để ý đến tiếng xì xào khích bác của cả đội, nó đứng thẳng trên thành cầu, quay lại nói với đội trưởng, giọng khẩn khoản:
-Em mà nhảy được, anh cho em vô đội với anh hỉ!
Nghe giọng nói và nhìn vẻ mặt nó, cả đội liền hiểu ngay nó sẽ nhảy thật! Chúng bỗng thấy xấu hỏ và tự ái ghê gớm. Để cho một thằng không biết từ xó xỉnh nào chui ra, đòi nhảy trước làm gương thì thật xấu hổ cho cả đội!
Còn thằng bé khong kịp biết đội trưởng có ưng thuận hay không, quay mặt luôn ra sông, nhún khẽ hai chân một cái, và bay thẳng xuốn sông. Đội trưởng buột miệng khen:
-CHú này nhảy khá lắm!
-Ui trời! - Nhiều tiếng kêu sửng sốt. - Nó nhảy mà vẫn để nguyên cả quần áo tề!
Mặt sông xanh biếc. Lăn tăn sóng, đón lấy nó, nhẹ nhàng, thân thuộc, chứ không ầm ĩ như đón những anh mới tập nhảy. Thân hình nó uốn cong, luồn sâu xuống nuwóc và nổi lên rất nhanh. Nó lắc lắc đầu giũ nước, khoắt tay bơi lượn vòng, ngửa mặt nhìn lên cầu và bất ngờ toét miệng cười. Cả đội ức quá, đau giẫy lên như bất thình lình bị ai quất roi mây vào mông.
Thế là quên hết sợ hãi và chẳng cần ai dục, chúng ào ào trčo lên thành cầu thi nhau hét to:
-Hai..ba...này! - Rồi lao ầm ầm xuống sông.
Trên cầu lúc này chi rcòn trơ lại một mình Tư-dát. Vẻ liéne láu đã biến đi đâu hết. Nó hết nhìn xuống sông lại nhìn lên thành cầu, điệu bộ luống cuống như gà mắc tóc. Đội trưởng nhìn nó mỉm cười, nhẹ nhàng hỏi:
-Thế nào? CHẳng lẽ em định đeo mãi cái tên Tư-dát sao?
Tư-dát vụt đứng thẳng người, nhìn đội trưognr nói to:
-Dạ không! Lần này em nhất định đổi được cái tên Tư-gan-cóc-tía! Rồi nó trčo phắt lên thanh cầu.
Và chẳng cần nhún nhiếc gì hết, nó nhắm mắt nhắm mũi, nhảy
bừa xuống sông.
Bọn trẻ đang bơi lội ì oạp, hò nhau tránh dạt ra hai bên để Tư-dát khỏi nhảy chông lên đầu. Chúng reo vang cả mặt sông:
-A...a...Anh Tư-dát nhảy dù! Anh Tư-dát nhảy dù!
Tư-dát nhảy không chúc đầu mà hai chân xuống trước. Nó rơi đánh ùm như quẳng xuống sông cả hòn đá tảng. Nước vọt lên đến gần thành cầu. Nó chìm nghỉm khá lâu mới thấy nổi lên. Các bạn bơi xúm lại quanh nó, mừng rỡ nói:
-Ui chao! Cậu làm tụi tớ hết cả hồn...Tưởng cậu đứt hơi ở luôn dưới đó.
Tư-dát thở lấy thở để, khạc khạc nước, hổn hển nói:
-Vừa lặn xuốn đáy sông tớ gặp ngay một anh cá gáy to bằng hai bàn tay xoč. Anh ta lượn qua trước mặt tớ, quyệt cả đuôi vô trán. Tớ rượt theo chụp luôn. Chụp năm sáu cú liền, một cú trúng đuôi, một cú trúng vây, hai cú trúng đầu! Rứa mà anh ta vùng thoát được hết! Tiếc quá, không thì trưa ni đội ta được bữa cháo cá lu bù.
Nhiều đứa bị sặc nước phì cười.


Title: Hồi âm: TUỔI THƠ DỮ DỘI {Phùng Quán}
Post by: RickkyMartin on 28/09/06, 23:14

Đôi điều về tác giả, tác phẩm:
PHŮNG QUÁN:
Sinh năm 1932 tại Thừa Thiên - Huế. 13 tuổi tham gia Vệ quốc quân - chiến sĩ Trinh sát Trung đoàn 101.(tiền thân là Trung đoàn Trần Cao Vân)
-22 tuổi viết tác phẩm đầu tay: Vượt Côn Đảo (Giải thưởng Hội Nhà Văn Việt Nam năm 1955)
-Hội viên Hội Nhà Văn Việt Nam.
TUỔI THƠ DỮ DỘI in lần đầu năm 1987 - Giải thưởng văn học THiếu nhi Hội Nhà Văn Việt Nam năm 1989.
Phim Bộ Văn Hoá tặng giải thưởng phim hay nhất năm 1990.
*
"...Với một Gavroche, Vitor Hugo đã viết nên những trang bất hủ. Trẻ em của chúng ta đã anh dũng, hồn nhiên tham gia cuộc đấu tranh trường kỳ gian khổ cùng với cha, anh; không kém gì những Gavroche trên chiến luỹ cách mạng Pháp. Thế mà sách vở viết về mặt này còn quá ít. Nhà văn Việt Nam còn mắt nợ các em rất nhiều.
Với TUỔI THƠ DỮ DỘI, Phùng Quán đã bắt đầu trả nợ một cách chính đáng. Sách dày 800 trang mà người đọc không bao giờ muốn ngừng lại, bị lôi cuốn vì những nhân vật ngây thơ có, khôn ranh có, anh hùng có, vì những sự việc khi thì ly kỳ, khi thì hài hước, khi thì gây xúc động đến ứa nước mắt... Tôic hỉ mong làm sao cho tất cả các em thiếu nhi Việt Nam được đọc sách này"
Nguyễn Khắc Viện
------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------


3

Đội trưởng thổi còi báo xong buổi tập. Cả đội bơi vào bờ, rầm rập chạy lên cầu, vơ vội quần áo mặc vào người. Lúc này tất cả mới thấm lạnh. Đứa nào đứa nấy run cầm cập. Chúng nghiêng đầu nhảy cho nước trong tai chảy ra. Ván cầu kêu rầm rầm.
Đội trưởng hô đội tập hợp ngay trên cầu, nhận xét buổi tập. Riêng thằng bé lạ hoắc chui bừa vào hàng ngũ đội, một mình đứng nép vào lề cầu bên kia. Nó cởi quần áo ướt sũng, vắt khô nước rôi giũ phơi lên thành cầu.
Đội trưởng hỏi:
-Em ban nãy đâu rồi?
-Dạ, em đây a. - Nó cầm cái quần cộc đang vắt dở hấp tấp chạy sang, đứng khép nép trước mặt đội trưởng.
Cả đội trố mắt nhnf nó, phá lên cười. Nhiều tiếng xì xào:
-Cậu ni vô phép quá! Ai lại đi ở lỗ ở truồng mà nói chuyện với cấp chỉ huy!
Lúc này nó mới chợt nhớ ra. Nó giũ giũ cái quần ướt xỏ chân vào. Nhưng vì vội và cuống, chú xỏ hai chân vào một ống quần, và ngã chổng kềnh xuống ván cầu. Đội trưởng cũng phải phì cười, cúi xuống đỡ nó dậy, ôn tồn nói:
-Không sao, cứ ở truồng thế cũng được. Đừng mặc quần áo ướt mà lạnh. Anh quay sang hỏi cả đội:
-Có em nào mặc hai áo hai quần, cởi cho em này mượn bớt một.
Lập tức có hơn chục em cởi áo, quần chạy lại dúi vào tay nó.
Nó đứng sững, đưa cả hai tay ôm đầy một ôm áo quần, mặt ngẩn tò te. Tư-dát nhanh nhẹn bước ra khỏi hàng, đến ôm đỡ quần áo cho nó, vừa cười vừa nói:
-Để lão gia giúp cho một tay, chứ coi bộ dạng chú mi chư quen diện loại "com-lê" hảo hạng ni mô.
Tư-dát vắt cả đống áo quần lên thành cầu: Cầm từng chiếc một ướm thử vào người thằng bé. Chiếc nào coi bộ không vừa, Tư-dát vo viên ném trả lại đứa cho mượn. Chọn hết cả ôm mới được hai cái áo và một cái quần tạm vừa người chú. Tư-dát nói, giọng anh nạt yêu em:
-Mặc ngay bộ "com-lê" ni vô không thì lạnh sưng phổi chết bây giờ. Ai bảo nghịch cho lắm!
Tư-dát vừa giúp nó mặc áo quần vừa méo mồm trợn mắt làm trò hề, chọc cười các bạn.
Khi áo quần coi bộ đã tươm tất, đội trưởng hỏi nó:
-Em tên là gì?
-Dạ, em tên Mừng.
-Em mấy tuổi?
-Dạ, mười hai.
-Nhà em ở mô?
-Dạ, ở dưới Bao Vinh tê...
-Rứa cha mẹ em làm nghề chi?
Mừng ngắc ngư một tý, rồi lý nhí trả lời:
-Dạ...em không có cha mẹ...
Đội trưởng chăm chú nhìn em, ngạc nhiên hỏi.
-Không có cha mẹ thì em ở với ai?
Mừng cúi mặt như cố tránh cái nhìn của anh, giọng ngập ngừng:
-Dạ... em đi ở giữ em,...
-Chủ nhà hay đánh chửi em lắm phải không?
-Dạ...
-Thế em có biết đội này làm công việc chi không mà xin nhập?
Mừng ngây người nhìn anh.
-Dạ...dạ...làm...làm...- Chú đưa mắt nhìn cả đội, như muốn nói: "Các anh bày giúp cho tui với"
Nhiều em bỗng thấy thương hại Mừng, thì thào nhắc:
-Làm trinh sát...Làm trinh sát...
Đội trưởng đưa tay ra hiệu không được nhắc.
Như mở cờ trong bụng, Mừng vội vã đáp:
-Dạ, làm khinh sát!
-Làm chi?
-Dạ làm khinh sát ạ.
Trong hàng có tiếng càu nhàu:
-Nhắc một đàng quàng một nẻo. Làm khinh sát là làm cái cóc khô chi?
Trên moi đội trưởng thoáng nụ cười. Anh nói:
-Thôi được. Nếu quả đúng là em không còn cha mẹ nữa, thì anh đồng ý cho em gia nhập đội. Đội chúng ta không phải làm khinh sát, mà trinh sát. Đội Thiếu niên trinh sát Trung đoàn Trần Cao Vân. Công việc của người đội viên trinh sát, sau này em sẽ được học. Có điều chắc chắn nhất là nay mai đội chúng ta sẽ được ra Mặt trận cùng với các anh lớn, đánh Tây. Em có thích đánh Tây không?
Mừng mắt sáng lên, hăm hở đáp:
-Dạ thích lắm!
-Tại sao thích?
câu hỏi cắc cớ này mới càng khó trả lời. Mừng ngập ngừng ấp úng mãi. Rồi bất ngờ, chú ngẩng nhìn đội trưởng trả lời khá rành rọt:
-Dạ...dạ...vì tụi Tây hay đá đít người mình.
Cả đội trợn tròn mắt nhìn nó, cứ ngờ là nó nói giỡn. Nhiều em đỏ bừng mặt vì cố nhịn cười. Đội trưởng cũng cố nhịn cười, hỏi:
-Thế em đã trông thấy Tây đá đít ai bao giờ chưa?
-Dạ có chớ! ở xóm em có bác Húng là cha cậu Ngò chơi thân với em. Bác ấy làm ngề kéo xe. Một bữa, có thằng Tây râu ria xồm xoàm, to chình inh như con bò, thuê xe bác ấy từ ga lớn đến cầu An Cựu mà chẳng trả được cho bác ấy một xu. - Nét mặt Mừng lộ vẻ tức tỗi - Đã rứa hắn lại còn đá giày vô đít bác ấy, chửi "cô-soong, cô-soong"* bác ấy ngã dúi, va đầu vô cột điện, loã máu.
---------------------------------------------------------------------------------------
*con lợn (lời xỉ vả, tiếng Pháp)
---------------------------------------------------------------------------------------
Bác ấy phải nằm liệt giường, không đi kéo xe được. Rứa là cả nhà cậu Ngò bị đói...
Đội trưởng quay sang hỏi cả đội:
-Theo các em, Mừng trả lời đúng hay sai?
-Dạ, sai, sai!
-Sai toét!
-Em nào trả lời đúng, thử nói anh nghe xem nào?
Một chú đứng ở hàng thứ hai, giơ tay rồi đứng nghiêm, trả lời như đọc bài học thuộc lòng:
-Em đánh Tây vì chúng là bọn thực dân cướp nước. Hơn tám mươi năm chúng đã đô hộ nước ta, gây bao cảnh lầm thanh đói khổ...
Đội trưởng ngắt lời...
-Em định đọc hết cả bài học chính trị vừa học đêm qua có phải không? Theo anh, emMừng trả lời không những không sai mà còn rất hay! Tụi Tây là một tụi hết sức tàn ác và láo xược. Đã đi xe quỵt lại còn đá đít cả người kéo xe! Các em phải biết lấy đó làm điều căm tức để nay mai ra trận càng thêm dũng cảm, hăng hái cùng với các anh nện chúng thật đích đáng để trả thù cho bác Húng và còn biết bao nhiêu đồng bào ta bị chúng ức hiếp. Chúng ta nhất định phải tống cổ hết chúng nó về nước, để người Việt Nam ta không còn bị chúng hành hạ nữa.
Mừng mở to mắt nhìn đội trưởng có vẻ như chưa dám tin là anh khen minh thật. Còn cả đội, sau khi nghe đội trưởng nói rő thêm ý nghĩa câu trả lời của Mừng, đều cảm thấy tức tụi Tây thực dân ứa máu!
-Cố tổ chúng nó chứ! - Nhiều em thầm rủa. - Đã đi xe quỵt không biết nhục lại còn chửi người ta "cô-soong" với đá đít người ta làm loã đầu chảy máu!
Đội trưởng hỏi Mừng:
-Thế em có thể làm được gì để đánh Tây?
-Dạ, bơi ạ. - Mừng hăm hở trả lời.
-Tốt lắm, tài bơi lặn của em thì anh và các bạn đã được trông thấy rồi đấy. Ngoài bơi ra em còn biết làm gì nữa?
-Dạ trčo cây ạ! Cây cao mấy em cũng trčo được!
-Rất tốt, trčo leo là một môn rất cần cho người chiến sĩ trinh sát.
-Dạ nấu cơm ạ!
-Nấu cơm cũng rất cần. Mỗi người chiến sĩ đều phải biết tự nấu lấy ăn lúc cần thiết...
-Dạ..dạ em còn biết bồng em ạ...
-Hơ hơ hơ... - Tiếng Tư-dát cười to. - Hắn bồng em giỏi rứa, nay mai ra trận hễ bắt được thằng tù binh mô là giao ngay cho hắn bồng về nộp cấp chỉ huy!
Mừng tưởng Tư-dát nói thật, lo lắng nói với đội trưởng:
-Nhưng thằng Tây to rứa em sợ bồng không nổi...
-To cũng phải bồng! To cũng phải bồng! Ai khiến cậu khai là biết bồng em làm chi! - Cả đội cười ngất, nhao nhao hét to trêu Mừng.
Đội trưởng xua xua tay, mặt nghiêm lại nói:
-Các em không nên cười. Người chiến sĩ trinh sát cần phải biết bồng em và làm bất cứ việc gì để giúp đỡ nhân dân.
Mừng được đội trưởng khen, đã trở nên hoạt bát mạnh dạn hơn. Nó nhăn nhăn trán, cố nhớ xem mình còn có thể làm được gì nữa. Nó mang máng đoán rằng, nếu mình càng làm được nhiều việc thì cấp chỉ huy càng dễ cho nhập đội.
-Hết rồi phải không? - Đội trưởng đặt tay lên đầu Mừng mỉm cười hỏi.
-Dạ...dạ còn...
-Còn thì kể đi!
-Dạ, chọi dế ạ.
Cả đội lần này phải bò lăn ra ván cầu mà cười. Tư-dát gò lưng ôm bụng cười ngắt ngắt không thành tiến, chảy cả nước mắt nước mũi. Nó nói đứt quãng qua tiếng cười:
-Ối, ối, ối...hắn làm tớ đến đứt ruột mà chết mất thôi các cậu ơi! Ối, ối, ối...
Đội trưởng cũng cười ngất, xoa đầu Mừng hỏi:
-Chú mình chọi dế có khá không?
-Dạ nhứt hạng ạ! Dế em đã lên đài là hạ đo ván hết tất cả dế của tụi bạn em trong xóm!
-Thế thì cho em được sắp vào hàng. Bắt đầu từ giờ phút này trở đi, em được chính thức công nhận là đội viên đội Thiếu niên trinh sátt Trung đoàn Trần Cao Vân. Em nhớ chưa?
-Dạ, nhớ rồi ạ! - Mừng đáp như reo, rồi chen luôn vào đứng ở giữa hàng. Có lẽ nó cho rằng có đứng chính giữa như vậy mới chắc chân trong đội.

Title: Hồi âm: TUỔI THƠ DỮ DỘI {Phùng Quán}
Post by: RickkyMartin on 28/09/06, 23:16

4
Doanh trại đội Thiếu niên trinh sát là một ngôi lầu hai tầng kiểu biệt thự, xung quanh có hàng rào sắt bao bọc. Hai cánh cổng sắt đồ sộ mở ra trước cái sân rộng, rải sỏi. Đằng sau là một khu vườn lớn, um tùm những tán cây cổ thụ.
Về đến doanh trại, đội trưởng gọi Mừng vào phòng làm việc. Anh hỏi rő họ tên nó để ghi vào sổ quân tịch.
-Em họ chi?
-Dạ...dạ em tên Mừng.
-Tên thì anh biết rồi, anh muốn hỏi họ em kia?
Mừng đứng ngẩn nhìn anh ngắc nga ngắc ngứ một lúc rồi đáp:
-Dạ...dạ họ chi chi ấy...
-Họ chi chi là họ gì mới được chứ? - Đội trưởng lạ lùng nhìn nó. - Trần hay Lê, hay Nguyễn, hay Đặng.
Miệng hơi há ra, nó hết nhìn đội trưởng lại nhìn cuốn sổ to giấy trắng mở rộng trước mặt anh. Mỗi lần có ngọn gió lạnh từ ngoài cửa sổ lùa vào, các trang giấy phần phật như cánh con chim trắng vỗ muốn bay.
-Thế nào? Em đã nhớ ra họ gì chưa?
Mừng dựa ngực vào mép bàn, mặt nhăn nhó thiểu não. Nó có vẻ nghĩ ngợi lung lắm.
-Dạ...dạ em không có họ, - nó đột ngột nói.
-Sao lại không có họ được hở chú mình? AI có tên mà chẳng có họ?
-Dạ, em không có họ thiệt mà... - giọng Mừng gần muốn khóc. - Cả xóm em, ai cũng gọi em là thằng Mừng, chẳng ai gọi họ em cả...
Lý do không có họ của nó lạ đời chưa! Mấy em đang đứng quanh đó đều bụm miệng cố nhịn cười. Tư-dát cười rung cả người, chạy vụt ra khỏi phòng, rầm rĩ loan báo:
-Các cậu ơi, các cậu ơi! Vô mau buồng của đội trưởng mà coi thằng đội viên mới của đội ta không có họ! Không Trần, không Lê, không Nguyễn, không Đặng, không có cóc khô chi hết a!
Gần nửa đội đang chơi trước sân, bỏ hết các trò chơi, xúm quanh Tư-dát hỏi:
-Hắn không có họ thiệt à? Cậu chỉ bịa thôi?
-Tớ mà bịa thì tớ chết không kịp ngáp! Cậu mô không tin cứ chạy vô mà coi.
-Nhưng tại răng lại không có họ được?
-Tại...tại cả cái xóm Bao Vinh ai cũng gọi hắn là thằng Mừng, không thấy ai gọi họ hắn cả! - Tư-dát ôm bụng cười tưởng muốn đứt hơi. - Hắn nói kể cũng có lý! Đi ra đường, gặp ai họ: ê Mừng! CHứ không thấy ai gọi: ê Lê Mừng, ê Trần Mừng hay ê Đặng Mừng, thì có tài thánh cũng không biết được họ mình là chi!
Thế là tất cả xô nhau chạy rần rần về phía buồng đội trưởng ngồi làm việc. Tư-dát vừa chạy như ngựa tế vừa reo:
-Mau lên các cậu ơi! Mau lên! Chắc chắn đang còn nói nhiều câu tức cười nữa, không nghe được thì tiếc lắm.
Chúng kéo vào đứng vây kín bàn giấy của đội trưởng, vòng trong vòng ngoài. Tất cả chăm chăm nhìn vào miệng Mừng, hồi hộp chờ nó nói thêm những câu tức khác.
Mừng thì vẫn một mực:
-Em nói thiệt... em không có họ...
Gặng hỏi mãi không được, cuối cùng đội trưởng đành phải ghi cụt lủn độc một chữ: Mừng vào cột "Họ và tên". Anh ghie thêm vào cột "bị chú": "Em này lỡ quên mất họ". Rồi anh duyệt lại danh sách các tiểu đội các tổ, xem nên bố trí chú đội viên mới này vào tổ nào. Du - tiểu đội trưởng tiểu đội một, cúi xuống nói thầm vào tai đội trưởng:
-Anh cho Mừng vào tiểu đội em. Tiểu đội em còn thiếu một...
Đoàn - tiểu đội trưởng tiểu đội hai, đứng ở vòng ngoài, chôm người, vít vai mấy bạn đứng trước xuống, nói chen vào:
-Anh Du khôn nghe! Đề nghị đội trưởng bố trí Mừng vào tiểu đội em. Tiểu đội em còn thừa chỗ nắm.
-Được, được! - Đội trưởng gật gật đầu nói - Để anh còn xem đã.
Mấy phút sau anh ngẩng lên nói với Mừng:
- Anh bố trí em vào tiểu đội ba, tổ bốn, do em Vịnh làm tổ trưởng.
Tư-dát tặc tặc lưỡi:
-Tiếc quá, tiếc quá! Đội trưởng mà cho hắn vô tổ tớ thì tớ chỉ cười cũng đủ no, chẳng cần cơm nước chi hết! - Nó ghé vào tai Mừng thì thầm xúi:
-Cậu xin với đội trưởng về tổ sáu của tớ hơn. Tổ tớ vui nhất đội. Đừng dại mà ở tổ bốn của Vịnh-sưa. Cậu ấy là kỷ luật sắt gớm lắm.
Mừng vẫn dựa ngực vào mép bàn đứng im có vẻ chẳng hiểu đầu cua tai nheo ra sao hết. Tư-dát huých huých cùi chỏ vào sườn Mừng giục:
-Cậu xin đi, xin ngay đi!
Vừa lúc đó đội trưởng ngẩng lên gọi:
-Em Tư!
-Có mặt! - Tư-dát rập hai gót chân nghe độp to như tiếng gót giày đinh rập vào nhau, đứng nghiêm ngay lại.
-Em chạy đi gọi em Vịnh vô đây cho anh.
-Có mặt! - Tư-dát đáp to vang cả gian buồng. Nó làm động tác đằng sau quay rất đúng, rất đẹp và nghiêm chỉnh. Và cũng rất bất ngờ, nó giật cái mũ bêrê tím đội trên đầu, tung lên cao đến tận trần nhà, rồi nhảy phốc lên với điệu bộ người giữ gôn bắt bóng, bắt lấy cái mũ, ôm ghì vào ngực và chạy biến ra khỏi phòng.


--------------------------------------------------------------------------------


5
Vịnh - tổ trưởng tổ bốn, đang ngồi cạnh bể nước trước cửa nhà bếp, nhặt rau giúp các chị cấp dưỡng. Nó trạc mười bốn tuổi, mặc bộ quân phục màu đất, sửa ngắn lại, với chiếc áo trấn thủ rộng thùng thình. Ngang lưng thắt cái thắt lưng da to bản, một bên hông đeo cái bao đạn da cũ kỹ, méo mó. Nhưng cái khoá thắt lưng và cái nút cài bao đạn bằng đồng được đánh bóng vàng choé; như vàng thật. Đặc biệt hai bàn tay em chẳng có chút gì là bàn tay trẻ con, chúng to, thô, lòng bàn tay đầy chai, và nhiều vết rạn đen trên các móng tay. Đó là bàn tay của những người từng quen công việc nặng nhọc.
Hai hàm răng Vịnh thưa rếch như răng cá voi, nên các bạn trong đội gọi em là Vịnh-sưa.
Cuộc đời của Vịnh-sưa cũng là cuộc đời của khá nhiều đội viên khác trong đội...
Mồ côi cha từ nhỏ, mẹ bỏ đi lấy chồng. Người bác ruột đem nó về nuôi. Bác làm thợ nguội ở nhà máy đčn Huế. Gia đình bác mỗi ngày một thêm túng bấn vì quá đông con, với đồng lương chết đói. Đang học lớp tư, nó phải thôi học ở nhà bồng em, thổi cơm cho bác. Mới chín, mười tuổi đầu, nó đã pahỉ làm việc quần quật suốt từ sáng đén tối. Người bác gái ác nghiệt thường xuyên đánh đập nó chẳng khác gì đứa ở. Bác trai đi làm suốt ngày nên không thấu được hết tình cảnh vợ mình hành hạ đứa cháu nhỏ mồ côi...Còn nó thì cứ nín lặng, sợ bác biết bác buồn, em thương bác lắm. Một lần nó mang cơm trưa đến xưởng cho bác, gặp lúc thằng cai Tây đang cự bác cái gì đó, rồi dang tay tát bác hộc cả máu mũi. Nếu bác không kịp trừng mắt ra hiệu thì suýt nữa nó đã quăng cái cặp lồng cơm vào mặt thằng Tây.
Năm mười một tuổi, bác xin cho nó vào học việc ở xưởng. Nối nghiệp bác, nó học nghề nguội. Bàn tay nhỏ bé của nó biết cầm cái kìm, cái búa, cái dũa... từ đó. Cách mạng tháng Tám thành công: Vịnh-sưa vẫn tiếp tục học nghề ở nhà máy điện. Nhưng bây giờ học nghề vui lăm. Tụi chủ Tây đã bị cách mạng tống cổ đi hết. Bác của Vịnh được bầu vào ban Quản đốc xưởng nguội. Bịnh còn nhớ mãi, hôm bác được bầu, trở về nhà, bác khóc ròng nói với nó: "Ân tình cách mạng to lớn quá cháu ơi! Bác cháu mình cho dù tới chết e cũng không đền đáp nổi!"
Tháng sáu năm 1946, một đơn vị Vệ Quốc Đoàn thuộc tiểu đoàn Tiếp phòng quân, về đóng quân trong khu vực nhà máy. Cũng như bao chú bé khác, gặp dịp may hiếm có này, Vịnh xoắn ngay lấy đơn vị Vệ Quốc Đoàn, và không rời ra nữa. Hễ có phút nào rảnh rỗi là nó từ xưởng máy tót ngay sang với các anh bộ đội. Nó tìm cách giúp các anh những công việc vặt làm vệ sinh doanh trại, tìm giẻ với dầu luyn cho các anh lau súng... Nó còn trổ nghề thợ nguội, chữa giúp các anh bộ phận súng bị hóc. Bàn tay cầm cái dũa, cái cưa sắt, đục sắt... nom cũng ra dáng lắm.
Một hôm, chính trị viên đơn vị đứng ngắm Vịnh-sưa trong bộ quần áo lấm lem dầu mỡ, chăm chú, thận trọng dũa một bộ phận súng bị hóc, tủm tỉm cười nhận xét: "Nhỏ bằng cái đầu đạn rứa mà chú mình nom đã có thớ một tay thợ súng lành nghề". Từ hôm đó, anh gọi Vịnh là "Chú thợ súng nhỏ". Cả đơn vị cũng bắt chước gọi theo.
Dạo đó, đơn vị thiếu một liên lạc chạy công văn giấy tờ. Một hôm, nhân nó sang chơi, chính trị viên đơn vị gọi nói vào buồng làm việc, mời uống nước chč xanh quấy đường, tỉ tê hỏi rő hoàn cảnh gia đình nó. Sau đó, anh ngỏ ý muốn tuyển nó vào làm liên lạc cho đơn vị. Đang ngồi Vịnh đứng bật ngay dậy. Nó như không còn tin vào lỗ tai mình nữa. Ngay cả trong mơ nó cũng không thấy được một hạnh phúc lớn đến như thế có thể đến với mình. Nó nói không kịp thở: "Em đã muốn xin với các anh từ lâu, nhưng em sợ... em không dám... Đã rứa anh cho em ở lại đay luôn, chiều ni em không về nhà nữa..." Chính trị viên nói: "Em cũng cần phải về nhà để lấy đồ đạc quần áo, với xin phép bác em chứ?". Vinh nói: "Bác em đang làm việc bên xưởng, em chạy ù qua đó xin phép luôn. Còn đồ đạc quần áo, em chẳng có chi, ngoài bộ áo quần đang mặc". Trong bụng Vịnh sợ lúc mình chạy về nhà, các anh thay đổi ý kiến, không đồng ý nhận mình nữa. Còn chính trị viên nghe nó nói mà thương quá. Anh định búng sau khi Huế giải phóng, anh sẽ đưa nó về nhà mình nuôi, cho đi học.
Chiều hôm đó, Vịnh-sưa chính thức ra nhập Vệ Quốc Đoàn, liên lạc viên của đại đội ba, tiểu đoàn Tiếp phòng quân. Huế nổ súng kháng chiến, đại đội của Vịnh đánh nhau ở Mặt trận khu C. Nó được dự mấy trận đanh mở màn ác liệt nổi tiếng: cầu Kho Rčm, nhà hàng Sáp-Phăng-rông. Trường Thiên Hữu. Trong trận xung phong vô trường Thiên Hữu, chính trị viên bị thương nặng. Vịnh-sưa đi sát bên các anh, khóc suốt từ Mặt trận về đến trạm quân y. Trước khi tắt thở, anh gọi Vịnh lại bên cáng, xoa đầu âu yếm nói: "Lau nước mắt đi em. Em giữ lấy cái áo trấn thủ của anh mà mặc, đừng chôn nó theo anh phí đi. Ra trận nhìn cái áo của anh thì nhớ trả thù cho anh..." Cái áo trấn thủ rộng thùng thình nó đang mặc chính là của chính trị viên hy sinh để lại.
Sau đó mấy hôm, Vịnh-sưa được lệnh triệu tập về đội Thiếu niên trinh sát trung đoàn vừa thành lập.
Về đội chỉ mấy hôm, em đã được đội trưởng đặc biệt tín nhiệm, cử làm tổ trưởng tổ bốn, kiêm tiểu đội trưởng tiểu đội ba. Hầu hết các bạn trong đội đều yêu và nể nó, có bạn sợ là đằng khác. Học tập, công tác nó đều gương mẫu. Làm bất cứ việc gì dù nhỏ nhặt đến đâu nó cũng làm đến nơi đến chốn.
Chu đáo, tận tuỵ, kỷ luật, đó là những đức tính Vịnh-sưa đã học được của chính trị viên trong những ngày sống cạnh anh. Chết rồi, anh để lại cho nó cuộc sống mẫu mực, trong sạch, tốt đẹp, cùng tình thương yêu của anh qua hơi ấm chiếc áo trấn thủ ngày ngày nó vẫn mặc...
Chỉ cần nhìn cách thức Vịnh-sưa giữ gìn chiếc áo trấn thủ cũng đã biết nó thương nhớ anh đến chừng nào. Trước khi đi ngủ bao giờ nó cũng cởi áo ra gấp vuốt thật thẳng nếp, gối lên đầu. Đi tập về nếu có một vết bùn nhỏ dây vào là nó phải lấy nước gột cho kỳ sạch... Hồi chưa về đội, một lần nó chạy liên lạc, gặp một anh Vệ Quốc Quân cao lớn, mặt cái áo len mới tinh màu rượu chát, vác một khẩu đại liên đui-dờ-xết. Anh ơi ới gọi nói lại, đặt khẩu súng xuống, cởi cái áo len đưa cho nó và nói: "Mặc cái len thượng hạng ai mà khẩu đại liên dầu mỡ đen ngòm thật phí hoài. Em cởi cái áo trấn thủ đưa đay anh, rôi cầm cái áo len ni mà diện". Anh tưởng chú liên lạc chắc phải sướng mê người về sự đổi chác quá lợi này. Nhưng thật bất ngờ, Vịnh-sưa chẳng buồn nhìn cái áo len. Nó lắc đầu nói với anh: "Anh cso đem tất cả len dạ của thành phố Huế mình mà đổi lấy áo trấn thủ ni, em cũng không đổi mô". Nói rồi nó chạy biến, để anh Vệ Quốc Quân với cái áo len thượng hảo hạng trong tay, đứng sững nhìn theo kinh ngạc không hiểu làm sao chú ta lại đòi đến mức ấy?
Tuy chỉ mới biết đọc biết viết, nhưng nhờ tập luyện hết sức chăm chỉ nên các khoa mục trinh sát rất khó như vẽ bản đồ, đánh tín hiệu bằng cờ, Vịnh-sưa là một trong mấy đội viên giỏi nhất. Mười lười thề danh dự của Vệ Quốc Đoàn nó "đọc ngược" được, như lời Tư-dát khen.
Riêng tinh thần kỷ luật của nó thì không chê vào đâu được. Đội trưởng phân công tổ nó đào một cái hố rác sâu tám mươi phân. Đào xong, nó lấy thước đo hẳn hoi. Không sâu hơn mà cũng không nông hơn. Nội quy đội đề ra. Những đêm không tập khoa mục trinh sát, mười giờ phải lên giường ngủ. Thế là đúng mười giờ nó bắt cả đội phải lên giường, dù đang chơi vui, rôm rả đến mấy. Trước khi đi ngủ nó không bao giờ quên khám chân các tổ viên. Đứa nào chân bẩn, nó dựng dậy bắt đi rửa cho bằng được. Nếu cù nhầy, cãi lại, lập tức nó lên giọng giải thích: "Kỷ luật quân đội là kỷ luật sắt. Nếu không có kỷ luật thì quân đội không thể chiến đấu được." Đó là những câu nó học được của chính trị viên, và chỉ chờ dịp là đưa ra áp dụng. Tư-dát nói: "Vịnh-sưa là kỷ luật sắt gớm lăm" là do vậy.

*
* *

-Vịnh-sưa ơi, Vịnh-sưa! Lên ngay, lên ngay! Đội trưởng có việc thượng khẩn gọi cậu! - Từ xa, Tư-dát đã réo gọi ầm ĩ. - Cậu ngồi đây mà tớ cứ chạy quanh tìm bở hơi tai.
Chưa kịp để Vịnh-sưa hỏi, Tư-dát liến láu nói luôn:
-Lên, lên mà nhận tổ viên mới, không nó sổng mất thì tiếc lắm. Hắn tên là Mừng, nhưng không có họ! Không Trần, không Lê, không Nguyễn, không Đặng, không có cóc khô chi hết a hơ hơ... - Tư-dát lại ôm bụng cười ngất và tin chắc Vịnh-sưa cũng sẽ cười theo với cái tin ngộ nghĩnh đó.
Nhưng Tư-dát chưng hửng. Vịnh-sưa không hề nhếch mép lại còn cau mặt nói:
-Không có họ thì có cái chi đáng cười mà cậu cũng cười? Đã không biết được họ mình là chi, chắc ở nhà hắn phải khổ lắm...
Vẻ liến láu trên khuôn mặt Tư-dát biến mất. Chú ta cứng lưỡi, tảng lờ rút lui êm. Nó đi vào nhà bếp, vờ hỏi cơm đã chín chưa/
Vịnh-sưa đứng lên, bưng rổ rau đã nhặt sạch vào bếp. Nó trở ra bể rửa tay, lau khô, sửa lại quân phục chỉnh tể rồi chạy vào gặp đội trưởng.


Title: Hồi âm: TUỔI THƠ DỮ DỘI {Phùng Quán}
Post by: RickkyMartin on 28/09/06, 23:17

6
Vịnh-sưa dắt Mừng về chỗ nằm của tổ mình. Có đến nửa đội rồng rắn theo sau. Chúng tò mà muốn xem cung cách các bạn tổ bốn tiếp đón tổ viên mới như thế nào.
Chỗ nằm của tổ bốn là hai tâm phản kê liền nhau, sát bên cửa sổ góc trái ngôi nhà. Đầu phản giáp tương hai chiếc chăn đơn gấp vuông vắn, cùng với ba chiếc ba lô nằm thanh một hàng thẳng tắp, cự ly rất đều nhau. Vịnh-sưa nói với Mừng:
-Đây là "nhà" của tổ bốn mình. Cậu Bồng nằm ngoài, rồi đến cậu Kim, chừ thêm cậu nữa rồi đến tớ. Cho cậu nằm giữa cho ấm. Có ra vườn cậu nhớ đi lối cửa trước, đừng nhảy qua cửa sổ mà tha hết đất cát vô phản.
Mừng ngoan ngoãn gật đầu.
Vịnh-sưa quay lại chỉ một bạn trạc mười bốn, mười lăm tuổi, mặt mũi xinh trai, mắt một mí:
-Đây là cậu Kim. Còn đây là cậu Bồng - Bồng cũng trạc mười ba, mười bốn, người thấp, mặt vuông, trán ngắn, tóc húi cua.
Vịnh nói với Kim và Bồng:
-Đội trưởng dặn tổ ta phải yêu thương, chăm sóc Mừng như đứa em út trong nhà. Mừng mới vô đội, lại nhỏ tuổi nhất tổ... Thêm nữa, Mừng không có cha mẹ, anh em, nhà cửa chi hết...
Bồng và Kim đứng sát bên Mừng, vẻ lúng túng vì chưa biết nên bắt đầu lời dặn của đội trưởng như thế nào.
Vịnh-sưa lại nói:
-Chừ tổ mình phải kiêm thêm cho Mừng vài bộ áo quần để thay đổi. Đợi cho đến khi được ban Quân nhu Mặt trận cấp phát còn lâu. Với lịa, phải sửa soạn cho Mừng cái ba lô. Mai kia ra Mặt trận không có ba lô, biết lấy chi đựng quần áo đồ lề?
-Phải đó, phải đó! - Bồng và Kim lập tức hưởng ứng.
Kim nhảy phóc lên phản, lôi cái ba lô con cóc Hướng đạo sinh (Hồi còn ở nhà, Kim đã vào đội Sói Con Hướng đạo sinh) lục lấy ra một cai sơ mi cộc tay vải ca rô và cái quần ka ki xanh còn mới, đẩy tới trước mặt Mừng:
-Cậu lấy bộ ni mà mặc...Mình mặc hơi chật, cậu mặc chắc vừa...
Bồng cũng mở ba lô lôi ra một tấm nhung màu huyết dụ, rộng gần bằng cái mền đơn. Nó giũ rộng tấm nhung ra, rồi gấp lại, đặt vào tay Mừng, giọng hào hiệp:
-Cho cậu đó để làm mền đắp. Ngó bộ mỏng rứa chứ đắp ấm gớm lắm.
Mừng há miệng, mắt mở to nhìn không chớp, tấm nhung đỏ chói trong tay. Chưa bao giwò nó được nhìn thấy một cái gì chói lọi đến thế, rực rỡ đến thế. Nó buột kêu lên khe khẽ, giọng gần như sợ sệt:
-Ui cha, cái chi mà đẹp dữ ri anh?
-Nhung! - Tư-dát đứng ngay phái sau chen vào nói - Chứ mi chưa nhìn thấy nhung khi mô à?
Tư-dát cầm lấy tấm nhung trong tay Mừng, đưa cao lên, ngoẹo đầu bên này ngoẹo đầu bên kia, làm bộ ngắm nghía:
-Thứ nhung ni là đắt tiền gớm lắm đấy. - Nó gật gật đầu làm bộ mặt quan trọng. - Trước Cách Mạng, ở Huế chỉ có Nam Phương hoàng hậu với tớ là hay dùng thứ nhung ni thôi. Hoàng hậu thì để may áo dài, còn tớ thì may quần đùi.
Trước khi về đội, Bồng là liên lạc của tiểu đoàn mười bảy. Trong trận xunh phong khách sạn Mô ranh, vị trí kiên cố nhất của bọn giặc trong thành phố Huế, Bồng xẻo tấm nhung này ở cái màn sân khấu rạp chiếu bóng của khách sạn.
Nó cất giữ cẩn thận lắm, trời lạnh cắt ruột cũng không giở ra đắp. Thế mà bây giờ nó lấy ra cho phắt Mừng.
Vừa lúc đó các bạn những tổ khác cũng kéo đến. Hoà-đen mang cho Mừng một cái thìa bạc (cũng lấy được ở vị trí giặc) và một cái chén ăn cơm. Hoà-đen nói với Mừng:
-Đời bộ đội, sau súng đạn, thì hai thứ ni là quan trọng nhất đó nghe.
Châu tổ bảy mang cho Mừng một cái áo len ngắn tay. Hiền tổ một lao sầm sầm từ trên cầu thang gác xuống, tay vung vẩy cái túi dết vải bạt. Nó quàng luôn vô cổ Mừng, lùi lại một bước ngắm nghía:
-Vừa đẹp! Cậu nhỏ người, đeo cái túi dết ni còn tiện gấp trăm cái ba lô. Cậu đừng khinh nó nhỏ. Cứ tọng thử vô đó năm bộ quần áo coi!Lọt thỏm!
Các bạn khác cũng ùn ùn mang đến cho Mừng nào áo, nào quần, nào thắt lưng da, bao đạn, và bao nhiêu đồ vật linh tinh khác. Vịnh-sưa phải xua xua tay kêu lên:
-Thôi các câu, thôi các cậu! Cho nhiều ri cậu ta tha làm răng cho nổi!
Đồ lề, quần áo, các bạn mang đến trang bị cho Mừng, chất thành đống to tướng trên phản. Mừng đứng sững nhìn đống đồ đạc các bạn cho, miệng cứ mấp máy định nói gì mà không nói được. Hai mắt nó tự nhiên đỏ hoe:
Hoà-đen đứng cạnh, nhìn mắt bạn, ngạc nhiên hỏi:
-Ơ, răng mắt cậu đỏ rứa?
-Không biết có con chi hắn bay vô mắt tui ấy... - Mừng đưa nắm tay lên dụi dụi mắt, ấp úng nói.
-Đưa tớ thổi bụi cho. - Hoà-đen chụm môi ghé vào mắt bạn. Mừng bỏ nắm tay ra, hai mắt ướt nhoà...
Vịnh-sưa ngồi chồm hỗm trên phản, chọn áo quần đồ lề cần thiết xếp vào túi dết cho Mừng. Vừa xếp nó vừa rên rẩm:
-Các cậu ấy cho lăm đồ đạc ri thì ba lô túi dết mô mà đựng cho xuể?
Khi trong phòng chỉ còn lại hai đứa, Mừng ngồi xuống cạnh Vịnh, rủ rỉ nói:
-Được vô Vệ Quốc Đoàn sướng quá anh hč?
Vịnh-sưa ngẩng lên nhìn Mừng, cặp mắt long lanh ấm áp:
-Còn phải nói chi nữa! Sướng nhất hạng...


--------------------------------------------------------------------------------


7
Sáng hôm đó, đội trưởng được điện của ban Tham mưu TRung đoàn triệu tập có việc khẩn. Anh cho đội nghỉ buổi tập bà giao cho Du, tiểu đội trưởng tiểu đội hai, làm trực nhật.
Đêm qua, cả hai Mặt trận Khu B và Khu C, tiếng súng nổ rất dữ. Pháo sáng từ các vị trí giặc vọt lên tới tấp, sáng rực một góc trời Nam thành phố. "Ông già bảy lăm" "ho" dồn dập gấp mấy những đêm trước. Lúc ông "ho" cả đội đều thức, nằm im nhẩm đếm theo từng phát một.
Đội trưởng vừa đi khỏi, cả đội ùa hết ra sân mặc dầu trời vẫn lắc rắc mưa. Đứng tụm năm tụm ba trên sân, chúng bàn tán tranh cãi, phỏng đóan về kết quả trận đánh đêm hôm qua. Hiền từ trong nhà chạy ra, nhập vào một nhóm đông nhất đang tụ tập dưới gốc cây mù u, đang tranh cãi rất hăng. Mừng cũng ở trong nhóm này, nhưng nó chỉ đứng im há miệng lắng nghe. Nó hết nhìn bạn này đến bạn khác, vẻ thán phục. Hiền chen vào giữa nói:
-Cãi nhau làm chi cho mệt! Chút nữa đội trưởng về sẽ có thông báo của Mặt trận. Chừ có việc ni là hay hơn cả. Có cậu mô thích tập xiếc thì theo tớ tập cho vui đi! - Không thấy có bạn nào hưởng ứng, Hiền quay sang Mừng, cầm lấy cánh tay Mừng nắn nắn và nói:
-Cậu nhỏ người mà chắc ghê. Cậu tập xiếc nhất định phải mau thành tài. Cậu có thích tập xiếc không? Tớ dạy cho.
Mừng ngơ ngác:
-Xiếc như mấy ông bán dầu cù là ở chợ Đông Ba?
Hiền chưa kịp trả lời, Tư-dát đã chen vào:
-Cậu đừng có nghe hắn dỗ ngon dỗ ngọt, tập xiếc tập xót mà u đầu gãy cổ có ngày. Khối cậu trong đội nghe hắn dỗ ngon dỗ ngọt theo hắn tập xiếc cót, mọc sừng trước trán rồi đó. - Nó cười quay lại nói với Hiền. - Cậu cũng nên dẹp cái môn xiếc xót của dậu đi cho anh em nhờ. Quay đi quay lịa cũng chỉ có trò nhào lộn với trò trồng cây chuối...
Hiền đỏ mặt cãi:
-Người ta còn có trò đi trên dây thép...
-Đi trên cây tre gác lên hai cái ghế thì có! - Tư dát trề môi nói - Nhát gan như tớ cũng chạy trên đó được.
Hiền ức quá, cố chống chế:
-Môn xiếc chính của tớ là môn dạy thú kia. Nếu có gấu tớ cũng dạy được.
Tư-dát càng trêu già:
-Cậu dạy được gấu thì tớ dạy được cả sư tử, tây ngu*, bò tót. - Tư-dát quay sang nói với Mừng. - Cậu biết không, hồi mới về đội, không biết cậu ta tròng được ở đâu con chó mực bị lạc mất chủ, lôi về đội dạy đi xe đạp. CẬu ta chăm anh chó hơn mẹ chăm con, nhịn cả phần cơm cho chó ăn. Cậu ta dạy dỗ tài giải đến nỗi con chó quay lại đớp cho một cú vô bắp vế, máu chảy ướt cả quần...

---------------------------------------------------------------------------------------
*Tê giác
---------------------------------------------------------------------------------------

-Chừ con chó ấy mô rồi? Mừng nhìn Hiền tò mò hỏi.
-Hắn dựt đứt xích chạy mất từ đời tám hoánh! - Tư-dát trả lời tranh. - Tớ mà nói láo tớ đi đầu xuống đất. Cậu muốn có ngày bị chó dại cắn chết, cứ việc theo cậu ta mà xiếc với xót.
Hiền ức muốn phát khóc, nhưng không làm sao nói lại với cái mồm liến láu của Tư-dát. Nó đưa mắt lườm Tư-dát, rồi định bỏ đi chỗ khác. Nhưng Tư-dát không chịu buông tah, níu tay Hiền lại, chỉ về phía một gốc cây vông đồng ở gần cuối sân:
-Có cậu Vệ mới về đội chiều hôm qua kia kìa. Theo tớ, cậu nên tập xiếc cho cậu ấy hơn. Bộ cậu ấy ngơ ngơ mà hiền như con gái rứa, cứ chịu khó dỗ ngon dỗ ngọt, răng cậu ấy cũng theo.
Vệ là đội viên thứ ba mươi hai của đội. Nó đến nhập đội vào năm giờ chiều hôm qua. Trước đây, nó là liên lạc của trung đội Ca-nông Bảy lăm. Hồi Huế mới nổ súng, nhiều bạn trong đội thỉnh thoảng vẫn gập nó cưỡi con ngựa ô, lóc cóc đi theo sau khẩu Ca-nông, trên đường di chuyển vị trí.
Vệ trạc tuổi Vịnh-sưa, thân hình rất mảnh giẻ cân đối. Gương mặt nó không đẹp nhưng có một vẻ hết sức dễ thương. Cặp mắt to, sáng, dịu dàng như mắt lai, thường ánh lên một vẻ buồn buồn rất lạ. Đặc biệt nó có cái đầu to quá cỡ y như đầu người lớn chắp vào, đội cái mũ ca lô dạ tím rất diện. Những ón tóc đen nhánh như lông quạ thò ra ngoài mũ, xoăn xoăn thành búp. Mới về đội chiều hôm qua, nó đã được các bạn tặng luôn cho cái biệt hiệu: Vệ-to-đầu.
Lúc này, Vệ đang đứng khom lưng, hai tay chống gối, chăm chú xem Vịnh-sưa dũa một vỏ đạn đui-xết để làm cán dao nhíp.
-Vệ ơi Vệ! tới đây, tới đây, có việc ni hay lắm. - Tiếng Tư-dát gọi to.
Vệ chạy lại, Tư-dát túm lấy tay, hỏi:
-Cậu có thích tập xiếc không, tớ xin giới thiệu với cậu, - Tư-dát chỉ vào Hiền, - đây là một ông thầy xiếc tàia nhất nhì Đông Dương...
Vệ mắt chớp chớp, hết nhìn Tư-dát lại nhìn Hiền như có vẻ lấy làm lạ lắm.
-Trước khi vô Vệ Quốc Đoàn, cậu cũng đi làm xiếc à? - Vệ hỏi Hiền. - Cậu ở gánh nào vậy?
Tư-dát lùi lại phía sau bụm miệng nhịn cười. Bụng chắc mẩm đã cho được cậu đội viên mới vào "xiếc" và nhất định sẽ có những pha cười nôn ruột.
Hiền miễn cưỡng trả lời Vệ:
Mình có ở gánh nào đâu...Hồi còn đang đi học, mình mê xiếc lắm. Bao nhiêu gánh xiếc tới Huế. Mình chẳng bỏ sót gánh nào. Tạ Duy Hiển này, Long TIên này, Đô-cô-ha-ma này... Mình đi coi nhiều lần rồi về bắt chước tự tập lấy. Khi mô đánh Tây xong, mình sẽ xin đi theo một gánh xiếc...
-Thế cậu đã tập được những trò gì rồi? - Vệ chăm chú hỏi.
-Chỉ mới được có mấy trò... Trồng cây chuối, đi bằng hai tay, đi trên dây thép...
-Cậu ấy còn nhai được cả cơm cháy rau ráu như là nhai mảnh chai bóng điện ấy. Tài ghê lắm Vệ ạ - Tư-dát chêm vào.
Vệ không để ý đến lời trêu chọc của Tư-dát. Nó nói với Hiền, giọng hồi hộp:
-Cậu diễn thử vài trò cho mình xem với. Lâu lắm mình không được xem xiếc:
-Đi, đi lại đằng kia mình diễn cho coi. - Hiền cầm tay Vệ-to-đầu định kéo đi. - Rồi tuỳ cậu chọn, thích tập trò nào mình sẽ dạy cho trò ấy. Không khó lắm đâu.
-Trồng cây chuối với đi bằng hai tay thì ở đâu chẳng diễn được? - Vệ ngạc nhiên hỏi.
-Nhưng ở đây toàn đá với sỏi, đằng kia có bãi cỏ, lỡ ngã đỡ đau hơn. Nhưng mình sợ là sợ cho cậu mới tập, chứ với mình ở đâu chẳng chơi được!
Hiền xắn hai ống tay áo, nhảy lùi lại một bước, chuẩn bị diễn trò trồng cây chuối. Nó định bụng sẽ trổ hết tài, diễn thật xuất sắc, làm cho tay đội viên mới này phải lác mắt, và sẽ nằng nặc xin theo học.
Nhưng bữa nay nó bị xúi quẩy quá! Sau khi đã nhặt hết những viên đá nhọn. Hiền cẩn thận chúi đầu xuống đất, gắng sức tung hai chân để dựng ngược người. Nhưng hai chân lại nặng nề rơi xuống cứ y như bị buộc đá vậy. Sỏi đá ấn vào đầu nó đau điếng người. Mặt nó đổ bừng vì gắng sức.
Tư-dát liền bước lại, túm lấy hai cổ chân Hiền vui vẻ dựng ngược lên, cười nói:
-Để tớ trồng giúp cho. Chuối trông cứ bổ xiêu bổ sấp mãi rứa thì đứt hết rễ còn chi!
Hiền đứng lên vừa ức vừa ngượng. Nó xoa xoa hai đầu gối, chống chế:
-Tại mấy bữa ni chân tớ hơi bị đau, chứ mọi lần tớ chỉ hự một cái là lên ngay.
Vệ-to-đầu nãy giờ vẫn chăm chú theo dői Hiền diễn xiếc. Khi Hiền đứng lên, Vệ đưa tay phủi phủi những sợi rác trên tóc bạn. Nó bỗng lột cái mũ ca lô dạ tím ra khỏi đầu và cẩn thận luồn vào giữa cầu vai áo quân phục. Các bạn ngạc nhiên thấy trên đầu nó, giữa những món tóc xoăn xoăn đen nhánh như lông quạ, có ba bốn cái sẹo to dài nhẵn bóng như những vết chém.
Vệ nhỏ nhẻ nói với các bạn đang đứng xung quanh:
-Mình cũng biết ít trò xiếc...
Trước những cặp mắt nghi ngờ của các bạn, Vệ đột ngột hét lên một tiếng nghe rất lạ tai. Và nhanh không kịp chớp mắt nó chúi người lộn nhào hai vòng rồi đứng lên người thẳng tắp. Chưa kịp để cho các bạn ngạc nhiên, nó chống hai tay xuống đất, dựng ngược người, và cứ thế đi bằng hai tay, rất nhanh về phía ngôi nhà khi còn cách tường chừng hai bước, nó làm một động tác nhào lộn hết sức đẹp mắt trước khi đứng thẳng lên. Bức tường trước mặt có một khuôn cửa sổ hình tròn, không có cánh cửa. Nó lại thét lên một tiếng chói tai, tung người bay lọt qua khuôn cửa sổ, vào bên trong nhà.
Các bạn định ào vào bên trong nhà để xem Vệ có việc gì không. Nhưng bên trong đã nghe tiếng Vệ thét lên và cả người đã bay vọt ra bên ngoài. Chớp mắt nó đã đứng thẳng trước mặt các bạn, người không hề chao đảo ngả nghiêng.
Tất cả cứ tròn xoe mắt nhìn theo Vệ, miệng kêu: "Ơ...ơ" Tồi tất cả cùng một lúc, nhảy lên như choi choi, vỗ tay rôm rốp:
-Đúng là xiếc chính cống! Đúng là xiếc chính cống! Bờ-ra-vô Vệ-to-đầu! Bờ-ra-vô Vệ-to-đầu.
Trước sự tán thưởng nồng nhiệt của các bạn, gương mặt đỏ hồng lên. Vì cao hứng, vui thích, nó dẫn các bạn đi thẳng đến chỗ sợi dây thép phơi quần áo ở góc bên trái sân. Sợi dây to bằng đầu đũa, cao quá tầm tay với, căng từ hai gốc cây mù u cách nhau chừng mười thước. Trên dây đung đưa nào áo trấn thủ, khăn mặt, quần sơ mi... Tư-dát đoán là Vệ sắp diễn trò đi dây thép, nó liền chạy tới trước, vơ tất cả áo quần cuộn lại thành một bó và quăng lên thành bể nước cạnh đó.
Vệ nhảy lên níu sợi dây thép, gần sát chỗ buộc và gốc cây, rồi nhún người đu lên. Loáng một cái nó đã đứng lên sợi dây thép, người hơi lúng liếng một chút. Nhưng nó dang thẳng hai tay, lấy được thăng bằng một cách dễ dàng. Khoan thai nhẹ nhàng nó bước từng bước ngắn, vững, đi sang đầu dây thép bên kia, dưới những bước chân sợi dây thép hơi vőng xuống, khẽ đung đưa... Khi còn cách gốc cây chừng non một bước, nó bỗng trượt chân, nhào nghiêng nười. Các bạn kêu rú, sợ hĩa, chậy xô hết cả lại, giơ tay ra định đỡ. Nhưng hai kheo chân nó đã lẹ làng ngoặc vào sợi dây thép, treo ngược người, đầu dốc xuống đất. Té ra nó làm động tác giả để doạ các bạn chơi. Vẫn treo người trên dây thép, nó ngẩng lên nhìn vẻ lo lắng sợ hãi của các bạn với ánh mắt dịu dàng như mắt nai, và mủm mỉm cười rất dễ thương.


Title: Hồi âm: TUỔI THƠ DỮ DỘI {Phùng Quán}
Post by: RickkyMartin on 28/09/06, 23:20
 8
Vừa lúc đó đội trưởng đi họp về. Anh đến ngay trước mặt Vệ lúc nào không hay. Vệ chợt nhìn thấy anh, mỉm cười bối rối. Nó vội vàng vịn tay vào vai Hiền, nhẹ nhàng buông mình xuống đất.
Đội trưởng gọi Vệ vào phòng làm việc. Cả đội ùa vào theo, đứng chật gian phòng. Đội trưởng quyết định bổ xung Vệ vào tổ Hiền. Sau đó anh hỏi chuyện nó tại sao biết làm xiếc, và tập xiếc từ bao giờ.
Té ra trước khi gia nhập Vệ Quốc Đoàn, Vệ là diễn viên nhào lộn của một gánh xiếc rong. Nó kể:
... Gánh xiếc rong của nó do một ông Khách* to lớn, có cặp mắt xếch ngược như mắt tướng hát bội, làm chủ gánh. Ông này trước là diễn viên trụ cột của một đoàn mãi vő Sơn Đông, chuyên bán thuốc cao, rất có tiếng tăm ở Sài Gòn-Chợ Lớn. Sau vì một chuyện xích mích gì đó với người trưởng đoàn, ông ta tách khỏi đoàn và lập một gánh xiếc rong để sinh sống. Gánh xiếc này vẻn vẹn có năm diễn viên: Chủ gánh, Vệ, một anh lùn, một con khỉ và một con gấu. Gánh xiếc rong nhỏ bé của nó từng đi diễn khắp lục tỉnh Nam Kỳ, sang cả Nam Vang. Lúc này cả đội mới hiểu ra vì sao giọng nói của Vệ lơ lớ đá giọng Sài Gòn.

---------------------------------------------------------------------------------------
*Người Tàu
---------------------------------------------------------------------------------------

Lần đầu tiên Hiền và nhiều bạn khác trong đội mới được biết cuộc đời của người làm xiếc rong chẳng mê ly vui thú như chúng vẫn thường tưởng tượng. Trái lại, đó là một cuộc sống gian truân, vất vả, cực nhục đến ghê người. Cuộc sống ấy đã để lại trong trí nhớ chú bé có cặp mắt dịu dàng như mắt nai này biết bao kỉ niệm hãi hùng...
Chính người Khách mãi vő Sơn Đông vừa làm chủ gánh vừa dạy xiếc cho các diễn viên. Ông ta dạy anh lùn tung hứng ném dao, dạy con khỉ, con gấu múa thanh long đao, đi xe đạp, dạy Vệ nhảy qua vòng lửa có cắm dao cùng các trò nhào lộn, đi trên dây thép... Về các môn xiếc, ông ta tuyệt giỏi, không một môn nào ông không đạt đến mức điêu luyện. Nhưng ông cũng ác vô cùng. Lúc dạy, tay ông ta không bao giờ rời cây roi da. Con khỉ, con gấy, anh lùn và Vệ, mỗi lần làm sai, làm hỏng, ông ta quất không tiếc tay, lại còn phạt nhịn đói. Nhìn ông ta đánh con khỉ với con gấu mới thương! Dưới những trận mưa roi da, hai con vật ôm mặt kêu rú lên, lăn lộn dưới đất, chắp tay lạy ông rối rít...
Để cạnh tranh với hàng trăm gánh xiếc rong hồi đó, ông chủ bắt anh lùn và Vệ diễn những trò hết sức ghê rơn, làm người xem phải dựng tóc gáy. Lên mười tuổi, Vệ đã phải phi tân bay qua vòng lửa cháy rần rật có cắm mười hai lưỡi dao nhọn hoắt. Phải đi trên dây thép căng cao hai thước, và bước tới đâu, ông chủ đẩy theo tới đó một bàn gỗ có bốn bánh xe, bên trên cắm ngược mười hai lưỡi dao như sẵn sàng chờ nó ngã xuống... Nhưng khủng khiếp hơn cả là trò nó phải làm bia sống cho anh lùn ném dao.
Người diễn viên có tài tung hứng và ném dao tuyệt vời này xấu xí dễ sợ. Anh ta cao chỉ hơn một mét nhưng đôi vai rất rộng nên trông cứ như người vuông. Anh có cái đầu to hết cỡ. Trong biển quảng cáo, anh thường được trưng là "Người lùn nhất thế giới về tài tung hứng và ném dao"
Làm bia sống cho anh lùn ném dao, Vệ phải cởi trần, mặc quần cộc thun bó sát người. Nó đứng dựa lưng vào một tấm ván mỏng dựng trên cái giá gỗ, hai tay dang thẳng, hai chân xoạc rộng, toàn thân không nhúc nhích, như đã bị đóng đinh vào tấm ván. Anh lùn đứng cách xa nó chừng mười bước, tay cầm một nắm dao găm sáng loáng. Sau một hồi đánh phčng phčng cổ động, ông chủ hô lên một tiếng như sấm "Tả lớ này!". Lập tức anh lùn cầm từng con dao một ném phầm phập vào quanh người Vệ. Dao cắm sát đỉnh đầu, sát hai vai, luồn dưới hai nách, hai bên hông, hai bên bạn, cuối cùng là dưới hai bàn chân. Vừa đúng mười hai lưỡi. Lưỡi nào cũng cắm cách người nó chỉ vài ba phân, có lưỡi dính sát da... Và càng ném cắm sát dao càng được người xem tung tiền thưởng. Lúc Vệ bước ra khỏi tấm ván, mười hai lưỡi dao cắm trên ván vẽ thành một hình người nho nhỏ...
Mặc dầu đã đứng làm bia sống hàng mấy trăm lần, nhưng Vệ không làm sao quen được. Kể đến đây, bất giác nó rùng mình. Thật khủng khiếp! Lúc đó hai mắt nó nhắm nghiền nên nghe càng rő tiêgns dao rít quanh mình. Mỗi lần lưỡi dao bay đến cắm phập vào ván, rung lên bần bật, chất thép lạnh chỉ chạm khẽ vào da thịt mà nhói thấu đến tận óc. Một cảm giác kinh hoàng không sao tả xiết làm cho khắp người nó mồ hôi vã ra như tắm. Mồ hôi chảy ròng ròng suốt từ chân tóc đến hai gan bàn chân. Nhiều lần căng thẳng quá, nó tưởng có thể ngã gục xuống chết ngất. Nhưng nó đã cố hết sức để đứng vững, không run. Nếu run và chỉ cần một li leo xê dịch, dao sẽ cắm vào người như chơi.
Những vết sẹo dài như chém trên đầu Vệ chính là những vết dao anh lùn lỡ ném hơi quá tay...
Ngồi nghe Vệ kể chuyện làm xiếc, hai thái dương đội trưởng mồ hôi rịn lấm tấm. Anh sững sờ kêu lên:
-Thế cha mạ, quê quán em ở đâu mà phải lưu lạc vô tận Sài Gòn làm xiếc rong? Nó kể:
... Nó theo gánh xiếc từ ngày còn nhỏ lắm, nó không nhớ là năm lên mấy nữa. Cha mạ quê quán thì chỉ còn nhớ là cả nhà nó sống chui ríc dưới một cái gầm cầu sắt to lắm. Người gồng gánh, ô tô, tàu hoả đi lại rầm rập trên đầu suốt ngày, suốt đêm. Cha nó thường mặc bộ áo quần xanh, rách rưới, nồng nặc mùi vôi. Nó không nhớ mặt cha nhưng cái mùi vôi nồng nặc trên áo quần cha sau mỗi buổi chiều đi làm về, thì cho đến tận bây giờ nó vẫn như còn ngửi thấy... Cứ chiều đến nó lại trčo lên mặt đường nhựa đón cha. Thấy bóng cha từ xa, nó chạy ào đến. Cha bồng nó lên tay, hôn hít rồi móc móc túi... Cha bắt nó nhắm mắt, há miệng thật to, rồi lẹ làng đút vô miệng, khi cái kẹo cau, khi cái kẹo bi, ngọt cho đến tận bây giờ... Một buổi chiều, nó đứng đón cha hoài, đón đến tối câm tối mù cũng không thấy cha về. Chiều hôm sau, rồi chiều hôm sau nữa, cũng không thấy cha về. Má nó thì cứ lăn lóc dưới đất, đầu tóc rũ rượi, khóc gào như đã hoá điên. Má ôm ghì nó, vùi nó vô trong đống tóc rối bời, bê bết đất bụi, rồi lại lăn lóc, lại kêu khóc... Rồi một buổi sáng, những người chčo đò vớt má nó từ dưới sông lên. Tóc má trét đầy bùn. Người ta xúm lại đào một cái hố to giữa bãi bắp, bó má xuống hố, lấp đất lại. Nó đói quá, cả ngày đứng trên đường xin ăn. Người cho miếng bánh, người cho cục cơm... Một hôm có một ông mặt mũi dữ tợn như ông tướng cầm gươm trước cửa đền hiện ra trước mặt nó. Ông đứng chống nạnh, không nói, không rằng trừng trừng ngó nó một lúc lâu. Nó sợ co rúm người lại. Ông này bất thình lình chụp lấy bàn tay nó đang ngửa chìa ra xin ăn, dắt đi gần như kéo. Nó sợ quá nên chẳng dám kêu, cũng chẳng dám khóc. Hai chân lết quết chạy theo ông. Ông ta đưa nó đến một quán cơm, cho ăn cùng với một con khỉ, một con gấu, và một anh lù tịt đầu rất to... Lúc đầu nó sợ người lùn này lắm, còn sợ hơn cả cái ông kéo nó đi. Nhưng anh lùn cười với nó hiền khô, dỗ: "Đừng sợ, đừng sợ em ạ. Anh chỉ lùn thôi. Mà người lùn thì hiền hơn cả con nít". Anh gắp miếng thịt trong bát đang ăn bỏ vào bát nó.
Sau đó cái ông mặt mũi dữ tợn ấy đưa nó lên tàu cùng với anh lùn, con khỉ, con gấy. Con tàu chạy suốt ngày suốt đêm, đến một nơi nào đó rất xa... Ông ấy chính là người Khách mãi vő Sơn Đông, chủ gánh xiếc rong...
Câu chuyện của Vệ làm nhiều bạn nổi hết gai ốc, lo sợ thay cho bạn và thương bạn quá chừng. Nhiều đứa quay mặt đi giấu vội nước mắt. Mừng thì khóc thật sự, nó gục đầu vào vai Bồng, khóc nấc lên thành tiếng. Bồng cũng khóc nhưng chỉ nấc lên khe khẽ và ngước mắt chảy lặng lẽ trên hai gò má thô ráp. Tư-dát giả bộ cười nhưng miệng méo xệch thành mếu. Vịnh-sưa đưa ống tay áo dụi cặp mắt đỏ hoe,lắp bắp, tức tối hỏi Vệ:
-Khổ đến nước ấy răng cậu không bỏ trốn quách, cứ đčo queo mãi với cái thằng chao chủ xiếc ấy làm chi?
-Nhưng biết trốn đi mô được? - Vệ hỏi lại như muốn nói với tất cả các bạn có mặt ở đso. Cặp mắt to dịu dàng như mắt nai của nó ánh lên một vẻ buồn sâu thẳm.
-Hồi đó làm chi đã có Vệ Quốc Đoàn như bây giờ cho mình trốn theo? - Vệ khẽ thở dài - Thêm nữa mình cũng thương anh lùn lắm. Anh ấy tuy thân mình mặt mũi xấu xí hết chỗ nói nhưng tốt bụng như ông Bụt. Anh ấy thương mình, thương cả con khỉ, con gấu, như má thương con. Mỗi lần chúng bị chủ đánh hoặc diễn trò bị thương chảy máu, anh ấy pha nước muối rửa vết thương cho chúng, tìm mua lá dấu, thuốc cao dịt vết thương... Anh lén ông chủ, lấy đường pha nuwóc cho chúng uống. Anh nựng dỗ chúng khác chi mạ dỗ con. Mình mà ốm, anh ấy ngồi cạnh bên đầu giường suốt đêm, xúc bón cho mình từng thìa cháo nhỏ... Mình trốn đi, không có ai đứng làm bia sống cho anh ấy ném dao, lão chủ sẽ đuổi anh mất. mà anh ấy không làm xiếc thì còn biết làm chi mà ăn?
Đội trưởng hỏi:
-Thế em gia nhập Vệ Quốc Đoàn trong trường hợp nào?
-Cách Mạng Tháng Tám thành công, gánh xiếc của em đang diễn ở Nha Trang. Ít lâu sau đó, bọn Pháp trở lại, tấn công vào thành phố. Đại bác chúng đặt dưới tàu biển, rót lên trúng cái quán gánh xiếc chúng em đang trọ. Lão chủ và anh lùn bị trúng mảnh đạn chết ngay tại chỗ. Còn con khỉ, con gấu, hoảng loạn dựt đứt xích chạy biến. Sau đợt đại bác, các anh Vệ Quốc Quân một đơn vị Nam tiến đóng quân gần đó chia nhau đi tìm cứu những người bị nạn. Các anh tìm thấy em nằm chết giấc dước cái hố rác cạnh quán. Em không bị thương, chỉ bị sức ép. CÁc anh bế em về cứu chữa. Đơn vị Nam tiến này toàn người Huế, vừa đánh nhau ở Mặt trận Nam Trung Bộ rút về đây, chuẩn bị lên tàu trở ra Huế. Các anh thay phiên nhau săn sóc em và đặt cho em cái tên mới là Vệ, tức Vệ Quốc Đoàn. Hồi còn ở gánh xiếc, lão chủ đặt tên cho em là Tiểu La Thành. Còn tên ba má đặt thì em không còn nhớ nữa. Ra đến Huế anh chỉ huy đơn vị được Ban chỉ huy Trung đoàn điều động về chỉ huy trung đội ca nông bảy lăm ly. Anh ấy đem em theo làm liên lạc cho đơn vị từ đó đến nay.
Hiền hỏi:
-Rứa cậu không nhận được lệnh của Ban tham mưu Trung đoàn triệu tập về đội Thiếu niên trinh sát hay răng mà mãi chiều hôm qua cậu mới đến?
-Có... nhưng các anh ở trung đội ca nông không chịu cho mình đi. Các anh ấy nói: "Chú mi ở đây rồi các anh dạy cho làm phao thủ, oách bằng mấy tụi Thiếu niên trinh sát, đi làm chi!". Mình khóc hết nước mắt các anh cũng không cho. Mình ức qua, bỏ ăn hai bữa liền... Mãi đến chiều hôm qua, anh trung đội trưởng thương mình đói mới chịu ký giấy cho mình về nhập đội.
Tư-dát lúc này đang ngồi vắt vẻo ở khung cửa sổ. Nó bỗng nhảy phốc xuống đất và kêu lên với giọng ngạc nhiên thật sự
-Ơ tề! Rứa là đội mình lại thêm một thằng nữa không có họ!


--------------------------------------------------------------------------------


9

Trời sập tối. Bầu trời đêm thấp nặng lạ thường. Từ phía cửa Thuận An mây đen xám xít, tầng tầng lớp lớp cứ ùn ùn kéo mãi về như muốn lấp cho bằng kín khoảng trời thành phố.
Góc trời phía Nam thành phố chợt léo sáng. Đó là ánh chớp từ miệng "Ông già bảy lăm" đặt ở lưng núi Ngự Bình, khạc đạn xuống khu vực Pháp, mở đầu cho đợt tấn công của quân ta đêm nay, đêm thứ hai mươi sáu của cuộc chiến đấu bao vây thành phố.
Theo lệnh của đội trưởng, toàn đội Thiếu niên trinh sát đã tập họp thành đội hình chữ U ở gian buồng giữa.
Im lặng. Chờ đợi. HỒi hộp.
Ngọn đčn bão đặt trên bàn kê sát tường, chiếu sáng những bộ quân phục thùng thình, những cái mũ ca lô, bê rê, mũ cứng Tiếp phòng quân... Chiếu sáng những cặp mắt long lanh, những cái mũi hếch lên chờ đợi, những cái miệng hé mở sốt ruột...
Cốp! Cốp! Cốp! Đội trưởng từ ngoài cửa chính bước vào vững chãi trong bộ quân phục màu xám. Lưng thắt xanh-tuya-rông da, chân dận giày đinh cao cổ. Dáng anh thật đẹp. Anh đội mũ ca lô dạ màu rêu, hơi lệch một tí, để lộ nửa mái tóc chải mượt.
Trước mặt các chiến sĩ nhỏ tuổi của mình, đội trưởng bao giờ cũng ăn mặc, đi đứng, nói năng rất đúng tác phong kỷ luật quân đội.
Toàn đội rất hãnh diện về người chỉ huy của mình.
Nhiều đứa còn cố bắt chước anh từ cách đi, đứng, hô khẩu lệnh, đến tất cả những cử chỉ đưa tay đưa chân. Có đứa còn chú ý nhận xét đội trưởng bao giờ bước đi cũng bước đi cũng bước chân trái trước, và tập làm theo.
Tối hôm đó, Vịnh-sưa làm trực nhật. Nó cũng gọn gàng chững chạc không kém gì đội trưởng, chỉ mỗi tội bộ quân phục khá rộng, nên không được oai cho lắm.
Từ trong hàng bước ra, Vịnh hô toàn đội đứng nghiêm. Giọng nó sang sảng, rất đúng quy cách khẩu lệnh. Bắt chước đội trưởng, nó đứng yên lặng mấy giây, đưa mắt nhìn bao quát cả đội, kiểm tra hàng ngũ khi đã thật ưng ý, mới rắn rỏi tiến lại trước mặt đội trưởng với những bước đi đều. Nó dừng lại cách đội trưởng ba bước, giật mạnh cánh tay đưa lên ngang vành mũ chào, dőng dạc báo cáo quân số:
-Toàn đội tập họp ba mươi hai chiến sĩ. Đủ! Hết!
Đội trưởng đưa tay chào lại, cho đội trở về tư thế nghỉ và ngồi xuống. Anh nhìn chiến sĩ trực nhật, nhìn toàn đội với ánh mắt âu yếm khác hẳn mọi hôm.
Anh bước đến cạnh bàn, rút cuốn sổ tay trong túi ngực, đặt xuống ngọn đčn bão. Anh báo cáo với đội:
-Đêm qua quân ta, cả hai Mặt trận khu B và khu C đã đồng loạt tiến công quyết liệt các vị trí của giặc như ga-ra La-cờ-roa, Viện Dân Biểu, nhà Dây Thép, lầu Công Chánh... Một đơn vị cảm tử thuộc Mặt trận khu B đã khiêng bốn quả bom vào chính giữa khách sạn Mo-ranh giật sập một tầng lầu, giết gần năm mươi tên giăc, thu tám súng trường một tiểu liên, thiêu huỷ một kho xăng và nhiều lốp ô tô... Trên con đường trước cửa hàng Ngân Hàng, một chiếc xe tăng của giặc có gắn đại bác bô-pho, bắn dồn dập vào một đơn vị quân ta bố trí gần đó. Vừa bắn chiếc xe tăng vừa chồm lên, lao thẳng vào giữa đội hình quân ta, định chà nát cả đơn vị dưới xích sắt. Tính mạng mấy chục chiến sĩ ta chỉ còn treo trên sợi tóc. Ngay lúc đó, một chiến sĩ đứng phắt ngay dậy, ôm một trái bom ba càng, xông thẳng đến trước mũi chiếc xe tăng. Anh lao cả người cùng trái bom vào khối htép đồ sộ như hòn núi. Chiếc xe tăng giặc nổ tung, xích sắt đứt lìa, nằm bẹp dí một đống như đống bùn. Người chiến sĩ cảm tử hy sinh nhưng đơn vị đã được cứu thoát...
Cả đội gần như nín thở, miệng há ra, mắt không chớp, nuốt lấy từng lời của đội trưởng. Nhiều tiếng xuyét xoa bật lên, cả đội vỗ tay rần rần, hoan hô chiến công tuyệt vời của người chiến sĩ cảm tử. Đội trưởng đứng lặng một phút nhìn các em. Chính anh cũng lấy nỗi xúc đôngj bồng bột của các em. Một câu văn có lần anh đọc trong một cuốn sách nào đó, lúc này vụt chói ngời trong trí nhớ anh: "Những hành động anh hugnf, những tình cảm cao cả, những sự tích phi thường, là món ăn tinh thần tốt nhất, để nuôi dưỡng tuổi thơ."
Tư-dát ngồi ở hàng phía sau, nhúc nhích cựa quậy liên tiếp như bị kiến đốt. nó quay sang bên phải, bấm khẽ vào đùi Vịnh-sưa, ghé sát miệng thì thầm vào tai bạn:
-Lao chứ cậu?
-Lao cái chi? - Vịnh-sưa cau mặt hỏi.
-Còn lao cái chi nữa! Lao cả người với bam ba càng vô xe tăng tụi Tây ấy? - Tư-dát thì thầm trả lời với vẻ mặt đặc biệt nghiêm trang ít khi thấy ở nó. - Nếu gặp trường hợp như anh cảm tử quân đội trưởng vừa kể, cậu có dám lao bom như anh ấy không?
-Rứa cậu?
-Nhứt định là tớ lao! - Cặp mắt Tư-dát loé sáng hăm hở - Chết là cùng chớ chi? Một mình chết cho bao nhiêu người sống, chết như rứa mới sướng!
Vịnh-sưa từ trước đến nay vânc ho Tư-dát chỉ được cái giỏi làm hề chọc anh em cười chứ chẳng làm được cái gì ra trò. Nhưng lúc này, nhìn vẻ mặt và nghe giọng nói khác lạ của bạn, Vịnh-sưa bỗng tin là cậu ta có thể lao cả người và bom ba càng vào xe tăng giặc thật.
Mừng nôgì phía sau Vịnh-sưa, dỏng tai nghe hai bạn trò chuyện. Nó chợt ghé sang hỏi Tư-dát:
-Anh Tư này, rưát trái bom ba càng to ước chừng mô anh? Có nặng lắm không?
-To nhỏ thì việc chi đến cậu? - Tư-dát hỏi lại Mừng. Mừng rụt rč nói:
-Tui sợ trái bom to quá tui na* răng nổi mà lao?

--------------------------------------------------------------------------------------
*bưng
---------------------------------------------------------------------------------------

-Ủa, cậu mà cũng đò lao cả bom ba càng nữa kia à?
-Anh lao được thì tui cũng lao được!
-Ban chỉ huy Trung đoàn sáng nay đã quyết định.- Tiếng đội trưởng cất cao, cắt ngang câu chuyện của hai đứa. Anh rút tờ giấy đánh máy có dấu son đỏ, kẹp trong cuốn sổ tay, ghé bên ngọn đčn bão, dőng dạc đọc: "Do tình hình khẩn trương của Mặt trận, Đội thiếu niên trinh sát của Trung đòn tạm dừng đọt huấn luyện. Đúng tám giờ sang ngày... tháng 12 năm 1946 toàn đội phải có mặt đầy đủ tại Chỉ huy sở Mặt trận khuC để nhận nhiệm vụ chiến đấu.
Cả đội ngồi lịm có đến một phút. Im lặng đến nỗi nghe rő tiếng con thạch sùng tặc lưỡi trên trần nhà. Bất thần vọt lên như những chiếc pháo thăng thiên, cả đội vụt đứng dậy. CÁc em lột mũ, tung tới tấp lên trần nhà, vừa nhảy như choi choi vừa vỗ tay hoan hô đến muốn vỡ cả ngôi lầu doanh trại. Như để hưởng ứng nỗi vui mừng cuồn nhiệt của các chiến sĩ nhỏ tuổi, đúng lúc đó, phía mặt trận tiếng súng đủ các cỡ, tiếng lựu đạn bom mình... rộ lên từng đợt dài không ngớt.
Và những phút như thế này không thể làm sao không hát!
Tất cả chẳng đợi ai bắt nhịp, cùng một lúc vươn thẳng người, căng lồng ngực, cất cao giọng rập ràng hát vang:
"Đoàn Vệ Quốc Quân một lần ra đi.
Nào có mong chi đâu ngày trở về
Ra đi ra đi bảo tồn sông núi
Ra đi ra đi thà chết không lui..."
Khi đội đã trở lại trật tự, đội trưởng nói giọng mềm hẳn đi:
-Anh hết sức xúc động và cũng hết sức vui mừng thấy các em náo nức đến thế khi được tin sắp ra Mặt trận! Những ngày sắp tới đối với người chiến sĩ trinh sát chúng ta sẽ là những ngày tuyệt đẹp, nhưng đồng thời cũng đầy gian khổ hiểm nghčo. Trong chiến đấu các em có thể bị thương, bị giặc bắt, thậm chí có thể hy sinh. Nhưng chưa lúc nào như lúc này, anh thấy tin tưởng một cách sâu sắc rằng, những ngày sắp đến dù vấp phải gian khổ hiểm nghčo đến đâu, nhất định các em cũng sẽ làm đúng được như lời các em vừa hát: "Ra đi ra đi thà chết không lui..."
Giọng anh bất chợt vang to lên như đang nói trước cả một đoàn quân:
-...Chúng ta quyết định ra đi thà chết không lui, để góp phần cùng các anh lớn đánh đuổi bọn thực dân cướp nước ra khỏi bờ cői Tổ quốc thân yêu của chúng ta. Khi đất nước đã tự do, Tổ quốc đã hoàn toàn độc lập, thì nhất định người Việt Nam chúng ta sẽ được hưởng một cuộc đời sung sướng, hạnh phúc gấp trăm nghìn lần hôm nay... Lứa tuổi các em sẽ không còn phải đi ở, đi làm xiếc rong, đi bán kẹo, bán báo để kiếm miếng ăn hàng ngày như các em trước đây đã phải chịud đựng. Tuổi nhỏ ai ai cũng được cắp sách đến trường, được ca hát vui chơi... Đến tuôi khôn lớn các em sẽ được thoả sức đem hết tài năng sức lực của mình cống hiến cho Nhân Dân, Tổ Quốc. Người già lão sẽ được vào an dưỡng đường an dưỡng tuôi già. Những người ốm đau, bệnh tật sẽ được vào nhà thương không mất tiền, có đầy đủ thuốc men chữa cho lành bệnh...
Từ trong hàng bỗng có một đứa rụt rč đưa tay lên, làm đội trưởng phải ngừng lời. Anh cầm cây đčn bão đưa cao nhìn xem em nào.
-Mừng đấy à? - Đội trưởng hỏi, hơi nheo mắt lại - Em muốn hỏi gì à?
Mừng bối rối đứng lên. Nó rụt chân xuôi hai tay đứng nghiêm, chớp chớp mắt ấp úng hỏi:
-Dạ... dạ thưa anh... dạ đến lúc đó thì người bị mắc bệnh hen suyễn khinh niên có chữa được lành không ạ?
Cả đội ngoảnh lại nhìn Mừng. Như mọi bận chắc nhiều em đã phá lên cười vì cậu hỏi ngẩn ngẩn ngơ ngơ của Mừng. Nhưng lúc này không em nào cười. Nhiều tiếng suỵt suỵt ra hiệu cho Mừng không được hỏi ba láp như thế nữa.
Vịnh-sưa hót hải nhớn người lên, túm lấy thắt lưng Mừng kéo rị xuống, khẽ gắt:
-Cậu không thấy đội trưởng đang nói chuyện quan trọng đánh Tây cứu nước... cậu lại đi hỏi chuyện bậy bạ ho suyễn kinh niên?
Vịnh nhìn lên đội trưởng như có ý xin lỗi về sự thiếu sót của tổ viên mình: "mừng nó mới vô Vệ Quốc Quân, nó còn dại lắm, anh ta lỗi cho nó" cặp mắt nó như muốn nói vậy.
Đội trưởng vẫn không rời mắt nhìn Mừng. Anh đang tự hỏi:
"Làm sao chú bé không nhà cửa, không mẹ không cha không có cả họ này lại đặc biệt quan tâmd dến người mắc bệnh hen suyến?". Anh chợt nhớ cách đây dăm hôm. Lúc đó cũng đã đến mười, mười một giờ đêm, anh đang ngồi soạn khoa mục cho buổi tập sáng mai. Chợt Vịnh-sưa đẩy cửa bước vào đứng nghiêm báo cáo: "Báo cáo anh, Mừng nó rất vô kỷ luật. Em bừa bắt gặp nó trčo tót lên tận ngọn cây bút bút đằng sau doanh trại, cái cây cao nhất vườn mà anh có lệnh cấm không được ai trčo lên ấy...". Anh phải sợ hãi kêu lên: "Trời! Cái thằng! Đêm hôm khuya khoắt thế này nó trčo lên làm gì trên ấy? Ngã một cái thì tan xương còn gì". Vịnh nói: "Dạ, nó trčo để hái lá tầm gửi đậu cheo leo trên cái ngọn chót vót nhất ấy. Hái cả một ôm tướng. Em gọi nó xuống hỏi: "Cậu hái làm chi cái thứ lá ba láp đó mà trčo cây giữa lúc nửa đêm, lỡ ngã mần răng?" Nő cãi lại em: "Thứ lá tầm gửi ni quý lắm chứ anh tưởng! Cắt nhỏ, phơi khô, sao vàng, hạ thổ, rồi sắc lên mà uống thì mắc bệnh hen suyễn kinh niên nặng mấy cũng lành". Em tức quá hỏi: "Ai bày bậy bạ cho cậu rứa mà cũng dại dột nghe theo?" Nó nói: "Cụ Ba trà già nhất trong xóm tui bày. Đây là môn thuốc gia truêỳn quý nhất của cụ. Cụ thương tui lắm cụ mới bày cho chứ người khác a, có thuê vàng, cụ ấy cũng chẳng bày cho mô"..."Chắc trong cuộc đời chú bé này có một uẩn khúc gì đây?" Anh nghĩ vậy rồi ôn tồn hỏi:
-EM muốn biết sau khiđã đánh đuổi hết bọn thực dân, nước ta đã được hoàn toàn độc lập, thì những người bị mắc bệnh hen suyễn kinh niên có thể chữa lành được không, có phải thế không em?
-Dạ phải ạ... - Mừng trả lời, giọng hồi hộp.
-Vậy thì anh xin cả quyết nói với em rằng, không những chỉ bệnh hen suyễn kinh niên, mà cả những bệnh hiểm nghčo khác, cũng sẽ được chữa khỏi. Vì lúc đó mọi thứ thuốc men tốt nhất, mọi thứ máy móc dụng cụ chữa bệnh công hiệu nhất, đều được dành để chữa cho nhân dân lao động, trong đó có các em, cha mẹ, ông bà các em. Những thứ này, dưới thời nô lệ, chỉ dành riêng cho bọn thực dân, vua quan, bọn giàu có, lắm tiền nhiều của mà thôi, những người như anh em chúng ta đừng có hòng mà rờ đến! Em còn muốn hỏi gì thêm nữa không?
-Dạ thôi ạ. - Mừng vui sướng đáp to. Cặp mắt của em ngời lên, long lanh dưới bóng sẫm vành mũ cứng đội sụp quá nửa mặt, ngước nhìn đội trưởng cảm kích, biết ơn.
Rồi như không sao kiềm giữ nổi niềm sao xuyến, bồng bột trong lòng, Mừng chồm qua vai Vịnh-sưa thì thào nói với Tư-dát:
-Anh Tư nì, độc lập sướng quá anh hč?
Tư-dát cho câu hỏi của Mừng là thừa. Nó đáp, không thčm quay đầu lại:
-Chuyện! Độc lập mà không sướng thì tội vạ chi cả nước lăn lưng ra Mặt trận nện nhau với tụi Tây, bể đầu chảy máu!


Title: Hồi âm: TUỔI THƠ DỮ DỘI {Phùng Quán}
Post by: kem on 01/10/06, 11:16
xin phép chú cho cháu bon chen 1 phát!!!!


hiz, truyện này hay dễ sợ luôn!!!! đọc lúc đầu ko có hứng lắm nhưng càng đọc càng thấy hay!!!!! phê ko chịu được, h nhớ lại thấy thương thương!!!!
Title: Hồi âm: TUỔI THƠ DỮ DỘI {Phùng Quán}
Post by: kem on 01/10/06, 11:23


Phùng Quán (1932- 1995) Sinh tại Thừa Thiên - Huế. 13 tuổi tham gia Vệ quốc quân - chiến sĩ Trinh sát Trung đoàn 101.(tiền thân là Trung đoàn Trần Cao Vân)
***
Cả cuộc đời ông Là một nỗi buồn to lớn, dằng dặc của một tâm hồn yêu nước, thương nòi, ngay thẳng, chân thật mà phải chứng kiến quá nhiều bất công dối trá:





"Tôi muốn đúc thơ thành đạn
Bắn vào tim những kẻ làm càn
Những người tiêu máu của dân
Như tiêu giấy bạc giả!
Tôi đã đến dự những phiên toà
Họp suốt ngày luận bàn xử tội
Những con chuột mặc quần áo bộ đội
Đục cơm khoét áo chúng ta
Ăn cắp máu dân đổi chác đồng hồ
Kim phút kim giờ lép gầy như bụng đói"





"Yêu ai cứ bảo là yêu
Ghét ai cứ bảo là ghét
Dù ai ngon ngọt nuông chiều
Cũng không nói yêu thành ghét
Dù ai cầm dao doạ giết
Cũng không nói ghét thành yêu
Tôi muốn làm nhà văn chân thật
chân thật trọn đời
Đường mật công danh không làm ngọt được lưỡi tôi
Sét nổ trên đầu không xô tôi ngã
Bút giấy tôi ai cướp giật đi
Tôi sẽ dùng dao viết văn lên đá"





"Tôi có quyền gì được no hơn nhân dân tôi một miếng ăn?
Tôi có quyền gì lên xe xuống ngựa
Khi gót chân nhân dân tôi nứt nẻ bụi đường?"





"Một niềm yêu tôi không đổi thay
Một niềm tin tôi không thay đổi
viết trên giấy có kẻ giòng
Là nhà văn
Tôi đã viết suốt 30 năm
là chiến sĩ
Tôi là xạ thủ cấp kiện tướng trung đoàn
Tôi có thể viết như bắn
....
Không có gì đẹp hơn
Viết ngay và viết thẳng
Là nhà văn
Tôi yêu tha thiết
Sự ngay thẳng tột cùng
Ngay thẳng thuỷ chung
Của mỗi chữ viết"
"Có những phút ngã lòng
Tôi vịn câu thơ mà đứng dậy"





"...Với một Gavroche, Vitor Hugo đã viết nên những trang bất hủ. Trẻ em của chúng ta đã anh dũng, hồn nhiên tham gia cuộc đấu tranh trường kỳ gian khổ cùng với cha, anh; không kém gì những Gavroche trên chiến luỹ cách mạng Pháp. Thế mà sách vở viết về mặt này còn quá ít. Nhà văn Việt Nam còn mắt nợ các em rất nhiều.
Với TUỔI THƠ DỮ DỘI, Phùng Quán đã bắt đầu trả nợ một cách chính đáng. Sách dày 800 trang mà người đọc không bao giờ muốn ngừng lại, bị lôi cuốn vì những nhân vật ngây thơ có, khôn ranh có, anh hùng có, vì những sự việc khi thì ly kỳ, khi thì hài hước, khi thì gây xúc động đến ứa nước mắt... Tôi chỉ mong làm sao cho tất cả các em thiếu nhi Việt Nam được đọc sách này"





Nguyễn Khắc Viện
Title: Re: TUỔI THƠ DỮ DỘI {Phùng Quán}
Post by: kem on 19/10/06, 23:22
10

Phía mặt trận tiếng súng thưa dần. Một vài tràng nổ rời rạc trước khi tắt hẳn. Đêm đã khuya lắm, bên ngoài trời vẫn rả rích mưa...
Trong ngôi lầu "doanh trại" đã im hẳn tiếng rì rầm chuyện trò của các chiến sĩ nhỏ tuổi.
Từng tổ một, nằm úp thìa trên những tấm phản, những mặt bàn kêu liền nhau, ôm nhau ngủ ngon lành. Nhiều chiếc chăn bị đạp tung, mấp mé tụt xuống đất. Có đứa nằm xoay ngang đầu lộn xuống chân, chân gác lên bụng bạn nằm bên cạnh. Có đứa bật lên cười khúc khích, ú ớ nói mê... Có lẽ đây là giấc ngủ ngon lành bình thản nhất của những chiến sĩ trước giờ ra trận.
Ngôi lầu chìm nghỉm trong bóng tối sâu thẳm, ướt át mưa đêm. Chỉ còn một khoảng sáng rất nhỏ ở tầng gác hai. Đó là gian phòng làm việc của đội trưởng. Anh đang ngồi cắm cúi viết dưới ánh sáng tù mù của ngọn đčn bão. Anh chuẩn bị giấy tờ cho các tổ sáng mai đến nhận nhiệm vụ ở các đơn vị. Anh nghiên cứu sắp xếp phiên chế lại các tổ, để làm sao mỗi tổ đều có đội viên đã từng được tham gia chiến đấu, và đội viên mới; đội viên giỏi chuyên môn, nhanh nhẹn, tháo vát và đội viên chậm, ít sáng kiến...
Sau khi soát lại danh sách đội viên và đọc kỹ lý lịch của các em, anh phát hiện ra rằng quá hai phần ba số đội viên đã nhập ngũ rất sớm. Các em Du, Phát, Chà, Nghĩa-kỳ, Ba, Châu, Lượm, Quỳnh, Tề, Dật... có em nhập ngũ tháng 12 năm 1945, có em tháng 1 năm 1946. Hơn một nửa số độ viên đã tham gia chiến đấu từ ngày đầu nổ súng.
Trường hợp nhập ngũ của nhiều em thật đặc biệt và khá tức cười, hiếm thấy trong lý lịch các chiến sĩ lớn tuổi. Nếu Cách Mạng là một dòng sông, và cuộc đời của mỗi chiến sĩ là một con suối đổ vào dòng sông đó, thì các em lại là những tia nước nhỏ bé, bất ngờ vọt ra từ một kẽ đá, một vết nứt trên thân cây, hoặc trút xuống từ một đài hoa gió thổi nghiêng... Nhưng cái điều kỳ thú là những tia nước mỏng manh nhỏ bé ấy đã tự len lỏi hoà vào dòng sông Cách Mạng hùng vĩ, lúc nào không ai hay.
Trước khi vào Vệ Quốc Đoàn, Hoà-đen làm ngề bán đậu phụng rang nóng dòn.
Em Bồng lại chuyên nghề "bánh mì mới ra lò" từ năm mười hai tuổi. Những buổi sáng mùa đông mưa dầm lạnh cắt ruột, trong lcú những đứa trẻ khác bằng tuổi nó còn nằm cuộn tròn trong chăn ấm, mếu máo với quà sáng, Bồng phải mong manh áo cộc, quần đùi, đứng run lập cập trước lò bánh chờ đến lượt đếm bánh. Đếm xong, nó khoác cái bị bánh to che khuất cả người lên vai, đi vòng hết phố này sang phố khác. Nó cố lấy hơi để rao cho những người đang cuộn tròn trong chăn ấm nghe tiếng: "Bánh mì nóng giòn mới ra lò đê...ê...ê". Hồi bọn Tàu Tưởng còn đóng ở Huế, một hôm, nó thừa cơ nẫng luôn của một tên lính Tàu say rượu, khẩu súng "tôm-sơn" nước thép còn xanh biếc. Nó tuồn khẩu súng vào bị bánh mì, rồi đàng haòng khoác lên vai lảnh lót rao: "Ai... bánh mì nóng mới ra lò đê...ê..." Nó đi thẳng đến đơn vị Vệ Quốc Đoàn đang ở Cung An Định mà sáng sáng nó vẫn thường bán bánh cho các anh. Nó nộp các anh khẩu súng mà báng và nòng còn nóng sực vì bị vùi giữa đống bánh mì nóng mới ra lò. Nó ủng hộ luôn cả bị bánh mì để các anh "thời" cho ấm bụng. Nó nói: "Bị bánh là của nhà chủ. Mất bớt một bị, lão ta chẳng nghčo đi mô mà các anh lo. Còn khẩu súng là của em. Các anh phải thưởng công cho em, cho em được vô VỆ Quốc Đoàn. Em chán cái kiếp đi ở tớ cho người ta lắm rồi!"
Tư-dát, cái chú đội viên miệng liến láu suốt ngày, lúc nào cũng làm trò hề chọc cho cả đội cười, và nhát gan thì không ai bằng, thế mà đã từng làm một việc liều lĩnh nhất đời. Trên đường đi học về - nó học năm đệ nhất trung học trường Khải Định - Nó ghé vào Ga Lớn xem tàu hoả đỗ lại. Đúng hôm đó, cả đoàn tàu chở Vệ Quốc Quân nam tiến. Các anh ngồi trên các toa tàu căng đầy khẩu hiệu, biểu ngữ: "Nam bộ là máu của máu Việt Nam, là thịt của thịt Việt Nam!" "Thà chết không quay lại đời nô lệ!..." Các anh rập ràng vỗ tay hát vang: "Xếp bút nghiên lên đường tranh đấu... Xếp bút nghiên coi thường công danh..." Nó liền liệng luôn cái cặp sách xuống sông, lén nhảy lên tàu, trốn theo đoàn quân Nam tiến. Tàu đến ga Truồi, nó mới bị phát hiện và giữ lại. Người ta nhờ chuyến tàu ra Huế gửi trả chú về nhà. Nhưng nó cứ bíu chặt lấy các anh vệ Quốc Quân Nam tiến mà khóc: "Các anh mà trả em về nhà thì cha mạ em tuốt xương em ra. Cha mạ em giữ đòn lắm!" Các anh hỏi: "Nhưng chú mình nghĩ ngợi cách răng mà đang đi học lại nhảy bừa lên tàu trốn vô thấu đây?" Chú liến láu nói: "Chỉ tại các anh hết. Các anh cứ vỗ tay mà hát rầm trời: Xếp bút nghiên lên đường tranh đấu... làm em không nhịn nổi, phải xếp bút nghiên theo các anh...", - "Rứa bút nghiên chú mình xếp vô mô cả rồi?", - "Dạ em xếp hết xuống sông Hương với cả cái cặp da mới nữa... Bởi rứa chừ mà về nhà thì cha mạ em tuốt xương em ra...". Chú cứ vừa mếu, vừa khóc vừa liến láu làm các anh không nhịn được cười. Cuối cùng các anh đành phải cho chú nhập đơn vị. Đơn vị chú vào đến ga lăng Cô, được điện của Ban chỉ huy trung đoàn chỉ thị ở lại đây bổ xung cho tiểu đoàn Mười Tám lúc này đang đóng ở vùng Nước Ngọt., Cần Hai. Tư-dát trở thành liên lạc viên của tiểu đoàn Mười Tám từ đó.
Rồi trường hợp nhập ngũ của các em Lượm, Châu, Ba, Kỳ, Quỳnh... Của Vệ-to-đầu...Và gần đây nhất là trường hợp nhập ngũ của Mừng... Mà mỗi lần chợt nghĩ đến anh lại phải bật cười: Cái thằng...
Đội trưởng Lê Thắng trước cách mạng Tháng Tám là học sinh trường Kỹ Nghệ thực hành Huế. Ngay sau ngày Cách mạng thành công, anh ra nhập VỆ Quốc Đoàn và được đề bạt làm Trung đội trưởng chỉ huy một trung đội Tiếp Phòng Quân. Mấy tháng sau, anh được điều động về ban Tham mưu trung đòan công tác ở Phòng Tình báo. Huế nổ súng. Ban Tham Mưu quyết định tập trung tất cả các em liên lạc của trung đoàn, thành lập đội Thiếu niên trinh sát. Tham mưu trưởng chỉ định anh về phụ trách Đội. Thật tình lúc được trao nhiệm vụ, anh chẳng lấy gì làm phấn khởi. 'Một sĩ quan tình báo lại về chỉ huy một sắp trẻ con hỉ mũi chưa sạch, thật chán chết!". Anh thầm nghĩ vậy. Nhưng chỉ sau một thời gian sống gần gũi các em, để tâm tình tìm hiểu hoàn cảnh gia đình và trường hợp tham gia bộ đội của mỗi em, anh trở nên gắn bó, yêu mến cái đơn vị nhỏ bé này biết bao.
Thật ra, khi chưa tiếp xúc với các em, anh đã nghĩ về các em với kinh nghiệm cuả bản thân. Đời anh cũng có một quãng tuổi thơ như các chiến sĩ nhỏ tuổi mà anh đang phụ trách, chỉ huy. Nhưng đó là một tuổi thơ tầm thường. Chẳng có gì đáng ghi nhớ... Những trò nghịch ngợm ranh mãnh, những trận đòn của bố mẹ, những lo lắng hồi hộp trước các kỳ thi.... Quãng tuổi thơ đó lướt qua cuộc đời anh không để lại dấu vết gì, như dòng nước lặng lẽ chảy qua một khoảng trời bằng phẳg và dốc. So với tuổi thơ các chiến sĩ bé nỏ anh đang phụ trách, khác xa biết bao! "Trong tương lai - anh thầm nghĩ - các đội viên của anh, qua cuộc chiến đấu vĩ đại này, sẽ hổi tưởng lại tuổi thơ của mình. Ôi, tuổi thơ của đời ta đẹp đẽ biết bao! Nó đã được gắn liền với vận mệnh, với sự sống còn của đất nước và của Cách Mạng từ thuở còn trứng nước!"
Title: Re: TUỔI THƠ DỮ DỘI {Phùng Quán}
Post by: kem on 19/10/06, 23:24
11

Đội trưởng mải mê chìm đắm trong công việc và suy tưởng, nên không nghe thấy tiếng cánh cửa kẹt mở và tiếng chân rón rén bước vào phòng.
Một ngọn gió lạnh thổi thốc vào làm ngọn đčn dầu trên bàn lung lay, chao đảo. Anh vội đưa bàn tay khum khum che chỗ thủng trên bóng đčn và ngẩng lên.
Vịnh-sưa đang đứng trước mặt anh. Anh ngạc nhiên, đặt bút xuống hỏi:
-Sao em chưa đi ngủ? Có việc gì thế em?
Vịnh-sưa đứng nghiêm lại:
-Báo cáo anh, Mừng nó bỏ trốn khỏi đội!
-Trốn à? Trốn từ bao giờ? - Đội trưởng hỏi như có vẻ không tin chuyện đó. - Đầu đuôi ra sao em kể anh nghe xem nào.
-Cách đây khoảng nửa giờ, em đang ngủ bỗng choàng tỉnh dậy. Em đưa tay sờ thì không thấy Mừng nằm cạnh em. Em tưởng nó ngủ mê lăn rớt xuống đất như mấy lần trước. Em nhảy xuống đất, sờ khắp cả buồng cũng không thấy. Em đoán hay là nó đau bụng ra vườn đi ca-bi-nê. Em nằm chờ một lúc lâu không thấy nó trở vô. Em lo quá, lỡ nó đang dâu gặp phải gió lạnh rồi ngất luôn ở ngoài đó. Rứa là em chạy ngay ra vườn để tìm. Vườn tối quá lại thêm mưa lắc rắc. Em tìm quanh tìm quẩn mãi. Chợt nghe có tiếng khóc thút thít ở chỗ góc cuối vườn. Em chạy lại hỏi: "Có phải mi đó không Mừng?" Nó không nói chi hết, cứ ngồi thu lu ở gốc cây mà khóc to hơn. Em hỏi chi nó cũng không nói, cứ khóc hoài. Tức quá, em nói: "Được, cậu cứ ngồi đó mà khóc cho chán đi. Tớ vô báo cáo với đội trưởng là đang nửa đêm cậu bỏ trốn khỏi đội" Rứa là nó đứng ngay dậy, níu lấy tay em van vỉ: "Đừng, anh đừng báo cáo với đội trưởng mà tội tui... Anh tha cho tui lần ni, lần sau tui không dám làm rứa nữa mô..."
-Thế bây giờ Mừng đâu rồi?
-Dạ nó đã đi vô đứng trong mái hiên gần bếp. Mà nó cứ khóc, em dỗ chi nó cũng không nín.
-Nhưng em căn cứ vào đâu mà cho là Mừng định bỏ trốn khỏi Đội?
-Nó không định bỏ trốn thì can chi nửa đêm lại mò ra ngoài vườn ngồi khóc một mình dưới trời mưa? Em chắc nó nghe tin ngày mai Đội ra mặt trận, nó sợ, định bỏ trốn. nhưng ra đến ngoài vườn trời tối quá, không biết đường mô mà mò đi, nên đành ngồi khóc... Em không ngờ nó hčn đến nước ấy! Nó làm xấu mặt cho cả tổ em! Vịnh-sưa kết thúc câu chuyện với giọng tức tối, phẫn nộ.
-Em xuống gọi Mừng lên đây anh gặp.
-Rő! Vịnh-sưa đưa tay lên ngang mày chào anh, quay ra với động tác đằng sau quay. Đội trưởng nhìn theo cái dáng nhỏ bé của Vịnh, khuất dần dưới các bậc cầu thang, thầm nghĩ: "Chú bé này tương lai sẽ là một chiến sĩ kiểu mẫu trong sinh hoạt cũng như trong chiến đấu. Và nếu chú ta được đề bạt làm chính trị viên, chắc chắn sẽ là một chính trị viên rất cừ".
Lát sau, Vịnh-sưa dẫn Mừng vào phòng. Vịnh đứng lùi lại khuất sau cái bệ lò sưởi. Mừng bước đến giữa phòng đứng sững lại, nhìn đội trưởng với đôi mắt của người sẵn sàng nhận tội. Cái mũ cứng và bộ quân phục rộng thùng thình của nó thẫm lại từng mảng lớn vì thấm ướt nước mưa. Chắc nó ở ngoài trời đã khá lâu, hai má và mắt nhoč nhoẹt nước mưa lẫn nước mắt. Cả gương mặt nó có một vẻ gì buồn khổ khôn tả. Nhìn nó đội trưởng bỗng thấy nhói trong tim.
-Lại gần đây anh hỏi. - Đội trưởng nói giọng đặc biệt dịu dàng.
Mừng rụt rč bước lại, tì ngực vào mép bàn:
-Tại răng đang nửa đêm em lại ra ngồi ngoài vườn mà khóc?
Mừng vừa nói vừa nấc nhč nhẹ:
-Dạ... Em lỡ lần ni... Anh tha cho em... Lần sau em không dám rứa nữa...
-Có phải em định bỏ trốn khỏi Đội không?
Mừng cúi đầu khẽ gật:
-Dạ...
-Tại sao em lại trốn? Có phải em sợ ra mặt trận không? Nếu sợ, em cứ việc báo cáo với anh, anh sẽ cho em ra ngay khỏi Đội, việc gì phải trốn?
-Dạ... em có sợ chi cái chuyện ra mặt trận... - Mừng nấc to, một giọt nước mắt rơi xuống mặt bàn, nó vội đưa tay chùi đi và nói tiếp, giọng thổn thức.
-Dạ, em chỉ trốn đi một lúc rồi em lại quay về thôi mà...
-Em định trốn đi đâu mà chỉ trốn có một lúc?
-Dạ... dạ... em trốn về thăm mạ em...
-Thăm mạ à? - Đội trưởng sửng sốt. - Sao hôm xin nhập đội em khai là không có cha mạ chi hết, đi ở giữ em cho người ta?
-Dạ em nói rứa bởi sợ anh không cho em nhập Đội, bắt phải về xin phép mạ...
-Rứa mạ em làm nghề chi? Ngoài mạ ra nhà em còn ai nữa không? Em ngồi xuống đây kẻo mỏi chân.
Đội trưởng kéo Mừng ngồi xuống cái ghế đẩu cạnh anh. Anh dở mũ ướt thẫm nước trên đầu nó, đặt vào góc bàn, và rút mùi xoa lau mắt cho em. - Hãy kể cho anh nghe chuyện nhà em đi. - Giọng anh như giọng mẹ dỗ con.
Mừng biết là không thể giấu đội trưởng được nữa. Không kể cho anh nghe hết mọi chuyện, e chắc anh đuổi mình ra khỏi đội mất, nó tự nhủ thầm vậy.
Tranh cái nhìn dò hỏi của đội trưởng, hai mắt nó nhìn chăm chăm vào cái mũ ướt thấm nước mưa để ở góc bàn nó kể không mạch lạc, chốc chốc phải ngừng lại, cặp môi run rẩy cố nuốt tiếng khóc nấc chực trào lên cổ...
... Nhà em ở cuối đường kiệt nhớp nhúa nhất xóm Bao Vinh. - cái xóm ngoại ô nghčo khổ phía bắc thành Huế.
Mỗi lần trời mưa to, nước chẩy tứ tung trong nhà, mạ em phải lấy mo nang mà dọi. Dọi được chỗ ni lại dột qua chỗ khác. Nhiều bữa ngồi trong nhà mà hai mạ con phải đội nón. Trong nhà chỉ có bức phản mọt gãy mất một chân, phải kê thay chồng gạch. Với thêm cái chőng tre vừa hai mạ con nằm. Cái sân trước nhà rêu phủ xanh lč lč, trời mưa, vô ra không bấm chân là vồ ếch ngay...
Mạ em là chị Niệm, làm nghề bán bún bò gánh. Bún bò của mạ em ngon mà rẻ nhất chợ Bao Vinh. Buổi sáng, ai cũng hong hóng chờ "Gánh bún bò chị Niệm" mới ăn.
Trước tê nhà còn có cha em. Cha em tên là Năm, mặt rất dài nên cả xóm gọi là ông Năm-ngựa. Cha em cao to mà dữ tợ ghê lắm, ngực xăm đầy rồng rắn. Cha em rất giỏi vő, trong người lúc mô cũng dắt dao. Cả vùng Bao Vinh ai cũng kiềng. Đã có hai tay anh chị ngoài bến Bao Vinh bị cha em chém xả cánh tay....
Cách đây đã lâu, cha bỏ mạ em, đi lấy vợ hai bên Phú Cam rồi ở luôn bên đó. Nhưng cứ năm bữa nửa tháng, cha em lại mò về nhà, hạch sách hành hạ mạ em. Bắt mạ em phải mua rượu, lòng heo, nước mắm ngon về cho ăn, ăn xong lại quệt miệng đi. Gặp bữa mạ mua phải lòng heo không béo, không ngon, cha co chân đá phốc hết xuống đất, rồi chửi, đập mạ em tối tăm mặt mũi. Nhiều lần cha còn lột hết áo quần của mạ. Cột tóc mạ vô chân cột nhà, rồi cầm thanh củi mà phang. Đánh chán, cha cứ để mặc mạ nằm đó, bỏ đi. Em phải tháo tóc ra cho mạ, đỡ mạ em ngồi dậy. Đầu mạ em loà lên những máu... máu bết tóc lại thành nắm... Tóc mạ trước kia dài lắm, thả ra chải gần chấm gót. Rứa mà chừ rụng gần hết, búi lại chỉ còn lọn nhỏ hơn nắm tay em...
Mỗi lần thấy bóng cha về thấp thoáng ngoài ngő là em lủi ngay xuống bếp hay chui rào tót ra ngoài đường. Rồi cứ đứng đó khóc nghe cha mắng chửi đánh đập mạ trong nhà. Chờ cho cha đi khuất, em mới dám chạy vô, ôm mạ mà khóc. Có lần em tức quá hỏi mạ: "Cha đã đánh đập mạ hoài rứa, lại bỏ mạ mà đi, răng mạ còn cứ mua rượu, lòng heo với nước mắm ngon cho cha ăn làm chi cho uổng?". Mạ em ôm em khóc mà nói: "Đời mạ đắng cay cực khổ lắm con ơi...! Cha hành hạ đánh đập mạ chừng đó chứ hơn nữa mạ cũng phải cắn răng mà chịu. Mạ mắc ơn cha con nặng lắm con ơi...". Em thắc mắc: "Ơn chi rứa mạ?". Nhưng mạ em chỉ ôm chặt em hơn khóc nấc không thành tiếng, nhìn em với cặp mắt buồn rười rượi: "Con còn nhỏ dại quá... mạ làm răng nói cho con hiểu thấu được lòng mạ con ơi!"
Một bữa, em ra sông tắm, lúc chạy về đến đầu ngő thì nghe tiếng cha quát tháo trong nhà. Em liền vòng ra lối sau chui rào, rón rén đi vô hč nhà, ghé mắt nhìn qua lỗ phên thủng. Cha em đang ngồi trên phản, trước mặt là cái mâm gỗ đặt một đĩa lòng heo, chén nước mắm, chai rượu. Nhưng không thấy cha ăn uống chi hết. Cha ngồi một chân co trên phản mắt trừng trừng ngó mạ. Mạ ngồi xệt dưới đất, ngước lên nhìn cha. Cha dằn giọng quát: "Không có lôi thôi, mi có đưa đây không thì nói cho tao biết!". Em thắc mắc: "Không biết cha đòi mạ đưa cái chi mà gắt gao rứa?" Mạ khóc mếu máo, nói: "Tui lạy anh trăm lạy, nghìn lạy. Anh thương lấy mạ con rui, cả đời rui chắt bóp, nhịn đói nhịn khát, mới để dành cho con được một chút đó. Chừ anh mà lấy đi thì cực mạ con tui quá anh ơi! Thân tui đây, anh muốn hành hạ, đánh đập chi tuỳ ý, nhưng xin anh đừng lấy... Tội nghiệp tui lắm anh ơi...". Cha em hừ lên một tiếng hung tợn: "Đánh mi chỉ thêm nhớp tay! Đánh một con đĩ thì thà đánh con chó còn hơn!" Nghe cha nói, em suýt kêu to lên: "Ui chao! Răng cha lại nỡ nhiếc mắng mạ cái tiếng xấu xa đó?" Mừng chợt nhớ có một lần, cùng với tụi bạn trong xóm, nó chạy đuổi theo một người đàn bà, quần áo xốc xếch, mặt mũi son phấn loč loẹt. Nó cùng với các bạn cùng hò reo, vừa ném lői bắn, vỏ chuối vô lưng, vô đầu tóc người đàn bà: "Con đĩ! Con đĩ!" Có một đứa ném hòn đó trúng đầu người đàn bà, máu rịn ra ướt đỏ cả chân tóc. Nó không biết "con đĩ" là con chi, chỉ ham vui hùa theo tụi bạn và một số người lớn, để hành hạ người đàn bà tội nghiệp đó. Trong trí tưởng tượng của nó "con đĩ" là một loại người xấu xa gớm ghiếc cũng như con chó dại, con rắn độc... Mặt bừng bừng vui thích, nó chạy một mạch về nhà, gọi mạ từ ngoài ngő: "Con đĩ! Mạ ơi con đĩ". Mạ từ trong bếp bước ra đứng chôn chân nhìn em mặt tái xanh như tàu lá. Nó nhìn mạ, tự nhiên phát sợ, lo lắng hỏi: "Mạ đau hay làm răng rứa mạ?" Mặt mạ vẫn tái xanh run rẩy hỏi: "Con vừa kêu mạ cái chi rứa con?" Nó khoe: "ngoài phố có con đĩ mạ ạ. Rụi con chạytheo quăng vỏ chuối, cùi bắp, như mưa! Quăng sướng tay thôi! Con quăng cho con đĩ cái cùi bắp trúng bốp giữa lưng!" Nó tưởng mạ sẽ cười khen: "Con của mạ quăng giỏi thiệt!" Nhưng mạ không cười. Môi mạ tự nhiên trắng nhợt như tờ giấy. Cặp mắt mạ nhìn nó lúc đó sao giống hệt cặp mắt con chim nhỏ lúc người ta bóp cổ cho chết để làm thịt! Nó níu vạt áo mạ hoảng sợ kêu: "mạ, mạ! Làm răng rứa mạ?". Mạ đặt bàn tay lêu đầu nó, nói giọng run run: "Răng con lại đi ném người ta làm chi con? Lần sau con không được làm như rứa mà tội chết đó con". Nó nói: "Nhưng là con đĩ mà mạ?" Mạ bỗng như bị kiệt sức, không đứng vững được nữa, ngồi thụp xuống đất, kéo vào lòng. Giọng mạ như sắp khóc "Người ta cùng đường kiệt lối mới đến nông nỗi đó con ơi.... Phải thương xót lấy họ... Con còn nhỏ dại quá... con đã hiểu chi việc đời". Câu chuyện cũ hiện lên như một cái dằm lớn đâm suốt trí nhớ nó. Nó thấy ruột đau quặn lạ kỳ, hai bàn tay phải bíu chặt vào cái cột mái hč, mới đứng vững.
Mừng nức nở kể tiếp:
... Bên trong nhà, mặt mạ bỗng đanh lại, nhìn cha với cặp mắt của người cùng đường. Mạ nói: "Anh có giết tui thì giết, chứ tui không đưa cho anh mô!" Cha em trễ môi phì một tiếng, nói: "Giết mi làm chi cho thêm nhớp tay. Mi mà không đưa, tao ngồi đây chờ thằng con mi về tao sẽ nói rő ngọn ngành cho hắn biết mi là một con đàn bà nhơ nhớp như răng. Thằng con mi sẽ khinh mi chẳng khác chi con chó!" Như bị cha đập một búa trúng giữa thóp, mạ kinh hoàng ngồi dật lùi lại, kêu to:" Ui chao ôi, răng mà anh độc ác đến nước nơ! Anh róc xương hút tuỷ cả một đời tôi chưa đủ, mà anh lại còn nỡ lòng mô?..."
Mạ chống tay run rẩy đứng lên, vịn vịn dọc theo phên đi vô buồng, lát sau mạ trở lại, một bàn tay nắm chặt khư khư cái gì đó. Đi đến trước mặt cha, mạ mở xoà bàn tay ra. Giữa lòng bàn tay mạ là đôi bông tai vàng. Đôi bông tai mà mạ thường cất trong cái hộp diêm nhét đầy bông gòn, thỉnh thoảng lịa lấy ra cho em coi và nói: "Mạ cất để dành khi mô con lớn mạ cưới vợ cho con...". Mạ em nói, mặt rúm ró. Giọng lào thào như người bị hụt hơi: "Còn một chút đây, anh lấy luôn đi, rồi anh đi đi, đi luôn đi cho khuất mắt tui! Xin anh đừng về đây mà hành hạ mạ con tôi..." Như con cọp thấy mồi, đang ngồi, cha chồm ngay dậy, chộp lấy đôi bông tai vàng trong tay mạ đút liền vô bọc. Mạ vẫn đứng sững, ngó trân trân lòng bàn tay trống rỗng, cặp mắt dại hẳn đi. Bất ngờ mạ kêu to một tiếng xé ruột, rồi ngã vật xuống đất như bị chặt lìa ngang chân. Cha em bước qua người mạ, cắm đầu đi thẳng ra ngő...
"Đời mô con dám khinh mạ, mạ ơi!" Mừng bỗng nức nở tưởng như trước mắt không phải là đội trưởng mà là mạ đang nằm vật dưới đất, đầu tóc rũ rượi. Nó oà khóc, nước mắt chan hoà trên hai má, nhỏ liên tiếp xuống bàn. Đội trưởng phải đứng lên, ôm chặt nó vào lòng. Hai mắt anh cũng đỏ hoe...
-Nín đi em, nín đi... Anh không ngờ em lại khổ đến thế!
...Mạ em bị mắc bệnh hen suyễn nặng. - Mừng lau nước mắt, kể tiếp. - Thêm vô dó cha em cứ nhč vô giữa ngực mạ mà đá, mà đạp, nên càng ngày càng nặng hơn, hễ động trời là cơn hen suyễn lại hành hạ mạ. Có khi hai ba ngày liền, mạ ngồi gò lưng ôm ngực mà ho khan, khò khč kéo suyễn, em không sức nào chịu nổi. Em thấy ngực em cũng tức ran theo như bị ai dìm lâu xuống nước. Thương mạ, em khóc hết nước mắt. Em rang muối, bọc vào cái vạt áo rách, chườm ngực cho mạ. Em chườm cho đến tận đêm khuya, hai tay mỏi rời, các nhà hàng xóm đã tắt đền đi ngủ hết, vẫn còn chườm... Mạ em cứ giục hoài: "Con đi ngủ đi, mạ thấy đỡ nhiều rồi!" em vẫn không chịu đi. Đến lúc mệt quá, em gục vô lòng mạ ngủ thiếp lúc mô không hay...
Một bữa, cụ Ba Trà già nhất xóm, mách cho em: "Thứ lá tầm gửi đậu trên ngọn cây bút bút thật cao, chữa bệnh hen suyễn còn hay hơn thuốc tiên. Nhưng phải hái vào lúc nửa đêm, lúc lá đang ăn khí trời, uống sương móc, thì mới công hiệu. Lá phơi khô, sao vàng, hạ thổ, bỏ vô nồi đất, đổ năm chén nước trong, sắc lấy một chén. Chỉ uống chừng năm chén là bệnh rút, chục chén là bệnh khỏi".
Từ bữa đó, nó quyết đi tìm thứ lá thuốc tiên đó, chữa bệnh cho mạ. Khắp cả một vùng Bao Vinh, Bãi Dâu, không có ngọn cây bút bút nào nó chưa trčo lên tìm lá tầm gửi. Nhưng không tìm thấy. Nó tìm lần lên các ngọn cây bút bút ở vùng Đông Ba, Gia Hội. Tìm hết cả vùng ni rồi mà cũng không thấy, nó qua bên tê sông Hương, tìm từ Đập Đá, qua trường Khải Định, lên đến Ga Lớn. Rồi vòng về Bến Ngự, lên miệt Nam Giao...
Đi tìm lá thuốc nó phải dấu mạ. Mạ mà biết, đời nào mạ để cho đi. Mạ sợ nó trčo cao, lỡ ngã chết tan xương mất giống. Đã biết bao nhiêu lần nó ngồi khóc một mình dưới các gốc cây bút bút, sau khi đã trčo lên tụt xuống, sầy hết cả da bụng...
Trước ngày Huế nổ súng chừng một tháng, tình cờ nó phát hiện được, trên ngọn cây bút bút cao nhất trong khu vườn đằng sau doanh trại này, có đậu một tán lá tầm gửi rất to. Nó mừng quá. Nhưng khó cái là dạo đó ngôi lầu doanh trại có Vệ Quốc Đoàn đóng đông lắm. Ngoài cổng sắt lúc nào cũng có các anh cầm súng đứng gác. Rào sắt vây xung quanh vườn tuy cao, lại có mũi nhọn nhưng nó thừa sức trčo vào. Nó chỉ sợ các anh nghi là Việt gian, trčo rào vô ăn cắp. Đã hàng mấy chục lần nó đi vòng quanh hàng rào sắt ngôi lầu này, mắt hong hóng ngó vô vườn... Các anh lính gác liền sinh nghi, một lần nó đã bị một anh gọi lại, nghiêm mặt hỏi: "Làm chi mà ngày mô tôi cũng bắt gặp chú loanh quanh lẩn quẩn ở đây, hả? Tôi mà còn bắt gặp một lần nữa tôi sẽ cho chú vô tù nghe chưa?" Sau cái lần đó, nó không còn dám bén mảng đến gần ngôi lầu này nữa. Chỉ dám đứng từ xa mà ngó lại.
Sau ngày Mặt trận Huế nổ súng, nó đoán chắc ngôi lầu bỏ trống, vì bộ đội phải ra Mặt trận, ở lại đó làm chi? Nó tìm cách lọt qua cầu Bao Vinh, chạy một mạch đến ngôi lầu, bụng mừng khấp khởi, chuyến ni răng cũng tìm được thuốc cho mạ. Nhưng ai ngờ bộ đội người lớn rút đi rồi, lại có bộ đội con nít tới đóng. Nó buồn phát khóc lên lúc đó ở nhà mạ lại đang lên cơn hen suyễn. Nó về nằm nghĩ mãi, cuối cùng tìm ra được một mẹo: "Vọt qua cầu Bao Vinh thật sớm, chạy theo toán bộ đội con nít đó, rồi lừa lúc không ai để ý lén chui vào giữa hàng mà về ngôi lầu. Khi đã vào được bên trong rồi, nó sẽ lẻn ra vườn, trčo tót lên ngọn cây bút bút, nằm chờ trên dó cho đến lúc nửa đêm... Chờ cho đến lúc lá tầm gửi ăn no khí trời, uống no sương móc, như lời cụ Ba Trà dặn. Nó sẽ hái một ôm thật to, đủ cho mạ uống được mấy chục lần rồi trčo rào ra ngoài, trở về. Cái mưu mẹo hay ho đó, làm cho nó thao thức hoài không ngủ được. Nó tin chắc lần này công việc răng cũng trót lọt. Nhưng nó còn lo bộ áo quần. Nó để ý cả đội không ai mặc áo quần như mình. Đứa nào áo quần cũng rất oai như bộ đội người lớn. Mặc áo quần xấu xí như nó chui vô hàng e không khéo lộ mất... Hồi đầu năm, mạ có may cho nó một bộ áo quần rất đẹp. Cái áo "thơ-mi" có cổ tai chó với cái quần"soọc" vải xanh, hai bên có hai cái túi, mỗi túi đựng được một lon đầy bắp rang. Quần không có dải rút mà xung quanh cạp có những cái quai để luồn nịt da. Nhưng mạ nó chưa mua được nịt. Lấy áo quần ở thợ may về là mạ cất luôn vô rương. Nó xin mặc mạ nói: "Cất đó khi mô đến Tết hoặc con được vô Đội Thiếu nhi đánh trống cà rùng như mấy đứa trên phố thì mạ lấy cho mà mặc. Chứ bây giờ con mặc chỉ nhảy mấy bữa là rách tan thôi. Mình là con nhà nghčo, phải ăn mặc tùng tiệm con ạ!". Nó liền tung chăn chạy xuống bếp, nói với mạ: "Mạ ơi, sáng mai mạ cho con mặc bộ áo quần mới mạ hí!". Nó không dám nói lộ cho mạ biết chuyện "Ngoài phố, tụi bạn con đứa mô cũng mặc áo quần mới cả. Mạ cũng cho con mặc chứ cất hoài làm chi mạ?" Mạ nói: "mạ đã nói rồi, mình là con nhà nghčo, ngày thường ăn mặc tùng tiệm răng xong thì hôi. Bộ áo quần đẹp đó phải để dành khi mô có lễ lạt rồi hẵng mặc." Nó nối dỗi "Rứa thì thôi, con không mặc nữa. Mạ cứ cất cho đến mục thì thôi!" Mạ nổi tức, quay lại phát cho nó một cái vào mông: "Không mặc thì tao cho đứa khác mặc! Đi lên đi ngủ". Nó leo lên giường nằm khóc tấm tức mãi...
Sáng hôm sau, nó lọt qua cầu Bao Vinh, chạy theo Đội lên đến cầu Đông Ba rồi chui bậy vào hàng...
Đội trưởng hỏi:
-Thế cái hôm đầu tiên nhập đội em có ra vườn trčo lên cây bút bút hai lá tầm gửi không?
-Dạ có...
-Sao em không trčo rào trốn đi như đã định mà ở lại?
-Tại..anh với các bạn thương em quá. Với thêm anh Vịnh nói với em: "Không chi xấu xa bằng đã vô bộ đội lại đào ngũ". Sau đó em còn được nghe anh giảng đánh đuổi hết tụi Tây cướp nước, giành được độc lập rồi thì ai ai cũng được sung sướng. Những người cực khổ như mạ em dù có mắc bệnh chi nặng mấy cũng được Chính phủ chữa cho lành... Em muốn theo các anh đánh Tây cho nước nhà được độc lâỵp, để sau ni lỡ mạ em có mắc bệnh chi còn nặng hơn cả bệnh hen suyễn, cũng được Chính phủ chữa cho lành...
Đội trưởng gật gật đầu, mỉm cười"
-Em biết lo xa như thế là rất phải. Thế bó lá tầm gửi hái được em có còn giữ không?
-Dạ còn chớ!... Tối ni em định trốn về một lúc để mang bó lá thuốc đó về cho mạ em. Em sợ mai lên mặt trận lỡ bom đạn làm cháy mất thì tiếc lắm...
-Em để nó ở đâu rồi?
-Em giấu trong cái hốc dưới chân cầu thang. Em sợ anh biết, anh la...
-Em xuống lấy lên đây cho anh coi thử. Anh cũng chưa được biết mặt mũi thứ lá thuốc quý đó.
Nét mặt Mừng vụt tươi hẳn lên. Em ngước nhìn anh như còn chưa thật tin. Rồi bất ngờ, em đứng lên chạy vụt ra khỏi phòng. Mấy phút sau, em chạy voà, tay ôm một cái gói. Em rụt rč đặt nó lên bàn cạnh đčn bão. Cái gói khá to, bọc bằng một miếng vải bạt nhem nhuốc xé bằng dây điện thoại. Đội trưởng mở ra, bên trong còn hai lớp giấy báo cũ nữa. Những cành lá khô màu xám nhạt, rất dài, được bẻ gập lại thành nhiều đoạn: thoảng bốc lên mùi nắng và hương nông đắng của lá cây phơi khô.
-Em phơi từ bao giờ mà khô được thế này?
-Dạ, em phơi từ bữa lâu rồi... Hễ hôm mô có nắng là em đem ra phơi, em phải trčo lên nóc nhà trải phơi trên mái ngói.
-Trời đất! - Đội trưởng kêu lên, giọng không giấu được sợ hãi. - Mái nhà lầu ba tầng trơn tuột, lỡ trượt chân một cái thì còn gì là người!
-Dạ!... Phơi trên đó cao, nhiều nắng, nhiều gió, lá mau khô... với lại em sợ phơi ở dưới các bạn không biết, lỡ nghịch vứt đi...
-Nếu gặp phải một cây bút bút cao gấp hai gấp ba ngôi lầu ni liệu em có dám trčo lên hái không?
-Dạ cao mấy em cũng trčo... Miễn sao cho mạ em được lành bệnh...
Nghe giọng nói và nhìn vẻ mặt chú đội viên nhỏ của mình, đội trưởng bỗng thấy tin một cách lạ lùng rằng, chú ta sẽ sẵn sàng trčo tuốt lên bất kỳ một cây nào trên trái đất để tìm thuốc cho mẹ.
Anh cẩn thận bọc bó lá tầm gửi lại như cũ, đặt vào tay mừng và nói:
-Có dịp anh sẽ cho em về phép, mang về cho mẹ, còn bây giờ em phải xuống đi ngủ. Đã quá nửa đêm rồi, mà sáng mai chúng ta còn phải lên Mặt trận sớm.
Mừng đứng lên, đội mũ, đứng nghiêm chào anh rồi cùng với Vịnh-sưa bước ra khỏi phòng.
Anh cũng đứng lên, nhìn hút theo em, tim đau nhói, thầm nghĩ:
-Nhỏ nhoi thế kia, mà chú ta đã phải chịu đựng những nỗi khổ nhường ấy!
Title: Re: TUỔI THƠ DỮ DỘI {Phùng Quán}
Post by: kem on 19/10/06, 23:26
***
Đang ngủ rất say, Vịnh-sưa vụt choàng tỉnh dậy. Có tiếng khóc thổn thức ngay cạnh tai em. Nó ngồi hẳn lên. Hoá ra Mừng khóc, vừa khóc, vừa nói mớ(nói mê, nói mơ). Vịnh đưa tay sờ má bạn. ui chao, cả hai má nó ướt đẫm nước mắt nóng hổi. Nước mắt chảy xuông thấm ướt cả vạt áo trấn thủ cậu tra đang gối đầu. Vịnh phải lay gọi một hồi lâu, Mừng mới tỉnh ngủ.
Vịnh cúi xuống thì thào hỏi:
-Mi nằm mơ chuyện chi mà khóc dữ rứa?
-Tui nắm mê được Đội trưởng cho phép về thăm mạ. - Giọng Mừng còn ướt nước mắt. - Tui mặc bộ áo quần Vệ Quốc Đoàn rất oai, lại còn đeo trên vao khẩu súng mới vừa cướp được của tụi Tây. Tui vừa bước vô đến sân, mạ tui đang ngồi nấu xáo bò dưới bépe, chỵa ra đon đả chào mời: "Anh vô nhà xơi nước, ăn bún bò". Mạ tui tưởng tui là anh Vệ Quốc Đoàn mô. Tui bỏ mũ ra, ngó mạ, mà cười. Rứa là mạ tui đứng sững, ngő tui trân trân rời kêu oà lên: "Úi chao ôi, con ơi! Rứa chớ mấy lâu con bỏ mạ con đi mô, làm mạ khóc hết nước mắt nước mũi rứa con ơi là con ơi!". Rui nói: "Con đi Vệ Quốc Đoàn đánh Tây cho nước được độc lập chớ đi mô nữa mạ. Nước được độc lập thì sướng lắm mạ nờ. Lỡ mạ có mắc bệnh chi nặng mấy cũng được chính phủ cho vô nhà thương chữa cho lành hết mạ ạ. Mạ ơi, con đã tìm được lá tầm gửi đậu trên chót ngọn cây bút bút, chỗ Đội con ở. Thứ lá ni chwũa bệnh hen xuyễng là hay nhất hạng mạ ạ. Hay hơn thuốc tiên! Để con vô lấy nồi sắc ngay cho mạ uống mạ hí!". Mạ tui liền cầm bó lá tầm gửi, chạy long tong khắp xóm, gặp ai cũng níu lại khoe: "Thằng con tui nó chưa chết. Nó đi Vệ Quốc Đoàn đánh Tây. Nó kiếm được lá tầm gửi hay hơn thuốc tiên về chữa bệnh cho rui... E chỉ nay mai là tui lành bệnh bà con ạ... Bà con mừng cho tui đi..."
Vừa lúc tui vô nhà tìm được cái nồi đất để sắc thuốc cho mạ, thì anh gọi thức tui dậy... Tiếc quá!

---------------------------------------
*Việt gian
*Plongeon: nhảy (tiếng Pháp)
*Champion: vô địch (tiếng Pháp)
*cô-soong:con lợn (lời xỉ vả, tiếng Pháp)




Phần Thứ Hai

1

Sáng hôm sau.
Không đợi còi báo thức của đội trưởng, cả Đội đã hò nhau thức dậy từ lúc trời chưa tờ mờ sáng. Ngôi lầu doanh trại lập tức ồn ào nhốn nháo tưởng như có cả một tiểu đoàn bộ đội đóng, chứ không phải chỉ có ba mươi hai đội viên thiếu niên.
Các em gấp chăn, giũ chiếu, buộc ba lô, tìm ca bát, tìm mũ... đi lại, chạy lên chạy xuống chóng cả mặt, gọi nhau í a í ới. Quỳnh, quản ca của đội, được các bạn đặt cho biệt hiệu là Quỳnh-sơn-ca, vai khoác ba lô cóc, nhảy đứng lên trên cái bàn kê chính giữa phòng, nó trạc tuổi Mừng, tóc óng mượt như tơ, da trắng mịn như trứng gà bóc, môi đỏ như son tươi. Nó là đội viên độc nhất trong đội biét đọc các bản nhạc, biết chơi đàn măng đô lin, pianô. Nó là con viên quan tuần Phủ, có ngôi biệt thự hai tầng đẹp nhất ở vùng Vĩ Dạ. Trước Cách Mạng, những người trong vùng thường kính cẩn gọi cha mẹ nó là cụ Tuần Vi. Ngày đó, Mừng còn đi lang thang tìm thuốc cho mạ, nhiều lần đã đi qua ngôi biệt thự của Quỳnh. Mỗi lần ngang qua đây, thế nào nó cũng dừng lại một lúc, nép mình bên hàng rào sắt sơn xanh, lắng nghe tiếng đàn thánh thót vọng qua khung cửa sở trên tầng gác hai. Khung cửa sổ mở rộng, trênt hành cửa có đặt những chậu hoa hồng nở đầy hoa. Thỉnh thoảng tiếng đàn chợt ngừng lại và Quỳnh bước tựa ngực vào thành cửa sổ nhìn xuống đường. .. Mừng vội nép kín dưới chân rào nhìn lên. Nó tưởng như Quỳnh là một hoàng tử hiện ra từ các chuyện đời xưa mà cụ Ba Trà thường kể. và không hiểu sao lúc đó một cảm giác buồn tủi không cùng dâng lên nghẹn cả cổ, làm nó muốn khóc... Bây giờ Quỳnh và Mừng trở thành dôi bạn thân. Những buổi nghỉ tập hai đứa thường rủ nhau chơi bi, chơi dế... hoặc chơi trốn tìm đuổi bắt, khoác tay nhau đi tha thẩn trong khu vườn đằng sau doanh trại. Nhiều buổi tối, hai đứa ôm nhau ngủ trên cái bàn, đắp chung nhau chiếc chăn trấn thủ... Cái ba lô cóc của Quỳnh rất to, nhưng chỉ đựng vài bộ quần áo trể con nên lép kẹp như quả banh xì hơi. Nó nhún nhún thuẻ mấy cái xem ba lô đã chắc chưa, rồi bất ngờ nó vươn thẳng người lên, hơi đưa ngực về phía trước, cất cao giọng hát:
"Bao chiến sĩ anh hùng..."
Giọng Quỳnh trong vắt, cao vút, vang ngân... Ôi, từ giọng hát đến dáng điệu của nó lúc này sao giống hệt con chim sơn ca đang lao thẳng lên giữa bầu trời lồng lộng chớm hồng, cất tiếng hát theo đà bay, để chào mừng những tia nắng đầu tiên...
Thế là đội từ bốn phía góc nhà, ngừng tay, đứng yên, cùng ưỡn ngực vươn cổ hát tiếp theo Quỳnh:
"...Lạnh lùng vung gươm ra sa trường... Quân xung phong nước non đang chờ..."
Cả ngôi lầu phút chốc tràn ngập tiếng hát tười non mà không kém phần hùng tráng của đoàn quân tí hon sắp lên đưởng ra trận.
"Bao chiến sĩ anh hùng" là bài hát tủ của Đội. Không ngày nào các em không hát năm bảy lần. Nhưng chưa bao giờ chúng hát say sưa, hào hững như sáng nay. chúng tưởng như những lời sục sôi nghĩa khí, hào hùng, quyết liệt, chúng đang hát, chính là để nói về mình.
"... Là trang nam nhi... Quyết chiến sa trường... sống thác coi thường..."
Tiếng còi của Đội trưởng giục giã nổi lên.
Toàn đội tập họp ngay ngắn trước sân doanh trại. Tất cả đều gọn ghẽ, chỉnh tề, mũ trên đầu, ba lô trên lưng, túi dết bên vai.
Đội trưởng hô đội đứng nghiêm, đọc danh sách các tổ mới được sắp xếp, phiên chế lại. Đội được chia thành tám tổ, mỗi tổ bốn đội viên. Tổ của Vịnh-sưa bây giờ gồm có: Vệ to đầu, Quỳnh và Mừng.
Một hồi còi dại. Đội từ giã doanh trại, dàn thành hàng một, đi về phía Mặt trận.
Trời mưa bụi lất phất. Bầu trời lớp lớp mây chi.
Càng đi gần về phía Mặt trận đường sá càng bừa bộn ngổn ngang, như thành phố vừa trải qua trận bão năm Thìn. Cây to, cột điện, quân ta hạ gục nằm chồng chất lên nhau kín cả mặt đường để ngăn chặn xe tăng giặc. Dây điện từng búi lớn loằng ngoăng như tóc rối. Những ụ súng xây bằng bao cát, những chướng ngại vật làm bằng giường tủ, chum vại, cánh cửa, sắt đường tàu... Phải đi vòng, phải trčo qua.
Con sông Hương thân thiết xanh ngăn ngắt hiện ra trước mắt, mờ ảo trong màn mưa bụi như bột rây. Hai nhịp cầu Tràng Tiền chính giữa bị chặt đứt, gục xuống sông, sắt cầu vặn xoáy vỏ đỗ. Cả đội tự nhiên đi chậm lại. Đứa nào cũng cố nhón chân, nghểnh cổ nhìn cái cầu thân quen gãy gục. Chúng đều tặc lưỡi xuýt xoa nhưng không phải vì tiếc chiếc cầu đẹp bị phá huỷ. Hũng chỉ trầm trồ thán phục sức mạnh trái bom đã "chơi" nổi cái "anh cầu" sắt thép đồ sộ kia.
Mừng quay lại hỏi Tư dát đi đằng sau:
-Quả bom ni chắc phải to lắm anh hč?
-To cóc cih! Hai trăm cân chứ mấy!
Tiếng anh đội trưởng đi cuối hàng hô vọng lên.
-Tản khai thành hàng một, cự ly cách nhau mười bước.
Bọn trẻ vội vàng xa nhau ra, đúng cự ly quy định, me theo hč phố, qua Phu Văn Lâu, qua cửa Thượng Tứ, Cột Cờ... đi về phía cầu Bạch Hổ.
Cầu sắt Bạch Hổ bắc ngang sông Hương là chiếc cầu độc nhất của Huế chưa bị giật sập. Nhưng hai mái cậu đã được bố trí sẵn hai quả bom, chỉ chờ lệnh là nổ.
Khi cả đội đi đến đầu cầu, một trong hai anh Vệ Quốc Quân công binh phụ trách cầu bước ra khỏi công sự đào sát mép sông. Anh cao lớn lực lưỡng, nước da đen cháy, mặt vuông chữ điền, lông mày mũi mác, miệng rộng đến mang tai. Hai ngón tay kẹp điếu thuốc lá quấn kiểu xì gà, to bằng ngón chân cái. Một tay chống nạnh, anh cười cười hỏi:
- Mấy chú em đi mô mà kéo đoàn kéo lũ đi đông rứa?
Tư dát liến thoắng chỉ tay sang bên kia sông đáp:
-Bọn em qua bên tê sông chơi nhau với tụi Tây mũi lő coi ai được anh ạ.
anh công binh nheo mắt nhìn Tư-dát cười để lộ hai hàm răng bàn cuối vàng kč nhựa thuốc lá.
-Nhất định là các chú mình được rồi!-Anh nói. - Các chú chỉ cần hỉ mũi, bốc ghčn (Rỉ mắt) mà quăng, tụi Tây cũng đủ chết lăn cu quay, chứ cần chi đến bom đạn như các anh đây!
Cả đội cười rân:
-Ha ha ha! Chuyến ni Tư dát bí rồi nghe! Cậu ta tự cho mình là tay mồm mép đối đáp ghê nhất đội đó anh ạ.
Anh công binh đua điếu thuốc lá lên hút, điếu thuốc cháy ngờ ngợ như bó đuốc. Anh phà khói thuốc, nháy mắt nói:
-Vỏ quýt dày gặp móng tay nhọn!
Đội trưởng đi đến chào anh công binh, nói:
-Đề nghị đồng chí cho đội chúng tôi qua cầu.
-Các đồng chí cứ việc qua. Các đồng chí thuộc đơn vị mô mà coi bộ to lớn, già lụ khụ rứa?
-Chúng tôi là đội Thiếu niên trinh sát của Trung đoàn.
-Hay! - Anh công binh tự nhiên buột miệng khen. - Lúc qua cầu các đồng chí nhớ cúi thấy người xuống, mà đi xa xa nhau ra nghe. Tụi tây đóng bên trường Thiên Hữu mà ngó thấy là câu móoc chê qua liền. Lúc đó thì cũng hơi mệt!
Tư dát bị anh chơi cho câu ''bốc ghčn mà quăng'! ức từ nãy đến giờ, chỉ lăm lăm chờ dịp trả miếng. Nó nói:
-Anh đừng chơi xỏ chúng em, chờ cho chúng em ra đến giữa cầu giật bom nghe?
Anh công binh trả lời mặt tỉnh khô:
-Đây mà ngứa tay thì cũng chưa biết chừng!
Mừng từ nãy tới giờ đứng nhìn anh công binh không chớp mắt. Nó bất chợt kêu to"
-Ui chao, anh So!
Anh công binh quay lại, mắt trợn lên nhìn Mừng như doạ, rồi bước lại đưa bàn tay to như lưỡi xẻng nâng cằm nó lên hỏi:
-Mi đó à Mừng? Chao, cái thằng ! Mi đi đây vui thú ra ri mà ở nhà thì mạ mi đập đầu đập óc khóc hết đêm hết ngày. Mạ mi cứ đinh ninh là mi chết trôi mất xác ngoài sông Đông Ba rồi. Ngày mô mạ mi cũng cắm cơm với trứng đi dọc bờ sông, về tới Mậu Tài, Dương Nỗ hú hồn vía mi. Trong nhà, mạ mi lập cả bàn thờ có bài vị để tên mi...
Mừng đứng sững nghe anh kể, mặt tái nhợt. Nó lắp bắp hỏi không thành tiếng.
Thiệt à anh...
Anh công binh nhìn Mừng giọng anh tự nhiên nhỏ lại:
-Trúng bữa đó anh xin được phép đơn vị tạt về thăm nhà. Anh ghé vô mạ em định làm vài tô bún bò cho đỡ thčm. rứa mà mạ em túm luôn lấy anh, năn nỉ anh ra sông lặn mò xác em để đem về chôn cất. "Em làm ơn làm phước giúp chị. Chim mà còn sống trên đời ni là cũng vì con mà sống. Chứ con chết mất xác, không có lấy được một nấm mồ mà hương khói cho con... Cay đắng cho đời chị quá em ơi!" Mạ em nói với anh như rứa đó, làm anh cũng khóc luôn. Trời bữa đó lạnh thấy mệ nội mệ ngoại, rứa mà anh cũng phải hụp lặn suốt cả một buổi dưới sông để mò xác em. Tối hôm đó về đơn vị, anh bị cảm lạnh tưởng chết...
Đội trưởng hỏi anh So:
-Đồng chí có biết gia đình em Mừng?
Anh So kéo Mừng đứng sát vào mình, đặt bàn tay nặng quá đá tảng lên vai nó, nói:
-Chú ni là con chị Niệm, bán bún bò giò heo ngon nhất chợ Bao Vinh. Trước tui làm cu li bốc vác ở bến chợ, chuyên ăn chịu bún bò của chị... nên cũng có biết sơ qua.
Những đội viên đi trước đã đặt chân lên đầu cầu.
Đội trưởng vội xốc lại ba lô, nói với anh So:
-Bữa ni tôi bận, nên không nói chuyện lâu với đồng chí được. Nhưng hôm nào có dịp, thế nào tôi cũng xin được gặp đồng chí để hỏi chuyện về gia đình em Mừng. - Anh quay sang nói với Mừng. - cho em ở lại đây một lúc nữa nói chuyện với anh So, rồi cố chạy nhanh đuổi theo cho kịp đội. thôi chào đồng chí. - Anh bắt tay anh So, chạy nhanh lên phía trước để điều khiển đội qua cầu.
Anh So như sực nhớ, lục tìm khắp túi áo túi quần, lôi ra được một thỏi chocolate dính đầy bụi và sợi thuốc lá. Anh đưa lên miệng thổi phù phù, dúi vào tay Mừng:
-Ăn miếng cho thơm miệng em, chiến lợi phẩm anh lấy được trong trận tấn công nhà hàng "sáp phăng giông'! tối bữa tê đó. Mai môt anh có công tác về Bao Vinh đây, em cần nhắn chi với mạ, anh nhắn cho.
Vẻ mặt thần thờ, bối rối, Mừng nói mà nước mắt chảy vòng quanh:
-Em chỉ nhờ anh nói răng cho mạ em đừng giận em cái tội bỏ trốn đi Vệ Quốc Đoàn... Mai mốt đánh Tây xong, cấp chỉ huy răng cũng cho phép em về thăm mạ...
-Được, được rồi, anh nói cho. Chắc mạ không giận mô em ạ. - Anh quàng tay ôm riết em vào lòng, bàn tay to lớn vụng về xoa xoa lưng em như dỗ dành. - Thì ra anh em mình cùng họ nhà "trốn" cả. anh đây cũng phải trốn vợ mới đi được Vệ Quốc Đoàn đấy chứ em!
- A chút nữa thì em quên, - Mừng mở vội cái túi dết đeo bên hông, lôi bó lá tầm gửi đưa cho anh So. - Nhờ anh mang bó lá tầm gửi ni về cho mạ em. Nhắn mạ em sắc ngay mà uống. Trước khi sắc nhớ sao vàng hạ thổ, đổ năm chén nước trong sắc lấy một chén... chỉ uống chừng ba bốn lần là khỏi bệnh hen suyễn...
Anh So mở bó lá ra coi, lật qua lật về nhìn, đưa lên mũi ngủi, có vẻ lấy làm lạ lắm:
-Lá chi ri mà chữa lành ngay được bệnh hen suyễn rứa em?
-Lá tầm gửi đậu trên ngọn cây bút bút đó anh ạ. Em phải trčo lên ngọn cây bút bút cao hơn cả ngooi lầu ba tầng, nằm chờ trên đó cho đến nửa đềm mới hái. Cụ Ba Trà nói hái được như rứa thì chững bệnh suyễn còn hay hơn thuốc tiên. Em chắc mạ em răng cũng lành được bệnh... - Nước mắt Mừng bỗng ứa ra. Em quệt nước mắt, thổn thức nói tiếp. - Làm răng anh cũng cố đưa được cho mạ em anh hí. chừ anh cho em chạy theo cho kịp đội...
-Ừ, đội em qua hết khỏi cầu rồi đó, em chạy ù lên... còn chuyện em nhờ thì khỏi lo. Anh mà còn sống trên đời thì bó lá tầm gửi ni răng cũng đến tay mạ em.
Mừng hối hả chạy lên phía trước. anh So cầm bó lá tầm gửi bọc bằng mảnh áo súng và buộc chằng dây điện thoại, đứng như cột trụ sắt trồng bên mép sông. Anh nhìn dői theo cái dáng bé bỏng của thằng em lính trinh sát như bơi trong bộ quân phục, đang chạy băng băng qua cái cầu sắt giăng giăng mưa bụi...
Anh nhìn cho đến lúc bóng em khuất hẳng trong màu mưa bụi trắng trời trắng đất phía bờ bên kia, phía Mặt trận.
Cái miệng rộng ngậm điếu thuốc lá to bằng ngón chân cái đã tắt từ lúc nào, tự nhiên méo hẳn đi như mếu, anh chép miệng:
-Chao cái thằng! Chừng nớ tuổi đầu mà đã biết lo cả việc nhà lẫn việc nước! Ngày mình bằng tuổi hắn mình đã biết cóc khô chi?
Title: Re: TUỔI THƠ DỮ DỘI {Phùng Quán}
Post by: kem on 19/10/06, 23:27
2

Vượt qua cầu Bạch Hổ, đội trưởng dẫn đội đi vòng lên phía dốc Nam Giao, theo con đường đá đến chùa Từ Đàm,m nơi Chỉ huy Sở Mặt trận khu C đóng.
Vừa đặt chân sang đây, cả đội đều thấy lòngg bồn chồn náo nức khác thường. Mặt trận đã ở ngay sát nách, chỉ cách con sông đào An Cựu và mấy dãy phố hẹp.
Từ chùa Từ Đàm xuống hết một quãng đường dốc ngắn sẽ thấy chiếc cầu bê tông gãy sập. Bên kia mố cầu có một ụ súng lớn xây bằng bao cát và sắt tà vẹt. Bên trong ụ súng ló lên thụp xuống những chiếc mũ ca lô, mũ sắt của các anh Vệ Quốc Quân. Khẩu đại liên Chiêu Hoà hai nòng của Nhật chĩa thẳng theo con đường rải nhựa, đâm thẳng vào khu vực bọn Pháp. Cuối đường, một chiếc xe gíp bị bom của quân ta giật đổ, chổng bốn bánh lên trời. Xa xa, thấp thoáng sau những đám cây um tùm, những ngôi lầu vị trí giặc. Đứng bên này mố cầu, nhìn bằng mắt thường cũng thấy những bao cát chất bịt kín cửa sổ cửa lớn. Qua lại trên những con đường trong khu vực này phải cẩn thận, rất dễ ăn đạn những tên giặc bắn lén núp sau những bao cát im lìm kia.
Tất cả những cái đó đối với các đội viên Thiếu niên trinh sát hấp dẫn lạ thường. Tất cả như đang nói với các em: "Đây chính là Mặt trận! Đây chính là nơi các em sẽ sống, chiến đấu, lập công; và có thể bị thương hoặc chết. Nhưng đó là một cuộc sống, cái chết khác thường, chưa từng có trước đây, làm náo nức sôi sục lòng người bởi vẻ đẹp cao cả của nó..."
Dọc đường các em gặp nhiều toán Vệ Quốc Đoàn đêm qua vừa xung phong vị trí giặc, rút về chỗ nghỉ ngơi. Anh nào áo quần cũng lấm lem bùn đất, gương mặt mệt mỏi, mắt sâu hoắm vì mất ngủ nhưng đều ánh lên vẻ kiêu hãnh và niềm vui. Nhiều anh đầu, tay quấn đầy băng trắng loang lổ thuốc đỏ và những vệt máu khô bầm. Có anh bước tập tễnh bên người bạn xốc nách. Từng toán, từng toán dân quân, tự vệ từ các miền làng quê rẩm rập kéo về chuẩn bị tối nay tham chiến. Họ mang vác, khiêng nào bom, mìn, rơm, chai xăng ngâm cờ rếp, thang tre... để xung phong đốt vị trí giặc. Họ gọi nhau í ới, chuyện trò bô bô, cười ha hả... Người nào cũng dắt, đeo lủng củng nào dao găm, mã tấu, trường kiếm, dây dừa để trói tù binh...
Các chị, các mệ, các o từ vùng quê tấp nập gánh quà lên uỷ lạo Mặt trận, đi thành từng đoàn dài. Thôi thì đủ thứ: bánh tày, bánh tét, bánh ít, bánh khô, gà vịt, heo, cục cục, cạc cạc, eng éc, váng cả óc. Dọc các con đuờng dẫn về mặt trận, cứ một quãng lại có một trạm "uỷ lạo chiến sĩ " dựng ngay bên đường bằng cót, phên tre... Trạm nào cũng lửa khói nghi ngút, sôi sùng sục những nồi lớn chč đậu đen, đậu xanh, cháo gà, cháo vịt, bún bò giò heo, với những rá xôi cao như núi. Hễ là Vệ Quốc Quân cứ việc ghé vô ăn uống thả xăng, không mất tiền.
Tốc độ hành quân của đội Thiếu niên trinh sát chậm hẳn lại. Bởi ngang qua trạm uỷ lạo nào các em cũng xin phép đội trưởng vô ném thử. Cái đơn vị Vệ Quốc Đoàn tí hon này lại được các mệ các chị đặc biệt yêu chiều. Họ ra đón tậ giữa đường, kéo cả đội vào trạm. Muốn vòi chi được nấy. Cháo gà, cháo vịt thì hai phần thịt một phần cháo. Chč đậu đen chỉ húp lấy nước.
Bòng bụng như trái bí đao, ăn khoẻ có tiếng thế mà mới ghé vô hai trạm đã no thở không ra hơi. Cả đội em nào cũng lén nơi thắt lưng hai ba lần...
Trời vừa hửng nắng, bầy trời thành hphố đã vang ầm tiếng động cơ máy bay giặc, máy bay cổ ngỗng nhào lôn, gầm rít ra oai, yểm hộ tụi máy bay Đa kô ta thả dù tiếp tế cho bọn giặc bị bao vây.
Tình hình bọn giặc bị bao vây lúc này đã hết sức khốn đốn. Lương thực chúng đã cạn. Nhiều vị trí, đạn chúng bắn bắt đầu dč xẻn. Chúng đã giết chó béc giê để ăn thịt. Máy bay chúng phải thường xuyên đến thả dù tiếp tế. Mỗi lần như vậy khắp Mặt trận lại ran lên tiếng súng. Súng quân ta bắn chặn không chô chúng ra lấy dù tiếp tế, và súng của chúng bắn yểm trợ nhau liều chết xông ra...
tình hình Mặt trận đang hết sức khâẩ trương. Có tin viện binh giặc từ Pháp đưa sang đã gần đến bờ biển Thừa Thiên. Trong mấy ngày gần đây quân ta quyết dốc hết sức hy vọng tiêu diệt được chúng trước khi viện binh chúng đến kịp. Bọn địch cũng liều chết cố thủ để chờ quân cứu viện.
chưa lúc nào quân dân Thừa Thiên lại sôi sục quyết tâm tiêu diệt giặc như lúc này. Từ các miền quê trong tỉnh, trai gái già trẻ, cả các cụ, cả con nít, ngày đêm rầm rập kéo về Huế. Họ tìm đến gặp các cấp chỉ huy, nằng nặc đòi được ra trận. Họ tình nguyện được làm đội viên quyết tử, lấy mạng mình đổi mạng giặc. Cấp chỉ huy không đồng ý là họ làm ầm lên: "Cụ Hồ đã kêu gọi "Thà chết không quay lại đời nô lệ!" Rứa mà các anh lại ngăn trở không cho bày tui "thà chết", bày tui kiện ra thấu Cụ Hồ cho coi!"
Đội Thiếu niên trinh sát đến sở chỉ huy Mặt trận Khu C đúng lúc có hơn một chục cụ già thuộc đội Bạch đầu quân làng Thanh Thuỷ - một làng cách Huế chừng năm cây số - bị cấp chỉ huy từ chối không cho "thà chết". "Việc ni nặng nhọc, nguy hiểm lắm. Xin các cụ vui lòng để phần cho các con cháu gánh vác..." Các cụ ấm ức không chịu về. Vừa thấy các đội viên Thiếu niên trinh sát ba lô, túi dết, bao đạn... thành hàng ngũ chỉnh tề từ ngoài cổng đi vào, thế là các cụ xúm lại la ầm lên:
-Mấy đứa con nít đâầ chưa sạch cứt trâu ni, còn nhỏ hơn sắp cháu nội, cháu ngoại tui ở nhà, rứa mà cấp chỉ huy còn cho tụi nó đi quyết tử! Còn bày tui thì cấp chỉ huy lại mời về nhà nghỉ là ý nghĩa làm răng?
Các em tò mò xúm quanh các cụ hỏi chuyện. Một cụ râu ba chòm, tóc búi củ hành, đầu quấn khăn nhiễu tam giang, mặc áo đoạn vải đà, tay cầm cây mác lào lưỡi mài sáng quắc, hỏi các em:
-Rứa các cháu cũng được cấp chỉ huy tuyển vô đội Quyết tử à?
Tư dát liến láu đáp:
-Thưa ông, tưởng vô cái chi ghê hơn chứ vô cái quyết tử thì chúng cháu vô lâu rồi.
Một cụ lưng mã tấu, đội mũ rộng vành, kêu:
-Cha cha! Mới chừng nớ tuổi thì đã làm được cái chi mà cũng đuợc Chính phủ cho vô quyết tử với quyết sanh!
Lượm có cái răng cửa sứt nên cả đội gọi là Lượm sứt, nghe cụ nói vậy, liền nổi tự ái, đáp:
-Ông ơi, rứa mà có người còn nhỏ hơn tụi cháu nhiều cũng đã quyết tử đánh cho tụi cướp nước tơi bời khói lửa đó ông ạ.
Ông cụ trợn tròn mắt, hỏi:
-Chớ ai rứa cháu?
-Dạ, Thánh Gióng!
Ông cụ phá lên cười ha hả, làm rung cả thanh mã tấu dắt bên lưng:
-Khá lắm! Khá lắm! Đúng là khẩu khí của con nít thời đại cụ HỒ Chí Minh! - Rồi cị cao hứng, gật gù ngâm nga:
-Trưừừ ... tặặặc... đản hiềm tam tuêếế... vãn(Trừ giặc ba tuổi đời vẫn còn hiềm làm muộn)
Title: Re: TUỔI THƠ DỮ DỘI {Phùng Quán}
Post by: kem on 19/10/06, 23:28
3

chiều hôm đó, Chỉ huy trưởng Mặt trận khu C đến gặp đội tại ngôi chùa nhỏ cạnh chùa Từ Đàm, nơi đội tạm trú quân.
Chỉ huy trưởng Mặt trận khu C kiêm Tham mưu trưởng Trung đoàn Phùng Qúy Đông (ông quê xã Thủy Dương thuộc thành phố Huế. Dã hy sinh trong kháng chiến chống Pháp, được Chính phù truy tặng Huân chương Quân công) là người đã ký quyết định thành lập đội thiếu niên trinh sát.
ông trạc ba mươi tuổi, dáng người cao, xương xương.
Đặc biệt ông có cặp mắt rất sâu. ông mặc bộ ka ki màu cỏ úa, lấm láp đất bụi ủng da trát đầy bùn, đội cái mũ cát rộng vành màu đất sét, quai mũ buông xuống bọc quanh cái cằm vuông có góc cạnh như đẽo bằng đá. Hình như ông vừa ở ngoài chiến hào về thì đi thẳng đến đây.
Các em để ý thấy chỉ huy trưởng bên hông không đeo súng lục như phần đông các cấp chỉ huy khác. Trên vai ông khoác một khẩu súng hai nòng, nước thép xanh biếc báng súng bóng loáng màu hổ phách có chạm trổ rất đẹp.
Ngang lưng ông thắt một cái thất lưng da to bản, dắt kín những viên đạn to bằng ngón chân cái, đầu đạn màu trắng chì.
Vịnh-sưa đứng trong hàng, mắt không rời khẩu súng trên vai chỉ huy trưởng, khẽ nói với Mừng đứng sát bên cạnh:
Khẩu súng ni trước của vua Bảo Đại dùng để săn voi đạn nó có thể bắn thủng cả xe bọc thép. Ta lấy được khi vô chiếm An Định cung.
Nhiều em trong đội đã được nghe các anh lớn kể nhiều chuyện về chỉ huy trưởng trước khi gặp ông.
Là một người chỉ huy gan dạ, nghiêm khắc, nhưng biết yêu thương binh sĩ không ai bằng. Không đêm nào ông không lăn lội ngoài mặt trận với khẩu súng săn voi. ông đến từng đơn vị, từng chiến hào, từng ụ súng để kiểm tra đôn đốc bàn bạc giúp đỡ các đơn vị tổ chức chiến đấu. Gặp lúc cần thiết ông cũng cầm ngay lấy súng và chiến đấu dũng mãnh như một con sư tử. ông sử dụng thành thạo tất cả các loại vũ khí: súng trường, tiểu liên, trung liên, đại liên, móc chê, và cả đại bác. Tài bắn súng lục của ông được truyền tụng khắp Mặt trận: ông có thể bắn rụng cái đầu thuốc lá đỏ lập lčo trên miệng người đang hút...
Nhưng ông thích dùng hơn cả là khẩu súng săn voi của Bảo Đại. Từ hôm lấy được về, hầu như không mấy khi thấy ông rời khỏi vai. Đi ngủ ông cũng dựng súng cạnh đầu nằm. Với khẩu súng này ông đã hạ ít nhất là mười tên giặc và bắn đổ một chiếc xe bọc thép ở khu vực trường Kỹ Nghệ...
Đối với những chiến sĩ gan dạ, anh dũng lập công, thế nào ông cũng tìm đến tận nơi thăm hỏi, khen ngợi. Nhưng với những kẻ hčn nhát, không chấp hành đầy đủ mệnh lệnh chiến đấu, thì thái độ ông trở nên rất nghiêm khắc.
Với tất cả những điều truyền tụng đó về Chỉ huy trưởng, các đội viên Thiếu niên trinh sát đã đợi chờ cái phút ông đến gặp, lòng hồi hộp, nôn nao... Hệt như tâm trạng những thí sinh sắp bước vào buồng thi có vị giám khảo hết sức nghiêm ngặt.
Mười lăm phút trước khi ông đến, đội đã tập họp trước sân chùa để đón ông. Các em nhắc nhau sửa sang lại quân phục thật chỉnh tề. Vừa nhìn thấy cái dáng cao cao, xương xương của ông bước lên những bậc cổng Tam quan, tự nhiên mặt em nào cũng hơi tái đi.
Đội trưởng hô nghiêm, chạy ra chào ông và báo cáo quân số. ông đưa bàn tay có những ngón rất dài như bàn tay người chơi dương cầm lên vành mũ chào lại. Động tác chào của ông mạnh và thật đẹp.
óng bước đến, nhìn khắp đội một lượt, đầu như có vẻ bằng lòng tác phong đàng hoàng chững chạc của các chiến sĩ nhỏ bé của ông. Nhưng nét mặt ông không hề thoáng ánh tươi cười hoác lộ vẻ âu yếm như thường tình người lớn lúc nhìn trẻ con. Cả đội, em nào cũng thấy gai gai sống lưng khi cặp mắt sâu và sáng lạnh của ông lướt chậm qua người. Nhưng chính cái vẻ nghiêm lạnh khô khan đó của người chỉ huy nổi tiếng này lại làm cho các em cảm động Vì qua cái vẻ đó, các em nhận cảm rất rő rằng: Trước mắt ông mình không phải là những đứa con nít thò lò mũi xanh, mà là những Vệ Quốc Quân thật sự.
Mình có đầy đủ trách nhiệm và vinh dự như tất cả các chiến sĩ lớn tuổi khác dưới quyền ông chỉ huy. Nếu mình gan dạ, dũng cảm trong chiến đấu cũng sẽ được ông khen thưởng xứng đáng, và nếu mình hčn nhát cũng sẽ bị ông xử phạt nghiêm khắc không một chút chiếu cố.
Chỉ huy trưởng cho đội về tư thế nghỉ.
óng nói chuyện với đội, giọng nói cũng nghiêm, không khác gì vẻ mặt. ông nói tóm lược tình hình chiến sự của toàn Mặt trận Huế trong một tuần vừa qua. ông thông báo tin tức kháng chiến của Thủ đô Hà Nội, của thành phố Sài Gòn và những tỉnh miền Nam TỔ quốc.
Những thắng lợi mà quân ta đã giành được, những tổn thất và những khó khăn lớn lao mà quân ta đang phải đương đầu . . .
ông im lặng giây lát rồi nói tiếp, giọng nhỏ lại như thổ lộ một lời tâm sự:
Các em ạ, cuộc chiến đấu của chúng ta sắp bước vào một thời kỳ vô cùng gay go và quyết liệt. Rất có thể không phải một tháng, hai tháng mà phải nhiều tháng, nhiều năm nữa, chúng ta mới đánh đuổi được hết bọn giặc nước, giải phóng được TỔ quốc, giải phóng thành phố thân yêu của chúng ta. Nhưng dù sống, dù chết, chúng ta, những chiến sĩ Vệ Quốc, nhất quyết làm tròn lời kêu gọi thiêng liêng của Chủ tịch HỒ Chí Minh: "Hãy quyết tử cho TỔ quốc quyết sinh". Nếu thế hệ chúng tôi chưa làm xong được sứ mệnh vĩ đại này, thì thế hệ các em phải nối tiếp xốc tới, hoàn thành cho bằng được.
Vừa lúc đó một liên lạc viên xuống ngựa trước cổng Tam quan, nhảy ba bậc thềm một, chạy vào chào ông và báo cáo:
Báo cáo Chi huy trưởng, có điện thoại của Trung đoàn trưởng gọi:
ông đưa tay lên vành mũ, chào đội.
- Chúc các em lên đường thắng lợi. Tôi sẽ còn nhiều dịp gặp các em ngoài Mặt trận.
Chỉ huy trưởng vừa đi khỏi, đội trưởng mở sổ tay phổ biến nhiệm vụ:
Theo lệnh của Ban chỉ huy Mặt trận, ngay chiều hôm nay đội chúng ta phải có mặt tại các đơn vị chiến đấu.
Một tổ ở lại chỉ huy sở cùng với anh, làm nhiệm vụ liền lạc chung. Các tổ khác sẽ về tham gia chiến đấu ở các đại đội thuộc mặt trận khu B và khu C. Ngay sau đây, các em tổ trưởng gặp anh để nhận giấy giới thiệu và sửa soạn lên đường cho kịp.

4

TỔ của Vịnh - sưa được đội trưởng chọn gửi về tham gia chiến đấu ở đại đội quyết tử trấn giữ khu vực cầu Kho Rčn.
Buồi đầu tiên đến nhận công tác, cả đại đội hầu như không một ai tin tưởng bốn chú bé "đầu chưa sạch cứt trâu" này lại có thể giúp ích được gì cho nhiệm vụ nặng nề mà đơn vị họ đang đảm nhiệm. Cấp trên đã giao xuống thì cũng phải miễn cưỡng mà nhận thôi.
Bởi vậy, hai ba hôm đầu, Ban chi huy chỉ giao cho bốn em những công việc vặt như chạy hên lạc về các trung đội đưa công văn thư từ lên Chỉ huy sở... Đêm đến, cho các em đi theo các tiểu đội yểm trợ "để làm quen dần với súng đạn". Và mỗi lần thấy bốn em trở về, đại đội trưởng lại hỏi: "Có chú mô [em xin lỗi, em là người chửi bậy] ra quần không đó?".
Không thể nhịn thêm được nữa, Vịnh - sưa đã đứng nghiêm lại nói:
- Báo cáo đại đội trưởng, cái việc xấu xa đó chỉ có tụi Tây mới quen làm, chứ chúng em chưa khi mô biết đến.
Đại đội trưởng Nguyễn Thới trước Cách mạng là thợ rčn ở nhà máy xe lửa Huế. Dáng người thấp đậm, vạm vỡ, xù xì như một thỏi gang đúc. Tính ông nóng như lửa nên cả đại đội gọi ông là Thới Trương Phi. Lúc nghe Vịnh - sưa nói, ông hơi chững người lại nhìn em. ông không ngờ chú bé này lại đối đáp với mình bằng một giọng gay gắt đến thế. ông nheo một mắt lại như lúc bắn súng, nhìn Vịnh - sưa, rồi bất chợt phá lên cười ha hả. ông vỗ vai em một cái làm cho em gần sụn vai, nói:
- ăn nói như rứa mới gọi là biết ăn nói. Rứa thì được, tối nay tôi sẽ cho các chú đi chơi nhau với tụi Tây một trận, cho tụi hắn biết cái gan của con nít Huế mình.
Cả ngày hôm đó, các em rất hồi hộp, chỉ sợ đại đội trưởng quên mất lời hứa. Nhưng không, khoảng bốn giờ chiều, ông đi đến gian phòng ở của các em, gọi các em lên buồng làm việc của Ban chỉ huy. Và thật tai hại, ông bước vào phòng đúng lúc bốn em đang say sưa chọi dế. Các em hốt hoảng dúi vội những con dế cưng, dế nòi, dế cụ vào các xó xỉnh trong buồng. Các em lo lắm: chuyến ni răng cũng bị đại đội trưởng xạc cho một trận ra trò đây. Cũng có thể vì chuyện chọi dế mà ông không cho đi chiến đấu cũng nên. Vệ Quốc Quân mà còn chơi chọi dế, nhất định là khuyết điểm to rồi. Với cương vị tổ trưởng, Vịnh - sưa lo lắng hơn cả. Em đâm cáu với Mừng: Chỉ tại hắn đầu têu hết! Hắn bày đặt ra cái trò chơi chọi dế làm cả tổ đâm ham. Mà không biết hắn moi ra được ở mô con dế đầu si chọi khỏe đến rứa? Bao nhiêu dế của mình, cậu Vệ, cậu Quỳnh lên đài đều bị con dế nòi của hắn cho "nốc ao" hết.
Tức không chịu được. . .
Nhưng cũng thật bất ngờ. Khi lên đến buồng làm việc, đại đội trưởng lại hỏi chúng về chuyện chọi dế và nghe rất chăm chú. òng cười, gật gật đầu nói: "Khi mô rỗi các em đem dế lên đây chọi cho anh coi với. Ngày nhỏ bằng các em, anh cũng là một tay chọi dế sừng sỏ nhất xóm". ông mở ngăn kéo lấy cho mỗi em một cục đường phčn to như quả trứng vịt: "Ăn cho vui các em".
óng vừa lau khẩu "pạc hoặc" vừa nghiêng nghiêng lai lắng nghe tiếng nhai đường lóc cóc của bốn chiến sĩ.
Gương mặt thợ thuần phác của ông phảng phất một nụ cười trìu mến của người cha. ông chợt dừng tay lau súng hỏi:
- Trong bốn em, có em mô biết ngôi lầu thằng Lơ-bờ-rít không?
Dạ em. - Mừng suýt vội nước bọt và ngậm nhanh viên đường phčn vào một bên mã, trả lời.
- Em có thuộc đường trong khu vực ngoắc ngoéo ni không?
Dạ thuộc làu làu. Bịt mắt em thả em vô trong đó em cũng tìm được đường ra... Bởi trong khu vực ni nhiều cây bút bút lắm. Trong vườn nhà thằng Lơ-bờ-rít cũng có hai cây bút bút rất cao. Mấy lần em đã trčo qua rào sắt, lẻn chui vô vườn, trčo lên ngọn cây...
Đại đội trưởng Nguyễn Thới lạ lùng nhìn Mừng, hỏi:
Em trčo lên ngọn cây bút bút mà làm chi rứa?
Vịnh -sưa kể vắn tắt cho đại đội trưởng nghe chuyện Mừng đi tìm thuốc cho mẹ và trường hợp mừng gia nhập Vệ Quốc Đoàn... Đại đội trưởng cười ngất. ông đặt khẩu súng pạc hoặc lên bàn, bàn tay thợ to lớn đen nhọ dầu súng, nâng cằm Mừng lên nhìn sâu vào đôi mắt em:
Chú em khá lắm! Tối ni tôi giao cho chú dẫn đường trung đội cảm tử mang bom vô choảng nhà thằng Lơ-bơ-rít, liệu chú có dám làm không? Mà chú phải nhớ tối nay là tối ba mươi, tối ngửa bàn tay không thấy đó nghe. Dẫn đường mà lạc là coi như trật hết kế hoạch.
Mừng liền đứng bật ngay dậy, nhìn thẳng vào mắt ông trả lời:
- Anh cứ giao cho em. Em mà dẫn lạc hướng, về anh cứ chặt đầu em đi.
Đại đội trưởng nheo nheo một mắt như lúc bắn súng nhìn Mừng, nói giọng không có chút gì là đùa cợt:
Chú phải nhớ đã hứa là tôi chặt thật đấy! - Rồi ông mỉm cười đặt bàn tay nặng trĩu lên đầu em, giọng trở nên âu yếm khác thường: .
- Anh tin chắc là em sẽ hoàn thành được nhiệm vụ.
Dẫn đường cho bộ đội đi tiêu diệt bọn giặc nước cũng là đi tìm thuốc cho mẹ phải không em?
Dạ... - Mừng đáp, môi run run. Câu nói của đại đội trưởng vang vọng rất lâu trong trí nhớ của em.
Vịnh - sưa cũng đứng lên, hồi hộp nói:
Dạ rứa còn mấy đứa em?
- Cho cả mấy chú cùng đi theo trung đội cảm từ đánh bom Các chú có nhiệm vụ liên lạc, trinh sát, phát hiện các mục tiêu bí mật của địch. Chú nào lập được công sẽ có phần thưởng lớn.
Các em mừng rơn suýt nữa nhảy hết cả lên. Các em bỗng tin chắc rằng trên đời ni không ai tốt bằng đại đội trưởng Thới Trương Phi.
Title: Re: TUỔI THƠ DỮ DỘI {Phùng Quán}
Post by: kem on 20/10/06, 16:51
5

Lúc trời gần sâm sẩm, Quỳnh-sơn-ca bỗng gặp phải chuyện không may. Em và Mừng rủ nhau đi ngoài, lúc nhảy qua giao thông hào phía sau doanh trại, em dẫm phải mảnh chai nhọn hoắt. Em kêu lên một tiếng, rồi ngã qụy xuống đất. Mừng hốt hoảng chạy lại, nâng bàn chân bạn lên. Mặt em tái ngắt. Cái mảnh chai màu xanh đâm ngập khá sâu đúng giữa gan bàn chân bạn. Em lấy hết can đảm rút mảnh chai ra, mình sởn hết gai ốc. Máu chảy chan hòa ướt đỏ cả bàn chân Quỳnh, giọt giọt xuống đất.
Lần đầu tiên Mừng thấy máu chảy nhiều như thế, mà là máu của đứa bạn thân nhất đời. Em bối rối đến mụ cả người. Chính Quỳnh lại bĩnh tỉnh hơn, mặc dầu em đau lắm. Em lột cái mũ ca lô trên đầu đưa cho Mừng: "Cậu lau sạch đất với máu rồi kiếm cái gì băng lại cho mình. Mừng lau gần ướt hết cái mũ ca lô mà máu vẫn chảy ra không ngớt. Em chợt nhảy lên như ngồi phải lừa, kêu to: "Suýt nữa thì tớ quên'". Không kịp để bạn hỏi, em lao về phía cuối vườn, nơi có những bụi chuối um tùm. Em tìm vít một đọt chuối cuộn tròn như cây gậy xanh, ghé răng cắn một khúc ngắn nhai ngấu nghiến. Em nhả miếng đọt chuối đã nhai nát ra lòng bàn tay, quỳ xuống nâng bàn chân bạn lên, và đắp miếng nhai vào vết thương. Vết thương quả nhiên cầm máu. Mừng dứt cái khăn quàng cổ bằng vải dù pháo hiệu mà chiều nay em vừa xin được của một anh ở trung đội hai, bằng vết thương cho bạn. Em hỏi, giọng hồi hộp, xót xa: cậu có thấy đỡ đau không?""Có, đỡ nhiều rồi". Quỳnh mím mím môi trả lời.
"Thuốc chi của cậu mà hay dữ rứa?".
Thuốc của cụ Ba Trà bày cho mình đó. Cụ nói đây là thuốc dấu của tụi ăn trộm tài danh. Đọt chuối non nhai nhỏ đắp vô, vết thương to mấy cũng cầm máu ngay. CÓ thêm mấy hột muối nhai lẫn vô nữa thì thuốc tiên cũng không hay bằng. Chỉ mấy bữa là kín miệng ngay. Cụ còn bày cho mình nhiều môn thuốc dấu hay lắm. Thuốc trị rắn cắn, chó cắn, bò cạp, rết cắn, rồi thuốc trị hắc lào, ghẻ lở.
Tại răng cụ hay bày cho cậu rứa?
- Tại mình hay qua nhà cụ chơi, xách nước tưới vườn giúp cụ, cụ thương cụ mới bày. Chứ người khác có trả tiền nhiều mấy cụ cũng không bày mô.
Quỳnh vịn vai bạn, run run đứng lên, xuýt xoa:
- Nếu không đi Vệ Quốc Đoàn, cả ngày ở trong nhà lầu, chân lúc mô cũng đi giày đi dép thì làm răng mà biết được môn thuốc dấu hay ri cậu hč?
- Ừ . Mà da chân cậu mềm thiệt, như... như là thạch ấy. Cái mảnh chai đó mà đâm vô chân mình thì chắc không sâu đến rứa mô.
Em cúi lưng xuống trước mặt bạn:"Coi bộ cậu đau lắm. đi một mình không được mô. Để minh cőng cậu vô nhà.. .".
- Đừng, - Quỳnh lắc đầu, - để mình tự đi lấy thôi.
Cậu mà cőng, Vịnh - sưa nó biết mất.
- Biết cái chi?- Mừng ngạc nhiên nhìn bạn.
Biết là mình đạp phải mảnh chai ấy. Biết thì đời mô cậu ấy chịu để cho mình đi tấn công nhà thằng Lơ-bơ-rít tối nay. Vịnh-sưa là kỷ luật sắt gớm lắm.
- Nhưng chân cậu sắp quč ri thì đi làm răng được? - Mừng kêu lên lo lắng.
Mình biết ngay mà, - Quỳnh phụng phịu giận dỗi - Cả cậu cũng không muốn mình đi... Các cậu chỉ muốn sướng lấy một mình, còn mình thì bắt phải nằm đčo queo ở nhà... - Cặp mắt trong veo đen ngời của Quỳnh rơm rớm như sắp khóc.
Yêu bạn quá, chỉ sợ bạn giận, Mừng gãi đầu bối rối:
- Chừ biết làm răng hč...
Cậu phải giấu không cho Vịnh -sưa biết là mình đạp phải mảnh chai. Biết, răng hắn cũng báo với đại đội trưởng bắt mình phải ở nhà.
Được rồi, được rồi, - Mừng ôm vai bạn dỗ dành, - mình sẽ giấu... Nhưng chân cậu còn đau lắm không, chỉ lo cậu không theo kịp được đơn vị thôi...
- Đỡ lắm rồi, mình sắp hết đau rồi. Thuốc dấu của cậu hay hơn thuốc tiên. Chưa chừng hắn liền miệng rồi cũng nên.
Quỳnh chỉ tay xuống bàn chân đau cố nhoẻn cười.
Đôi môi em đỏ như son tươi ngời lên trong ánh chạng vạng khu vườn um tùm bóng cây. Và để chứng tỏ vết thương đã sắp liên miệng, Quỳnh nhảy lên một cái.
Nhưng chân vừa chạm đất em bật rên một tiếng khe khẽ, mặt tái nhợt. Mừng không nhanh tay đỡ kịp chắc em đã ngã khuỵu xuống đất.
Không việc chi, không việc chi... - Quỳnh hấp tấp nói - Mình giả đò đau để dọa cậu chơi ấy mà. - Em quay mặt thật nhanh để giấu bạn nước mắt ràn rụa vì đau.

6

Trung đội Cảm từ tập họp trước sân doanh trại chuẩn bị xuất phát. Lúc này khoảng mười giờ đêm. Trinh sát của Mặt trặn cho biết một bộ phận tham mưu quan trọng của giặc hiện đóng trong ngôi lầu kiên cố của thằng thực dân cáo già Lơ-bơ-rít. Từ ngày nổ súng quân ta đã bốn lần tổ chức tấn công nhưng không hạ nổi. Đêm nay là trận tấn công thứ năm.
Mừng - chiến sĩ liên lạc dẫn đường đứng trước hàng quân "Liên lạc dẫn đường là người quan trọng nhất của trận đánh tối nay Dẫn trúng đường, không lộ, là coi như trận đánh đã thắng một nửa" Đó là lời của đại độ trưởng lúc giao nhiệm vụ cho em Thấp bé nhất đơn vị, em đứng chỉ cao đến ngực anh chiến sĩ vác trái bom đứng sát sau em. Em đội mũ Tiếp Phòng Quân, quai mũ buộc chặt dưới cằm, lưng thắt xanh tuya-rông, dắt hai trái lựu đạn OF, tay cầm một quả lựu đạn mỏ vịt, quần xắn quá đầu gối. Nhìn em đã ra dáng là chiến sĩ lắm, nhưng là chiến sĩ trong câu chuyện cố tích. "Đội quân tí hon đi đánh nhau với bọn khổng lồ hung ác". Cuối hàng quân là Vịnh-sưa, Vệ-to-đầu, Quỳnh-sơn-ca. Chân trái Quỳnh được quấn to sù như viên tướng đi hia trong tuồng cổ. Em lấy cái áo sơ mi mới tinh bằng thứ hàng len mỏng mà ngày ấy chỉ con cái nhà giàu mới mặc để quấn bàn chân đau. Vịnh-sưa ngạc nhiên hỏi: "Cậu quấn chân quấn cảng làm chi rứa?" Quỳnh nói mặt tỉnh khô:
Để lúc vô trinh sát vị trí giặc được êm, có đi sát bên tai tụi hắn, tụi hắn cũng không biết, cứ ngáy khò khò".
Nghe cũng có lý nhưng Vịnh-sưa thắc mắc: "Tại răng cậu chỉ quấn có một chân thôi"? - "Tại tớ bước nặng về bên chân trái" Mặc dầu đã quấn kỹ như vậy, nhưng bước chân đi lỡ chạm phải vật gì cứng, vết thương vẫn làm em buốt nhói đến tận óc. Em phải nghiến chặt răng mới có thể đi thẳng người được để giấu không cho Vịnh-sưa biết.
Đơn vị lên đường, tiến sâu vào khu vực giặc. Đi trước đơn vị, chốc chốc Mừng lại đặt tay lên ngực. Bàn tay đen đủi nhỏ bé bấu chặt lấy áo trấn thủ như muốn ghì giữ trái tim trong lồng ngực. Trời ơi, nó đập dữ quá!
Tiếng đập của nó mới vang to làm sao? Mừng cảm tưởng cả đơn vị đều nghe tiếng tim mình đập. Nhiều lần chỉ chực bật lên khóc vì không sao kiềm chế giữ nó trở lại nhịp đập bình thường. Em xấu hổ thầm nhủ: "Các anh mà nghe tiếng trống ngực mình đập chắc các anh sẽ cho là mmh sợ'! Thật ra thì em không sợ mà lo Lần đầu tiên trong đời, vào lúc vừa tròn mười ba tuổi, em cảm nhận được sức nặng lớn lao của hai tiếng:"Trách nhiệm chiến sĩ". Lúc đứng trước mặt đại đội trưởng, em hăm hở nói: "Em mà dẫn lạc đường, anh cứ chặt đầu em đi" Em chưa hình dung được hết tất cả sự nghiêm trọng của lời nói đó. Nhưng bây giờ bắt tay vào việc thực hiện lời hứa, gánh nặng của nỗi lo càng lớn mãi và cơ hồ muốn đč em qụy xuống.
Lạ lùng thay, trong bóng tối, không hề nhìn thấy mặt mà anh trung đội trưởng Cảm tử như thấy hết tận gan ruột Mừng. Anh bước lên đi cạnh mừng, đặt tay lên vai em và nói nhỏ: "Em cứ bình tĩnh, không phải lo lắng gì hết. Càng lo người ta càng dễ rối trí và dễ quên hết những điều mình vốn thuộc lòng...". Anh nói có vậy mà tự nhiên Mừng thấy vững lòng, nhịp tim đập bình thường trở lại. Em bật lên thì thầm như một lời cầu khấn: "Mạ ơi, mạ dắt con đi trúng được con đường con đi tìm thuốc cho mạ trong đêm tối ni mạ ơi!" Không biết có phải để thử thách Mừng chăng, mà đêm nay trời tối ghê gớm, tưởng như bóng tối của một ngàn đêm trước được đêm cô đặc lại mà làm ra bóng tối đêm nay...
Nhưng càng tiến sâu vào khu vực giặc đóng, mừng càng thấy vững bụng hơn. Mắt em như mỗi lúc một sáng hơn, trí nhớ em như tinh tường hơn... Đường phố ở Huế được trồng nhiều phượng, vông đông, mù u, bút bút. Cây bút bút có phần ít hơn ba loại cây trên, nhưng dáng của nó lại rất dễ nhận ra trong đêm tối. Cao lớn, um tùm, tán cây rất lớn. Da nó khá nhẵn nhụi. Nếu không nhận ra bằng mắt có thể nhận ra được bằng tay.
Mừng thì nhận ra cây bút bút bằng tất cả thân thể em, từ trán, má, môi, tay, chân đến đùi, bụng... Đã bao nhiêu lần em ôm nó với toàn bộ gân sức bé bỏng của em, để trčo lên ngọn nó, tìm thuốc cho mẹ.
con đường dẫn đến vị trại giặc khá ngoắt ngoéo, rất nhiều ngã ba, ngã năm và cây bút bút trồng hai bên hč đường có thưa hơn những đường phố khác. Nhưng bù lại cây nào cũng rất lớn, rất cao. Lá tầm gửi đậu trên ngọn cây bút bút cao chừng nào chữa bệnh hen suyễn càng hay chừng ấy. Do đó mà hầu như tất cả những cây bút bút trong khu vực này em đều đã trčo lên ngọn, ít nhất là một lần. Và trčo với trái tim đập mạnh xao xuyến trong lồng ngực vì hồi hộp, hy vọng... Rất nhiều gốc cây đã thấm những giọt nước mắt nóng hổi của em Những giọt nước mắt đau buồn thất vọng. Những giọt nước mắt rớt xuống trong tiếng kêu thầm nức nở: "Mạ ơi cây bút bút ni cao ri mà cũng không có lá tầm gửi...
Biết khi mô cho mạ lành được bệnh suyễn mạ ơi"'. Tất cả những cái đó làm cho dáng dấp của mỗi cây trong khu vực này ghi hẳn vào trí nhớ em Và đêm nay, những cây đó đứng sừng sững trong đêm tối làm những cọc tiêu khổng lồ chỉ đường cho em dẫn trung đội Vệ Quốc Đoàn Cảm tử mang bom đánh thẳng vào hang ổ của bọn giặc nước.
Anh trung đội trưởng đi sau em cách vài bước chân Anh chỉ cần nhìn dáng đi của em hơi cúi thấp, rẽ bóng tối như người bơi rẽ nước. thận trọng vững vàng tiến lên phía trước: anh cũng biết là em đã nhận ra đúng đường. Đến những chỗ ngã năm, ngã ba, những quãng đường cây cối, cột điện, xác xe cộ của giặc bị bắn cháy lấp kín, phải đi vòng, em chỉ dừng lại một chút, đầu ngước lên phía các ngọn cây, quan sát, rồi tiến vào lối đi đã chọn với bước chân không một chút ngập ngừng.
Một vài địa điểm tấn công phía đông, phía tây Mặt trận, tiếng súng, bom mìn, lựu đạn bắt đầu rộ lên, mỗi lúc một căng thẳng. Pháo hiệu đỏ lừ nối nhau vọt lên thinh không đến đặc như những hòn than đỏ bắn vọt ra từ một cái bể rčn khổng lồ. Như một đám cháy gặp cơn gió nam, tiếng súng tấn công giặc lan rộng ra rất nhanh. Chỉ chốc lát dã trùm lấp khắp cả Mặt trận.
Chính vào lúc đó thì Vịnh-sưa từ dưới cuối hàng quân chạy vụt lên gặp anh trung đội trưởng, báo cáo giọng hớt hải:
- Báo cáo anh, Quỳnh bị lạc mất rồi ạ?
Trung đội trưởng gọi Mừng lại. Anh hỏi Vịnh:
- Lạc vào lúc nào?
- Dạ chắc lạc lúc phải đi vòng tránh con đường bị cây cối, cột điện đổ lấp kín ấy. NÓ đi trước em với Vệ.
Nhưng không hiểu tại răng nó cứ đi chậm lại, rồi tụt hẳn đằng sau, người nó cúi lom khom, bước thì tấp ta tấp tểnh. Em hỏi nó: "Cậu đi kiểu chi lạ rứa?" NÓ nói:
! Mình đi kiểu ni tránh đạn mới tốt. Đi như các cậu ăn đạn tụi bắn tỉa có chầu'" Lúc vượt qua khỏi đoạn đường vòng, em nhìn lại sau thì không thấy nó nữa. Chắc nó lạc mất rồi... giọng Vịnh như muốn khóc.
- Chà, lôi thôi quá hč. Trung đội trưởng chắc lưỡi nói .
- Anh cho em quay trở lại tìm. - Vịnh nói. - Em sợ nó đi lung tung đâm đầu vô giữa vị trí giặc thì nguy.
Quãng đường vòng nớ có nhiều chỗ rẽ ngang rẽ dọc lắm. Em còn nhớ đường không?
- Dạ .. cũng hơi nhớ thôi... Nhưng răng cũng phải tìm... NÓ nhỏ mà yếu ớt nhất đội em... Ngày chưa Cách mạng, nó đi mô một bước cũng ngồi trên xe nhà. Đường sá trong thành phố hắn có thuộc chút chi mô anh...
Giờ quy định tần công đã sắp đến. Không thể chậm trễ được Trung đội trưởng đành phải giải quyết.
Thế thì em quay lại tìm bạn đi. Tìm ra, hai em dẫn nhau về doanh trại, không phải quay lại đây nữa nghe.
Dạ . Vịnh ngập ngừng một tí rồi chào anh và chạy vụt về phía sau.
Mừng đứng như bị chôn chân, miệng há ra, mắt mở trân trân nhìn hút theo Vịnh. Tim em đau nhói như bất ngờ bị cắm một miếng mảnh chai. "Chi tại mình hết! úi chao. Em thầm kêu. Mình giấu chuyện chân hắn đạp phải mảnh chai, nên chừ hắn mới bị lạc..
Trung đôi trưởng phải giục đến lần thứ hai em mới nghe ra:
- Đi thôi em Sắp đen giờ tấn công rồi! Chừng hai mươi phút sau, Mừng dừng lại ở đầu một ngã ba. chỉ tay về phía trước nói thì thào với trung đội trưởng:
Ngôi nhà lầu thứ hai có hàng rào sắt cao nghêu là nhà tháng Lơ-bơ-rít đó anh nờ.
Anh cố mở căng mất nhìn theo tay chỉ của chú em liên lạc.
Giữa tiếng bom đạn đang nổ rầm trời bốn phía xung quanh, ngôi nhà này đặc biệt im im hầu như không có người ở. Anh hơi ngờ?
- CÓ chắc không em?
- Răng lại không chắc? - Mừng nói giọng quả quyết.
Nhà hắn có hai cây bút bút. Cái cây có cành ngã ra gần hàng rão sắt tê, một lần em trčo lên suýt nữa bị con chó béc giê nhà hắn cắn chết. Còn cái cây mọc chính giữa vườn ngọn cao quá cả mái lầu tê thì em chỉ dám đứng ngoài đường ngó vô, rểu nước miếng mà thčm. Bác Hùng xóm em nói trong tụi Tây ở Huế mình, thằng Lơ-bơ-rít là dữ nhất. Đi qua đây em ngó thấy hắn luôn. Mặt hắn râu mọc nhiều như rễ bčo. Hắn hút cái ống điếu dài như cái cây đánh khăng, tay dắt chó béc giê. Hắn hay sụyt chó cắn người lắm. Tụi em hễ đi qua nhà hắn là đua nhau réo thật to:"Thằng Lơ-bơ-rít ăn mít chấm đường đen, ăn ghčn chấm với mũi, ăn củi chấm với than, ăn vàng chấm với cứt". Rồi vùng chạy cho thật nhanh. Hắn mà tóm được thì chết.
Không một lời chi dẫn trinh sát nào mà trung đội trưởng thấy tin chắc hơn lời chỉ dẫn của Mừng. Sau khi quan sát kỹ toàn bộ ngôi nhà, anh đã hiểu ra: bọn giặc qủy quyệt, không động tĩnh là để giữ bí mật nơi cơ quan chỉ huy quan trọng của chúng đóng. Anh nói với Mừng:
Nhiệm vụ dẫn đường của em đến đây coi như hoàn thành. Bây giờ em phải quay ngay lại phía sau để tìm Quỳnh và Vịnh. Anh lo chúng nó lạc lắm. Vệ sẽ ở lại với trung đội làm nhiệm vụ trinh sát hên lạc.
Anh ngoắc tay ra hiệu. Cả trung đôi đang dàn hàng ngang phía sau, lập tức nằm rạp xuống, bí mật, thận trọng bò lên tiếp cận ngôi lầu vị trí giặc.
Mùng thčm được ở lại tham dự trận đánh lắm.
Nhưng nghĩ đến bạn, em lao nhanh về phía sau rẽ bóng tối dày đặc như người bơi rẽ nước...
Title: Re: TUỔI THƠ DỮ DỘI {Phùng Quán}
Post by: kem on 20/10/06, 16:52
7

Đã hàng chục lần Quỳnh sờ soạng tìm bám vào những bụi cỏ mọc nham nhở quanh thành hố cố hết sức để trườn lên Nhưng lần nào cũng chỉ mới nhích lên được một chút, em lại bị rơi tụt trở lại xuống đáy hố. Hai bàn tay em cầm chặt hai túm cỏ bị nhổ ra khỏi thành hố. Cái hố hẹp nhưng khá sâu, thành hố gần như dốc đứng, đất sét thấm nước mưa, trơn như bôi mỡ. Em đã sờ soạng quanh thành hố rất. kỹ Không có một chỗ hőm nào khả dĩ có thể bám chân mà trườn lên. Lại thêm cái chân đau nó phản em...
Quỳnh bị lạc đơn vị không phải ở chỗ quãng đường vòng như Vịnh-sưa đoán, mà lạc gần cái ngã ba cách đó chừng dăm trăm thước.
Một cách ngây thơ. em tưởng rằng quấn cả một cái áo dạ mềm vào chân như thế thì vết thương sẽ không còn đau nữa, có thể theo kịp các anh Cảm tử, cùng với các bạn, đi đánh nhà thằng Lơ-bơ-rít. Em lại còn quá tin tưởng cái thứ thuốc dấu thần hiệu của Mừng, "thứ thuốc dấu của những tay ăn trộm tài danh", rịt vào là vết thương hàn miệng... Nhưng em đã lầm. Mới đi theo đơn vị được vài trăm bước, bàn chân em đã trở lại nhức buốt ghê gớm. Nhất là khi dẫm phải cạnh một viên gạch vỡ hòn đá hoặc cành cây. Vết thương đau nhói đến tận óc. Em có cảm giác máu lại bật ra. nong nóng. ươn ướt, dinh dinh dưới gan bàn chân Em cố cắn chặt hai hàm răng để khỏi bật tiếng rên Em cố mở căng mắt để tránh dẫm phải những vật cứng Nhưng không hiểu sao cứ càng cố tránh lại càng dẫm phải gạch vỡ, đá, cành cây, mảnh sắt, như cùng hùa nhau đâm cái cạnh sắc nhọn nhất của chúng vào đúng giữa vết thương. Mấy lớp dạ áo sơ mi bọc chân cũng có vẻ coi chẳng mùi mẽ gì. "Được, mày đã muốn buộc muốn băng, chúng ông càng đâm cho mày biết tay'" Chúng như gầm ghč nói với em vậy. Em đau đến mờ cả mắt. Em cố đi thật thẳng không cho các bạn biết là mình đau, nhưng người em cứ co rúm lại, và đi lệch hẳn về một bên. Càng đi, vết thương càng buốt nhói. Em tụt dần phía sau các bạn.
Cái áo sơ mi sắp tuột hẳn, kéo lê vướng víu dưới chân.
Không thể gắng gượng thêm được nửa, em phải ngồi thụp xuống buộc lại. Buộc xong đứng lên em không còn thấy các bạn ở trước mặt nữa. Em chạy vội lên, gặp phải một ngã ba. Em muốn gọi nhưng sợ làm lộ bí mật trận đánh.
Mà em ấy à! Chết thì thôi chứ đời nào chịu để mang tiếng trận đánh vì mình mà thất bại Đáng lẽ phải đi về lối trái thì em chạy bừa sang lối phải. Và em bắt đầu lạc từ đó. Chạy khoảng vài trăm thước em bước tụt xuống một cái hố khá sâu nằm giữa lối đi Trời tối quá nên em không nhìn thấy. Đáy hố lőng bőng bùn và nước. Đầu em đập mạnh vào thành hố. Em tưởng chết ngất vì đau. Nhưng em gượng dậy được. Em mò mẫm cố hết sức tìm cách trườn ra khỏi hố, nhưng vô ích. Hàng chục lần trườn lên tụt xuống làm cho em kiệt sức. Vết thương dầm lâu trong bùn lỏng càng xót buốt dữ dội. Hai chân em tự nhiên run lẩy bẩy như lên cơn động kinh, không còn sức để đứng vững, em ngồi phệt xuống đáy hố. bùn và nước ngập đến thắt lưng. Tiếng súng giặc bỗng như một đàn chó ngao hung tợn bất thần từ trong bóng tối chồm ra sủa cắn điên cuồng cả bốn phía quanh em, tiếng đạn rít rất gần, nghe dâu như ngay trên miệng hố. Kiệt sức, đau đớn, tuyệt vọng, lo sợ và lạnh đến thấu gan ruột . . . cả người em dựng hết gai ốc... đầu em choáng váng hai thái dương đau buốt, như có ai dùng một vật gì đó rất cứng siết chặt... Và em ngất đi Em bỗng thấy mình đang ngồi ở nhà. trên cái đôn cao bằng gỗ trắc chạm trổ, với chiếc đệm nhung màu đỏ chói. Trước mặt em là chiếc đàn dương cầm thân thuộc, mặt gỗ có vài vết xước, nhưng tiếng hay vô cùng. Trên thành khung cửa sổ cạnh cây đàn cây hồng nhung trong chiếc chậu sứ nước men xanh ngời. khoe với em mấy bông hàm tiếu, bên cửa sổ, con sông Hương như màu men chậu sứ, lúc ẩn lúc hiện, sau những vòm cây xanh đậm xa xa... Em mải mê dạo đàn, bản Dòng sông Đa-nuýp xanh. Em đàn và em mơ... Bao giờ mình thật giỏi nhạc, mình cũng sẽ viết một bản nhạc hay không kém gì bản Dòng sông đa-nuýp xanh, tả con sông Hương... Tất cả những người chơi đàn trên thế giới đều thích chơi bản nhạc sông Hương xanh của mình. Ai đã nghe bản nhạc cũng ao ước được đến thám con sông Hương... Mụ phù thủy mặt mũi dễ sợ gớm ghiếc trong tập truyện cổ tích tiếng Pháp và chị Trang em đang đọc dở để trên mặt đàn, bỗng cựa quậy rồi bước ra khỏi tranh vẽ. Mụ cầm gậy thần phang rất mạnh xuống đầu em... Em bỗng hóa thành một con nhái xanh bé nhỏ. Mụ định phang nữa nhưng em đã vọt được qua cửa sổ... Em bị rơi tőm xuống cái hố rất sâu lőng bőng bùn nước. Một bọn con Tây rất đông không biết từ đâu kéo đen vây quanh miệng hố. Trong tay đứa nào cũng cầm gạch vỡ, đá, súng cao su... Chúng nhìn em, những cặp mắt vàng như mắt rắn. Chúng hò nhau nhắm em ném tới tấp đá, gạch, những thanh gỗ nhọn, bắn súng cao su... Dưới lòng hố hẹp em cố hết sức nhảy tránh trong một niềm uất ức, kinh khiếp khôn cùng. Những hòn đá, hòn gạch cạnh sắc nham nhở bay sát sạt qua người em, làm bắn tóe bùn nước, phủ kín từ đầu đến chân em... ôi, cảnh tượng hãi hùng này sao mà giống hệt cái lần em nhìn thấy ở gần hồ Tĩnh Tâm. Hồi ấy em còn nhỏ tí chưa đi học. Chị Trang và em ngồi xe tay nhà, vào dạo hồ Tĩnh Tâm. Hai chị em xuống xe, chị dắt tay tha thẩn quanh hồ. Em chợt nhìn thấy phía trước có một đám con nít rất đông đang reo cười, vỗ tay, bu quanh miệng một cái hố cạnh lề đường. TŇ mò, em gỡ tay chị ra, chạy đến xem chúng làm gì mà vui thế. Chúng thi nhau cạy gạch bên lề đường ném tới tấp xuống đáy hố. Dưới đáy hố một con nhái xanh đang nhảy trốn cuống cuồng. Con nhái tội nghiệp hụp lặn sâu xuống lớp nước đục ngầu, nhưng ngạt thở quá nó lại nổi đầu lên Và trận mưa đá gạch lại tới tấp rơi xuống quanh mình nó. Cặp mắt con nhái xanh vốn đã lồi lại càng thêm lồi ra vì khiếp sợ và như đang ngước nhìn em van lạy cầu cứu, ôi cái nhìn của nó như xuyên suốt trái tim em. Em lắp bắp kêu to: "Đừng ném nó mà tội nghiệp! Đừng ném nó mà tội!". Nhưng tiếng kêu xin của em lại càng làm cho bọn trẻ thích thú hơn. Chúng càng ném hăng hơn Và một đứa, thằng lớn nhất bọn, đã ném một hòn gạch vờ trúng giữa lưng con nhái. Con nhái kêu lên một tiếng thảm thương, xé ruột.
Bốn chân con nhái giật giật rồi nổi bềnh lên mặt nước đục ngầu, phơi cái bụng tráng bệch. Bốn chân nó thôi giật, duỗi thẳng đờ. Và cặp mắt thao láo của nó vẫn đang nhìn em như nó chưa chết. . Em rùng mình và bật òa khóc nức nở. Và thật bất ngờ, em xông ào đến trước mặt cái thằng vừa ném chết con nhái. NÓ lớn nhất bọn.
em đứng mới chỉ đến ngực. Em chụp lấy bàn tay vừa ném đá của hắn, cắn thật mạnh với tất cả sự hung dữ của một con sói con bị người ta dẫm phải đuôi. Mặc dầu nó khỏe gấp ba em, nhưng bị tấn công bất thình lình nó phải kêu, nhảy lùi trở lại như muốn bỏ chạy. Bàn tay bị cắn khắc những dấu răng rườm máu. Khi đã hoàn hồn, nó liền nhào tới định đánh em để trả thù, nhưng may mắn vừa lúc đó chị em và người kéo xe kịp chạy đến...
Cảnh tượng hôm đó đã gây một vết bỏng rất sâu trong trí nhớ của em. Tuy chuyện xảy ra từ ngày em còn bé tí, nhưng mỗi lần bất chợt nhớ lại, hai mắt em lại cay xč, rớm lệ... Trước ngày vào Vệ Quốc Đoàn em có sáng tác một bản nhạc ngắn bốn câu nhan đề: "Cái chết của con nhái xanh nhỏ bé". Nhiều lần em ngồi một mình đàn lại bản nhạc sáng tác đầu tay của mình vừa dạo đàn vừa khóc nức nở. âm nhạc đã làm cho cái chết của con nhái tội nghiệp hơn, nhức nhối hơn, bi thương hơn. Và lúc này, cũng chính cái thằng lớn nhất bọn ấy, nậy cả tảng đá lát đường rất lớn, nâng lên bằng cả hai tay, ném trúng bàn chân trái của em với một tiếng nổ dữ dội làm chao đảo thành phố. Em kêu thét kinh hoàng và bừng tỉnh cơn ác mộng. Xung quanh em tiếng nổ ran ran. Chốc chốc lại bùng lên một tiếng nổ rất lớn làm mặt đất chuyển rung như tiếng pháo đùng giữa tràng pháo cối, tiếng nổ của bom, mìn ba càng, đại bác. Chính là tiếng nổ em nghe thấy trong mơ Mặt trận đang vào giờ cao điểm tấn công.
Ngồi dầm lâu trong bùn và nước em thấm lạnh thấu xương. Em cố dưới người định đứng lên nhưng hai cẳng chân em không làm sao nhúc nhích nổi như đã bị bại liệt Sau nhiều lần gắng hết sức nhưng đều vô hiệu. Một nỗi hoảng sợ, kinh khiếp chưa từng thấy xâm chiếm trái tim nhỏ bé của em Em bật khóc to thành tiếng.

8

quỳnh ơi! Quỳnh! Quỳnh ơi! Quỳnh!

Tiếng ai gọi tên em đột ngột cất lên giữa tiếng súng dậy trời. Em không còn tin vào tai mình nữa. Em ngợ quá, chắc là mình tưởng tượng ra đấy thôi. Nhưng tiếng gọi mỗi lúc một vang to gần hơn, như muốn át cả tiếng súng. Lúc này thì em không thể nhầm được nữa. Và em còn nhận được ra tiếng của Mừng. Em mừng đến nghẹn thở. ĐÓ là nỗi mừng của người chắc chắn là mình sẽ bị chết chìm bỗng hai chân chạm đến đất cứng. Cả đời em, em chưa bao giờ nghe ai gọi tên mình thân thiết đến thế, cảm động đến thế, kể cả cha em, mẹ em, hai chị ruột của em. Em ngửa cổ lên, thu hết bao nhiêu hơi sức còn lại kêu to:
Ơi ƠƠ ii ơi? Quỳnh đây, Mừng ơ..:i...ơi! Tiếng gọi, tiếng đáp tan đi giữa tiếng súng trận và đêm tối dày đặc. Em bỗng nghe tiếng Mừng hỏi ngay trên miệng hố:
Quỳnh ơi, Quỳnh ở mô đó?
Mình ở dưới hố ni. Mình bị bổ rớt xuống hố.
CÓ sâu lắm không?
- Sâu sâu lắm.
Không leo lên được à?
- Hai chân mình bị quč rồi... Mà hố trơn lắm. Mình không đứng dậy được... .- Quỳnh trả lời qua tiếng khóc thút thít.
Chừ làm răng hč... Để mình tụt xuống đưa cậu lên nghe. Dưới đó có mảnh chai cọc nhọn chi không?
- Không, chỉ có nước xắp xắp với bùn thôi.
Huỵch! Mừng tụt từ trên miệng hố xuống, đứng ngay trước mặt Quỳnh. Đảy hố hẹp, mặt hay em như gần sát vào nhau mà không nhìn rő nhau. Phía trên đã tối, đáy hố càng tối hơn.
- May quá, - tiếng Mừng hổn hển, - nhảy xuống mình chỉ lo đạp phải bàn chân đau của cậu.
Mừng ngồi thụp xuống. Hai em ôm chặt lấy nhau trong vòng tay, và cùng khóc. Cả hai cùng cảm thấy nước mắt của bạn ấm nóng trên má mình. Quỳnh hôn bạn, nồng nàn trìu mến, cảm kích:
- Không có cậu thì chắc mình chết luôn dưới hố ni...
Mình đã định tìm thêm một lúc nữa mà không thấy, mình sẽ núp vô một chỗ mô đó, chờ đến sáng mai tìm thì răng cũng thấy.
Chỗ ni là khu vực giặc, đi tìm mình ban ngày tụi giặc ngó thấy, hắn bắn chết.
Chết thì chết, sợ cóc chi! Mình chân lành tụi hắn có bắn, mình còn chạy còn núp được. Quỳnh chân đau, chạy núp làm răng được, phải chịu ngồi mà hứng đạn. Nghĩ rứa lâ mình không còn thấy sợ chi nữa hết.
Tiếng súng tấn công khắp Mặt trận lắng dịu dần. Điều đó báo hiệu đêm đã chuyển sáng. mừng liền xốc nách bạn, nâng bạn đứng lên. CÓ bạn giúp, sau một lúc gắng gượng, Quỳnh đã đứng dậy được.
- úi chao, rứa mà mình cứ tưởng hai chân mình bị bại rồi. Chừ làm răng mà lên được hč. Chân mình đau quá nhấc không nổi...
Mừng sờ soạng quanh thành hố. HỐ trơn nhẵn, không có qua một lỗ hőm nào có thể đặt chân bám tay mà treo lên. Mừng bối rối.
Chà, trčo lên được cái hố ni ngó bộ còn khó hơn cà trčo lên mấy cây bút bút to nhất ở phía bên trên bến đò Trường Súng. - Chợt Mừng reo khẽ:
A, nghĩ ra được cách rồi! Chừ cậu xoay người lại, áp sát ngực vô thành hố, cố đứng cho vững nghe.
Quỳnh nghe theo bạn nhưng chưa hiểu bạn định làm gì. Mừng qùy thụp xuống dưới chân bạn, ngâm nửa người trong bùn và nước thò tay nắm cổ chân phải của bạn, hỏi:
Chân ni là chân lành phải không?
Em nâng bàn chân bạn đạt lên vai mình. Nước và bùn ở bàn chân Quỳnh chảy ròng ròng từ vai xuống đến thắt lưng em. Em nói:
- Quỳnh gắng đứng cho vững nghe. - Em lại nhẹ nhàng cầm lấy bàn chân đau của bạn ngập sâu trong bùn, giúp bàn đặt tiếp lên vai trái mình... Quỳnh run rẩy đứng hai chân lên vai bạn. Mừng nói:
- Chừ mình đứng thẳng lên, Quỳnh phải dựa sát vô thành hố cho khỏi bổ nghe. Khi mô tay Quỳnh bám được miệng hố rồi thì cố bám cho chắc mà trườn lên nghe.
Mừng cúi đầu, tì trán vào vách hố trơn ướt như con bò sắp lao vào trận chọi, hai cánh tay em giang rộng bám vào thành hố, rồi gắng hết sức từ từ đứng thẳng lên, nâng cả người bạn trên đôi vai bé nhỏ của em, đưa bạn nhích dần lên phía miệng hố, mấy lần hai chân em muốn qụy xuống vì sức nặng trên vai, nhưng em cố nghiến chặt răng để đứng vững. Ngực em tức ran muốn đứt hơi vì gắng quá sức. Cứ thế này chịu thêm mấy giây nữa em qụy mất... Nhưng tiếng Quỳnh hổn hển reo trên đầu em:
- Đến miệng hố rồi.
- Bám cho chắc nghe - Mừng nói qua tiếng thở đứt quãng: - Gắng trườn lên đừng để tuột xuống nghe.
Ừ - Ngực Quỳnh đã nằm vắt được lên miệng hố.
Mừng nắm hai cổ chân bạn, nhón chân, chớm người đun lên giúp bạn trườn ra khỏi hố. Tiếng thở của hai em ì ạch, nặng nề.
Lên được rồi! - Tiếng Quỳnh mừng rỡ. - Chừ Mừng làm răng lên được?
- Quỳnh sờ quanh tìm cái chi nhọn đào được đất thì ném xuống đây cho mình. - Tiếng Mừng nói với lên.
Quỳnh bò bốn chân sờ soạng mặt đất. Em nhặt được một mảnh thân cây bị đạn đại bác giặc bắn toác, có đầu nhọn. Em bò đến bụm miệng hố:
Đây rồi, mình thả xuống nghe.
Với mảnh thân cây Quỳnh thả xuống. Mùng sờ soạng khoét vào hố những lỗ nhỏ làm bậc đặt chân. Và chỉ một loáng em đã trčo khỏi miệng hố. Hai em ôm chầm lấy nhau, nằm dài trên mặt đất. Thắng lợi làm cho hai em quên hết nhọc mệt, hiểm nguy, cùng rúc rích cười.
Khắp mặt trận lúc này đã gần im hàn tiếng súng.
Hai em cứ ôm nhau như vậy nằm im hồi lâu trên mặt đất lổn nhổn gạch đá, cạnh cây, hố đạn, mảnh vụn sắt thép... Cả hai áo quần ướt sũng, lép nhép bùn. Mừng chợt vùng ngay dậy, nói:
- Nằm thêm chút nữa e ngủ quên mất thôi Quỳnh ạ.
Cậu Vịnh đi tìm Quỳnh trước mình rất lâu mà không thấy tăm hơi cậu ta mô cả. Không biết cậu ta có tìm được đường mà về đơn vị không. Mình lo lắm... Đường sá trong khu vực ni cậu ta mô có thuộc.
- Hay cậu cứ để mình ngồi đây chờ. Câu đi tìm Vịnh-sưa lại một lần nữa, lỡ may ra gặp.
Chân cậu đau rứa mà còn chờ thì ra răng được khỏi khu vực ni trước lúc trời sáng? Chứ cậu để mình dìu ra đã.
Về đơn vị mà không thấy Vịnh-sưa, mình sẽ xin đại đội trưởng lộn trở vô tìm.
Mừng xốc nách bạn đứng lên. Em định dìu bạn đi.
Nhưng mới bước được mấy bước, Quỳnh kêu ối đau đớn, ngã lăn xuống đất. Em nói gần như khóc:
Mình không đi được mô Mùng ạ. Chân mình đau lắm... Hay cứ để mình ở lại đây Mùng ra trước đi. Chứ chờ nhau, trời sáng tụi giặc nó thấy thì chết cả hai.
Mừng kêu to giận dỗi:
Cậu nói chi lạ rứa! Đời mô mình lại chịu bỏ cậu ở đây cho tụi giặc hắn bắn chết? Thôi đi cậu, đừng nói bậy bạ nữa.
Mừng cúi xuống chìa lưng ra trước mặt ban:
- ôm cổ mình, mình cőng đi. Cậu tưởng cậu to béo lắm mình không công nổi à? Để mình phi như ngựa cho cậu coi! Lúc đó cậu cấm kêu: chạy mau quá chóng mặt nghe!
Nhưng Mừng không những không phi được như ngựa cho Quỳnh chóng mặt, mà đi còn chậm hơn rùa.
Cőng bạn trên lưng, em bước những bước lặc lč xiêu vẹo Đi được mấy chục thước em đã thở dốc, hai đầu gối run lẩy bẩy chỉ chực khuỵu xuống. Em phải đặt bạn xuống, dừng lại nghỉ. Nghỉ đỡ mệt, em lại cőng... Với giọng thều thào vì bụt hơi, em cố nói vui cho yên lòng bạn: .
- Sợ chân cậu đau tội chứ không thì mình phi nước đại cho cậu chóng mặt chơi.
Cứ thế, em tha được bạn ra khỏi khu vực giặc thì trời vừa hửng sáng.
Title: Re: TUỔI THƠ DỮ DỘI {Phùng Quán}
Post by: kem on 20/10/06, 16:54
9

Đã hơn một tiếng đồng hồ, Vịnh-sưa lặn lội, mò mẫm trong khu vực giặc đóng tìm bạn bị lạc. Trời tối quá, cách ba bước là không nom thấy gì, nhưng em không dám gọi to. Em sợ bọn giặc núp đâu đó nghe tiếng. Em khẽ huýt sáo rồi giả tiếng cú kêu (ám hiệu của tổ đã được quy định trước, lúc cần tìm nhau). Không có tiếng trả lời Em lại tiếp tục dò dẫm tìm kiếm. CÓ lúc em nghe vẳng như có tiếng Quỳnh gọi em đâu đó. Em nhắm tìm đến.
Em chui bừa qua những lỗ tường đục thủng, trčo bừa qua những đống nhà cửa đổ nát lởm chởm sắt, gỗ, gạch, đá, tảng bê tông. . . Mấy lần em suýt bước hụt xuống những miệng giếng nằm lấp dưới những cành cây gấy nát. Em vấp ngã liên tiếp, có khi lộn nhào mấy vòng, nhưng chỉ dám nhăn nhó xuýt xoa khe khẽ.
Em ngồi phịch xuống đất thở dốc, ứa nước mắt vì cực quá. Xung quanh chuột chạy huỳnh huỵch như người. Một mùi thối khảm đến lợm mửa - có lẽ là múi xác chết - xộc vào mũi em. Em thấy sợ đến dựng cả tóc gáy Mấy lần em muốn tìm đường quay trở về nhưng nghĩ đến nhiệm vụ tổ trưởng, nhớ đến câu nói của tổ trưởng trong buổi họp đội: "Bỏ bạn lúc lâm nạn là điều xấu xa tồi tệ nhất đối với người chiến sĩ". Đang ngồi em đứng bật ngay dậy chùi nhanh nước mắt, tiếp tục lặn lội đi tìm bạn.
Em bỗng giật bắn người. ánh chớp lửa nhoang nhoáng và tiếng súng giặc nổ toang toác ngay trên đầu em. Cả mặt trận, tiếng nổ vang dậy cả bốn phía không còn phân biệt hướng nào vào hướng nào. Em nép mình sau một gốc cây to để tránh đạn. Đứng ở đó khoảng một tiếng đồng hồ, khi tiếng súng bốn phía đã êm êm em lại dò dẫm tìm lối đi trong cái biển bóng tối đầy họng súng giặc. Nhưng em đã hoàn toàn mất phương hướng. Bóng tối lúc này càng dầy đặc hơn, tưởng lấy đũa mà quấy được như quấy bánh đúc. Đất trời, địa hình. địa vật chung quanh hòa thành một khối đen đặc.
Mệt quá, lại lạnh nữa, bấy giờ em mới nhận ra áo quằn mình ướt sũng nước. Trời đổ mưa mỗi lúc thêm nặng hạt. Đang dò dẫm đi, em chợt vấp phải thềm một ngôi nhà có hàng hiên với cột trụ rất cao. Trčo lên năm bậc thềm xi măng xây hình cánh cung, em ngồi phịch xuống nền đá hoa lạnh ướt, dựa lưng vào một cột trụ...
Bao nhiêu câu chuyện em nghe được về các anh lớn bị thương, bị lạc, phải nằm lại trong khu vực giặc, lúc này hiện ra dồn dập trong ta nhớ em . . . Bọn giặc phát hiện được các anh, chúng đã giết các anh hết sức dã man. Chặt đầu, cắt cổ, lưỡi lê xuyên nát ngực... Em thấy ớn lạnh rùng mình, càng nóng ruột lo lắng cho bạn. "Chưa chừng lúc ni Quỳnh đang bị thương nằm chčo queo ở một góc nhà đổ nát nào đó . . . Chuột bò cả lên người lên mặt...". Em buồn rầu nghĩ vậy và nước mắt lâm râm trên hai gò má. Cơn buồn ngủ đột ngột ập đến, em cố hết sức chống chọi . . . Trong trạng thái nửa mơ nửa thức, chợt em ngửi thấy quanh đâu đây có mùi ét xăng nồng nặc, và cả những mùi gì khen khét, hăng hắc rất lạ... Em chưa kịp hiểu ra mùi gì đã ngủ thiếp đi. Em cứ ngồi dựa cột như vậy mà ngủ. Tưởng chừng lửa đạn có nổ ngay bên tai cũng hay biết.
Vịnh giật bắn người tỉnh dậy như có ai dí lửa vào gan bàn chân. Trời đã sáng trưng. CÓ tiếng nói xì xồ lạ tai vẳng đến rất gần, nghe như ở ngay trên đầu.
"Chết cha rồi?" Em buột miệng khẽ kêu, trườn mình rất nhanh, nép ra phía sau cái chân cột bê tông. Em dụi mắt nhìn kỹ chung quanh thấy mình đang ở dưới mái hiên một tòa nhà lớn có nhiều tằng. Xung quanh là vườn cây rậm rạp. Thấp thoáng sau những tán cây là những ngôi nhà hai ba tầng, các cửa sổ đều chất kín bao cát Những ngôi lầu vị trí giặc. Tiếng xì xồ lạ tai vừa rồi chắc là vẳng đến từ những ngôi lầu hung hiểm kia.
Em để ý về phía tay trái có một dãy tường rất cao nằm gần kề sát tường hồi ngôi nhà em đang núp Bên trên dãy tường có hàng cọc sắt nghiêng nghiêng, chăng dây thép gai Phía bên kia đường chợt vọng sang tiếng Ô tô nổ máy. Tiếng sắt thép va chạm, tiếng người xì xồ gọi nhau "Đúng là tụi giặc rất đông ở bên đó! Vịnh cố cúi thấp người hơn. mắt không rời khỏi hướng bức tường.
Như một người đi câu bất ngờ nhìn thấy đàn cá, ý thức của người chiến sĩ ttinh sát lúc bất ngờ phát hiện ra kẻ địch, trỗi dậy trong em mạnh mẽ đến nỗi làm em quên phắt mọi sợ hãi lo lắng của hoàn cảnh mình hiện nay.
"Phải điều tra coi tui mũi lő đang làm cái chi bên đó mới được". Em tự ra lệnh cho mình như vậy và lập tức hành động.
Rời chỗ núp, em bò men theo bức tường, đến phía sợi dây cáp thu lôi. Em bám vào sợi dây cáp, thận trọng leo lên. Em cũng là một tay leo trčo giỏi của đội. Thoắt một cái, em đã trčo được đến tầng gác hai ngôi nhà.
Đứng cao hơn bức tường chăng dây thép gai, em đưa mắt nhìn sang một khu nhà kho lớn một tầng, mái lợp tôn, chất đầy những khuy xăng, những hòm đạn lớn nhỏ.. Hàng chục chiếc Ô tô vật tải đang rù rù nổ máy.
Bọn giặc lố nhố đi lại trước sân kho. Tây trắng có, Tây đen, Việt gian có... Sợ đứng cheo leo ở đây lâu, bọn giặc bên để ý nhìn thấy, em bám theo sợi dây thu lôi trčo tuốt lên tầng gác tư ngôi lầu. Một cánh cửa chớp sơn xanh mở rộng, cách em chùng một với tay. Em nhoài người bám được vào cánh cửa. Bám chắc rồi, em đạp mạnh chân vào sợi dây cáp thu lôi. Cánh cửa chớp mang theo em áp sát vào bậu cửa sổ Cảnh tượng này giống hệt trò em mê chơi ngay còn nhỏ .. Cách nhà bác em hai đường kiệt, là nhà lão bang tá nối tiếng giàu có nhất vùng An Cựu. Xung quanh nhà, hàng rào sắt bao bọc, có hai cánh cổng sắt rất lớn, sơn xanh. Em thường lẻn trốn bác gái, chạy đến cổng nhà lão ta, nhìn trước nhìn sau không có ai, em liền bám vào cánh cửa, một chân đứng lên thanh sắt ngang cuối cùng, một chọi mạnh xuống đất. Thế là cánh cửa đưa em đi theo hình rẻ quạt.
với tiếng gió ù ù bên tai, nhanh chậm tùy em điều khiển. Em tưởng tượng mình là người lái Ô tô, người lái tàu hỏa... Lần này chỉ có khác, cánh cửa đưa em đi cách mặt đất những bốn tầng lầu!
Em bám một tay rồi hai tay lên bậu cửa sổ. Thu hút bao nhiêu hơi sức còn lại, em rướn người nằm. ngang lên bậu cửa và nhào vào bên trong. Em rớt bịch xuống sàn đá hoa, đau gần chết giấc Nằm im một lúc để lấy lại sức, em đưa mắt xung quanh. Em đang ở giữa một gian buồng lớn, không có đồ đạc gì ngoài một cái tủ đứng đồ sộ kê sát tường.
Cạnh tủ là một vuông cửa sổ hai cánh cửa chớp đóng kín nhìn về phía khu kho xăng đạn của giặc. Vinh vùng ngay dậy, chạy đến khung cửa, ghé mắt vào một lỗ thủng trên các nan chớp, nhìn xuống. Cái kho xăng và đạn giặc nằm dưới chân em...
Trời chợt ửng nắng. Cái màu nắng hiện ra sau những ngày dài mưa rả rích, thối đất, thối cát, mới tươi trông rực rỡ làm sao? Người chiến sĩ trinh sát mới mười bốn tuổi đời, trong cái dây phút gay go quyết liệt nhất đời mình, cũng phải ngẩn ngơ một lúc trước cái màu tươi trong, lộng lẫy, rực rỡ đến huyền hoặc của nắng...
Bầu trời mùa đông ẩm ướt, ngổn ngang những đám mây chì đen bẩn, mỗi lúc thêm quang quẻ như có cái chổi khống lồ vô hình đang ra sức quét dọn Da trời xanh thao thiết, cao vời vợi, hiện ra cùng với màu nắng mới trong veo... Điều lạ kỳ hơn hết là cái màu nắng mới rực rỡ ấy lại làm cho đầu óc con người bỗng trở lên sáng suốt tươi vui, táo bạo, tự tin gấp bội phần. Và làm cho lòng người bừng bừng, náo nức, muốn lập nên những kỳ tích thật vang dội, những chiến công thật lẫy lừng...
Sau một hồi quan sát, Vịnh nhận thấy ngôi lầu mình đang đứng, cao vượt hẳn lên những ngôi lầu chung quanh. Ngôi lầu hoàn toàn bỏ trống. Hình như bọn giặc định dùng nó làm bình phong che cho cái kho xăng đạn bí mật của chúng ngay ở phía sau. Đây quả là một vị trí quan sát không chê vào đâu được! Vịnh reo thầm trong bụng. Bọn giặc ở các ngôi lầu xung quanh bắt đầu hoạt động. Những cái mũ sắt, những khuôn mặt râu ria xồm xoàm, thập thò sau các bao cát, những chấm nòng súng lấp ló sau các lỗ châu mai một cái váy đỏ thấp thoáng sau một khuôn cửa kính vỡ. Phía dưới khu nhà kho, tiếng máy Ô tô nổ rền. Những khuy xăng lăm ầm ầm trên sân đổ bê tông. Bọn giặc ra vào đi lại, lố nhố dưới các mái kho. Chúng sì sồ quát tháo, la hét.
Một thằng Tây cao lớn, lưng đeo súng lục, tay cầm một chai bia hoặc rượu gì đó, đứng dạng hai chân, ngửa cổ tu.
Quan sát kỹ địa hình địa vật chung quanh, Vịnh đã xác định được vị trí ngôi lầu này. Tuy nằm rất sâu trong khu vực giặc, nhưng nếu tính theo đường chim bay, nó không xa khu vực trường Kỹ Nghệ mấy. Trường Kỹ Nghệ là vị trí hiện quân ta đang chiếm giữ. Tổ cậu Hiền hiện đang tham gia chiến đấu tại đơn vị đóng ở đấy. Em còn biết trên chót vót nóc lầu cao nhất trường, có một đài quan sát bí mật mà Ban chỉ huy đơn vị giao cho tổ Thiếu nhi trinh sát phụ trách. Cách đây hai hôm, em chạy liên lạc qua đây, được Hiền dẫn cho lên xem đài quan sát, đồng thời cũng muốn khoe . . Đứng ở đài quan sát có thể nhìn bao quát toàn bộ khu vực giặc đóng. Và nếu có ống nhòm tốt có thể nhìn rő lâu đài cung điện, phố xá bên kia bờ sông Hương.
Chưa biết chừng lúc ni, các cậu Hiên, Đồng, Hòa đen, Nghĩa, đang đứng trên đó chĩa ống nhòm nhìn đúng vô cái buồng mình đang đứng, chuyện trò, cười nói vui như Tết! Các cậu ấy có ngờ mô mình đang ở bên trong, chơ vơ một mình, vừa đói vừa mệt bốn phía họng súng giặc tua tủa... ". Ý nghĩ đó làm cho Vịnh rơm rớm nước mắt. Và cũng chính ngay lúc đó một quyết định táo bạo vụt lóe trong óc em: trčo lên nóc lầu, dùng cờ tín hiệu báo cho đài quan sát bí mật của cậu Hiền biết về kho xăng đạn núp kín dưới trên ngôi lầu này'".
nếu đài quan sát nhận được tin mình đánh về, chắc chắn Ban chi huy Mặt trận phải cho ca-nông móc - chê rót sau đây hoặc cho Quyết tử quân mang bom vô đánh. Một cái kho xăng đạn to ra ri, đánh trúng thì tha hồ mà cháy, mà nổ? Cả ba đời dòng họ tụi Tây kéo đến đây dập cũng đừng hòng tắt!". Ý nghĩ làm cho tim em đập rộn lên vì vui thích hả hê. Phút chốc quên tất cả đói, cả mệt, cả khát.
Em vốn có tiếng trong đội là tay tháo vát, nhanh trí. Chỉ mấy phút sau em đã vạch xong kế hoạch hành động. Trước tiên phải kiếm được hai tấm vải trắng và đỏ lâm cờ tín hiệu Vải trong kia rồi, em chạy lại giật phắc cái rčm cửa có thêu đăng - ten rất đẹp. Rčm quá rộng, em ghé răng cắn, xé làm đôi cho vừa khuôn khố lá cờ Nhưng còn vải đỏ, không biết làm cách chi mà kiếm được đây Em chợt nhìn trật xuống cái quần quân phục làu mận chín, bê bết bun đất đang mặc. Cái quần này trước đây là của một anh ở đại đội bộ. NÓ vốn màu "be" anh đem nhuộm màu mận chín để diện. Không may nhuộm phải màu tươi quá, mặc trông rợ, anh đành tặc lưỡi cho em. "Vải đỏ đây rồi chứ còn phải kiếm mô'". Em khẽ reo lên mừng rỡ, cởi phăng luôn cái quần lẽn ngấm nghía. Bên trong em không có quần đùi. Nhưng kệ ở đây toàn Tây với đầm, việc cóc chi mà xấu hổ! Em xé quần theo đường chỉ, chọn một khoảng rộng nhất xé thành hình vuông. Vải cờ tuy không phải mầu đỏ như quy định, nhưng em tin cậu Hiền sẽ nhận ra: "Cậu ta thông minh và giỏi môn cờ tín hiệu nhất đội mà..." Em tìm được hai cái que thông nòng súng nằm lăn lóc xó tủ, làm cán cờ. Em thất chặt hơn cái thắt lưng da to bản quanh lưng. Cuộn tròn hai lá cờ tín hiệu, dắt chéo sau lưng để hai tay được rảnh mà bấu víu, leo trčo.
Một chân chọi tường, một chân chọi vào vách tủ, em trčo lên nóe tủ. Ngay trên đầu em là một lỗ vuông ăn thông lên trần nhà. Nhón chân em bám vào thành mép lỗ vuông, ráng hết sức đu người lên, chui qua. Phía trên trần nhà tối om, chuột chạy huỳnh huỵnh. Mái ngói và những rui, đòn tay xà ngang đã ở ngay sát đầu em. quờ quạng hai tay, tìm chỗ thuận tiện, em bắt đầu dỡ ngói như một một tay đạo tặc lành nghề. Trên đầu em, một vuông trời xanh rực rỡ nắng tươi đột ngột hiện ra như có phép lạ.
Vuông trời to dần theo bàn tay dỡ ngói của em. ước đã chui lọt người, em trčo lên cái xà gỗ, chui đầu qua mái ngói, giữa khoảng cách hai rui Bám vào hai cái rui gỗ, em nhún mạnh chân, lọt hẳn cà người ra ngoài. Mát em bông hoa lên vì chói nắng và choáng ngợp. Ruột em co thắt như muốn nôn. Chao ôi, chưa bao giờ em đứng cao đến thế, gần nắng, gần gió, gần mặt trời đến thế.
Gió thổi ù ù bên tai. Mái ngói dốc đứng đáng sợ. Và trơn nữa, rất nhiều rêu... Gan bàn chân em rợn lên, lạnh dọc suốt xương sống. . Không khéo mình trượt chân ngã lăn xuống mất... Mà ngã lăn từ đây xuống đất thì người cứ gọi là là... Em không dám nghĩ tiếp nữa.
Nhưng Vịnh đâu có dễ chịu lùi.
" . Ra đi thà chết không lui . . . " . Câu hát em đội thường hay hát chợt vẳng đến tai em, như thôi thúc cổ vũ: - vịnh -sưa ơi, hãy đứng vững.
Lòng khao khát được tiêu diệt kẻ thù như các bạn cùng lứa tuổi: Đuốc Sống, Bát Sắt... trong lòng chú "thợ súng nhỏ" còn mãnh liệt hơn cả cảm giác choáng ngợp, sợ hãi.
Em cúi khom người bám chặt đường sống mái lầu, như con chim gő kiến bám chặt cành cây. Em mở to mắt nhìn thẳng lên bầu trời một phút làm quen với cảm giác choáng ngợp, với độ cao chóng mặt. Rồi với tất cả thận trọng, em bò nhích lên từng tí một theo đường sống mái lầu Tay em đã với được chóp nóc ngôi lầu có cây cột thép thu lôi như một ngọn giáo búp đa đâm thẳng lên bầu trời. ôm chặt cây cột thép thu lôi. Em đứng thẳng người lên, em cởi áo quân phục màu cỏ úa, xoắn lại làm dây thừng và buộc chặt người vào cây cột thép ngang chỗ bụng. Lúc này em hoàn toàn trần truồng ngoài cái thắt lưng da và sợi thừng ngang bụng.
Sau khi đă buộc chắc, vững vàng, em đưa mắt nhìn bao quát cảnh vật trải rộng dưới tầm mắt. Chỗ em đứng cao vượt hẳn lên những cao điểm quanh đó. Dưới mắt em mái ngói lô xô, chen lẫn giữa những tán cây um tùm. Ngoảnh về phía sau, con sông Hương xanh ngời màu thép mạ. Hai nhịp cầu Tràng tiền bị giật đổ, gục xuống nước như một chữ V hoa khổng lồ. Cột cờ kia, Phú Văn Lâu kia... Kia là cửa Thượng Tứ, kia là bến đò Trường Súng... Toàn cảnh thành phố như được thu gọn lại dưới tầm mắt em. Em bỗng thấy cổ mình nghẹn lại, muốn khóc: "Chao ôi. Huế mình đẹp biết mấy'" Em quài tay ra sau lưng, rút hai cây cờ tín hiệu cầm sẵn hai tay. Em đưa mắt tìm cây thập tự trên nóc nhà thờ Phú Cam để làm chuẩn. Em đưa hai lá cờ lên, hướng về phía đài quan sát bí mật, đánh đi bức điện mà em đã tính toán, suy nghĩ làm sao thật rő, thật ngắn, thật chính xác:
Một kho xăng, đạn lớn ngay phía sau ngôi lầu tôi đứng. Yêu cầu bắn!
Vị trí Vịnh đứng đánh tín hiệu ngay giữa lòng quân giặc, nhưng vì cao quá nên chúng bất ngờ. Từ trước tới nay chúng vẫn quen nhìn quân ta từ dưới đất xông lên - và chúng cho rằng ta cũng chi có thể từ dưới đất xông lên mà thôi. Chúng vẫn đinh ninh bầu trời và các điểm cao trong khu vực chúng là thuộc về chúng. Chúng chỉ nhìn lên cao khi có máy bay đến thả dù tiếp tế.
Bởi vậy mãi cho đến hai tiếng đồng hồ sau, khi Vịnh đã đánh lặp đi làm lại ít nhất là năm mươi lần bức điện, chúng mới phát hiện được..
Title: Re: TUỔI THƠ DỮ DỘI {Phùng Quán}
Post by: kem on 20/10/06, 16:56
10

Sáng sớm hôm đó, Hiền được điện của Đội trưởng từ Chỉ huy sở Mặt trận khu C gọi lên gặp anh có việc khẩn. Hiền giao lại cho Đồng phụ trách tổ. Vốn tính cẩn thận, trước khi đi, Hiền dặn đi dặn lại các bạn:
- Các cậu nhớ đừng mải chơi mà bỏ trống đài quan sát đó nghe. Một phút cũng không được bỏ. Lỡ có việc chi thì thật xấu mặt cho cả đội" Mỗi lần có việc phải về chỉ huy sở là Hiền mừng rơn. em có sẽ có dịp gặp Vệ-to-đầu học thêm vài môn xiếc để về tự luyện. Hai em bây giờ thân nhau nhất đội.
Tập xiếc cũng gian nan vất vả ghê người. Trán Hiền hôm bầm tím, hôm mọc sừng vì tập cái môn nhào lộn, đi bằng hai tay...
TỔ của Hiền được Ban Quân nhu mặt trận cấp phát một cái ống nhòm cũ. Việc cấp phát đặc biệt này làm bốn em hết sức hãnh diện. ống nhòm có bao da hẳn hoi, nhưng chẳng mấy khi các em chịu bỏ bao. Hết em này đến em khác, chuyền tay nhau đeo lủng lẳng trước ngực như đeo huân chương. Cả lúc ăn cơm các em cũng đeo.
Sợ các bạn giành nhau vỡ, Hiền quy định chỉ bạn nào đến phiên trực đài quan sát mới được phụ trách ống nhòm.
Ngày ngày đứng trên đài quan sát, các em thay phiên nhau lia ống nhòm sang khu vực Pháp, lòng khấp khởi hy vọng sẽ phát hiện được một vị trí chỉ huy, một hỏa điểm quan trọng để lập công. Nhưng đáng tiếc là chưa em nào vớ được cái may mắn đó. Chính nhờ sự quan sát chăm chỉ và liên tục này, mà sáng hôm đó Hòa - đen phát hiện được Vịnh đánh cờ tín hiệu...
Giờ đó, phiên Hòa-đen trực đài qua sát. Dựa ngực vào thành công sự xây bằng bao cát, hai tay nâng ống nhòm lên nên mắt em nhìn về phía khu vực Pháp, từ tây sang đông. Em bỗng chững lại, khu to giật giọng:
- Các cậu ơi lạ quá! Lại đây, mau lên! Đồng và Nghĩa đang chơi cờ chó trong khoảng bóng râm của thành công sự. Hai em bỏ bàn cờ, lao đến.
Hòa-đen mắt không rời ống nhòm nói:
- CÓ một người không biết làm cái chi mà đứng chót vót giữa khu vực Tây, phất phất hai cái chi như hai lá cờ.
Đồng cầm ngay lấy cái ống nhòm trong tay Hòa-đen. Đặt lên mắt, chĩa về phía Hòa-đen chỉ. Từ đài quan sát đến nóc lầu Vịnh đứng, tính theo đường chim bay không xa lắm, nhưng chiếc ống nhòm cũ quá nên không phân biệt được tầm vóc người đánh tín hiệu. Sau chừng hai phút chăm chú qua sát, Đồng thoảng thốt kêu lên:
- Người này đang phất cờ "moóc" đánh tín hiệu về phía đài quan sát của ta. Mình đã đọc được một chữ B và một chữ U các cậu ơi! Cả ba em vốn dốt môn cờ tín hiệu. Trước đây, khoa mục này được đội trưởng huấn luyện rất kỹ, nhưng cả ba đều lười học. Hôm thi khoa mục, cả ba đều bị đội trưởng cho xơi" trứng vịt". Hiền giỏi nhất môn cờ tín hiệu, nhưng thật không may, lúc này Hiền đi vắng.
Tuy chịu không nắm được nội dung của tín hiệu đánh về, nhưng hoàn cảnh đặc biệt của người đánh tín hiệu làm cho Đồng cảm thấy ngay trong việc này có một điều gì hết sức hệ trọng có liên quan đến cuộc chiến đấu của quân ta. Em gọi to:
- Hòa-đen, cậu chạy ngay xuống chỗ máy điện thoại, gọi về chỉ huy sở Mặt trận, báo cáo cho thật rành rọt:
"Có một người hiện đang đứng chót vót giữa khu vực giặc, phất cờ đánh tín hiệu về phía đài quan sát. Cằn cho cậu Hiền về ngay để đọc. Còn cậu Nghĩa thì chạy xuống báo cáo với Ban chỉ huy đại đội".

11

Trong gian chính điện chùa Từ Đàm - Chỉ huy sở Mặt trận khu C - Hiền và đội trưởng đang làm ngồi làm việc cạnh Chỉ huy trưởng. hai anh em lúi cúi trên tấm bản đồ thành phố Huế trải gần kín mặt bàn, dùng com pa, ê ke, thước đo, kẻ lên bản đồ, vừa rì rầm thảo luận vừa ghi chép vào sổ tay. Chỉ huy trưởng ngồi viết ở cái bàn khác nhỏ hơn, kê gần đó. Khẩu súng săn voi dựng ở mép bàn, máy điện thoại ở góc bàn.
Ngoài môn cờ tín hiệu, Hiền còn khá giỏi về môn đồ bản. Em sừ dụng bản đồ thành thạo không kém gì một sĩ quan tham mưu. Trước ngày Huế nổ súng, em đã được học và làm việc tại Ban Họa đồ của trung đoàn.
Chuông điện thoại réo gắt. Chỉ huy trưởng ngừng viết Cầm lấy ống nghe. Trán ông nhíu lại, đầu lắc lắc.
óng gọi đội trưởng, trao ống nghe cho anh. Anh nhận ngay ra tiếng Hòa - đen. Nhưng không hiểu sao em nói lắp bắp vừa thở hổn hển trong máy, nên không nghe rő em nói gì. Anh đoán chắc có chuyện gì quan trọng lắm đây Là một người chỉ huy có kinh nghiệm, anh biết bây giờ mà quát to. Hòa-đen sẽ càng líu lưỡi hơn. Anh liền nói vào máy, thong thà từng tiếng một:
A lô, a lô. Em hãy để ống nghe xuống, rồi làm động tác hít thở đúng năm lần. Sau đó em cầm ống nghe báo cáo. RŐ chưa?
Chừng nửa phút sau: tiếng Hòa - đen trong máy nghe đã khá rành rọt:
- A lô, báo cáo anh, đài quan sát chúng em vừa phát hiện được một người đứng chót vót trên nóc lầu giữa khu vực Pháp đánh tín hiệu bằng cờ về phía đài quan sát . Nhưng chúng em không đọc được tín hiệu... tại ống nhòm mờ quá... Anh cho Hiền về ngay để đọc.
Chỉ huy trưởng chăm chú nghe đội trưởng báo cáo lại tin vừa nhận được. Cặp mắt sâu của ông lúc này nom càng sau hơn. ông chợt hỏi:
Anh thấy thế nào? Tôi đoán chắc có điều gì hết sức quan trọng đây. Người đánh tín hiệu rő ràng là người của ta.
- Báo cáo Chỉ huy trưởng, tôi cũng phán đoán như Anh quay sang nói với Hiền:
- Em gắng chạy thật nhanh về đài quan sát, đọc và ghi lại tín hiệu, rồi gọi ngay điện thoại về đây báo cáo.
- Rő! - Hiền đứng nghiêm lại trả lời, chụp vội cái mũ cứng lên đầu, định lao ra cửa. Nhưng Chỉ huy trưởng đã kịp đứng lên, đưa tay ngăn em lại. ông nói:
- Người đánh tín hiệu chắc không thể đứng lâu trên nóc lầu ấy được. Bọn giặc trước sau cũng sẽ phát hiện ra. Em chạy về e chậm mất...
Trán ông nhíu lại, những ngón tay dài xương xấu bóp bóp mạnh chiếc cằm như được đẽo bằng đá, râu mọc tua tủa vì đã hai hôm nay ông chưa kịp cạo...
ông hỏi Hiền:
- Em có giỏi môn cờ tín hiệu không?
- Báo cáo Chỉ huy trưởng, giỏi ạ.
Em cưỡi ngựa được chứ?
Hiền lúng túng:
Báo cáo Chỉ huy trưởng, em chưa được cưỡi ngựa bao giờ . . .
- Chà gay quá hč! - Chỉ huy trưởng buột miệng nói.
Những đường nhăn trên trán ông càng nhíu sâu hơn.
Tình hình quá cấp bách làm thế nào bây giờ? ông vắt óc tự hỏi.
Vừa lúc đó, như một ngọn gió bất tình hình thổi đến. Vệ - to- đầu và Mừng ngoài hiên chùa đẩy mạnh cửa bước vào. Vệ đưa tay vành mũ chào Chỉ huy trưởng, đứng nghiêm nói, giọng đứt quãng vì quá hồi hộp:
Báo cáo! Nếu chỉ huy trưởng cho phép em có thể dùng ngựa đưa Hiền về đài quan sát.
Chỉ huy trưởng nhìn hai em rồi quay lại nhìn đội trưởng như muốn hỏi. Đội trưởng nói:
Báo cáo đồng chỉ hai em này đều là đội viên đội Thiếu niên trinh sát. Các em hiện đang tham gia chiến đấu lại đại đội anh Thới. Em này là Vệ, tham gia Vệ Quốc Đoàn từ mặt trận Nha Trang. Còn em này là Mừng, chú bé đã leo gần khắp các ngọn cây cao thành phố để tìm thuốc cho mẹ mà hôm nọ tôi kể với đồng chí...

Sáng nay, Mừng cőng được Quỳnh về tới đơn vi thì trời đã hửng sáng. Quỳnh bắt đầu lên cơn sốt giật và mê man. Bàn chân dẫm mảnh chai sưng tấy, đỏ lựng. Y tá đại đội sợ em có thể bị nhiễm trùng uốn ván nên lập tức cho hai chiến sĩ cáng em về trậm quan y của Mặt trận. Vệ và Mừng xin đi theo bạn. Hai em chạy lúp xúp theo hai bên cáng, vừa chạy vừa khóc. Từ trạm Quân y trở về, hai em tạt vào Chỉ huy sở Mặt trận, định báo cáo với đội trưởng về việc Quỳnh, và chuyện Vịnh-sưa bị mất tích, vừa vặn đúng lúc chỉ huy trưởng hỏi Hiền có biết cưỡi ngựa không.
Chỉ huy trưởng hỏi Vệ:
Em biết cưỡi ngựa?
Dạ...
Cưỡi có khả không?
- Em cưỡi được cả ngựa không yên cương.
- Em chạy ra tàu ngựa bất con ngựa trắng của anh đã đóng yên sẵn. Em cố đưa Hiền thật nhanh về đài quan sát.
Báo cáo rő!
Chỉ vài phút sau Vệ đã ngồi chễm chệ trên lưng con ngựa trắng cao lớn, từ phía tàu ngựa sau sân chùa chạy ra.
Chỉ huy trưởng với tay lấy chiếc ống nhòm treo trước bàn làm việc trao cho Hiền:
Em dùng cái ống nhòm này tốt hơn.
Vệ cho ngựa đứng ghé sát vào thềm chùa gọi Hiền:
Cậu trčo lên đi. Nhớ vòng hai tay ôm ngang bụng mình cho thật chắc. Mình phi nước đại đây!
Hiền quàng dây cái ống nhòm qua cổ, trčo lên lưng ngựa phía sau Vệ Vệ giật mạnh dây cương, thúc gót vào hông ngựa. Con ngựa hý lên dựng bờm gő móng, vọt ra khỏi cổng Tam Quan. Vệ ra roi, con ngựa lồng bốn vó, phi nước đại. Một làn bụi đỏ khé cuộn lên dưới vó ngựa, mỗi lúc một xa hút.
Chi huy trưởng đứng giữa sân chùa, tay bóp bóp cám, nhìn theo cho đến lúc bóng ngựa khuất hán sau khúc đường cong.
Không ngờ chú bé cưỡi ngựa khá thế! Không khác gì một tay kỵ mã nhà nòi! - Chi huy trưởng gật đầu tấm tắc khen Từ chỉ huy sở vê đến đài quan sát không phải gần nhưng nhờ con ngựa rất hay và tài cưỡi ngựa tuyệt giỏi của Vệ, sau hơn hai mươi phút Hiền đã về được đến nơi Hiền tụt xuống ngựa: nhảy hai ba bậc thang một.
nhào lên tâng thượng ngôi lầu, nơi có đặt đài quan sát bí mật.
Hiền! - Đồng, Hòa và Nghĩa cùng reo lên mừng rỡ đến nghẹn ngào.
Còn không? - hiền hỏi qua tiếng thở gấp.
Còn. Vẫn còn...
Không kịp nói gì thêm, Hiền tựa ngực vào bờ công sự, chĩa ống nhòm về phía người đánh tín hiệu.
Chiếc ống nhòm của Chi huy trưởng thật tốt. Vừa chinh hình xong, Hiền đã mừng rỡ reo to:
- Tín hiệu đã đọc được! Các cậu lấy ngay giấy bút ra đi! Em nói như ra lệnh. - Ghi nghe'.
Hiền cao giọng đọc to rành rọt từng tiếng một, tưởng như em đang đánh vần những tiếng đó từ cái khoảng trời xanh ngập nắng mênh mông đằng trước:
" Sau ngôi nhà tôi đứng. Xì tốp. Yêu cầu bắn. Xì tốp Một kho xong đạn lớn ngay phía sau ngôi nhà tôi đứng. Xì tốp. Yêu cầu bắn!" Đồng và Nghĩa chân qùy chân chống, kê sổ tay lên thành công sự, cắm cúi ghi. CÓ con gì cắn ngứa điên ở cổ, hai em không dám ghi sợ bỏ sót một chữ nào trong bức điện. Trong lúc đó dưới chân cầu thang, các anh lớn trong đơn vị đứng chen chúc nhau, mặt hếch hết cả lên, hồi hộp theo dői cuộc nhận điện. Nếu không có lệnh cấm của đại đội trưởng chắc các anh đã ùa hết lên.
Hiền đọc đi đọc lại bức điện ngắn đánh bằng cờ tín hiệu trên đúng được bốn lần thì từ phía khu vực Pháp tiếng súng rộ lên, súng trường, trung liên lẫn đại liên.
Tùng tràng, tùng tràng, tiếng súng kéo dài mãi tưởng như không bao giờ dứt.
úi chao ơi! - Hiền bỗng kêu to thất thanh.
- Cậu làm răng rứa? - Đồng và Nghĩa đứng bật ngay dậy, tái mặt hỏi.
Nhưng không thấy Hiền trả lời, hai mắt em vẫn dán chặt vào kính ống nhòm. Qua màn kính, người đánh tín hiệu đang đưa cao hai lá cờ rồi bắt chéo trước ngực ra hiệu dứt câu, bỗng đột ngột buông thőng hai tay xuống như bị chém sả hai vai. Chừng hai phút sau người đánh tín hiệu như vụt bừng tỉnh dậy sau một cơn ngủ thiếp mê man, vung mạnh hai lá cờ tín hiệu lên. Hiền chưa kịp hiểu nguyên nhân đã phải vội vàng đọc to từng chữ cái một, tù hai lá cờ tín hiệu tung ra.
- Vê i 'en nớ... hát... nặng! Trời ơi, thằng Vịnh-sưa! - Hiền sửng sốt la lên, cùng một lúc ở phía xa, hai lá cờ tín hiệu tuột khỏi tay Vịnh, lăn lông lốc theo chiều dốc mái lầu.
- Úui chao ôi ! . . . Rứa mà ai cũng đoán chắc cậu ấy đã hy sinh giữa vòng vây giặc đêm qua rồi... - Hoàn toàn kiệt sức. Hiền ngồi phệt xuống thềm công sự, một tay cầm ép cái ống nhòm vào giữa ngực. Cả người em run lên bần bật như vừa phải nhấc xong một vật gì nặng quá sức Em há hốc miệng thở dốc, mặt trắng bệch như tờ giấy .
Khoảng nửa giờ sau. Chỉ huy trưởng và đội trưởng có mặt ở đài quan sát. Hai người chuyền tay nhau cái ống nhòm nhìn về phía người chiến sĩ thiếu niên hy sinh, đứng cao lồng lộng giữa bầu trời thành phố. Điều làm cho cả hai người hết sức ngạc nhiên là chắc chắn em đã bị bọn giặc giết mà làm sao em vẫn đứng thẳng được trên nóc lầu. Không chịu ngã? Vệ cũng có cặp mắt rất tinh, em cầm lấy cái ống nhòm trong tay đội trưởng, đưa lên mắt. chỉ sau một phút nhìn chăm chú, em đã phát hiện ra Vịnh - sưa được buộc vào cột thép thu lôi, ngang giữa bụng. Em còn thấy thêm nửa người trên của Vịnh hơi ngả về đằng trước.
Chỉ huy trưởng mở xà cột lấy tấm bản đồ Mặt trận, trải rộng ra trên nền sân thượng. ông cầm ống nhòm quan sát địa hình địa vật chung quanh ngôi lầu Vịnh đứng, chốc chốc lại cúi xuống ghi lên bản đồ những ký hiệu bằng chì xanh đỏ.
Gấp bản đồ bỏ vào xà cột, ông đọc lại một lần nữa bức điện ngắn ngủi mấy chục chữ mà mà chú bé chiến sĩ của ông phải đổi bằng cả cuộc đời mười bốn tuổi của mình.
Chỉ huy trưởng rời khỏi đài quan sát, phi ngựa về thẳng khu A gặp Trung đoàn trưởng. ông trao bức điện cho Trung đoàn trưởng, và báo cáo lại hoàn cảnh đánh điện, trường hợp hy sinh của em Vịnh.
Đọc bức điện đến câu: "Yêu cầu bắn'" Trung đoàn trưởng thấy da thịt mình nổi gai và máu trong huyết quản bùng sôi. ông tưởng chừng như đó là mệnh lệnh được ngưng tụ lại qua'mấy chục ngày đêm chiến đấu, để lúc này bất thần vang to lên bên tai ông như một tiếng sét.
Chỉ huy trưởng mở bàn đồ, trình bày với ông kế hoạch tác chiến...
Năm giờ ba mươi chiều. Trung đoàn trưởng điều động và bố trí xong những lực lượng cần thiết để đánh kho xăng và đạn bí mật của giặc. Ngoài "ông già bảy lăm" ông còn điều động ở các mặt trận về năm khẩu cối Tám mốt ly với rất nhiều đạn. Đại đội Quyết tử quân cử một trung đội được trang bị súng ba - zô - ca và súng phóng bom do Ban quân khí trung đoàn chế tạo, bí mật luồn sâu vào đến ngôi nhà Vịnh-sưa đứng, phối hợp chiến đấu.
Trước giờ nổ súng quy định, Trung đoàn trưởng gọi điện đến từng đơn vị một, kiểm tra lần cuối cùng, và nói:
Các đồng chí? Đứa em trai thân yêu, người đồng đội nhỏ tuổi của chúng ta tuy đă hy sinh nhưng hiện vẫn còn đứng sừng sững trên đầu bọn giặc nước! Em đứng để làm chuẩn cho các đồng chí bắn trúng, và để nhìn chúng ta chiến đấu Các đồng chí hãy cố gắng làm sao cho đêm hôm nay, ngọn lửa các đồng chí thiêu đốt quân giặc, bốc lên thật to, thật cao, soi thật rő cho cả thành phố nhìn thấy tư thế lẫm liệt của em.! Mười giờ tối. Cà Mặt trận thành Huế phút chốc rung lên trong tiếng gầm nổ dử dội của các loại súng đạn cầu vồng.
Nửa giờ sau, như không thể chịu nổi sức nổ dồn dập, quyết liệt của quân ta, một cột lửa đỏ khé vụt dựng lên chính giữa trung tâm khu vực bọn Pháp đóng.
Cột lửa mỗi lúc dựng cao hơn, tỏa rộng, chiếu đỏ rực cả bầu trời thành phố.
Thân hình trần trụi, nhỏ bé mà lẫm liệt của người chiến sĩ thiếu niên đứng chon von trên đầu bọn giặc nước, cùng với cây cột thép thu lôi, mỗi lúc càng thêm lồ lộ rực rỡ trên cái nền đỏ chói chang dữ dội ấy, tưởng như chính lửa đã tạc khắc lên . . .
* *

Sau cái đêm ngọn lửa đốt kho xăng và đạn giặc chiếu sáng cho cả mặt trận nhìn thấy một đội viên của Đội Thiếu niên trinh sát đã chiến đấu và lập công như thế nào, thì không ai được các anh bộ đội chiều chuộng bằng các em trong đội. Các em đến đâu cũng được các anh vồn vã, niềm nở tiếp đón.
- Chú có phải là đội viên Đội Thiếu trinh sát không?
- Dạ phải ạ. - Các em hãnh diện trả lời.
- Rứa thì vô đây cái đã, vô đây! - Các anh tíu tít kéo các em vào ụ súng, chiến hào, hoặc nơi trú quân. Các anh bày lên một hòn đạn nào bánh, nào kẹo, nào đồ hộp chiến lợi phẩm... bắt các em ăn. Các anh nài nỉ các em kể cho nghe ngọn ngành đầu đuôi câu chuyện cái chú tự buộc mình vào cột thép thu lôi... chết đứng như Từ Hải trên đầu bọn giặc...
Cả đội, em nào cũng nhận:"Cậu ấy cùng nhột tổ vớl em Đêm mô ngủ cũng đắp chung với em một mền..." Tư-dát kể, giọng tỉnh khô: "Cái đêm trước buổi sáng trčo lên buộc mình nào cột thép thu lôi đánh tín hiệu cậu ấy và em còn ăn chung với nhau nhột đòn bánh tét.
Cậu ấy cắn một miếng. em Cắn một miếng. ăn đến quá ~l~a dòn. cậu áy thôi không an nửa, nói với enl: "Thôi cậu ăn hết đi, Vịnh ăn rứa đủ rồi Vịnh sợ ăn nhiều nặng bụng khó trčo.
Rồi bao nhiêu đức tính tốt đẹp nhất mà trí tưởng tượng phong phú của các em có thể nghĩ ra được, các em đều đem gán hết cho Vịnh. Cứ như vậy, cuộc đời "Chú - thợ - súng - nhỏ" mỗi ngày càng đi xa hơn cuộc đời thực. và dần biến thành một nhân vật truyền thuyết của thành Huế.
Title: Re: TUỔI THƠ DỮ DỘI {Phùng Quán}
Post by: kem on 20/10/06, 16:57
12

trạm quân y Mặt trận khu C đóng ở Nam Giao, trong 1 dinh cơ của một chủ hãng buôn giàu có nổi tiếng ở Huế. Chủ nhà và gia đình đã tản cư trước ngày Huế nổ súng. Mặt trận khu trưng dụng dinh cơ làm trạm quân y.
Cả dinh cơ rộng hơn một mẫu tây, gồm một tòa nhà hai tầng nằm chính giữa, và nhiều dãy nhà một tầng vây xung quanh. Khu vườn trước và sau xanh rợp bóng cây ăn quả: mít, xoài, thanh trà, chôm chôm, vú sữa...
Hàng trăm thương binh của Mặt trận được đưa về đây điều trị. Quỳnh-sơn-ca được bố trí nằm điều trị trong khu nhà chơi mát góc bên trái vườn. Là thương binh bé nhất trạm, em được cả trạm từ bác sĩ đến các chị hộ lý đặc biệt chiều chuộng.
Vết thương ở chân em bị nhiễm trùng rất nặng.
Sáng hôm đó, đến trạm chỉ vài giờ sau là em lên cơn sốt giật và bắt đầu mê sảng. Nhiệt độ lên đến bốn mươi độ.
Bàn chân đau sưng đỏ đến tận đầu gối. Chốc chốc cả người em lại co rúm, mắt dại hẳn đi. Chứng tỏ em đang phải chịu đựng những cơn đau nhức khủng khiếp. Lúc mê sảng tay em cứ đưa lên quờ quạng trước mắt như đang gắng xua đuổi một vật gì đó, và em cứ nhắc đi nhắc lại một câu: "...Không. Không... Con không về mô... Con đi Vệ Quốc Đoàn cho tới chết..." Và gương mặt em lúc này thật tội nghiệp, thật dễ thương và đẹp lạ lùng. Các chị y tá cứu thương mỗi lần ngang qua, đều cúi xuống hôn em. Vùng trán em trắng xanh như cẩm thạch, bao quanh vừng tóc tơ rối quăn quăn như mũ miện các hoàng tử trong cổ tích. Đôi mắt em mở to bừng bừng ánh lửa sốt, che rợp hai hàng mi dài cong vút, cái miệng thiên thần. Nhìn một đứa trẻ như em lên cơn mê sảng quả là một cực hình quá mức chịu đựng của người lớn. Bác sĩ, y tế, hộ lý và các anh thương binh nhúc nhắc đi lại được kéo đến đứng ngấp nghé ngoài cửa sổ nhìn em đều phải quay mặt đi chùi nước mắt.
Hai hôm đầu tình trạng của em có thể nói vô cùng nguy kịch. Bác sĩ trạm trưởng mấy lần đã định cắt bỏ chân em quá gối. Nhưng rồi ông bỏ ý định đó. ông cứ lắc lắc cái đầu đội mũ vải trắng ba cạnh thêu chữ thập đỏ trước trán, chép chép miệng nói lẩm bẩm một mình:
" Tội nghiệp quá đi... Tội nghiệp quá đi'". ông quyết đấu với thần chết giành bằng được người chiến sĩ bé bỏng này ra khỏi tay lão ta. ông tập trung những thứ thuốc tốt nhất của trạm cứu chữa cho em, kết quả ông đã thắng. Tình trạng em khá dần. Em đã thôi mê sảng, cơn sốt bị đánh lui, chân tuy vẫn còn sưng đỏ nhưng bớt nhức buốt, ít co giật. Sau một tuần, em đã nhúc nhắc ngồi dậy được, và ngủ được những giấc dài. Bàn chân đau của em bớt sưng đỏ trông thấy. Và cũng chỉ trong vòng một tuần mà em nổi tiếng cả trạm về tài gan chịu đau. Vết thương dưới bàn chân em phải xẻ rộng khoét hết những chỗ thịt thối, mà trạm lúc này không còn lấy một giọt thuốc tê. Lên bàn chân mổ, các chị y tế lấy băng trói chân tay em lại và đoán chắc em sẽ khóc thét vùng vẫy ghê gớm lắm. Nhưng em nói với các chị:
"Dừng trói em, em không vùng mô mà các chị sợi! Không ngờ đến lúc mổ, các chị y tá, bác sĩ và mấy anh thương binh đứng ngoài nhìn vào, đều sững sờ kinh ngạc trước sức chịu đựng khó tin của em. Suốt gần một tiếng đồng hồ xẻ rộng vết thương, cắt bỏ thịt thối. Làm thuốc, băng bó em nằm như dán chặt vào bàn mổ, da mặt tái nhợt, hai hàm răng nghiến chặt đến nỗi người nhìn phải lo sợ rằng em có thể bị vỡ vụn. Nhưng em không một tiếng kêu khóc, không một chút vùng vẫy.
Cả người em chỉ co giật nhč nhẹ. Chính những người nhìn em lại khóc, có người phải lấy tay che mặt quay đi.
Sau khi mổ, các chị y tá đưa em trở lại giường hỏi:
Lúc đó em có đau lắm không?
Em tưởng chết mất.
- Thế làm sao em chịu đựng được?
Em mỉm cười, yếu ớt:
- Em . . em dạo lại trong trí nhớ những bản nhạc mà em yêu thích. Em dạo được ba bản xô nát thì bác sĩ mổ xong... Em chợt im lặng, mắt mở to đăm đăm nhìn lên trần nhà, hàng mi dài cong vút chớp chớp, như đang mài lắng nghe một âm điệu gì đổ hay lắm, từ một nơi rất xa vọng lại. Em bỗng chép miệng nói tiếp: "Lúc đó mà em được nghe lại bản nhạc Dòng sông Da - nuýp xanh"... chắc em sẽ đỡ đau hơn nhiều...". Mấy chị y tá nghe em nói càng ngơ ngác, sững sờ hơn.

13

Gần như ngày nào Mừng và Vệ-to-đầu cũng thay Nhau chạy lên trạm quân y thăm Quỳnh. Sau ngày Vịnh-sưa hy sinh, đội trưởng cử Vệ làm tổ trưởng. Hai em phải đảm đương công việc của cả tổ nên khá vất vả. Cả hai phải chạy như cờ lông công suốt ngày trên khắp mặt trận, liên lạc, truyền tin, trinh sát, đưa công văn giấy tờ...
Và bao nhiêu công việc vặt vãnh khác mà người chiến sĩ liên lạc lúc lâm trận phải đảm đương. Hai em phải tranh thủ mọi thời cơ để có thể hàng ngày tạt vào trạm quân y ngồi chơi với bạn một lúc.
Một buổi chiều, Mừng chạy liên lạc lên Chi huy sở trở về, tạt vào trạm quân y thăm Quỳnh. Quỳnh vừa tiêm thuốc xong, chị y tá ngồi ở đầu giường nói chuyện với em, tay vẫn cầm cái hộp xi-ranh và hộp thuốc. Mừng đẩy nhẹ cửa bước vào phòng. Em đội mũ cứng Tiếp Phòng Quân, vành mũ sụp xuống che kín trán, áo trấn thủ, ngang lưng thắt xanh - tuy - rông, bên hông giắt quả lựu đạn O.F, quần xắn quá gối, hai bàn chân trần đen đũi trát bùn đã khô se. Em bước đến cạnh giường bạn, để lại trên nền đá hoa những lốt chân đen ngòm.
Chào chị?... - Em lễ phép chào chị y tá, rồi hất vành mũ lên cao, nhìn bạn cười rạng rỡ.
Quỳnh cười với bạn, ngoảnh sang nói với chị y tá:
Bạn em là vua trčo cây đó chị ạ. Bao nhiêu cây cao nhất của Huế mình cậu ta đều đã trčo tuốt lên ngọn...
- Úui chao, em nghịch đến nước ấy à?
Mừng đỏ mặt, bối rối.
Không phải cậu ta trčo nghịch mô chị ạ...- Quỳnh nhìn bạn, ánh mất âu yếm.- Mình kể chuyện trčo cầy cho chị nghe, cậu đừng giận mình hí... ?
Quỳnh... Đừng...?
Quỳnh tảng lờ như không nghe bạn gọi, vừa cười cười vừa kể cho chị y tá nghe chuyện Mừng đi tìm thuốc cho mẹ. Chuyện Mừng nhập Vệ Quốc Đoàn bằng cách chui bừa vào giữa hàng ngũ của đội...
Nghe chuyện, chị y tá miệng cười mà mắt rớm lệ Chị cầm cổ tay đen đũi của Mừng kéo em lại đứng sát vào mình, nhìn em và nói:
Chị ước chi có quyền được gọi tất cả những kẻ hắt hủi cha mạ, đối xử cha mạ không ra chi, đến ngay đây để được nhìn thấy mặt em...
Quỳnh thổ lộ với chị một niềm mơ ước mà em ấp ủ từ lâu:
Khi mô Huế mình được giải phóng, em sẽ xin học trường nhạc. Em sẽ gắng học thật giỏi.... Em sẽ sáng tác một vở nhạc kịch, kể chuyện Mừng đi tìm thuốc cho mẹ. Em tin chắc vở nhạc kịch của em sẽ hay, rất hay...
hay không kém gì vở "Cây sáo thần" của nhạc sĩ MÔ - da. Chị không tin à? thì chính Mô-da sáng tác vở nhạc kịch đó khi ông ta còn ít tuổi hơn em bây giờ...
Chị y tá xem chừng chẳng biết mô tê gì chuyện nhạc kịch với MÔ - da. Chị chăm chăm nhìn em rồi chợt hỏi:
Em Mừng thì do đi tìm thuốc cho mẹ mà vô Vệ Quốc Đoàn, còn em thì do cái chi rứa?
Quỳnh mỉm cười khẽ lắc lắc cái đầu xinh đẹp, đội vừng mũ miện tóc tơ quăn rối, chực đánh trống lảng.
Nhưng trước ánh mắt chăm chăm đợi chờ của bạn và chị y tá, em nhỏ nhẻ nói:
- Em đi Vệ Quốc Đoàn vì những bài hát cách mạng... Chị không thể tưởng tượng được, em yêu nhạc đến như thế nào... Cũng bởi em được nghe nhạc, học nhạc từ ngày chập chững biết đi. Cả nhà em, mạ em, hai chị em đều biết chơi dương cầm, nhất là chị Hoài Trang của em, chị ấy chơi dương cầm hay mê hồn. Nhiều đêm đang ngủ em chợt tỉnh giấc, xung quanh vắng lặng hoàn toàn, em nghe các bức tường trong phòng em ngân nga hòa nhạc với nhau... lạ lắm chị ạ, nói chắc chị không tin, nhưng em nghe thật mà. Chúng hòa lại những bản nhạc mà các chị em với em thường đàn. lên năm tuổi em đã chơi thạo những bàn nhạc ngắn của MÔ - da và em cũng sáng tác được một bản nhạc đầu tiên tên là "Cái chết của con ếch xanh tội nghiệp". Ở đây mà có đàn, em sẽ đàn cho chị nghe. Chị và Mừng sẽ khóc và thương con ếch xanh của em cho coi. Hồi còn ở nhà, hễ bao giờ dạo lại bản nhạc này em cũng khóc. Em thương con ếch xanh quá. Em nghe chị Hoài Trang em chơi những bản nhạc của Mô-da, của Su-be... em cũng khóc . . . .
Nghe buồn quá à?- chị y tá hỏi.
- Không phải vì buồn đâu chị ạ. - Quỳnh lại lắc lắc nhč nhẹ cái đầu tóc quăn rối.- Không những bản nhạc ấy không buồn chút nào hết, mà vì nó hay quá, hay đến phát khóc lên. Nhiều lần chỉ mới nghe chị em nhấn mấy hòa âm đầu tiên là mũi em đã cay xč. Em dễ khóc thật... Cả nhà em vẫn gọi em là thằng - cu - khóc. Thế rồi Cách mạng tháng Tám, các bạn bằng tuổi em trong vùng Vĩ Dạ, đều vào các đội Nhi Đồng Cứu Quốc, tập một hai, đi biểu tình, mít tinh vui nghê lắm. Em thčm được vào đội như các bạn quá, nhưng ba mạ, ba mạ không cho. Ba mạ em bảo: Mình là con nhà quyền qúy, chơi chung chơi lộn với con nhà khố rách áo ôm sao được con! Không hiểu sao, nghe ba mạ em nói rứa, em bỗng thấy buồn và giận ba mạ em quá chừng. Em chỉ muốn bỏ nhà trốn đi. lạ cái là từ trước đến nay, em chưa giám giận ba mạ em lần mô. Ba mạ em cưng chiều em ghê lắm, em là con trai út độc nhất của ba mạ mà.
Hồi đó có một đơn vị Vệ Quốc Đoàn đến đóng ở ngôi chùa cách nhà em không xa. Một bữa, em đi chơi ngang qua, em thấy các anh đang tập họp trước sân chùa, vừa vỗ tay vừa hát những bài "Bao chiến sĩ anh hùng", "Đoàn Vệ Quốc Quán một lần ra đi", "Diệt phát xít", "Đuốc gươm thiêng vung cho nước nhà", "Mắng việt gian.. em đứng sững lại lắng nghe, và da em tự nhiên nổi hết gai ốc...". Những bài hát cách mạng em được nghe lần đầu tiên do các anh Vệ Quốc Đoàn hát lên, làm cho em cảm động hơn cả nhạc của Su-be, của Mô-da, mặc dầu các anh hát có sai nhạc. Tuy chưa được đọc những bản nhạc ấy, nhưng vì được học nhạc từ bé nên em biết là các anh hát còn sai nhạc. Thế là em chạy bay về nhà. Mở đàn dạo lại theo trí nhớ những bài hát vừa được nghe. Em ghi nó ra giấy, cố mày mò sửa lại cho đúng theo phép tắc hòa âm trong âm nhạc. Nhưng mất cả buổi chiều em vẫn thấy không kết quả lắm. May quá vừa lúc đó có anh Hoàng Cương, bạn thân của chị Hoài Trang em, đến chơi. Anh là học sinh năm thứ hai ban tú tài triết học trường Khải Định. Anh rất giỏi tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Đức, cũng là một cây mê nhạc. Anh ấy có thể ngồi suốt cả buổi, kiến đốt không nhúc nhích để nghe chị Trang em đàn. Khi biết em đang làm gì, anh nói: "Em không phải mất công mày mò làm gì . Anh có cậu bạn có một tập đầy đủ hết các bài hát Cách Mạng. Ngày mai cậu ta đã lên đường Nam tiến rồi. Tối nay anh sẽ đến thăm cậu ta, đề nghị cậu ta tặng lại cho em tập bài hát đó". Sáng hôm sau anh Cương đến rất sớm mang đến cho em một tập bài hát chép tay, những bài hát Cách Mạng. Trên trang đầu có ghi dòng chữ với nét chữ ngang tàng nhưng thật đẹp:
"Anh tặng Quỳnh, chú bé nhạc sĩ tương lai mà anh chưa được biết mặt. Anh mong em dùng những bài hát này như người chiến sĩ dùng thanh gươm, khẩu súng, sát cánh cùng các anh, tiêu diệt kẻ thù không đội trời chung của tổ quốc. Anh Lê Xanh". Em hỏi anh Cương:
"Anh Lê Xanh học cùng lớp với anh à?" - "Không, anh ấy là thợ điện. Cả nhà anh ba đời là thợ điện. Anh chưa được cắp sách đến trường bao giờ. CÓ lẽ do gần điện từ nhỏ mà anh ấy sáng láng vô cùng. Tự học mà biết cả nhạc, cả vẽ, đọc được sách truyện bằng tiếng Pháp. Anh hoạt động cách mạng từ hồi bí mật, có chân trong ủy ban khởi nghĩa thành phố Huế mình. Anh ấy là Đảng viên Cộng sản". Chỉ mới nghe kể thôi mà tự nhiên em thấy yêu anh ấy quá. Em hôn lên chữ ký của anh ấy ba bốn lần và ước được gặp anh ấy một lần . . . . Ngày hôm đó em đàn suốt lượt cả tập bài hát anh Xanh cho. Bài nào cũng hay lạ lùng chị ơi! Hay đến phát khóc lên được?
Nghe âm thanh những bài hát ấy vang lên dưới mười ngón tay em, không hiểu sao em muốn bỏ nhà đi, em muốn đi theo các anh hoạt động bí mật, muốn làm Cách Mạng, làm Vệ Quốc Đoàn Nam tiến, làm đảng viên Cộng sản như anh Lê Xanh... Bữa đó em đang vừa đàn vừa hát thì ba em bước vào buồng, cau mặt nói: "Mấy cái bài hát ấy ra cái chi mà con cứ đàn đi đàn lại hoài làm cho cả nhà điếc tai?" Em sửng sốt nhìn ba em: "Hay lắm chứ ba?" Ba em tự nhiên quát lên: "Chỉ có quân khố rách áo ôm, chỉ có tụi cóc nhái nhảy lên làm người mới thích cái thứ bài 'hát ấy?" Nếu ba em đánh em, tát em lúc đó em cũng không ngạc nhiên bằng nghe ba nói như vậy Em đứng phắt ngay dậy khỏi ghế kêu lên: "Sao ba lại nói rứa ba? ĐÓ là những bài hát Cách Mạng mà'" Bỗng nhiên ba em bước đến, giật tập bài hát đó em đang dựng trên nạp đàn xé roạt roạt thành hàng chục mảnh, ném qua khung cửa sổ, nói: 'cách với mạng này!'. Em khóc suốt cả buổi chiều hôm đó, mạ em dỗ chi em cũng nhất định không ăn cơm. Sáng hôm sau, em dậy lúc cả nhà còn đang ngủ, em lấy cái đàn măng-đô-lin mà từ lâu lấm em không sờ đến, lẻn trốn ra khỏi nhà. Em đi thẳng đến chỗ đơn vị Vệ Quốc Đoàn, gặp anh chỉ huy, nói: "Anh cho em vô Vệ Quốc Đoàn với.
Em còn nhỏ, em chưa làm được việc chi thì em đàn em hát cho các anh nghe. Em dạy hát cho các anh. Các anh hát sai ghê". Rồi không đợi cho anh chỉ huy phải hỏi, em vừa đàn vừa hát một lượt tất cả những bài hát trong tập bài hát Cách Mạng của anh Lê Xanh. Cả đơn vị liền vây quanh lấy em. Em đàn hát xong một bài, các anh lại vỗ tay hoan hô rầm rầm. Thế là anh chỉ huy đồng ý lấy em vào đơn vị vùa làm hên lạc vừa dạy hát cho các anh.
Sau đó cha mạ em không đến tìm bắt em về à? - Chị y tá lấy năm ngón tay làm lược, chải chải tóc cho em, hỏi.
CÓ chứ chị. Mạ em, hai chị em, đến tìm em hàng chục lần. Nhưng em cương quyết không về. Em nói:
Con đi Vệ Quốc Đoàn cho đến lúc chết thì thôi, con không về nhà nữa mô!". Lúc nhắc lại câu này, cặp mắt mớ to mênh mông của em bỗng tối sầm lại, và trên vàng môi thơ ngây của em hằn lên một nếp buồn giận không thể gì nguôi được.
Title: Re: TUỔI THƠ DỮ DỘI {Phùng Quán}
Post by: kem on 20/10/06, 16:57
14

Buổi trưa ở trạm quân y. Quỳnh đang nằm, một tay áp dưới má, ngủ say. Em bỗng choàng tỉnh dậy như bất thình lình có ai quát gọi sát bên tai. Gương mặt em lộ vẻ bàng hoàng, ngơ ngác. Em chớp chớp mất, đầu nghiêng nghé như cố hết sức lắng tai nghe một cái gì đó từ xa vọng tới. Em nhận ra hình như tiếng đàn dương cầm vẳng lại từ phía tòa nhà chính, nhưng lạ một cái là từng âm thanh rời rạc, vô nghĩa không ra một giai điệu, hòa âm gì hết. Giống như có một bọn trê nghịch phá, gő lung tung bậy bạ lên các phím đàn. Em dụi dụi mắt: "Hay là mình nằm mê?" Không, rő ràng em tinh ngủ rồi mà. Và lúc này tiếng đàn vẳng đến càng vang to hơn. CÓ những âm thanh như kêu thét, có những âm thanh rền rĩ, chen lấn nhau hỗn loạn. Là một người chơi dương cầm, những âm thanh như vậy làm cho em cảm thấy nhức nhối khó chịu. em muốn gọi chị y tá lại hỏi, nhưng không thấy có chị nào thấp thoáng bên ngoài cả. Em ngồi hẳn day, bàn chân đau băng kín, tráng toát, gác lên thành giường. Tiếng đàn lại càng rên rú hỗn loạn hơn. Em phải bịt tai lại, vì không thể chịu đựng được hơn nữa. Em định bước xuống giường, cố lần tìm đến chỗ có tiếng đàn lạ lùng kỳ quái ấy. Nhưng bàn chân đâu vừa cham đất em phải rụt ngay lại. Đau quá, em chưa thể đi một mình được. Vừa vặn lúc đó Mừng từ ngoài vườn chạy vào, tay cầm một vật gì sáng trắng mà lúc đầu Quỳnh không để ý. Thấy bạn gần như ngồi xổm trên giường, Mừng ngạc nhiên hỏi:
Cậu đang làm chi rứa? Rứa mà mình cứ tưởng lúc ni chắc cậu đang ngủ.
Quỳnh hấp tấp hỏi lại bạn:
Cậu có nghe tiếng gì không?
Mừng dỏng tai lên nghe, toét miệng cười:
Ař tiếng kêu cái thùng chi chi ấy, đẹp lắm, ở trong cái buồng nhỏ phía sau ngôi lầu ấy mà.
Rồi Mừng vui vẻ kể cho bạn nghe. Phía sau ngôi lầu có một gian buồng hẹp, mấy lâu cửa khóa kín. CÓ mấy anh thương binh tìm được ở đâu cái xà beng rất bự, nậy cửa ra coi bên trong chủ nhà cất giấu cái chi mà khóa đến hai lớp khóa Vừa lúc đó mình đi ngang qua, thấy rứa cũng tò mò ghé lại coi chút cho biết tưởng có chi qúy giá lắm. té ra chỉ có một cái bàn rất to. Mà cái bàn ni coi hình thù tức cười ghê lắm, có đến năm cái chân!
Ba chân to ba góc lại thêm hai chân nhỏ nằm giữa gần sít nhau - Mừng bật cười to và hình ảnh ngộ nghĩnh cái bàn năm chân - Chắc họ sợ hắn đứng không vững nên mới đóng thêm hai chân phụ nữa cậu hč? Cái nắp bàn rất dài, mở ra đóng lại được. Mở nắp ra bên trong có một hàng dài những miếng gỗ nằm sít nhau, trắng như hàm rồng giữa những cái răng trắng nằm chen những cái răng đen nhỏ hơn mà ngắn hơn. Mấy anh đụng tay vô hàm răng đó tự nhiên trong bụng cái bàn kêu toáng lên. Đụng mạnh hắn kêu to, đụng nhẹ hẳn kêu nhỏ. Lúc đầu bất thình lình nghe hắn kêu các anh hoảng nhảy lùi cả lại CÓ anh còn nằm rạp xuống đất sợ hắn nổ bất từ như lựu đạn. Một lúc không có việc chi, các anh mới thi nhau đấm tay vô hàm răng để hấn kêu chơi. Uùi chao?
Hắn mới kêu dữ chứ cậu. Mình cũng hùa mô đấm chơi, đấm cả răng trắng, cả răng đen đều kêu hết! Đấm chán các anh lấy mũi dao găm cậy răng hắn ra coi chơi. Mình cũng cạy được một cái răng trắng đây, định đem cậu coi cho biết. - Mừng đưa cho Quỳnh cái vật trăng trắng từ nãy tời giờ vẫn cầm lăm lằm trong tay. - Mà gỗ hắn đẹp ghê lắm cậu ơi, chùi lớp bụi đi cái, bóng loáng soi gương được Rứa là các anh lại lấy mũi dao găm, lưỡi lê thi nhau nậy gỗ định đem cưa làm "ra két" đánh kiện. Mình cũng muốn cạy một miếng chơi nhưng không mượn được dao, tiếc quá Mải hào hứng kể, Mừng không để ý gương mặt bạn mỗi lúc một thêm tái nhợt. Quỳnh thảng thốt kêu lên như bất chợt bị ai chọc mạnh vào vết thương dưới gan bàn chân:
Ui chao! Cái pi-a-nô! Mừng ngơ ngác nhìn bạn.
- Cậu làm răng rứa? Vết thương lại đau à?
- Không, không phải, cái bàn năm chân đó chính là cái đàn dương cầm đó cậu ơi! Đàn à? - Mừng trố mắt hỏi. - Giống như cái ở nhà cậu mà hồi trước lần mô đi ngang qua mình cũng nghe tiếng không?
Đúng rồi! Mà cái bàn này còn qúy hơn gấp bao nhiêu lần cái đàn ở nhà mình ấy! Hắn có đàn được bài "Bao chiến sĩ anh hùng" với Vệ Quốc Quân một lần ra đi" không?
Đàn được tất! không có bài chi là đàn được.
Ui chao, rứa mà các anh cạy ván vặn răng hắn e hắn hư mất thôi cậu ơi. - Bây giờ đến lượt Mừng sửng sờ nói. Nỗi lo lảng của bạn đã thật sự lây sang em, mặc dầu là lần đầu tiên em được nhìn thấy cây đàn dương cầm mà tất cả giá trị của nó đối với em là đàn được bài "Bao chiến chiến sĩ anh hùng", bài "Vệ Quốc Quân một lần ra đi" Để mình chạy ngay lên can các anh, may ra còn kịp. - Mừng vội vàng chớm chân định chạy.
Nhưng Quỳnh rất nhanh chồm ra khỏi gương vòng hai tay ôm choàng cổ bạn, nói giọng vô cùng khẩn khoản:
Cậu cőng mình đi theo với. Đã lâu lắm mình không được mó tay đến các phím đàn. Mình thčm quá, nhớ quá cậu ơi?
Không kịp suy nghĩ lâu la. Mừng ngoặc luôn hai tay ra sau lưng ôm vòng hai chân bạn, xốc bạn lên lưng rồi cứ thế chạy thẳng một mạch không kịp thở, đến gian phòng có để chiếc dương cầm qúy giá sắp bị phá nát.
Chưa đến cửa, Mừng đã lato đến hụt hơi:
- Các anh ơi, đừng phá! Đừng phá! Cái đàn, cái đàn...nó hát được "Bao chiến sĩ anh hùng với Vệ Quốc Quân một lần ra đi" các anh ơi...
Trong phòng, quanh cái đàn dương cầm lớn chiếm gần kín nửa gian buồng, năm sáu anh thương binh người băng trán, người băng chân... người cầm dao, người cầm mã tấu, nậy, chặt lớp gỗ màu cánh dán bóng loáng của chiếc đàn. Quang cảnh giống hệt những người đi săn lúc hč nhau cắt xẻo con thú rừng to lớn vừa bị bắn hạ. Nghe tiếng kêu hớt hải của Mùng. Các anh dừng tay cả lại. Mừng đặt bạn ngồi xuống chiếc ghế đẩu mặt tròn kê sát tường, há hốc miệng thở đến muốn đứt hơi. Quỳnh nhìn chiếc đàn bị cạy chặt nham nhở miệng bỗng mếu xệch sắp khóc:
Ui chao! - Các anh phá sập cả cái cầu Tràng Tiền em cũng không tiếc bằng....
Không còn nhớ gì đến cái chân đau. Quỳnh nhảy xuống ghế chạy nhào đến. Mừng thất sắc kêu:
- Ui Quỳnh! Em chụp lấy cái ghế chạy theo đặt cho bạn ngồi Ngồi trước chiếc đàn dương cầm to lớn đồ sộ, nom Quỳnh lại còn nhỏ bé hơn. Mặt em vụt tái đi khi tia mắt long lanh của em chạm phải màu sáng trắng lấp lánh những phím đàn. Hai bàn tay ngón thon dài như tạc bằng cấm thạch của em bỗng như hai cánh chim lướt bay là là trên dãy phím đàn . Cả gian buồng tranh tối tranh sáng phút chốc tràn ngập những âm thanh thánh thót, trầm bổng du dương. hay đến nỗi các anh đang đứng vây quanh đánh rơi cả mã tấu. dao găm xuống đất Các anh đứng sửng miệng há hốc nhìn em như nhìn một nhân vật trong truyền thần tiên Gương mặt Quỳnh sáng bừng: rạng rỡ như cây đčn lồng bỗng được thắp sáng ngọn nến ở bên trong. ôi may mắn làm sao, cây đàn vỏ ngoài tuy bị phá hỏng khá nặng nhưng âm thanh vẫn còn nguyên vẹn Em ngước lên nhìn khắp lượt các anh. hai tay em vẫn không ngừng chơi đàn ánh mắt em nồng nàn âu yếm, như thằm cảm ơn các anh đã không động đến âm thanh qúy báu của nó Cây đàn pi - a - nô lúc này sao mà giống con sơn ca bi người ta vặt trụi nhiều mảng lông. nhưng tiếng hót của nó may mắn chưa suy chuyển. Và nó đang hót lên những giai điệu tuyệt vời dưới hai bàn tay điều khiển của chú bé liên lạc. Mấy anh Vệ Quốc Đoàn đang đứng vây quanh cây đàn nhìn em kia, đều là những nông dân cùng khổ vùng Kế Môn, Đại Lược. Cả một đời họ chỉ được biết cây đàn qua câu chuyện Thạch Sanh: "Tích tịch tình tang, ai mang công chúa dưới hang lên lầu" .
Đây là lần đầu tiên họ được nghe tiếng đàn, thấy cây đàn có thật trong cuộc đời. HỌ nhìn em với cặp mắt hối lỗi, như muốn nói: "Em đừng giận các anh mà tội. Dưới thời nô lệ thằng Tây, các anh phải sống trong cùng khốn, đói rét, u mê, tối tăm. Các anh mô có biết cái bàn năm chân ni là cái đờn, nên các anh mới lỡ phá... Chừ được em nói cho biết rồi, đứa mô mà dám làm hư hoại nó, các anh sẽ cho biết tay'".
Quỳnh lúc này đă hoàn toàn đắm mình vào âm nhạc. Tiếng đàn của em mỗi lúc một thêm ngân vang, dồn dập, quyến rũ... Từ những giai điệu dịu dàng, mơ màng, uyển chuyển như dòng sông Hương êm đềm trôi dưới ánh trăng, em vụt chuyển sang những giai điệu hùng tráng sôi sục của những ca khúc Cách Mạng. Dưới hai bàn tay mềm mại trẻ thơ của em, cây đàn phút chốc hóa thành một đơn vị Vệ Quốc Đoàn đang rầm rập tiến ra Mặt trận trong tiếng hát vang trời:
"Ra đi ra đi bảo tồn sông núi Ra đi ra đi thở chết không lui...
Cờ tay phật phới. .. " Gian phòng đứng chật kín người từ lúc nào không ai hay. Thương binh, bác sĩ, y tá, hộ lý khắp cả trạm quân y nghe tiếng đàn dương cầm đột ngột vang lên, liền gọi nhau, dắt nhau, dìu nhau kéo đến mỗi lúc một đông.
âm nhạc Cách Mạng sục sôi nghĩa khí cuốn hút họ như một dòng thác, một cơn lốc. Một người nào đó, rồi tất cả đám đông, đứng vây quanh cây đàn và chú bé liên lạc, cùng cất vang tiếng hát hòa theo:
" Ngựa phi nơi xa kia nghe tiếng súng bên trời điệu kčn rộn ràng..." Ở tầng gác hai, có một anh thương binh trẻ măng bị thủng nát hết ruột, đang giờ phút hấp hối, nghe tiếng đàn từ tầng dưới vảng lên, tự nhiên anh tỉnh táo hẳn lại Anh nằng nặc đòi các chị y tá khiêng anh xuống chỗ có tiếng đàn để anh được nghe rő hơn trước khi chết.
Thương anh quá, các chị phải chiều anh, vực anh vào cáng, sẽ sàng khiêng anh xuống. Đám đông rẽ ra nhường lối cho cáng anh đi vào sát bẽn chỗ Quỳnh ngồi đánh đàn.
Anh mở to đôi mắt nhìn Quỳnh. ánh mắt anh như ánh lửa xao xuyến, rung rinh sắp lụi tắt, trân trân dői theo đôi bàn tay con nít trắng xanh của chú bé chiến sĩ múa lượn trên dãy phím đàn trắng, đen, lấp lóa. Miệng anh he hé như muốn uống cạn tiếng đàn để lấp kín những chỗ gan ruột của mình bị đạn giặc phá thủng nát. Dàn ngân lên một giai điệu cao vút, anh bung chống mạnh hai khuỷu tay xuống cáng, cố hết sức dưới cao đầu lên nhìn Quỳnh, tia nhìn ngầm ngập yêu thương. Đôi môi trắng bệch của anh mấp máy thì thào:
- Cảm ơn em'. .
Rồi anh vật đầu xuống cáng, thở hắt ra, trút hơi thở cuối cùng.

15

Tình hình Mặt trận Huế lúc này có những biến chuyển hết sức quan trọng. Cục diện chiến đấu xoay chiều mỗi ngày thêm bất lợi cho quân ta.
Ngày 17 tháng 1 năm 1947, quân tiếp viện của giặc từ Pháp sang đã đồ bộ lên vùng Thừa Lưu, Lăng Cô, phía cực nam của tỉnh Thùa Thiền. Từ Huế đến Lăng CÔ chi hơn sáu mươi cây số. Tụi giặc tiếp viện gồm những binh đoàn tinh nhuệ nhất của quân viễn chinh Pháp. Khoảng năm nghìn tên do hai tên thực dân cáo già là đại tá La-rô-cờ và trung tá đô-rê chỉ huy.
Vừa đặt chân lên đất liền, bọn giặc đã nhanh chóng chia thành nhiều mũi, hình thành nhiều gọng kìm, ồ ạt tấn công ra phía Bắc Thừa Thiền. Chúng cố tiến thật nhanh đến Huế để giải vây cho đồng bọn bị vây hãm, có nguy cơ bị quân ta tiêu diệt.
Tiểu đoàn Mười tám có nhiệm vụ trấn giữ mặt trận phía Nam đã chiến đấu hết sức quyết hệt để ghìm chân bọn giặc đổ bộ lại. Trong khi đó, các đơn vị vây hãm giặc ở Huế cũng dồn hết sức để tấn công địch, với hy vọng tiêu diệt được chúng trước khi bọn tiếp viện đến kịp. Trong đợt tấn công này quân ta đã thắng những trận xuất sắc:
tiêu diệt vị trí miếu Đại Càng, bắn ba chiếc máy bay Mô-ran ở vùng núi Tam Thai.
Nhưng thế giặc lúc này đang quá mạnh. Phòng tuyến phía nam quần ta phải vừa đánh vừa lùi, rút bỏ hết phòng tuyến phòng ngự này đến phòng tuyến phòng ngự khác.
Trước tình hình khẩn cấp, ban chi huy trung đoàn điều động một số đơn vị đang tham chiến ở Huế, tăng viện cho mặt trận phía Nam. Chỉ huy trưởng mặt trận khu C Phùng Đông cũng được điều động về chỉ huy mặt trận này.
Gần một chục đội viên thiếu niên trinh sát được cử đi theo các đơn vị tăng viện.
Vệ to đầu được chỉ huy trưởng Mặt trận khu C lấy đi theo làm liên lạc cho ông. Một giờ trước lúc lên đường, em gọi điện thoại cho Hiền:
- A lô, Hiền đấy à. Hai giờ chiều nay mình phải theo Chỉ huy trưởng vào Mặt trận phía nam. Gấp quá mình không đến gặp cậu được. Quân ta đang chặn tụi Tây ở đčo Mũi Né đánh nhau đã hai ngày nay rồi Chỉ huy trưởng bảo phải phi ngựa suốt cả đêm hôm nay mới kịp đến để chỉ huy. Trận ni chắc gay go ghê lắm. Không biết có còn dịp gặp lại cậu không. . . Nếu có chuyện gì cậu đừng quên mình nghe. à, mình được phát một con ngựa cậu ạ. Con ngựa đen, bộ dạng thì xấu đui nhưng chạy hay tuyệt trần đời. Mình dám thách đua với tất cả ngựa của trung đoàn, kể cả con Ca-tê-lin của Bảo Đại. Cậu đã luyện được cái môn lộn nhào hai vòng liền chưa? Chưa à? Kém thế. . . Vệ khúc khích cười - Bữa mô gặp lại, mình sẽ kể chuyện cho cậu Mình phải sắm sẵn cái roi mây thật vót, luyện không chăm, ăn roi cấm khóc nghe! à, mình gửi cho cậu cái mũ ca lô của mình ở chỗ đội trưởng ấy...
Ở đầu giây đàng kia, Hiền cầm máy nghe những lời bông đùa của bạn mà tự nhiên rơm rớm nước mắt. Hai đứa mê nhau lạ lùng. Hiền đêm nằm ngủ, nói mớ cũng gọi tên Vệ-to-đầu.
Title: Re: TUỔI THƠ DỮ DỘI {Phùng Quán}
Post by: kem on 20/10/06, 16:58
16

Khoảng ba giờ chiều Vệ-to-đầu, từ trong cái biển lửa và khói dọc tuyến phòng ngự ven sông Ruồi cưỡi con ngựa đen như đã bị lửa nung thành than, phi về phía ngôi nhà Ban chỉ huy mặt trận đóng.
Chỉ cần nhìn em cũng đủ biết công tác liên lạc ở mặt trận ở phía Nam này vất vả biết chừng nào. Thay mũ ca lô em đội cái mũ cát bẹp dúm dó. Mặt em, đen nhẻm, lấm lem cát bụi, khói đạn... Cái áo quân phục ca ki dày như mo nang rách toạc hai ba chỗ trên vai, trên lưng. Chiếc quần dài ướt sũng nước đến thắt lưng, hai ống quần bê bết bùn.
Suốt ngày hôm nay, hầu như không mấy lúc em rời khỏi lưng ngựa. Mỗi ngày em phải phi ngựa không biết bao nhiêu lần dọc phòng tuyến lửa đạn bời bời, để truyền đạt mệnh lệnh chiến đấu của Chỉ huy trướng đến các đơn vi và lấy tin tức cái đơn vị về báo cáo với Chỉ huy trưởng. Nhiều bữa em vội đến nỗi ăn vắt cơm nắm cũng phải ngồi trẽn lưng ngựa mà ăn.
Là liên lạc của Chỉ huy trưởng, phạm vi phải chạy liên lạc của em rất rộng, khắp cả phòng tuyến. Nếu không có sự nhanh nhẹn lạ kỳ, sức dẻo dai hiếm có và lòng gan dạ đến liều lĩnh của một diễn viên xiếc chuyên nghề nhào lộn, và đứng làm bia sống cho trò ném dao găm, thì chắc em khó mà đảm đương nổi nhiệm vụ.
Chỉ huy trưởng vừa ra dứt lệnh đã thấy em ngồi chễm chệ trên lưng ngựa, mũ đội hất lên trước trán, tay cầm dây cương, mái tóc quăn đen như lông quạ, lâu ngày không cắt buông lòa xòa quanh mũ, phủ kín cả gáy Em giống một kỵ sĩ xưa minh họa trong sách. Và mặc cho đạn đại bác nổ đinh tai, choáng óc, mặc cho đạn súng trường, súng máy bay vù vù quanh mình như một đàn ong vỡ tổ, mặc cho nhà cháy, tường sập, cây đổ, em vẫn cúi rạp trên mình ngựa, thúc gót, giật cương, lao vút đi như một mũi tên đen. Em phi ngựa vọt qua những hàng rào xương rồng cao ngất nghểu, bay qua những mương nước rộng đầy nước. Trong cách phi ngựa của em vừa có cái gan dạ của người chiến sĩ lúc lâm trận lại có cái tài ba của một tay diễn xiếc lành nghề Nhiều lúc đang phi ngựa rất nhanh chợt nghe tiếng đạn súng cầu vồng kêu xoẹt xoẹt muốn rơi gần, em ghìm ngay ngựa lại, đâm bổ cả người lẫn ngựa xuống giao thông hào để tránh đạn. Chì huy trưởng! và các anh lớn nhìn em phi ngựa mà lo sợ thay cho em.
Nhiều làn thấy đạn giặc nổ rát trên dọc lối đi, các anh hớt hải chạy đuổi theo gọi:
vệ! vệ! Quay lại đã! Dứt đợt súng rồi hãy đi! Nghe các anh gọi em càng thúc ngựa phi nhanh hơn, ngoái đầu lại nói to:
Không can chi mô! Đạn nó tránh em mà?
Cặp mắt to, đen láy, dịu dàng như mắt nai, sáng long lanh dưới vành mũ cứng.
Dọc đường em thường gặp các bạn trong đội cũng đang chạy liên lạc. Các bạn cũng vất vả không kém, chạy như cờ lông công suốt ngày, mà lại chạy chân đất.
Thường vội quá nên mỗi lần gặp nhau chúng chi kịp hỏi. "Cậu đó à?" Rồi lao vút đi. Vừa rồi, lúc phi ngựa vọt qua dãy giao thông hào, em gặp Tê ở tổ Năm, cởi trần, mặt độc cái quần đùi rách toạc đến bẹn, lưng đeo hai quả lựu đạn mỏ vịt, đang lội ào qua một con hói. Vệ ghìm cương lại:
Tề, cậu đi mô đó?
Tớ đi tìm o cứu thương đến chuyển mấy anh thương binh đi.
Vệ ngồi trên lưng ngựa, Tề đứng dưới con hói, nước ngập đến thắt lưng.
Lai bị thương cậu biết chưa? Vệ hỏi Tớ cőng hắn về trạm quân y chớ ai - Tề nói. - Lúc đánh bi cőng hán nhẹ tưng mà răng lúc bị thương hắn nặng đến rứa không biết! Liệu phòng tuyến có giữ nổi không cậu?
Khó lắm. Tụi hắn nhiều súng đạn quá. Cậu có đói không?
- Gần chết! Vệ thò tay vào trong bụng áo lấy vắt cơm lĩnh từ sáng đến giờ chưa kịp ăn.
Bắt nghe! - Em tì chân vào hai bàn đạp, nhón cao người ném vắt cơm cho bạn.
Tề nhảy lên, bát trượt. Vắt cơm rơi tőm xuống nước Tề liền nhào theo vắt cơm, chổng mông mò lặn như con vịt mò mồi. MŇ được vắt cơm ướt nhoét, Tề cầm chặt hai tay, đưa lên miệng nhá luôn. Vùa nhồm nhoàm nhai, em vừa nhìn lên bạn, đầu gật gật tỏ ý ngon lắm Rồi vừa nhá cơm em vừa tiếp tục lội qua con hói.
Đạn giặc từ phía bờ sông bắn sang kêu chịu chịu trên đầu em. Tề đưa tay lên đầu phủi phủi tỏ ý coi khinh.
Vệ đến ngôi nhà chỉ huy sở đóng cách phòng tuyến chừng hơn cây số, Vệ-to-đầu cho ngựa phi thẳng vào đến cửa nhà bếp. Em nhảy xuống đất, nói với mấy chị cấp dưỡng:
Còn vắt cơm mô cho em một vắt. Em đói xều mểu.. .
Một chị mở thúng lấy vắt cơm nắm và gói thịt heo kho mặn gói trong mảnh lá chuối hơ lửa, đưa cho em.
Em vắt dây cương ngựa lên chốt cửa, chùi hai bàn tay lấm lem và nồng nặc mùi mồ hôi ngựa vào đít quần, đón lấy vắt cơm và gói thịt. Em bẻ đôi vắt cơm đút một nửa vào mồm con ngựa đang đứng thở phì phò rồi dựa lưng vào khung cửa, đưa vắt cơm lên miệng cắn. Mới cắn được một miếng thì Chỉ huy trưởng từ trẽn nhà đi xuống. Đầu ông đội mũ cát và mặc bộ quân phục lấm lem đất bùn. ông đưa cho em một mảnh giấy gấp làm tư và nói:
Em xuống ngay chỗ đại đội anh Vị vố ta, đưa lá thư này cho tôi.
Cặp mắt sâu hoắm của ông chợt dừng lại trên gương mặt lấm lem khói đạn, bộ áo quần rách toạc dính đầy bùn đất, ướt sũng, và cái thân hình bé nhỏ mệt nhoài của em run run dựa vào khung cửa...
- Em mệt quá phải không? - ông hỏi giọng trầm hẳn xuống. - Em lên nhà nằm nghỉ đi một lúc, tôi gọi đồng chí Phương đi thay cũng được.
Nhưng Vê-to-đầu đã nhanh nhẹn đứng thẳng lên, luồn nửa nắm cơm cắn dở lẫn gói thịt heo kho mặn vào bên trong áo sơ mi. Em chùi hai tay vào đít quần, cầm lấy bức thư trong tay chỉ huy trưởng, cẩn thận đút vào túi áo sơ mi. Một tay cần lấy cương ngựa, tay kia trở mu bàn tay chùi miệng, nói:
Báo cáo anh, em đi được. Em chỉ hơi đói tí thôi.
Đường từ đây đến chỗ đại đội anh Vy bây giờ bị đạn đại bác, moóc-chê nó làm lung tung cả lên. Anh Phương không thạo đường sẽ lạc mất.
Chưa kịp để cho chỉ huy trưởng có ý kiến, em đã dắt con ngựa ra giữa sân, nhẹ nhàng phục lên yên. Em thúc gót giật dây cương, con ngựa tung bốn vó bay qua hàng rào chč tàu trước mặt. Chỉ huy trướng chỉ còn biết đứng lặng lẽ nhìn theo. ông lẩm bẩm: "Hết chiến tranh mình phải đưa thằng bé về nhà cho nó đi học...".
vệ đến gặp đại đội trưởng VỴ đúng vào lúc đại đội ông đánh bật được đợt "a-la-xô" thứ nhất của giặc. ông cầm lấy bức thư em trao chưa kịp đọc thì giặc dưới sông lại ào lên "a-la-xô" đợt thứ hai. ông vọt nên khỏi chiến hào, chạy! thẳng đến chỗ bố trí cầm khẩu trúng liên F.M. Độc nhất của đại đội, định cho đưa súng ra mé sông để quét bọn giác đổ bộ. Nhưng mới chạy được chục bước thì ông bị trúng đạn. ông ngã dúi, mặt úp xuống đất bị đạn cày nát, khẩu cạc bin cầm trong tay văng ra bên cạch . Mác cho đạn bắn mỗi lúc một rát, Vệ nhảy lên khỏi chiến hào, lăn tròn như con quay thẳng đến chỗ đại đội trưởng. NÓ tưởng ông chỉ bị thương, nhưng khi thấy trán ông vỡ toác thì nó khóc òa lên, và nép sau xác ông để tránh đạn. Hai anh ban trung liên cũng vừa lăn đến kịp, kéo xác ông v~e phía sau. Vệ bò sát đất đến chỗ khẩu cạc bin, chụp lấy khẩu súng lăn trở về giao thông hào.
Khoác khẩu súng lên vai, nó phi ngựa như bay về báo cáo với chỉ huy trưởng.

17

Sau đó chỉ hơn nữa tiếng đồng hồ, phòng tuyến sông Ruồi bị chọc thủng. Chỉ huy trưởng quyết định để lại một bộ phận nhỏ kìm chân giác, còn đại bộ phận rút lui về giữ phòng tuyến sông Nong. cách sông Ruồi chừng mười cây số.
Chỉ huy trưởng, Vệ, anh Phương cần vụ là những chiến sĩ cuối cùng rời khỏi phòng tuyến sông Ruồi.
Trời chiều đột nhiên hửng nắng. Ba người đã lui cách sông Ruồi chừng ba cây số. HỌ cùng cúi rạp người trên mình ngựa, cố thúc phi thật nhanh vượt qua một quãng đường rất trống. Dọc hai bên con đường rải nhựa không một bóng cây, những vồng khoai lang mới trồng chạy dài tít tắp. Anh Phương cưỡi ngựa phi sau cùng, bỗng kêu hét lên :
Máy bay nó đuổi theo ta đế ế ế...! Chỉ huy trưởng và Vệ ngồi trên mình ngựa cùng ngoái đầu lại. Trên nền trời chiều vàng nắng, cuồn cuộn lửa khói và vang ầm tiếng nổ phía sau, bốn chiếc máy bay cổ ngỗng đang cắm đuôi nhau lao vùn vụt về phía ba người. Thoáng nhìn, Chỉ huy trưởng biết lũ máy bay đã nhìn thấy mình vì mục tiêu di động của ba người trên quãng đường quá trống trải. ông hô lớn:
- Tản ngay ra hai bên đường! Phương cuống quá, quất ngựa chạy bừa xuống ruộng khoai rồi hai tay ôm chặt lấy cổ ngựa mặc cho nó muốn đưa mình đến đâu thì đến. Chỉ huy trưởng kéo cương thật nhanh, rời khỏi đường nhựa và phóng đến một lùm cây thấp cách đường chừng tràm mét.
Vệ ghìm cương ngựa, đưa mắt rất nhanh nhìn bao quát địa hình chung quanh. Em thấy không có một chỗ nào gần đó khả dĩ núp được. Nhưng không một chút rối ta, em chợt nhận ra con ngựa cho nằm ẹp xuống mặt đường, và em nằm ép sát vào một bên, đầu gối lên cố ngựa, em ngửa mặt chăm chú quan sát bầu trời. Lũ máy bay cồ ngỗng đen trùi trũi to dần lên một cách khủng khiếp. Tiếng gầm rít của chúng như những chiếc khoan xoáy sâu vào màng nhĩ. Chiếc máy bay đầu đàn bỗng chúc đầu lao thằng hướng lùm cây mà chỉ huy trưởng vừa nhảy vào núp. Em kinh hoàng thét lên "ối'" tim như muốn ngừng đập. Cặp mắt em mở to, thất sắc, dán chặt vào đường lao chênh chếnh với tốc độ chóng mặt của chiếc máy bay. Tuy vậy em vẫn còn đủ trí tỉnh táo để hiểu ra tại sao chiếc máy bay lại lao đúng lùm cây mà chỉ huy trưởng núp. Chỉ vì con ngựa! con ngựa trắng cao lớn, quá hoảng vì tiếng gầm rít của máy bay đã không chạy đi lại rúc đầu đúng bụi cây đó.
Hai vó sau nó đã hất lia lịa như lúc gặp thú dữ. Cái thân hình trắng toát của con ngựa chuyển động liên tiếp trẽn nền! xanh của lùm cây, đứng xa hàng cây số cũng nhìn thấy.
Hai cánh máy bay chớp chớp lửa. Một tràng nổ xé tai. Đất đá quanh lùm cây và con ngựa bị cày tung lên mờ mịt. Bắn xong loạt đạn chiếc máy bay ngóc đầu nhào lên."Không đuổi ngay con ngựa trắng đi thì Chỉ huy trưởng nguy mất. Ba chiếc máy bay sau cũng đang hằm hč sửa soạn lao xuống". Ý nghĩ đó làm Vệ-to-đầu quên hết sợ hãi, hiểm nguy. Em đứng bật ngay dậy, lôi mạnh con ngựa đứng lên theo, thót lên yên, phi thẳng đến lùm cây chỉ huy trưởng núp. Em hỏi to:
- Chỉ huy trưởng có việc gì không ạ?
- Không, không sao cả! - Tiếng chỉ huy trưởng bình tĩnh đáp lại trong lùm cây. Em núp ngay đi, chiếc thứ hai sấp sửa bổ nhào đấy!
Nhưng Vệ không kịp đáp lại. Thời gian phải tranh thủ từng khắc một. Em kẹp chặt đùi vào hông ngựa nhoài người túm lấy dây cương con ngựa trắng, nghiến răng giật mạnh lôi đầu nó ra khỏi lùm cây. Con ngựa hý vang, cất cao cổ, dẫm bốn vó như muốn cưỡng lại. NÓ tức giật vung báng súng cạc-bin quật mạnh vào bông con ngựa, rồi thúc gót con ngựa đen phi thẳng ra giữa đồng trống, lôi theo cả con ngựa trắng. Chỉ huy trưởng núp trong lùm cây nhìn ra, ông đã hiểu chú bé liên lạc của ông muốn làm gì. ông thấy cổ mình đau nghẹn: "ôi, chú bé nguy mất'". Và ông cũng không nén được cảm phục chú bé liên lạc của ông. ông tự hỏi: "Ai dạy cho và từ bao giờ, mà trong cái phút hiểm nguy ngàn cân treo sợi tóc như vậy, nó đã cưỡi ngựa, bắt ngựa, đánh ngựa lôi ngựa đi với những động tác tuyệt vời khéo léo và chính xác của những trang kỵ mã lão luyện tài ba nhất?".
Chiếc máy bay thứ hai đã ầm ầm lao đến về phía vệ to đầu, nó vừa phi ngựa vừa ngoái nhìn chiếc máy bay. NÓ cố phi sao cho thật lộ, hút được cả lũ máy bay về phía sau mình.
Mất mục tiêu, chiếc máy bay sửa soạn bổ nhào nhả đạn, đành phải chuyển sang lượn vòng tìm kiếm.
vệ to-đầu dắt con ngựa trắng mỗi lúc một xa hơn lùm cây Chi huy trưởng núp. NÓ nhìn chiếc máy bay bị mất mục tiêu đang gầm rít tức tối lượn đảo quanh bầu trời. nó khoái chí quát to với chiếc máy bay:
- Mi tưởng mi giết được cấp chi huy của tao là dễ iắm à? Đừng hòng! Tao chấp cả cha con dòng họ thực dân nhà bay đó! Nhưng chiếc máy bay thứ ba đã nhìn thấy mục tiêu.
nó vùn vụt lao đuổi theo hai con ngựa và tay kỵ mã tí hon, đang phi như đùa chơi giữa cánh đồng không một bóng cây này.
Chà, cái tụi ni có vẻ cay cú, muốn giết cho bằng được kẻ yếu thế dưới mặt đất này! Vệ lúc này đã hoàn toàn yên tâm về Chi huy trưởng.
Em phấn chấn hẳn lên khi thấy mình đã đánh lừa được tụi máy bay giặc. Vč mát em trở nên ranh mãnh như lúc cùng các bạn chơi trò-trốn tìm. Em buộc cương hai con ngựa vào nhau. MẶt em vênh vênh nhìn lên trời, mắt bám sát đường bay của thằng giặc. Chờ cho chiếc máy bay bổ nhào lao thẳng về phía mình, em mới nhún mạnh hai bàn đạp. quăng mình như bay từ trên lưng ngựa xuống cái rãnh giữa hai luống khoai. Động tác em nhanh nhẹ đến nỗi con ngựa đen không hề hay biết cứ tiếp tục lồng bốn vó phi về phía trước kéo theo con ngựa bạch Tiếng đạn nổ xé tai. vạt đất bị cày tung toé cách xa em hàng chục mét Chiếc máy bay thứ tư cắn đuổi chiếc thứ ba. chúc đầu lao thẳng xuống hai con ngựa đang lồng chạy Cánh máy bay chớp chớp lửa.
Nằm giữa hai luống khoai, ngửa mặt nhìn lên, tim Vệ như muốn nhảy thót ra khỏi lồng ngực Em lo sợ cho hai con ngựa. -Trượt cha chúng mày rồi! - Vệ ngồi bật đậy reo to khi thấy dứt loạt đạn hai con ngựa lại càng lồng lên phi nhanh hơn.
Chắc đã bắn hết đạn, bốn chiếc máy bay họp thành đội hình hàng dọc, cắn đuôi nhau bay trở vê hướng Nam. Bầu trời bỗng trở nên yên tĩnh một cách dị thường. Vệ vùng ngay dậy, nhảy vọt qua từng hai ba vồng khoai một, chạy về phía Chi huy trưởng. Chỉ huy trưởng cũng từ trong lùm cây chui ra. ông bước lên mô đất gần đó, một bàn tay khum khum đưa lên mày che ánh nắng chiều chênh chếch sắp tắt, nhìn theo bốn chiếc máy bay lúc này chi còn là bốn chấm đen.
CÓ tiếng sột soạt phía sau lưng. Hai người cùng quay lại. Hai con ngựa. dây cương buộc vào nhau đã quay về từ lúc nào và đang bình thản rứt những mầm khoai.lang mới nhú non mơn mởn.
Title: Re: TUỔI THƠ DỮ DỘI {Phùng Quán}
Post by: kem on 20/10/06, 16:59
Phần Thứ Ba

1.

Trời sập tối.
Lượm và Tư-dát giục Mừng đến lần thứ tư:
- Cậu lên gặp đại đội trưởng ngay đi! ông sắp xuống dẫn trung đội ba đi phối hợp tấn công trường Thiên Hựu.
- Tối ni mà cậu không tranh thủ xin phép về thăm mạ thì chưa biết đến khi mô mới về được-.. Tớ vừa nghe điện thoại trên Mặt trận bảo là phòng tuyến Ruồi bị vỡ rồi, quân ta đang rút về lập phòng tuyến sông Nong. CÓ lệnh của đội trưởng, năm giờ sáng mai tất cả đội ta phái có mặt tại chùa Vạn Phước để chuẩn bị đi nhận nhiệm vụ mới.
- Lần ni mà mi không về gặp mạ thì chẳng còn khi mô được thấy mặt mạ nưa mô nghe! - Tư-dát vừa cuộn áo quần thành nắm tọng đại vào ba lô, vừa nói với Mừng
- Tại răng rứa anh?
- Tao nghe được tin tối mật là chỉ một hai hôm nữa, chiến sĩ toàn Mặt trận không kể người lớn con nít, mỗi người sẽ được phát một trái bom ba càng- Trung đoàn trưởng sẽ cho nổ một trái bom còn to hơn trái nổ Ở cầu Tràng Tiền làm hiệu lệnh. Tất cả sẽ ôm bom ba càng hét xung phong rồi lao thẳng vô vị trí giặc. Mạng đổi mạng.
- Cậu đừng tin cái miệng hắn. - Lượm nói. - Hắn nói chơi để dọa cậu đó.
Tư-dát nói với Mừng, giọng vẫn tỉnh khô:
Nếu cậu được về thăm mạ mà lỡ không lên kịp thì xuất bom ba càng của cậu tớ sẽ. lãnh luôn. Một mình tớ chơi hai trái mới đã sức! Cấm cậu không được đòi lại nghe?
- Không, răng tui cũng về kịp trước năm giờ sáng.
Mừng nói rồi cắm đầu chạy biến lên tầng gác, đến phòng của đại đội trưởng. .
ông Thới đã nai nịt gọn gẽ, đang lúi húi bên ngọn đčn dầu, nạp đạn vào băng khẩu pạc-hoọc- Mừng rón rén bước vào phòng, đến đứng nghiêm trước mặt ông, lắp bắp run rẩy nói:
-DẠ... dạ... thưa anh.... Anh cho em về thăm mạ em, sáng mai em trở lại sớm.
Miệng nói mà trong bụng em không chắc gì ông sẽ cho phép. Tối ni coi mặt ông nghiêm lắm mà tình hình Mặt trận lại đang gay go..
Đại đội trưởng lắp băng đạn vào súng, ngẩng lên nhìn em, trán cau lại, hỏi?
- Về thăm mạ à? Tối tăm mưa gió thế này chú mày về thế nào được? Mà mạ Ở mô?
.- Dạ gần đây thôi.. dưới Bao Vinh. Tối tăm mưa gió mấy em cũng đi được... Tối chi bằng cái hôm đánh nhà thằng Lơ bơ rít. - Được cho chú mày về, nhưng đúng năm giờ sáng mai là chú mày phải có mặt để tập trung về đội.
Thật -khó mà tả được- vẻ mặt mừng rỡ của em lúc này- Em vọt ra cửa quên cả chào đại đội trưởng- Phải xuống báo ngay cho anh lượm biết, rồi mở máy hết bộ giò mới có thể đi về kịp trong đêm nay. Em nghĩ vậy.
Lượm là tổ trưởng thay vệ, Ngay chiều hôm Vệ theo chỉ huy trưởng đi vào mặt trận phía nam, đội trưởng liền điều Lượm và tư dát ở mặt trận khu B về bổ xung. Và cử Lượm làm tổ trưởng. Ra đến đầu cầu thang Mừng vấp phải Lượm và Tư dát từ dưới chạy lên. H ai em định lên gặp đại đội trưởng để xin giúp cho Mừng. Em chụp lấy tay hai bạn thì thào mừng rỡ:
- Được rồi được rồi, ông cho phép rồi. ông dặn năm giờ sáng mai phải có mặt.
Xuống đến chân cầu thang, Mừng bỗng đứng sững lại, gương mặt thẫn thờ, em buồn rầu nói:
- Tui ngu quá đem gởi bó lá tầm gởi cho anh So mất rồi, Chừ về thăm mạ mà chẳng có cái chi đem về cho mạ.
- Hay cậu mang về cho mạ tấm nhung đổ cậu Bồng cho dạo nọ.
- Tấm nhung tui cho Quỳnh mất rồi...
- Để tớ vào lục ba lô coi có cái chi mang về cho mạ.
Tư dát nói rồi chạy biến vào phòng. Lượm cũng chạy theo.
- Cậu chịu khó đứng chờ đay chút nghe!
Lóang một cái hai đứa chạy ra, tay cầm mấy thứ đồ vật linh tinh mà chúng nhặt nhạnh được ở những lần đi trinh sát khu vực giặc.
Tư dát trải xuống nền xi măng một miếng vải bạt rồi xếp vào đó ba cái dù pháo tín hiệu, một tấm màn che cửa viền đăng ten,hai hộp thịt, một cái gương soi và ba vỏ đạn dui xết. Luợm kêu:
- Mạ lấy vỏ đạn làm chi, Mạ có phải con nít mô?
- Để mạ làm cán dao nhíp không tốt à?
Tư dát vừa trả lời vừa gói tất cả lại, lấy dây điện thọai ràng buộc cẩn thận, rồi dúi gói quà gửi mạ vào tay Mừng giục:
- Mi đi ngay đi mà về cho kịp Về không kịp tau lãnh mất xuất bom ba càng thì đừng có kêu!
- Cho tụi mình gửi lời thăm mạ nghe?
Mừng ôm gói đồ vào lòng, đi thẳng ra khu vườn bên trái doanh trại. Ngang qua một bụi chuối nó dừng lại sờ soạng tìm một tàu lá chuối nguyên lành, ghé răng cắn đứt, rồi tách cọng lá Ở giữa làm đôi. Em luồn đầu qua lỗ hổng, bẻ gập tàu lá chuối lại thành cái áo đi mưa. Ra đến đường em chạm trán một tổ tuần tra mặt trận, các anh hỏi:
- Ai? Đứng lại.
Em trả lời dőng dạc
- Em là hên lạc đây!
Các anh hỏi mật khẩu:
- Kháng chiến!
- Em đáp:
- Quyết thắng.
Các anh để cho em đi. HỌ không lạ gì những chú liên lạc như em giờ này đi lại trong khu vực Mặt trận.
Một anh tò mò hỏi:
Em đi mô đó?
- Bí mật. - Em trả lời đầu không ngoái lại.
Anh này cười hề hề.
- Nhóc mà cũng ra vẻ gớm?
Một anh nhìn hút theo em đang lặn sâu vào bóng tối, không biết nghĩ gì, buột miệng nói:
Cả đất nước gian truân ghê người!

2.

Khoảng hai giờ sau, vừa chạy vừa đi, Mừng về đến Bao Vinh.
Nhưng Bao Vinh bây giờ không còn giống như hôm em trốn nhà ra đi- đường xá vắng tanh vắng ngắt. Nhà cửa hai bên đường cửa đóng im ỉm, không có lấy một tiếng động, như nhà đã bỏ hoang lâu ngày.
Mấy hôm nay tin về dồn dập bọn viện binh giặc đã chọc thủng phòng tuyến sông Ruồi và đang ào ạt tiến về phía thành phố, nên đồng bào Ở đây đã chạy tản cư hết.
Mỗi xóm chỉ còn vài người già liều mạng không chịu đi, Ở lại trông nom nhà cửa, vườn tược. Những người trai tráng thì xung phong lên Mặt trận.
Càng về đến gần nhà, Mừng càng thấy ruột gan bồn chồn. Em lo không biết mẹ còn Ở nhà hay cũng đi tản cư mất rồi. Đến chỗ con đường rẽ vào xóm thì em bật vùng chạy. Con đường hẻm ngoằn ngočo, tối như hũ nút, đầy những vũng bùn nước. Em ngã chúi mấy lần nhưng gượng lại được và tiếp tục chạy. Em về đến ngő, kêu to: "Mạ ơi?" và vọt vào sân. Em đứng như chôn chân giữa mảnh sân nhỏ bằng hai chiếc chiếu, nước mưa xăm xắp đến mắt cá chân. Nhà em cũng cửa đóng chặt, hoang vắng lạnh lẽo chẳng khác chi ngoài đường. Trước đây, vào giờ này, bao giờ bếp vẫn còn sáng rực lửa- Mẹ nấu xáo bò để ngày mai đi chợ sớm. Bây giờ thì cửa bếp đóng kín, giọt tranh rơi lách tách, đều đều nghe buồn đến đứt ruột.
Như người mất hồn em chạy đến vỗ liên tiếp vào cánh cửa liếp đóng kín, run rẩy gọi:
- Mạ ơi' Mạ! Mạ ơi!
Em gọi một cách tuyệt vọng vì biết chắc rằng mạ đã đi tản cư mất rồi. Rồi không nén được nữa, em òa khóc, khóc thật to. Tiếng gọi, tiếng khóc của Mừng làm cho ông cụ Mộc - người độc nhất còn Ở lại trong xóm - Ở cách đó hai nhà, phải tỉnh giấc. Cụ nhổm dậy, thőng hai chân xuống bức phản mọt, sờ soạng tìm đôi guốc đẽo bằng gốc tre, miệng lẩm bẩm:
- Lạ quá hč? Đêm hôm khuya khoắt ri mà bên nhà chị Niệm có tiếng ai như tiếng con nít khóc, gọi chị ta.
Cụ sờ tìm bật lửa dưới cái gối mây bật lửa châm vào một thanh đóm củi thông- Cụ đẩy cửa liếp, tay khum khum che ngọn lửa, đi sang nhà chị Niệm. Trời đã ngớt mưa. Trên cao tít một vài ngôi sao xanh biếc lấp lánh hiện ra như những con đom đóm đang bay bổng bị vướng vào những đám mây đen xỉn- Bước qua hàng rào, cụ trông thấy một thằng bé đầu đội mũ Vệ Quốc đoàn. Lưng khoác tàu lá chuối loang loáng nước mưa. Cụ ngạc nhiên cất giọng khản đặc những đờm, hỏi:
- Chớ đứa mô đứng khóc đó?
Thằng bé quay lại, mắt ráng mở nhìn cụ qua ánh lửa đóm lay lắt, khẽ kêu:
Cụ Mộc!
Cụ Mộc bước-đến gần hơn, đưa ngọn lửa soi vào giữa mặt Mừng, cặp mắt cụ hấp hem nhìn mãi vẫn không nhận ra.
Cháu là thằng Mừng đây mà...
Thằng Mừng con mụ Niệm à? Trời ơi! Cháu còn sống thực đó hở Mừng- Tây cụ run run cầm lấy cánh tay em kéo lại, cúi nhìn sát tận mặt xem có phải đúng thằng Mừng thật không. Khi nhận đúng là thật rồi, ông cụ càng tỏ vẻ kinh ngạc hơn.
- Cháu Ở mô mà mò về được đây? Bấy lâu cả xóm tưởng cháu chết sông. chết hói rồi.
- Cháu có chết mô! Cháu đi Vệ Quốc Đoàn.
- Cháu đi Vệ Quốc Đoàn à? Cha cái thằng! Rứa mà làm mạ cháu khóc hết nước mắt nước mũi! Đi sang bên nhà ông rồi ông kể chuyện cho nghe! Mạ cháu đi tản cư về làng Phò rồi, Ở nhà cái bà mệ nuôi của cháu ấy. - Cụ Mộc cầm tay dắt nó về nhà. Cụ xuống bếp ôm lên ôm rơm,- đốt lên giữa nhà một đống lửa, bảo nó cởi quần áo vắt nước mà hơ cho khô.
Một già, một con nít ngồi trước đống lửa ấm áp, khói cay mắt, nói chuyện. Cụ kể: Cái hôm cháu bỏ nhà trốn đi, mạ cháu đi chợ về, chạy tìm khắp xóm. Tìm không thấy, mạ cháu ra ngồi đợi trước ngő suốt cả đêm hôm đó, khóc như mưa như gió- Rồi suốt cả tuần liền, đêm mô mạ cháu, cũng ra ngő đợi, khóc hai mắt sưng húp như hai quả nhót- Cứ chiều chiều mạ cháu lại ra bờ sông, chạy dọc theo bờ, đầu tóc rũ rượi, hú hồn hú vía cháu. "Hu ba hồn bảy vía Mừng con ơi! Về với mạ, đừng bỏ mạ một thân một mình tội mạ lắm con ơi!" .
Cụ Mộc kể chừng nào, nước mắt Mừng chảy ra chừng đó- Em ngồi không vững nữa, gục đầu vào cánh tay cụ khóc nấc lên. Cụ Mộc cũng khóc, đặt bàn tay khô héo lên đầu nó, dỗ dành:
- Thôi, nín đi cháu... Mạ cháu tản cư về làng Phò, cách đây chừng nửa ngày đường. Cháu Ở lại ngủ với ông đêm nay rồi sớm sáng mai chạy ù về thăm mạ cho mạ cháu mừng, kẻo tội nghiệp.
Mừng quệt nước mắt, lúc lắc đầu, nói:
- Cháu không Ở lại được mô. Không gặp được mạ cháu cháu cũng phải về thôi. Kỷ luật của bộ đội nghiêm lắm.
- Chứ cháu về mô?
- Về bên khu vực Mặt trận C tê.
- Chứ bấy lâu nay cháu làm công việc chi?
- Cháu đánh Tây chứ làm chi nữa ông?
đánh Tây à? Thằng con mụ Niệm giỏi quá hč. Cháu nhỏ rứa mà cũng đánh Tây được à?
- Nhỏ có việc nhỏ, lớn có việc lớn. ông không nghe nói là toàn dân kháng chiến đó à?
CÓ có, ông cũng có nghe nói. - Cụ gật gật mái đầu bạc phơ. - Cháu mới đi bộ đội có ít lâu mà ăn nói khôn ngoan hẳn ra đó Mừng ạ. Cháu mà cũng biết chuyện toàn dân kháng chiến à?
- Cháu được học chính trị- Học chính trị còn biết được nhiều cái hay hơn nữa tề, cái toàn dân kháng chiến thì đã ăn thua chi ông.
- Cha cha! Cháu mà cũng biết cả chánh trị nữa à? ông tưởng cả nước Nam mình chỉ có Cụ HỒ mới biết chánh trị thôi chứ?
Chánh trị thì khó chi mà không biết- Cả đội cháu đứa mô cũng biết. Cháu còn học cả quân sự nữa. Cháu biết bắn cả súng nữa, cháu được bắn ba phát rồi.
- Rứa cháu bắn có chết được thằng Tây mô không?
- Dạ chưa..- suýt nữa thì chết. Tại cháu còn nhỏ, cầm súng tay còn run. Chứ mai mốt lớn lên, cháu bắn nhất định chết.
- Rứa cháu không Ở lại đây với ông để mai sớm về làng Phò thăm mạ thật à cháu?
Dạ, thật ông ạ- Đại đội trưởng chỉ cho cháu về trong đêm ni. Năm giờ sáng mai là cháu phải có mặt Ở đơn vị rồi- Đã đi bộ đội là phải giữ đúng kỷ luật ông ạ.
Ừ, rứa thì cháu cứ về đi- CÓ chi ông sẽ tìm cách nhắn tin cho mạ cháu biết .
Mừng đứng lên, mặc áo quần hong đã gần khô. Em quay mặt nhìn sang phía nhà em, nước mắt lại ứa ra giọt ngắn giọt dài. Em đưa ống tay áo quệt vội nước mắt, nói với cụ Mộc qua tiếng nấc:
- Cháu đi ông hí...
Cụ Mộc cũng đứng lên rơm rớm nước mắt.
- Cháu có đói không- ăn bát cơm nguội rồi về, cơm ông mới nấu lúc chiều ủ còn nóng.
- Thôi ông ạ-.. Chừ cháu chẳng thiết ăn uống chi hết.
Mừng ôm cái gói đồ biếu mạ vào lòng, lui cui bước ra khỏi nhà.
Cụ Mộc tựa cửa nhìn theo em cho đến lúc mất hút vào khoảng tối, lòng bỗng thấy buồn lạ; buồn chẳng khác chi cái hôm nhìn thấy cả xóm sập liếp, cài cửa mạ mô con nấy, gồng gánh, bế bồng kéo nhau đi, chỉ còn độc một mình cụ Ở lại.
Title: Re: TUỔI THƠ DỮ DỘI {Phùng Quán}
Post by: kem on 20/10/06, 17:00
3.

Cũng đêm hôm đó trung đoàn trưởng đi kiểm tra tình hình Mặt trận. Cùng đi có em Nghi, liên lạc của ông.
Trung đoàn trưởng vóc người tầm thước, mảnh khảnh, nhiều dáng dấp thư sinh hơn là một người chỉ huy quân sự- ông trạc ba mươi tuổi. ông đội mũ cứng Tiếp Phòng Quân, mặc bộ quân phục ka ki màu cỏ úa, khoác áo đi mưa, cưỡi con ngựa tía cao lớn. Con ngựa tên là Ca-rô-lin, nòi Anh Cát Lợi, trước đây là của Vua Bảo đại. NÓ là con ngựa qúy nhất của Bảo đại, y thường cưỡi đi săn hoặc đi dạo.
Nghi cũng trạc lứa tuổi với các đội viên Thiếu niên trinh sát, khoảng mười ba, mười bốn- Em cưỡi con ngựa lông đen tuyền, thấp nhỏ, cụt đuôi, vai khoác khẩu cạc-bin, báng súng chạm trỗ rất đẹp. Khẩu súng này trước cũng của Bảo Đại, ta lấy được cùng một lần với khẩu súng săn voi của Chỉ huy trưởng Mặt trận C - Tuy mới mười ba tuổi nhưng Nghi đã là một kỵ sĩ khét tiếng của Trung đoàn- Tài cưỡi ngựa của Nghi ngay cả Vệ-to-đầu cũng vì nể- con ngựa đen cọc đuôi em cưỡi là của Nhật, nghe đâu nòi ngựa chiến Mông Cổ. Con ngựa thấp nhỏ vậy nhưng dữ như một con báo, chuyên môn cất hậu, sa tiền, cắn, đá, thường giở chứng quẳng người cưỡi xuống đất- Cả đơn vị kỵ binh của trung đoàn không ai dám cưỡi, thế mà chú bé liên lạc này đã trị được nó- Thấy Nghi cưỡi ngựa giỏi, các anh lớn tò mò hỏi mới biết, trước khi gia nhập vệ Quốc Đoàn em Ở chăn ngựa cho một chủ xe ngựa.
Trung đoàn trưởng và chú bé liên lạc cho ngựa nước kiệu trên con đường rải đá vắng tanh vắng ngắt, sáng trắng nhưng vũng nước mưa Bỗng xa xa phía trước mặt có tiếng khóc vẳng lại Khi ngựa đến gần hơn, ông nhận ra tiếng khóc con nít- ông rất ngạc nhiên, trong khu vực Mặt trận. giữa đêm hôm mưa lạnh. tối tăm, vắng vẻ thế này sao lại có một em bé nào khóc- ông thúc ngựa rút, cây đčn bấm trong túi áo đi mưa. bấm rọi thẳng về phía trước Một bó ánh sáng màu vàng nhạt từ mặt kính đčn bấm tuôn ra thành hình cái loa. khoét thủng một quãng dài bóng tối Giữa cái loa ánh sáng ấy hiện ra một chú bé đang cắm cúi bước. quay lưng lai phía ông- Chính chú bé này đang vừa đi vừa khóc Chỉ thoáng nhìn. trung đoàn trưởng cũng đoán biết chú là liên lạc viên của bộ đội. một trong hàng nghìn chiến sĩ của ông Chú bé đội mũ cứng.
mặc chiếc áo trấn thủ rộng thùng thình phủ kín mông đít, cái quần người lớn cắt ngắn ống đáy rộng như cái váy. . - ngang lưng thắt lưng da to bản có dắt quả lựu đạn O.F.
ĐÓ là thứ binh phục quen mắt của các chú liên lạc nhỏ mà ông thường gặp trên khắp các mặt trận khu A, B, C. ông thúc gót ủng cho ngựa phi đến gần sát sau lưng chú bé, cất tiếng hỏi:
- Này, chú bé! Chú đi đâu về mà khuya khoắt thế này?
Chú bé còn mải khóc nên không nghe tiếng vó ngựa, cũng không chú ý tới ánh đčn- Nghe gọi đột ngột, nó giật bắn người quay ngoắt lại- Chú đưa ống tay áo, quệt vội nước mắt, chớp chớp nhìn. Chú đã nhận ra người cưỡi con ngựa cao lớn đang đứng trước mặt là ai. Chứ vội rút chân về tư thế đứng nghiêm, ngước cặp mắt nhòe ướt lên nhìn ông, cố nuốt tiếng nấc, trả lời.
Dạ.-. Em được cấp chỉ huy cho phép về thăm mạ.
Nhìn cái dáng vội vã đứng nghiêm với gương mặt con nít nhòe nhoẹt nước mưa lẫn nước mắt của chú bé liên lạc, ông thấy nó tội quá- Ong dịu dàng nói:
Cho em "nghỉ". Em gặp chuyện gì buồn mà phải khóc thế?
- Dạ.-. Em được cấp chỉ huy cho về thăm mạ. nhưng em về nhà thì mạ em đi tản cư mất rồi .
Nước mắt chú bé lại ràn ra. Chú lại đưa tay quệt vội nước mắt.
- Thế mạ em tản cư về đâu có biết không?
- Dạ- Tận dưới làng Phò tê.
- Thế em không ngủ lại nhà rồi sáng mai về làng Phò thăm mạ có được không?
- Cấp chỉ huy chỉ cho phép em đi đến năm giờ sáng mai là phải có mặt Ở đơn vị...
- Em Ở đơn vị nào?
- Dạ, đơn vị đóng Ở trường Kỹ Nghệ.
- Đại đội anh Thới phải không?
- Dạ phải.
- Thế thì được. Anh sẽ cho em thêm một ngày phép nữa. Bây giờ em quay lại nhà ngủ, sáng mai về làng Phò thăm mạ. Anh viết cho em cái giấy. Lúc trở về đơn vị, em đưa giấy cho anh Thới là không việc gì hết. Em tên là gì?
- Dạ, em tên là Mừng.
Trung đoàn trưởng mở nắp chiếc xà cột da đeo bên hông, định lấy giấy bút viết mấy chữ cho đại đội trưởng Thới- Mừng bỗng rụt chân lại đứng nghiêm, giọng run run nói:
- Dạ thưa anh, anh có viết giấy em cũng chẳng Ở lại đi thăm mạ được mô...
Sao lại thế? - Trung đoàn trưởng ngạc nhiên hỏi.
- Em không muốn về thăm mạ nữa à?
- Dạ em muốn lắm - . . Nhưng chiều này có lệnh của đội trưởng là sáu giờ sáng mai tất cả đội phải có mặt tại Chỉ huy sở Mặt trận khu C để nhận công tác mới- Em sợ về trễ mất một ngày, các bạn nhận hết công tác, em không được nhận.. Trung đoàn trưởng ngồi sửng trên lưng ngựa. Vẻ mặt và giọng nói của người chiến sĩ nhỏ bé của ông làm ông xúc động. ông chỉ muốn nhảy xuống ngựa ôm chú vào lòng mà vỗ về an ủi như một người cha. ông nói:
- Anh là trung đoàn trưởng mà chẳng thể làm gì giúp được em sao?
- Chẳng ai giúp được cho em hết...- Mừng quệt nước mắt, miệng mếu xệch. - CÓ trời cũng chẳng giúp được cho em-.. Em vừa muốn về thăm mạ lại muốn về cho kịp để được đi công tác với đội... hu hu hu... Mừng òa khóc to.
- Dạ em, em có thể giúp được bạn ấy. - Em Nghi từ nãy đến giờ gò ngựa đứng cạnh trung đoàn trưởng, lúc này mới lên tiếng. - Đề nghị anh cho phép em chở Mừng về làng Phò thăm mạ, xong em lại trở về đơn vị- Thế nào chúng em cũng về kịp đơn vị trước năm giờ sáng.
Trung đoàn trưởng vui vẻ gật đầu:
- được Nghi làm như thế rất tốt! Nhớ đi cho cẩn thận!
Em đưa khẩu cạc-bin đây anh mang về trước cho. Con ngựa ấy hai em cưỡi có được không?
- Dạ được anh ạ. Nhưng em sợ hơi nặng, nó phi không được nhanh.
Thế thì anh đổi cho hai em con Ca-rô-lin.
Trung đoàn trướng và Nghi cùng xuống ngựa. Nghi trao dây cương con ngựa đen, khẩu cạc-bin cho ông, và dặn:
- Anh nhớ, chú ý nó hay sa tiền lắm. Lúc nào anh thấy nó hơi khuỵu hai chân trước xuống, anh cứ quất thật mạnh vào cho em.
Nghi nhanh nhẹn phóc lên lưng con ngựa của trung đoàn trưởng- Mừng chưa được cưỡi ngựa bao giờ, lạch mãi mới trčo lên được, ngồi sát sau lưng bạn. Trung đoàn trưởng còn đứng dưới đất, nói với Mừng:
- Cho anh gửi lời thăm mạ nghe!
- Dạ...
Nghi kéo dây cương quay ngược về phía sau. Con ngựa thấy phải quay lại đường cũ, dậm vó liên tiếp xuống đường, hý lên ầm ĩ tỏ vẻ phản đối- Em quất cho một roi vào sườn ba. Con ngựa cất cao vó, lao như bay về phía trước- Tiếng vó nện xuống đường đá nghe rầm rập- Nghi hét to:
- Cậu quàng tay ôm chặt ngang lưng tớ không thì ngã đấy!
Ngồi trên yên ngựa sát sau lưng bạn, Mừng bắt chước nhún người lên xuống theo nhịp ngựa phi. Thích chí em bật cười khanh khách. Bao nhiêu buồn khổ đã làm em khóc hết nước mắt phút chốc vụt tan biến đi đâu hết- Em vui sướng kêu to:
ôi chà, ôi chà! êm đít quá! êm đít quá!
Lây nỗi vui thích của bạn. Nghi cũng phá lên cười giòn giã. Tay nới dây cương cho ngựa phi nước kiệu, Nghi quay đầu lại hỏi:
Cậu chưa được cưỡi ngựa bao giờ à?
Chưa! Con mạ Niệm bán bún bò làm chi có ngựa mà cưỡi . . . Dạo Ở nhà tớ được cưỡi dê một lần, còn chó thì cưỡi luôn . Một bữa tớ cưỡi con chó mực nhà cụ Mộc, định thúc chó nó phi; nó nổi cáu đợp cho tớ một cú vô bắp chân còn sẹo đây này.
Nghi vung roi lên cười khanh khách, nói giọng ngang tàng.
Còn tớ thì sống nửa đời trên lưng ngựa! - Câu nói này Nghi học được của một tay anh chị làm nghề đánh xe ngựa hồi còn đi Ở chăn ngựa.
Mừng bỏ một tay ôm bạn ra, vỗ vỗ vào hông con ngựa, hỏi:
Con ngựa ni là ngựa chi mà to dữ ri cậu?
- Cậu chưa biết à? NÓ là con ngựa qúy nhất của vua Bảo đại. Trước kia chỉ có vua mới được cưỡi nó thôi.
Chỗ cậu đang ngồi là đúng chỗ trước -kia vua Bảo đại ngồi đó nghe!
- Rứa à? - Mừng kêu lên ngạc nhiên. Em gục vào vai bạn cười ngặt nghẽo. - Hơ hơ! Ai ngờ thằng Mừng con mạ Niệm bán bún bò Ở chợ Bao Vinh, bữa ni lại được ngồi đúng vô chỗ vua Bảo đại ngồi! Hơ hơ! hớ hơ! - Em vừa reo vừa nhổm đít lên dằn đít xuống mấy cái liền cho hả cơn khoái.
Nghi cũng lây nỗi vui bồng bột của bạn, cười to nói- Nhưng cậu cũng chưa bằng tớ? Tớ đã được làm vua rồi nghe!
- Thôi đi! Cậu chỉ nói trạng thôi!
- Tớ nói thật mà! Tuần trước tớ vô Đại Nội đưa thư của trung đoàn trưởng cho ông Chủ tịch ủy ban tỉnh.
Tớ lẻn vô điện Cần Chánh, tót lên ngai vàng ngời vắt chân chữ ngũ làm vua chơi.
- Rứa cậu có vuốt râu không?
- Hứ! Vuốt râu cái chi?
- Tớ đi xem hát bội, thấy vai vua ra là vuốt râu.
Nhưng tớ làm cóc chi có râu?
vuốt giả đò ấy mà.
Hai đứa cùng cười rúc lên. Con ngựa phi nước kiệu đều đều Con đường loang loáng những vũng nước mưa trôi dưới chân ngựa. Mừng bỗng nghe bạn vừa lắc lư đầu miệng vừa rì rầm ti tỉ cái gì, nghe không rő. Em lay lay vai bạn, hỏi:
Cậu hát à? Hát bài chi, hát to lên cho tớ hát cùng với.
Tớ làm thơ.
- Làm thơ là làm cái chi?
- Cậu không biết thơ à? Bài thơ thường in trên các tờ báo, câu ngắn, câu dài, có vần với nhau, đọc lên nghe như câu hò chčo đò, câu hát ru em ấy mà.
- Rứa thì tớ biết rồi. Ó đội tớ có cậu Tư-dát học giỏi nhất, cũng biết làm thơ nghe! Cậu ấy đọc lên gì gì nghe hay lắm. Làm thơ có khó không cậu? Cậu học ai mà làm được thơ tài rứa?
- Hồi Ở Mặt trận An Khê, có một anh nhà báo nhận tớ làm em nuôi, dạy tớ làm thơ. Anh ấy bị đạn đại bác Tây, chết mất rồi. Thơ anh ấy hay ghê lắm. Mỗi lần nghe anh ấy ngâm thơ là nước mắt tớ cứ chảy ra.
- Như lúc ăn ớt cay ấy à?
- Không phải- Như lúc về phép thăm mạ mà không được gặp mạ ấy.
- Rứa cái thơ cậu làm đã xong chưa? Đọc lên cho tớ nghe với.
- Không phải cái thơ mà bài thơ. Cậu chẳng biết cóc chi hết! - Giọng Nghi trách bạn âu yếm - Mình làm bài thơ kể chuyện tụi mình tối nay. Tớ đọc thử cậu nghe có xuôn tai không nghe...
Nghi thả lỏng dây cương cho ngựa chạy chậm lại cất giọng ngâm nga:
Lóc cóc, lóc cóc cóc.
Có hai vệ quốc quân
Cưỡi một con ngựa hồng
Bốn vó mềm như sắt.
Nhỏ hơn một con rồng...
Ngựa này xưa của vua.
Tên là Bảo Đại ngốc.
Cách Mạng và bác Hồ.
Bắt vua xuống đi đất.
Còn ngựa lấy đem cho.
Hai cháu liên lạc nhóc.
Cưỡi phi về làng Phò.
Thăm mạ bán bún bò...
Lóc cóc, lóc cóc cóc.
Nghi ngâm thơ xong một lúc lâu mà không thấy bạn nói gì, khen, hoặc chê, cứ ngồi im thin thít sau lưng - Em sốt ruột quay đầu lại hỏi:
- Cậu thấy thơ tớ nghe có xuôi tai không ?
Mừng bồng gục đầu vào vai bạn, giọng run run:
Mạ tớ bán bún bò mà cũng được cậu làm vào trong cái thơ... Cậu tốt quá!
Con Ca-rô-lin đã đưa hai chú bé liên lạc về đến đầu làng Phò. Trời xem chừng đã khuya lắm, có lẽ phải quá nửa đêm. Xóm làng tối hăm chín Tết năm đó như một người nửa thức nửa ngủ- Nhiều nhà cửa đóng im ỉm- Một vài nhà còn thấp thoáng ánh lửa. Trên đường cái làng thỉnh thoảng có người gồng gánh đi lại. Giữa cảnh tịch mịch, chốc chốc lại vang lên tiếng quát giật giọng- "Ai! Đứng lại!" đó là tiếng hô của các anh chị dân quân tự vệ canh gác đầu các ngã đường. Phía thành phố súng vẫn nổ rền như mọi đêm- Nhưng Ở đây nghe tiếng súng hiền lành hơn; không chí chát dữ tợn như Ở ngoài Mặt trận. Chốc chốc từ một góc nào đó trong thành phố vọt lên trời một quả pháo hiệu đỏ lòm như một hòm than đậm lửa văng ra từ một bếp lò rčn khổng lồ.
- Nhà cậu Ở đường mô? - Nghi ghìm cương lại hỏi:
- Cậu cứ đi thẳng, lúc nào nhìn cái giếng xây cạnh cây bồ đề thì quẹo qua trái một khúc là đến nơi.
- Cậu nhớ vô thăm mạ một phút rồi phải trở ra ngay để- về cho kịp nghe.
Mừng ghé vào tai bạn thì thầm.
Tớ lo quá cậu ạ. Chốc nữa gặp mạ e tớ không về được đơn vị thôi. - Tại răng rứa? Mạ bắt cậu phải Ở nhà à? .
Mừng không trả lời mà chỉ gật đầu. Dáng bộ em trở nên ủ rũ, buồn bã.
- Mạ có bắt thì cứ vùng ra mà đi, sợ chi? Cậu cứ nói là nếu mạ không cho trở về đơn vị thì bộ đội sẽ về đây bắt con đi Ở tù. Chắc mạ phải sợ mà cho cậu đi.
Nhưng chỉ sợ đến lúc thấy mạ thấy mạ nằm lăn ra giữa nhà đập đầu thìch thịch vào cột nhà rồi khóc như mưa như gió, e tớ thương mạ quá mà không đi được thôi cậu ạ.
Trời tối quá, không nhìn thấy mặt bạn, nhưng nghe giọng nói Nghi cũng đoán được lúc này bạn đang bối rối buồn khổ ghê gớm... Em liền cho ngựa dừng lại, lo lắng hỏi:
- Rứa cậu định Ở lại với mạ chứ không trở về đơn vị nửa à?
- Không, không mô... Không đời mô--. Cậu có cách chi giúp cho tớ với!
- Hai đứa ta nhảy xuống cho ngựa nghỉ lưng một tí rồi bàn coi có cách chi không?
Hai đứa xuống ngựa, dưới chân chúng lép nhép những bùn.
Mừng đứng nép vào bơ tre, khóc thút thít, Nghi cố moi óc nghĩ cách giúp bạn nhưng không nghĩ được cách gì- Chà.-. chuyện này rắc rối quá. Mừng bỗng cầm tay bạn lay lay, nói:
- Nghi này, hay là tớ chỉ nhà cho cậu, cậu vô thăm mạ giúp tớ. Cậu nói với mạ: thằng Mừng,của mạ vẫn còn sống. NÓ đi Vệ Quốc đoàn đánh Tây bên Mặt trận khu C . - . NÓ đang mắc công tác trinh sát, liên lạc nên chưa về thăm mạ được. NÓ xin mạ đừng giận nó mà tội nghiệp. Bữa mô rỗi việc nó sẽ xin phép cấp chi huy về thăm mạ...".
- Rứa còn cậu?
- Mình đứng ngoài đường giữ ngựa, chờ cậu ra..
Nghi một tay cầm cương ngựa, một tay nắm chặt tay bạn, giọng nghe chừng muốn khóc:
Khổ cậu hč.-. Cậu có biết chữ không?
- Chưa. Hồi còn Ở nhà mình có đi học bình dân học vụ sắp đọc được viết được thì mạ bị đau, lên cơn suyễn nặng. Mình phải bỏ học, tối tối phải rang muối chườm ngực mạ. Rứa là mình quên hết mặt chữ...
- Tiếc quá hč- Nếu biết chữ cậu viết cho mạ cái thư tớ mang vô cho mạ, chắc mạ sẽ càng tin hơn, mừng hơn.
Mừng sực nhớ gói đồ đeo lủng lẳng bên vai, liền cởi ra đặt vào tay bạn:
Mình có cái gói ni nhờ cậu đưa cho mạ..
- Gói chi ri? - Nghi vừa hỏi vừa bóp bóp cái gói- - Mấy thứ lặt vặt của anh Lượm với anh Tư-dát góp lại gửi về biếu mạ. Chừ mình đưa cậu đến trước ngő nhà kẻo sợ trời tối quá cậu tìm không ra.
Nhưng lỡ cậu trông thấy mạ, cậu thương quá khóc to lên mạ nghe tiếng thì nguy!
- Tớ có khóc cũng phải bặm môi lại, cậu đừng lo- Ó đội đêm tớ nằm ngủ với thằng Vệ, thằng Quỳnh, nhớ mạ quá tớ khóc mà chẳng đứa mô nghe tiếng cả. CÓ tài không?
Mừng đi trước dẫn đường, Nghi dắt ngựa theo sau.
đang đi ngoằn ngočo trong con đường kiệt tối ngửa bàn tay không thấy, Mừng bỗng đứng sững lại, nói như bị hụt hơi.
- đến nhà rồi..- đó, cái nhà trước cổng có cây sầu đâu ( Cây xoan) cao cao tê - Trong nhà không thấy có đčn lửa chi, chắc mạ với mệ đi ngủ rồi.
Nghi đưa dây cương ngựa cho bạn, giục:
- Cậu dắt ngựa quay lại đứng chờ tớ Ở chỗ lúc nãy nghe.
- Cậu cho tới đứng ngoài hàng rào, chờ lúc mạ ra, ngó mặt mạ một tí tì ti thôi. Mạ ra đến giữa sân, tớ dắt ngựa chạy lui cũng còn kịp...
Nghi ứa nước mắt thương bạn. Em đưa tay tìm tay bạn trong bóng tối, siết chặt.
- Úi chao, răng tay cậu run dử ri? Hay cậu đau?
Không. . - Tại tớ ăn có một cái chân gà - . . - Mừng thì thào qua nước mắt.
- Mạ dặn ăn chân gà phải ăn cả hai chân. ăn một chân thì mắc bệnh run tay run chân. Bữa đó tớ mới ăn một chân thì gặp thằng Thúi bị di ghẻ đập đuổi ra đường. Tớ thương quá cho nó một chân, chứ mới khổ ri.
Hai đứa dắt nhau đi đến trước cổng ngôi nhà có cây sầu đâu.
- CÓ ai trong nhà ra cho tui hỏi nhờ một chút!
Nghi gọi to.
Gọi hai, ba lần thì trong nhà có tiếng hỏi vọng ra:
Ai kêu chi ngoài đó rứa?
- Dạ em! Em Ở bộ đội hỏi thím Niệm bán bún bò Ở Bao Vinh tản cư về đây. Không biết thím có nhà không?
Trong nhà lóe sáng ánh đčn- Tiếng cánh cửa kẹt mở. Một người đàn bà mặc áo cộc, trùm khăn, tay cầm cây đčn dầu hỏa, một tay chị khum khum che gió, bước ra sân.
Mừng rúc đầu vào cái lỗ trống hàng rào bông cẩn, cố mở to mắt nhìn vào sân- Con ngựa dẫm vó lộp cộp ngay phía sau lưng.
Vùa trông người đàn bà bước ra, Mừng nức nở thì thào gọi qua lỗ trống:
- Mạ? Mạ! Con đây mạ!
Nghi khẽ suýt:
- Chạy ngay đi! Mạ sắp ra rồi đó? - Rồi em bước nhanh qua cổng đón gặp người đàn bà trước sân.
Mừng như bị ai đuổi, túm chặt dây cương, lôi con ngựa chạy biến vào khoảng bóng tối dầy đặc trước mặt.
Em vừa chạy vừa khóc.
Ra đến chỗ bụi tre lúc nãy, em dừng lại, nép sát vào một bên lề- Em đứng chờ một lúc rất lâu vẫn không thấy Nghi trở ra. Ruột gan em cồn cào như lửa đốt. Em đoán chắc lúc ni Nghi đang ngồi nói chuyện với mạ. Mạ rót nước cho Nghi uống, lấy bánh tét, bánh ít cho ăn.
Còn mình là con của mạ thì phải đứng dưới bụi tre dọc đường' "Ủi chao, con cực quá mạ ơi" Ý?ĩ đó làm cho Mừng khóc òa lên thành tiếng.
Em thấy mình không còn đủ sức để đứng chờ thêm nữa.
Thôi, mình cứ liều chạy vô thăm mạ. Nếu mạ có bắt Ớ lại cũng đành chịu. Em dắt ngựa, cúi đầu xăm xăm bước. Mới bước được mấy bước đã nghe tiếng Nghi.
- Mừng ơi! Mừng!
- Tớ đây?- Mừng chạy lại đón bạn, hỏi không kịp thở.
Mạ hỏi cậu chuyện chi? Cậu có nói như tớ dặn không?
- CÓ có hết! Chút nữa tớ sẽ kể cho nghe. Chừ phải lên ngựa phi thật nhanh không thì về đơn vị trễ mất.
Hai đứa trčo lên lưng ngựa. Nghi ra roi, cho ngựa phi mỗi lúc một nhanh.
- Té ra mạ đã biết chuyện cậu còn sống, đang Ở Vệ Quốc Đoàn. Mạ kể là cách đây hơn nửa tháng, có một anh bộ đội tên là... anh chi hč? Anh So? - đúng rồi, anh So. Anh tìm vô nhà gặp mạ, kể với mạ anh ấy gặp cậu đang theo đội đi qua bên Mặt trận, rồi đưa cho mạ bó lá thuốc suyễn của cậu gửi. Mạ vô buồng lấy bó lá ra cho tớ coi Mạ khen lá hay lắm, mới sắc uống có hai chén mà bệnh đã đỡ nhiều- Tớ nói với mạ y như lời cậu dặn. Mạ khóc ghê quá làm tớ cũng khóc theo luôn. Mạ dặn nói lại với cậu mạ không giận chuyện con trốn nhà đi Vệ Quốc Đoàn mô- Nghe tin con còn sống mà lại nên người, mạ mừng lắm. Khi mô rảnh rang công việc của Mặt trận thì gắng xin phép cấp chỉ huy về nhà cho mạ thăm...
- Mạ còn dặn chi nữa không?
- Ó mạ còn dặn là làm việc chi cũng phải làm cho chăm chỉ, đùng để cho người ta chê bai mình. Với lại không được đầu trần mà đi giang nắng, lỡ cảm đau thì mạ khổ lắm.
Lúc tớ Ở nhà mạ cũng hay dặn như rứa. . .
Mạ ngó bộ hiền quá cậu hí - Mạ cứ ôm chặt lấy tớ mà khóc suốt- Nước mắt mạ rớt xuống mặt tớ nóng phỏng- . .
Nghi bỗng đưa tay lên sờ má, tưởng như nước mắt của ngươi mẹ vẫn còn nóng ướt trên hai má em.
Gần năm giờ sáng, Nghi đã đưa được Mừng về đến khu vực trường Kỹ Nghệ.
Title: Re: TUỔI THƠ DỮ DỘI {Phùng Quán}
Post by: kem on 20/10/06, 17:01
4.

Trưa ngày mồng 6 tháng 2 năm 1947, quân tiếp viện của giặc đã chọc thủng phòng tuyên sông Nong.
Cũng trưa hôm đó các em trong đội Thiếu niên trinh sát đang chiến đấu Ở Huế cùng với nhiều đơn vị khác, được lệnh chuẩn bị rút khỏi thành phố. Ngoài cánh quân lớn tiến dọc theo đường quốc lộ số Một, bọn giặc tiếp viện đã cho đổ bộ thêm nhiều cánh quân dọc bờ biển Phú Vang, Quảng Điền, hình thành những gọng kìm với ý đồ bao vây tiêu diệt quân ta.
Tờ mờ sáng trời đổ mưa tầm tã. đến chiều mưa có tạnh bớt, nhưng gió lạnh thổi hun hút không ngớt. Mặt sông Hương dăn dúm, sóng ì oạp vỗ bờ.
Khắp thành phố tiếng súng của bọn giặc bị vây hãm nổ ran ran. Phấn chấn vì tiếng súng giải vây mỗi lúc một thêm gần, chúng chui hết ra khỏi những hang Ổ bấy lâu ẩn náu, liên tiếp mở những trận phản kích điên cuồng vào những đơn vị quân số ít ỏi của quân ta Pháo hiệu xanh đỏ chúng bắn lên tới tấp từ bốn phía, như những lằn roi bầm tím quất lên bầu trời thành phố u ám mây chì.
Một giờ ba mươi chiều, đội trưởng Lê Thắng dẫn các em từ Mặt trận khu C, vượt cầu Bạch Hổ, trở về bên này sông. Chỉ vắng hơn chục em mà hàng ngũ đội thưa hẳn đi.
Mới chưa đầy hai chục ngày tham gia chiến đấu mà các em trông cũng khác lạ hẳn so với cái hôm náo nức vượt sông sang Mặt trận- Cuộc sống căng thẳng, hiểm nghčo và nỗi vất vả kinh người của chiến trận đã in lên gương mặt và dáng dấp của các em sâu đậm hơn gấp bao nhiêu lần so với người lớn.
Em nào cũng đen nhẻm, gầy sắt, ánh mắt mệt mỏi vì đói ngủ, vì phải làm việc quá sức- áo quần, ba lô, túi dết, ướt sũng nước mưa, lấm láp bùn đất chiến hào. ĐỒ đạc trong ba lô túi dết có vợi đi, nhưng trên thắt lưng em nào cũng thêm lỉnh kỉnh nào lựu đạn, dao găm, lưỡi lê...
Đặc biệt trên gương mặt trẻ thơ của các em đều hằn lên khá rő cái vẻ suy nghĩ lo toan thường thấy trên gương mặt những người phải đảm đương những trách nhiệm nặng nề và nghiêm trọng- tình nguyện gắn bó đời mình với vận mệnh và sự sống còn của Nhân Dân và Đất Nước.
Tính nết các em cũng thay đổi nhiều như vẻ mặt.
Không một tiếng cười đùa, không một lời trêu chọc.
Chúng đi lặng lẽ, lầm lủi, đầu cúi thấp nghiêng nghiêng để tránh làn mưa bay chênh chếch như kim châm tạt vào mặt. Thỉnh thoảng có em trượt chân vồ ếch, nhưng chẳng có bạn nào cười- Và em vồ ếch lồm cồm đứng dậy, sửa sang cái gì đó trên người rồi tiếp tục lặng lẽ chạy đuổi theo các bạn. Ngay cả Tư-dát, vốn tính liến láu suốt ngày cũng chẳng thấy mở miệng.
Nỗi uất ức đau buồn vì sắp bỏ lại thành phố quê hương cho quân giặc, cũng nặng trĩu trong tim các chiến si nhỏ tuổi này không kém gì với các chiến sĩ lớn tuổi khác. bởi vậy mà các em chẳng còn lòng dạ nào để cười đùa.
Hiền đi cuối đội, đầu đội mũ ca lô của Vệ-to-đầu để lại đeo tòng teng cái ống nhòm trước ngực- Từ hôm Vịnh-sưa hy sinh, gần như không một phút nào cái ống nhòm rời khỏi ngực em. Em quả quyết nói với các bạn- "Mỗi lần đưa ống nhòm lên mắt, mình đều thấy Vịnh-sưa đứng trong đó, Trần truồng, buộc ngang người vào cột thép thu lôi, đang phất phất cờ tín hiệu đánh "móc" về cho đài quan sát".
Tư-dát xin bạn cho nhìn thử. Đưa ống nhòm lên mắt, vẻ mặt rất chăm chú, sau một lát Tư-dát nghiêm trang gật đầu.
- Đúng là cậu Vịnh-sưa đang đứng trong đó thật các cậu ạ.
Vẻ mặt và giọng nói của Tư-dál làm nhiều đứa trong đội dựng cả tóc gáy.

5.

về đến cửa Chánh Tây, đội trưởng cho đội dừng lại.
Khắp cả khu vực cửa Chánh Tây, người đi lại nhộn nhạo- Vệ Quốc Đoàn, tự vệ. cán bộ các cơ quan tỉnh. - Tất cả đều ướt át lấm láp, mệt mỏi. Từng tốp, từng tốp ngồi phệt xuống bờ cỏ trát đầy bùn, bên các gốc cây, hút thuốc, uống nước, chuyện trò nho nhỏ... đội trưởng cho đội tập họp dưới bóng một cây mù u rồi chạy đi tìm cơ quan chỉ huy cuộc rút lui- Lát sau anh chạy về, vỗ vỗ tay nói:
- Mỗi tổ cử ngay một em theo anh vào trạm tiếp lương, lãnh bánh tét ăn đường.
Nghe nói bánh tét, nét mặt cả đội tươi tỉnh lên một chút.
Bánh tét lãnh về, các tổ khác mỗi đứa được một đòn, riêng tổ Tư-dát - do nó đi lãnh - mỗi đứa được hai đòn. Cả đội nhao nhao hỏi:
Cậu làm răng mà tài dữ rứa?
Tư-dát đắc chí cười hề hề.
Tớ ba hoa thiên địa với mấy chị phát bánh một hồi làm các chị cứ ôm bụng là cười, rồi quăng luôn cho tớ thêm ba đòn nữa - "Đi đi ông tướng! - Các chị nói, - chú mà còn đứng đây thì các chị cười đến đứt ruột mà chết thôi!". Lần đầu tiên cả đội thấy cái miệng liến láu của Tư-dát được việc.
Ba giờ chiều, có tin quân giặc đã tiến đến sân bay Phú Bài. Lệnh trên: Tất cả phải cấp tốc rời khỏi thành phố.
Trước lúc xuất phát, đội trưởng tập hợp đội thành hàng ngũ chỉnh tề. Anh báo cho cả đội biết: Sẽ phải hành quân suốt cả đêm hôm nay. Chúng ta sẽ rút lên chiến khu- Các em soát lại ba lô đồ đạc, xem có thứ gì không cần thiết thì vứt bỏ lại để đi đường xa đỡ nặng.
Cả đội yên lặng nhìn anh- Như đoán biết các chiến sĩ nhỏ bé của anh trong giờ phút nghiêm trọng này, đang nghĩ gì và đang chờ đợi cái gì, anh bước ra chính giữa hàng quân, hắng giọng nói:
- Các em! Chúng ta phải rút khỏi thành phố, nhưng không phải chúng ta chịu thua chúng! Không! - Anh quắc mắt chặt mạnh bàn tay vào không khí, nét mặt đanh hẳn lại- Theo chủ trương của HỒ Chủ Tịch và của Chính Phủ, cuộc kháng chiến của chúng ta được chia ra làm ba giai đoạn. giai đoạn thứ nhất: phòng ngự, giai đoạn thứ hai: cầm cự, giai đoạn thứ ba: tổng phản công- Hiện nay chúng ta đang bắt đầu giai đoạn thứ nhất- Thế giặc lúc này đang còn mạnh, chúng ta tạm thời rút khỏi thành phố, lên vùng núi cao thành lập chiến khu- Chúng ta vừa củng cố xây dựng lực lượng vừa tổ chức đánh giặc. Lúc đầu đánh nhỏ, dần dần ta đánh lớn. Khi thế giặc đã suy yếu, bấy giờ ta sẽ chuyển sang giai đoạn tổng phản công. Chúng ta sẽ dùng đại quân đánh chiếm lại thành phố, làng mạc quê hương, giải phóng hoàn toàn đất nước. Giành lại hoàn toàn độc lập. Bấy giờ tất cả chúng ta sẽ được sống cuộc sống sung sướng hạnh phúc như có lần anh đã nói với các em.
Những lời giải thích tình hình kháng chiến hết sức đơn giản đó của đội trưởng đã làm cho gương mặt ỉu xìu của cả đội vụt rạng rỡ phấn chấn hẳn lên. Thật ra các chiến sĩ nhỏ bé này đâu có cần đến những lời giải thích thật thuyết phục với lý lẽ thật đích đáng, điều mà lúc này chúng cần là được người chúng hoàn toàn tin cậy, khẳng định niềm tin. khẳng định chiến thắng- Mà khẳng định không phải bằng lý lẽ mà bằng thái độ, tình cảm. Bởi một lẽ, các em yêu Cách Mạng, yêu TỔ Quốc, yêu những lý tưởng .cao đẹp của cuộc sống với tình yêu thơ ngây gần gũi như tình yêu cha, yêu mẹ, yêu ông bà... Lẫn trong nỗi đau khổ, uất ức chân chính của người chiến sĩ khi cảm thấy mình phải tạm thời thua giặc có cả lòng tự ái của trẻ con khi bị thua một keo vật, một trận bóng đá...
Hòa-đen hôm về tập trung đội, dọc đường ghé vào quán mua viên kẹo bi ngậm chơi. Trong quán, ngoài bà bán hàng còn có hai ông khách mặc áo dài đen quần lụa xa xị trắng, đang ngồi sát vách hút thuốc lá Cẩm Lệ.
Nhìn qua cách ăn mặc, Hòa-đen cũng đoán biết hai ông này thuộc loại giầu có hoặc làm quan ngày trước. Hai ông vừa hút thuốc vừa nói chuyện thời thế. Lúc đầu em chẳng để ý câu chuyện của hai ông- Em còn mải mê với viên kẹo bi của bà bán hàng vừa trao cho. Chà, viên kẹo dinh dính trong như thủy tinh, có điểm những vằn xanh, đỏ đẹp' mê người. em thận trọng đút viên kẹo vào mồm, ngậm vào một bên má để mút dần- Chất ngọt mát cứ lan dần Ở đầu lưỡi- Định bước ra khỏi quán em bỗng nghe một trong hai ông khách nói:
- Cà cuống chết đến đít vẫn còn cay? Tây họ đuổi cho chạy ré còi vẫn còn nói cứng- Những là toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến, những là trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi! Thắng lợi chạy dài!
ông khách thử hai có hàng ria mép đen nhánh, vắt vẻo điếu thuốc lá sâu kčn trên cặp môi thâm sì cười khẩy tiếp lời:
Bác không nhớ ngay cái bữa đầu tiên nổ súng tôi đã nói ngay: Việt Minh răng cũng thua Tây. Đời thuở mô mác lào đâm thủng xe tăng!
Hòa-đen đứng khựng lại Ở ngưỡng cửa. Em đỏ mày say mặt vì tức. còn tức hơn cả cái hồi còn Ở nhà, khi có đứa réo tên cha mẹ ra mà chửi. Em muốn cãi lại hai cái lão già mặc áo đen ni để bênh vực cho kháng chiến, cho Việt Minh, cho Vệ Quốc Đoàn. Nhưng em không biết phải cãi như thế nào- Đúng là quân ta phải rút lui Ở Mặt trận Ruổi thật. Nhưng.-- nhưng...em giận run lên vì cảm thấy mình bất lực, vì bị xúc phạm một cách cay đắng. viên kẹo bi vừa ngậm, mới suýt được có hai cú nước bọt, ngọt ngon đến chết được, thế mà em nhổ phăng ngay xuống đất, em quay lại nhìn hai ông khách, trợn mắt chửi:
- TỔ cha bay? Hai đứa bay là đồ Việt gian?
Rồi ù té chạy- ông khách có ria mép chụp chiếc guốc đang xỏ Ở chân, nhảy chồm ra cửa ném theo.
Thằng cha ném rất bợm, suýt nửa trúng đầu em- Em vừa chạy vừa chổng mông về phía ông khách, vỗ bồm bộp. gào to:
- TỔ cha hai thằng Việt gian có ăn đít tao đây!
Chửi, vỗ đít mà cơn giận vẫn không sao nguôi được.
Càng nghĩ đến câu chuyện của hai lão già mặc áo dài đen, máu trong người em càng sôi lên. Em bặm môi, nghiến răng, trợn mắt, quát to lên một mình:
- Tao mà có khẩu súng, tao nã cho hai thằng bay hai phát vô giữa lỗ miệng ngay! . . .
Lúc này đứng trong hàng, Hòa- đen như nuốt từng lời giải thích của đội trưởng- Em chặc lưỡi xuýt xoa tiếc mãi chưa được đội trưởng giảng cho nghe về ba giai đoạn kháng chiến như bữa ni. Mình sẽ giảng cho hai cái thằng già mặc áo đen dài phải cứng họng, trắng mất ra.
Mình mô có thčm chửi cho nhớp miệng, vỗ đít cho nhớp tay. Tư-dát quay sang nói với Lượm đứng bên cạnh, giọng buồn buồn:
- Nếu rút lên chiến khu mà đánh không thắng thì làm răng mi hč? Chắc tụi mình phải Ở luôn trên đó, làm lấy nhà mà ở, trồng lấy khoai sắn mà ăn, rồi đóng khố để tóc dài như người thượng cà răng căng tai CÓ chết thì chôn luôn trên đó.
Lượm sửa lại hai quả lựu đạn mỏ vịt đeo trước bụng, nói giong lộ vẻ đau đớn.
Theo tao thà Ở luôn trên núi, ăn sắn đeo gùi đóng khố, chết thì chôn luôn trên đó, còn hơn là phải về Ở chung Ở lộn với ba thằng Tây. ba thằng Việt gian. ngày ngày phải ngó tụi hắn đi lại nghênh ngang trên đường phố mình như ngày chưa Cách Mạng!
- Đúng đó anh Lượm ạ. Em cũng nghĩ như anh rứa.
- Mừng đứng sau lưng Lượm, bật lên nói- Em a, em thà chết đói chứ không thčm ăn một hột cơm của tụi Tây, tụi Việt gian!
Mừng níu tay Tư-dát hỏi:
Anh Tư này, ba giai đoạn cái chi chi anh hč?
Tư-dát giọng chê trách:
- Phòng ngự, cầm cự, tổng phản công! có rứa mà không nhớ- Tối bụng tối dạ như mi mà đi học thì cứ gọi lấy bồ mà đựng trứng vịt lộn.
Mừng không để ý đến lời chê trách của Tư-dát. Em còn mải nhẩm đi nhẩm lại cho nhớ: "Phòng ngự, cầm cự, tổng phản công. Phòng ngự, cầm cự, tổng phản công..." Tự nhiên em rớm rớm nước mắt nghĩ thầm:
"Chao, ước chi chừ được gặp mạ, nói cho mạ nghe cái ba giai đoạn, để mạ khỏi lo khỏi buồn mà bệnh thêm nặng. Mạ ơi, Vệ Quốc đoàn ta răng cũng đánh đuỗi được tụi Tây, nước mình răng cũng được độc lập, mạ răng cũng được Chính phủ cho vô nhà thương to nhất, nhiều thứ thuốc qúy nhất chữa cho mạ lành bệnh suyễn . . . Mạ đừng lo chi cả mạ ơi! ".
Title: Re: TUỔI THƠ DỮ DỘI {Phùng Quán}
Post by: kem on 20/10/06, 17:03
6.

Các đơn vị lũ lượt lên đường rời khỏi thành phố. Một hồi còi dài. Đội Thiếu niên trinh sát nối theo sau một đơn vị Vệ Quốc đoàn, rời khỏi cửa Chánh Tây, theo con đường số Một, đi về phía cầu An Lỗ.
Chốc chốc các em ngoái đầu lại, cặp mắt buồn rười rượi, thương tiếc xót xa- Một ngọn lửa rất to bùng lên từ phía cầu Bạch Hổ. Quân ta đang rưới xăng đốt cầu.
Lúc này mưa đã bớt nặng hạt và chuyển thành một màn bụi mờ dày đặc. gió lạnh thổi bời bời. thành phố xa dần, chìm khuất sau màn mưa. Chốc chốc trong cái biển bụi mưa đặc sệt đó lại rộ lên những tràng súng dài ằng ặc- Tiếng súng như muốn nhắc cho đoàn quân rút lui biết:
"Huế Ở phía ni, Huế Ở phía ni!"- Xa xa, phía nam thành phố, tiếng đại bác giặc nổ rền như sấm đất.
Tư-dát mải ngoái đầu nhìn Huế chân vấp phải hòn đá, kêu "ối!" Mặt em nhăn nhó xuýt xoa, nhắc bàn chân đau lên nhảy lò cò một quãng:
- Tớ vấp sứt mất cái móng chân rồi các cậu ơi' - Em rên rỉ.
Bồng cúi lượm một hòn đá, ném ngược trở lại căm tức chửi:
Mả cha ba thằng Tây? Lúc ni trong các vị trí chắc cha con giòng giống tụi hắn đang ôm nhau mà nhảy đầm với hát xì lô, xì la điếc cả đít?
Hình ảnh Bồng bất ngờ gợi lên đó làm khơi ngòi giận đang ám ỉ trong lòng cả đội. Các em cùng nhao lên thi nhau tìm hết lời độc địa để nguyền rủa tui thực dân cướp nước.
ôi! quả thật không gì làm cho người chiến sĩ đau đớn uất giận hơn khi hình dung quân thù đang ôm nhau nhảy múa trên đất đai quê hương mình!
Tư-dát chân vẫn nhảy lò cò, nói như muốn an ủi các bạn.
- Được, cứ để cho tụi hắn ôm nhau nhảy đầm với hát xì lô xì la. đến ngày tổng phản công, tụi ta về chiếm lại Huế- Tụi ta sẽ dùng súng cắm lưỡi lê lùa tuốt tuốt cả Tây đầm, lớn, nhỏ, già, trẻ ra sân vận động Đất Mới Xung quanh sân vận động, tụi ta sẽ bố trí toàn F.M- Hốt kít- Chiêu Hòa hai nòng, rồi ra lệnh cho cha con tụi hắn phải ôm nhau mà nhảy đầm với hát xì lô xi la đúng như hôm ni. đứa mô không chịu nhảy, chiu hát, ta kéo cổ ra, tạch tạch "phơ" luôn? Rồi các cậu coi tụi hắn vừa nhảy vừa hát vừa [em xin lỗi, em là người chửi bậy] hết cả ra quần, ra váy làm thối inh cả sân vận động?
Cái viễn cảnh trả thù giặc mà Tư-dát vừa tưởng tượng ra đó làm cho cả đội nguôi nguôi bớt giận. Chúng tranh nhau bàn tán thêm bớt cách thức tổ chức trả thù của Tư-dát.
Ra đến cầu An Lỗ, người chạy giặc ùn ùn càng đông. Ngoài bộ đội, cán bộ, còn cơ man nào là đồng bào- Kẻ gánh người khiêng, người dắt xe đạp, người đẩy xe bò, người dắt con, người bế cháu..- ồn ào nhốn nháo như vỡ chợ. Nhiêu đoạn đường bị tắc nghẽn không sao nhích lên được- suốt dọc đường đồng bào vứt lại không biết bao nhiêu đồ lề, của nả mà chẳng ai buồn nhặt- Ngang qua Hương Cần cái làng có xuýt ngon nổi tiếng, đội đuổi kịp một đơn vị súng cối tám mốt ly..- Anh Vệ Quốc Quân vác cái nòng súng đi giữa hàng quân cao vượt lên. Anh vác cái nòng thép to như cột nhà mà coi bộ nhẹ không. Đầu anh đội mũ sắt, quần xắn đến bắp-vế, hai cẳng chân to và đen không khác chi hai cái nòng súng cối tám mốt. Trông bộ anh quen quen- Mừng nhận ra anh đầu tiên. NÓ mừng rỡ chạy vượt lên gọi to:
- Anh So? Anh So?
Anh đổi vai vác nòng súng, rồi quay lại, phướn mày nhìn bọn trẻ- Anh mở rộng miệng cười hồn hậu phô hết cả hai hàm răng to, vàng khč khói thuốc lá, cả đội liền nhận ra chính là cái anh công binh phụ trách bom cầu Bạch HỒ hôm nào.
Đội trưởng bước lại, bắt tay anh:
- đồng chí lại chuyển qua moóc-chê tám mốt à? Răng không Ở công binh nữa?
Anh So cười hề hề:
- Trời sinh ra tui là cốt để ăn no vác nặng. Cấp trên thấy tui sức vóc ra ri mà giao cho cầm sợi dây bom quá nhẹ, uổng! Các ông mới điều tui qua để vác cái cột nhà sắt ni đây đồng chí ạ. Anh đưa bàn tay hộ pháp vỗ đánh bộp cái vào nòng súng moóc-chê.
Tư-dát đứng gần đó làm bộ hớt hải kéo.tay anh:
ối, anh vỗ nhč nhẹ chớ vỗ mạnh rứa lỡ bẹp mất nòng súng, Tây đến lấy chi mà bắn anh?
Chú đưa tay sờ vào chỗ nòng súng anh vừa vỗ miệng xuýt xoa: .
- Chết cha rồi, hơi bẹp, hơi bẹp!
Anh trung đổi trưởng moóc-chê cho trung đội nghỉ giải lao mười phút. Đội trưởng cũng thổi còi cho đội lánh sang bên đường nghỉ cùng với các anh moóc-chê- Mừng từ nãy tới giờ vẫn đứng sát sau lưng anh So- Em ngập ngà ngập ngừng muốn hỏi anh cái gì nhưng thấy anh còn mải nói chuyện nên lại thôi. Anh So sực nhớ, quay lại:
- Mừng đó em? Chút nữa thì anh quên mất. Cách đây nửa tháng, anh có công tác phải về Bao Vinh.
Ngang qua nhà em anh tranh thủ tạt vô, thì may cách chi, đúng lúc mạ em đang sửa soạn đồ lề gánh gióng để đi tản cư. Anh liền kể với mạ chuyện anh gặp em- thằng con chị nó đi Vệ Quốc Đoàn Ở Dội Thiếu niên trinh sát Trung đoàn Trần Cao Vân coi bộ oách lắm".
Nhưng mạ em nhất định không tin, cứ khăng khăng nói:
" Chú thương chị, bảy đặt chuyện ra mà nói cho chị vui lòng, chứ thằng con chị còn sống làm răng được chú ơi? Từ ngày cháu mất đi không đêm mô chị không nằm mê thấy cháu về ngồi dưới chân giường chị, ôm mặt khóc tỉ tê: " con chết oan uổng lắm mạ nớ.. Anh chưa biết làm cách răng cho mạ em tin thì vừa vặn sực nhớ đến bó lá tầm gửi em gửi anh dạo nọ. Rứa là anh mở ba lô lấy ra đưa luôn cho mạ em- 'Chị không tin thì đây, lá tầm gửi thằng con chị nó nhờ tui mang về cho mạ nó, để mạ nó sắc uống lành bệnh suyễn kinh niên đây NÓ còn dặn chị chặt nhỏ lá ra, sao vàng, hạ thổ, đổ năm bát nước sắc lấy một. Uống bốn năm lần là khỏi bệnh. Chị biết không nó khoe với tui là phải trčo lên đọt ngọn cây bút bút cao nhất Huế vào giữa lúc nửa đêm để hái nó đó. Công trình hắn ra rứa nên tui phải giữ cái bó lá nớ con hơn cả thần giữ của. chị nghĩ coi, nếu con chị nó không nói thì làm răng tui biết được chị mắc bệnh suyễn kinh niên? Với lại làm răng tui có sẵn lá tầm gửi trong ba lô để đưa ra ngay cho chị?" Lúc đó mạ em mới cầm lấy bó lá, ngó trân trân một lúc, mặt coi bộ dại hẳn đi Anh sợ quá tưởng mạ em mừng quá hóa điên. Mạ em kêu lên một tiếng làm anh rúng cả tim : "ỦI chao ôi! - Đúng là thằng con tui nó còn sống thiệt rồi chú ơi" Rồi mạ ôm rịt bó lá vô ngực vừa khóc vừa cười và nói- "Ai ngờ con còn sống con ơi? Rứa mà con làm mạ khóc hết nước mắt nước mũi-.." Mạ kể với anh: "Hồi còn Ở nhà hễ mỗi lần tui lên cơn hen, là cháu của chú ngồi bên tui suốt ngày suốt đêm chườm ngực cho tui. Rồi lần mô hắn cũng nói: "Mạ ạ, con nghe cụ Ba Trà nói thứ lá cây tầm gửi đậu trên ngọn cây bút bút thật cao, trčo lên đúng lúc nửa đêm mà hái về, phơi khô, sao vàng rồi sắc uống, thì bệnh suyễn nặng mấy cũng lành. Con ước chi có cây bút bút ngọn cao thấu trời, đậu thật nhiều tầm gửi, để con trčo lên hái về sắc cho mạ uống. Cháu của chú nó hiếu nghĩa như rứa đó chú nớ...". rồi mạ em lục gánh, lôi trong bị quần áo ra một bộ áo quần của em còn mới tinh, quần sóc xanh với áo sơ mi trắng cụt tay- Đưa bộ áo quần cho anh, mạ nói: "Bộ áo quần ni chị may cho cháu nhưng cháu chưa kịp mặc- Mấy lần cháu nó đòi mặc chị lại không cho, nói để dành đến Tết mặc, mình con nhà nghčo, ăn mặc tùng tiệm răng xong thì thôi...
Hôm chị mời thầy pháp làm lễ cầu hồn cho cháu chị định đốt về dưới đó cho cháu nó mặc. Nhưng thầy pháp nói ma chỉ biết mặc quần áo giấy thôi- Rứa là chị phải thuê thợ mả dán một bộ quần áo giấy giống in như bộ ni, đốt cho cháu-.. Chừ may mắn được gặp chú đây, chị muốn nhờ chú đưa giúp cho cháu, nói với cháu giúp chị:
Biết con còn sống, theo Vệ Quốc Đoàn mạ mừng lắm, mạ không giận con mô. Con phải cố gắng theo kịp bầu bạn, anh em, Vệ Quốc Đoàn giao cho việc chi phải làm đến nơi đến chốn, phải chăm chỉ giỏi giang. Với lại con nhớ đừng đi giang nắng nhiều mà phải cảm thì khổ mạ.--" Anh nói với mạ em- "Chuyến ni về chưa chắc tui đã gặp lại được nó. Tôi sợ mang theo mà làm mất của cháu thì tội cháu lắm. Chị cứ giữ lấy, răng rồi cũng có bữa hắn được cấp trên cho về phép thăm chị thôi..." Kể đến đó anh tắc lưỡi: "Tiếc quá, biết rứa hôm đó anh mang bộ áo quần đi cho xong. có phải chừ em được mặc áo mới rồi không?" Nghe chuyện mạ, Mừng cơ hồ ngồi không vững nữa- Bàn tay nhỏ bé, đen đũi, các ngón tay bị móp vì dầm lạnh, cứ bíu chặt lấy vai áo anh, như sợ ngã. em úp mặt vào ngực anh, nước mắt nó thấm qua áo anh, nóng bỏng.
Và lạ lùng chưa, cả đội và cả các anh trong trung đội moóc-chê, mắt người nào cũng đỏ hoe.
Chiều hôm sau, đội rút đến cầu Hiền Sĩ- CÓ tin quân giặc đã tràn vào thành phố.
đi bộ một ngày một đêm, bàn chân đứa nào cũng rộp phồng. đây là lần đầu tiên trong đời các em phải chuyến đi bộ xa đến thế. Nhiều em phải cởi cả áo, cả quần dài, xé ra bọc bàn chân mới bước nổi- đội trưởng đi giày săng-đá không bít tất. hai bàn chân anh cũng rộp phồng, nhưng nhất định anh không cởi giày. Phải lội qua nhiều quãng đường ngập nước mưa nhen thỉnh thoảng anh lại nằm dài xuống đất, giơ ngược hai chân lên trời để dốc nước trong giày ra. Các em gọi đùa [em xin lỗi, em là người chửi bậy] Đội trưởng tập xiếc- Nhắc đến xiếc, cả đội lại nhớ đến những bạn hiện vắng mặt: Vệ-to-đầu, Lai, Du, Nghĩa, Đoàn, Trà, Tề.- Từ hôm các bạn rời Huế theo các đơn vi bổ sung cho Mặt trận phía Nam, không em nào có tin tức gì về- Hiện lúc này các bạn đang Ở đâu- có còn đầy đủ cả không- có bạn nào bị thương hay hy sinh- Trưa hôm qua, các em gặp một đơn vị thuộc tiểu đoàn Mười tám, vừa từ trong đó rút ra. Các anh kể: "Trong trận kịch chiến Ở đčo Mũi Né, có một chú liên lạc không rő Ở đơn vị nào, trạc tuổi các em, đã trúng đạn hy sinh.
chú ta chết mà mặt cứ tươi rói, không ai dám nhìn lâu đau ruột quá! vì phải rút lui gấp nên không mang chú ta theo được, phải dùng lưỡi lê đào huyệt chôn trên đỉnh đčo. Trước khi chôn, các anh đã cẩn thận lấy cái áo súng khẩu đại liên Hốc-kít bọc xác. Chú ta nằm vừa vặn cái áo súng. . ." Một anh trong đơn vị này nghe xong câu chuyện đã trầm ngâm kết luận: "Rứa đó các em ạ. đời chiến sĩ Vệ Quốc chúng ta không phải là da ngựa bọc thây mà áo súng bọc thây? Cuộc chiến đấu của chúng ta hôm nay dữ dội và quyết liệt hơn xưa nhiều lắm".
Không hiểu sao cả đội em nào cũng nghĩ chú liên lạc "áo súng bọc thây" đó có thể là Vệ-to-đầu. Cả đội đều biết đứa thân nhất với Vệ là Hiền. Hai đứa đã nhận nhau làm anh em kết nghĩa. Chúng hẹn nhau khi mô đánh Tây xong sẽ về Ở với nhau. Cùng làm cùng ăn, cùng sống cùng chết.
Bởi vậy em nào cũng tránh nói ý nghĩ đó ra trước mặt Hiền, sợ bạn buồn tội. Riêng Hiền không mấy khi thấy nhắc đến Vệ. Và hễ thấy bạn nào đang nói chuyện Vệ-to đầu là em lảng xa, Nhưng đêm đến, nhiều bạn ngủ cạnh em phải bừng tỉnh vì tiếng Hiền khóc thổn thức trong mơ-em ú Ớ gọi tên bạn-..

7.

vượt qua cầu Hiền Sĩ, các đơn vị rút lui rời bỏ quốc lộ số Một, rẽ trái theo con đường rải đá đi về phía làng CỔ Bi.
Bây giờ núi xanh đã Ở trước mặt đoàn quán rút lui- Đêm đến, đội cùng với các đơn vị rút lui được lệnh nghỉ lại Ở làng CỔ Bi. đồng bào Ở đây đã chạy lên núi hết- Nhà cửa bỏ trống toang.
Làng nằm cạnh con sông BỒ nước xanh rợn người- Khoảng hai giờ sáng, đội trưởng đánh thức cả đội dậy, đi ra bến sông. Ngoài bến đứng đặc người, lố nhố súng đạn, ba lô, túi dết... Dưới sông, đò đậu thành dãy dài.
Từng toán, từng toán lần lượt xuống đò- đội xuống một con đò dài như con thoi có một ông cụ và một o chčo đò.
Bóng tối nhòa nhòa không nhìn rő mặt. Con đò rẽ nước nối đuôi các đò đi trước, ngược sông. Mặt sông gợn sóng lốm đốm sao và ánh lửa chài đây đó. Nhiều quãng núi đá dựng thành vại sát bờ sông- Con đò lướt đi trong bóng núi đen thăm thẳm như chui vào hang sâu- Tảng sáng, đò cập bến làng Trò. Làng nằm giữa một thung lũng hẹp, một mặt là sông xanh rợn người, ba mặt kia vây quanh núi cao trùng điệp, bên kia sông cũng là núi, vách núi hoang vu, chim kêu vượn hú, san sát chuối rừng, song mây.
Nhân vật quan trọng đầu tiên các em gặp lại khi vừa đặt chân lên bến làng Trò là "ông-già-bảy-lăm" khẩu sơn pháo cổ lỗ độc nhất của trung đoàn và đồng thời là niềm tự hào đặc biệt của toàn Mặt trận Huế - Thừa Thiên. Bây giờ nhìn "ông" mới tiều tụy làm sao?
Nòng một nơi, bánh, càng một nẻo. Tất cả các bộ phận trên thân thể "ông" được tháo rời ra chất thành một đống lủng củng dưới gốc cây mít. Nòng ông bị đạn đại bác bô-pho của giặc bắn toe mất đầu hôm ông đứng dưới chân cột cờ khạc đạn- Các anh Ở xưởng quân giới phải cưa đứt chỗ bị đạn, dài đến hơn gang tay. dạo đó được tin này chiến sĩ cả mặt trận lo lắng buồn rầu, coi là một tổn thất không gì bù đắp được . . .
Cả đội xúm xít quanh ông, em sờ nòng, em sờ càng, em sờ bánh... nét mặt em nào cũng rầu rầu xót xa. Các em có một mối cảm tình đặc biệt đối với "ông"- "ông" đã góp phần làm nên vinh quang cho đội, với chiến công lừng danh Mặt trận của Vịnh-sưa. Bởi vậy mà cả đội nhìn cái thân thể tiều tụy, tàn phế của "ông", lòng cứ xót xa quyến luyến không dứt- .
Các anh xưởng quân giới khiêng ra một hòm mỡ súng, tọng vào nòng "ông" chuẩn bị thả "ông" xuống đáy sông Bồ, để "ông" khỏi lọt vào tay giặc- Cả làng Trò nhà nào cũng chật ních cán bộ, bộ đội rút lui- Rất nhiều kho tàng, công xưởng của tỉnh được di chuyển lên đây từ trước.
Các em chạy loanh quanh khắp làng- Trong một vườn mít râm như rừng, các em gặp một cái kho năm gian lớn, chất toàn nôi đồng- Nồi chất cao từ mặt đất đến nóc nhà đủ các cỡ, từ nồi nấu một hai người ăn đến loại nồi ba mươi luộc được năm sáu chục đòn bánh tét- Cái nào đáy cũng bị chọc thủng. ĐÓ là nồi của đồng bào trong tỉnh ủng hộ trong Tuần-lễ-đồng, để đúc đạn bắn giặc.
Không hiểu sao đứng nhìn cái kho nồi đồng thủng đáy này, cả đội thấy lòng nao nao buồn- Chao, nếu những chiếc nồi này mà biết nói, chúng có thể kể lại biết bao điều cảm động, thú vị về cuộc sống của hàng chục nghìn gia đình khác nhau-.- có những chiếc nồi quanh năm chỉ nấu toàn cơm độn khoai, sắn, lại có những chiếc mỗi năm chỉ được một vai lần bén hơi lửa, những cái miệng trẻ con mếu máo, gào khóc bên miệng những chiếc nồi không còn đính hạt cơm.
Các em bàn cãi, ước tính nếu đúc hết tất cả số nồi đồng này thì được bao nhiêu viên đạn?
Tư-dát chỉ một cái nồi sứt quai nằm gần sát mái nhà, quả quyết nói- - Đúng là cái chú nồi đồng điếu của nhà tớ- Tớ chỉ -nhìn thoáng là nhận ra ngay- Chú ta sứt mất một quai.
mỗi lần bắc chú xuống bếp, mạ tớ cứ phải lót gié vô bên mép chú.
Tư dát rút cái súng cao su trong túi ra, lắp viên sỏi bắn một phát trúng luôn cái nồi sứt quai vừa chỉ. Em nói với cái nồi .
Chớ em không nhận ra anh à em? Anh là anh Tư-dát yêu dấu của em đây mà. Hay tại bữa nỉ anh mặc áo quần Vệ Quốc Đoàn oai quá, nên em lạ? Mạ anh đưa em đi Vệ Quốc Đoàn từ cái hồi Tuần-lễ- đồng năm ngoái, cùng với em mâm, anh xanh, em còn nhớ không?
Từ đó đến nay cả nhà ai cũng chắc là em đã chui vô nằm trong ngực tụi Tây thực dân rồi chớ. Ai ngờ em còn nằm với đơn vị Ớ đây.
Tư-dát nghiêng đầu, khum lòng bàn tay đặt lên vành tai, mắt hấp ha hấp háy làm bộ đang chăm chú lắng nghe cái nồi trả lời Tư-dat hất hất cằm, làm tuồng mặt giận, hỏi lại:
Răng, em nói là em không nhớ ra anh Tư mô à?
Trí nhớ em răng kém dữ rứa? Hčn chi đít em đen thui?
Em quay lại nói với các bạn - Các cậu không biết, tớ đã học qua. sách xem tướng nồi, anh nồi đồng mô mà đít đen thui là rất kém trí nhớ- - Em lại nói tiếp chuyện với chú nồi- - Anh Tư mà mỗi lần đi học về là chạy ngay xuống bếp dỡ vung em ra, thò luôn tay còn dính đầy mực vô hông em, vét cơm nguội cục ra ăn với nước mắm dầm ớt ấy mà...
Cậu chuyện ba hoa thiên địa của Tư-dát làm cho cả đội đâm ngùi ngùi nhớ nhà, nhớ mẹ, nhớ cha. Mừng cũng bắt chước Tư dát nhớn nhác nhìn ngó khắp kho, tìm cái nồi nhà mình- tìm một lúc em mới sực nhớ nhà mình không có nồi đồng- Từ trước đến nay mạ em chỉ nấu cơm bằng nồi đất.

8.

Đội được lệnh nghỉ lại làng Trò một ngày: chuẩn bị cơm nắm, muối mč để hành quân vượt núi lên chiến khu Hòa Mỹ.
Sáng sớm hôm sau, khi cảnh vật còn tối mờ sương núi, đội đã tập hợp thành hàng ngũ, đến trạm tiếp lương, linh cơm nắm, muối mč- Mờ sáng, đội thành hàng một, đi theo một ông lão dẫn đường, rời làng Trò, tiến về phía dãy núi cao trước mặt. ông lão dẫn đường đầu cạo trọc trụi như sư cụ râu cằm lơ thơ chỉ chừng vài chục sợi. Cặp mắt ông lúc nào cũng nheo nheo như bị chói nắng hoặc bị khói cay- Hai bên mép ông có hai đường nhăn sâu hoắm như lấy dao mà trổ, ôm vòng lấy cái miệng rộng hơi móm, nhìn rất hóm. ông đội cái nón mê đan bằng tre cật nặng không thua gì cái mũ sắt, mặc bộ bà ba vải nâu bạc phếch dầy đặc những mụn vá xanh đen và cái quần xà lỏn màu cháo lòng dải đến gối. đặc biệt ông có cái bụng to tướng như bụng đàn bà chửa bảy tám tháng - bụng của người sốt rét kinh niên thành báng- Chắc do đó mà tên ông là Bụng.
ông Bụng người làng Hòa Mỹ, làm nghề bứt tranh đốt than. ông được Ban chi huy Mặt trận trưng dụng cùng một số bà con khác trong địa phương, sang làng Trò dẫn đường cho các đơn vị rút lên chiến khu.
ông Bụng dẫn đội vượt núi theo một con đường dốc ngoằn ngčo, còn nguyên dấu rựa mở đường. Hai bên lối đi lau sậy, cây cối um tùm, hoang vu đến rợn người- Dây leo, giang, mây song bò ngang bò dọc trên đường như đàn trăn, đàn rắn- Nhiều cây gỗ ba bốn người ôm, mục gãy đổ ngang lối đi phải khom mình chui qua Trên mặt đất lớp lớp lá rụng thối, vắt sên như trấu ngo ngoe, ngo ngoe - . Bàn chân vừa lướt qua là chúng bám ngay lấy, cắn hút máu- còn lũ vắt xanh thì đậu trên lá cây, rình bám vào cổ, vào vai, chui tọt vào nách, vào bẹn, lúc nào không hay. Chúng cắn hút máu cho đến lúc no tròn như quả sim rồi rụng xuống- Cả đội lúc đầu em nào bị vắt sên bám phải, cũng sợ rúm người lại. Nhưng rồi thấy sợ không xong với cái tụi hút máu người này, càng co người lại tui hắn càng bám dử. Các em đành phải nhắm mắt, nghiến răng túm lấy cái mình trơn nhớt của bọn sên vắt dứt ra ném đi- Vài lần đầu còn thấy ghê tay, nhưng chỉ sau một buổi đường là hết sợ. Hai cẳng chân em nào cũng nhoe nhoét máu- con sên dứt ra rồi, máu vẫn cứ tiếp tục chảy, cái giống này rất tài, bao giờ cũng nhằm trúng mạch máu.
Lần đầu tiên được nếm mùi leo dốc núi, các em mặt bạc trắng vì mệt thở cả mắt lẫn tai. Nhiều em bò ra dốc- Leo một đoạn dốc ông Bụng lại phải dừng lại đợi.
ông ngồi xuống một gốc cây, lôi từ trong túi áo một nùi thuốc lá ngọn rứt ra và quấn những điếu thuốc to bằng ngón chân cái- ông đánh lửa châm thuốc bằng một con dao nhíp, một hòn đá to bằng nắm tay và một cái bùi nhùi - Các em nhìn ông đánh lửa kiểu này phục lăn.
Lạ hơn nữa là hai chân ông không thấy một con vắt nào cắn.
- Làm răng vắt lại không cán ông? - Các em xúm tại hỏi. - hay ông có bôi thứ thuốc chi?
Ông Bụng cười:
- Rứa dọc đường các cháu không gặp cái tụi vắt sên cứ ngo ngoe mà không chịu cắn à? đó là tụi vô phước cắn nhầm chân miềng nên bị mẻ hết răng đó.
Bọn tẻ trợn tròn mắt nhìn ông, nửa tin nửa ngờ.
ông phả khói thuốc dày đặc như một đám mây, ho khục khắc nói tiếp:
Cái thứ răng sên răng vất đã thấm béo chi. Mới bữa tê đây thôi, miềng đi từ Hòa Mỹ qua Trò, dọc đường một con chó sói núp trong bụi rậm, nhảy chồm ra, táp luôn vô bắp chân miềng hai miếng, nhay nhay rồi kêu ăng ắng bỏ chạy. Miềng thấy bắp chân hơi ngưa ngứa, sờ tay xuống gãi thì thấy rớt xuống đất tám cái răng chó trắng hếu mà nhọn quá đinh. Té ra anh ta táp mạnh quá, răng dắt luôn vô da miềng, coi như nhổ răng. Tội nghiệp cái con chó sói đó rồi đến chết đói mất thôi. Rụng mất tám cái răng cửa thì còn ăn uống cách răng- ông Bụng tặc tặc lưỡi tỏ vẻ thương xót cho con chó sói đã cắn ông. Các em hoang mang không biết ông nói chơi hay nói thật, vì nét mặt, giọng nói của ông không có vẻ một chút gì là đùa vui hết.
Qua khỏi một dốc núi khá cao, ông chỉ cho các em xem những bãi cứt voi to bằng cái thúng úp, còn nóng hôi hồi- Chứng tỏ đàn voi vừa đi qua đây xong- Tư dát ngó bãi cứt voi cười nói:
- Ước chi tụi minh cũng [em xin lỗi, em là người chửi bậy] được những bãi cứt to như ri hč? Tụi mình chỉ việc kéo nhau đến trước cổng đồn tụi Tây, [em xin lỗi, em là người chửi bậy] mỗi thằng một bãi, tụi Tây ngó thấy cũng đủ khiếp mà chết.
Qua khỏi núi rậm, tiếp đến vùng đồi cỏ tranh bạt ngàn san sát như bát úp. ông Bụng chỉ cho các em những dấu chân cọp mới nguyên, in trên mặt đất ướt.
Các em nhìn những dấu chân hệt dấu chân mčo nhưng to bằng cái bát, sợ xanh mắt, vội vàng đi sát vào nhau.
- Bồng hỏi:
- ông ơi ông! Ó trên Hòa Mỹ có nhiều cọp không ôông?
ông Bụng ềࠦ#224; nói:
- Tưởng chi chớ cái giống cọp beo thì chẳng thiếu!
Nhiều bữa miềng đi bứt tranh, gánh tranh về nhà mở ra phơi, thấy có hai ba cái đuôi cọp máu me đỏ lòm, ngúc nga ngúc ngắc, nằm lẫn trong tranh. Té ra miềng mải bứt, bứt luôn đuôi cả một bày cọp đang ngồi rình mồi mà không biết!
Cả đội phá lên cười, nhao nhao nói:
- ông nói trạng chi trạng gớm rứa ông ơi!
Ông Bụng mặt vẫn tỉnh khô, ề à kể tiếp:
- Cách đây chừng nửa tháng, một bữa miềng đi bứt tranh về, vừa mở bó tranh ra thì có một cục chi to cỡ bằng trái bưởi, tròn tròn, nâu nâu, nhăn nhăn, lăn ra kêu cái bịch- Miếng lượm lên ngó coi, té ra cả một đùm.-- dái cọp! Cái liềm mới đưa cho thợ rčn cắt lại chấu, sắc đã gớm, bứt dái cọp mà cứ ngọt xớt như bứt chuối chín!
Tư-dát hỏi ông:
Rứa chừ mô rồi ông?
Cái chi?
- đùm dái cọp ấy?
- Miềng luộc chấm muối ớt ngay bữa đó. Để lâu sợ ôi.
- ông chép miệng- - Cái anh dái cọp lơ mơ rứa mà ngọt đáo để, có phần ngọt hơn anh dái voi.
Cả đội bò lăn ra bãi cỏ tranh mà cười, còn ông Bụng mặt vẫn tỉnh khô, thủng thẳng quấn một điếu thuốc lá cũng to bằng ngón chân cái, đánh đá lửa hút.
ông Bụng nói trạng chơi mà Mừng cứ tưởng thật.
Em hoảng quá, đi nép sát vào Tư-dát, một tay bíu chặt thắt lưng da. Tư-dát quay sang nói:
- Nì, lỡ cọp nó có nhảy ra vồ thì cậu nhớ bỏ nịt tớ ra nghe, cậu mà níu chặt quá, hắn tha luôn cả tớ đi thì chết tớ đó nghe!
Qua làng Sơn Qua qua khe Nước Nóng, qua làng Thanh Tân. rồi làng Đất Đỏ, mọc đặc một giống tre lồ Ô Từ làng đất đỏ đi men theo bờ con sông Ô Lâu uốn lượn quanh có nước chảy rì rào giữa hai bờ lau sậy um tùm.
Title: Re: TUỔI THƠ DỮ DỘI {Phùng Quán}
Post by: kem on 20/10/06, 17:03
9.

Năm giờ chiều hôm đó, Đội đặt chân lên đất chiến khu Hòa Mỹ.
Chiến khu! Hai tiếng mới mẻ này đã từng gợi lên trong trí tưởng tượng các chiến sĩ nhỏ tuổi trong đội Thiếu niên trinh sát biết bao hình ảnh hùng tráng thơ mộng. . .
Sau Cách Mạng tháng Tám, lần đầu tiên các em được nghe hai tiếng chiến khu qua bài hát: "Nhớ chiến khu".
" chiều nay xa chiến khu trong rừng chiều Bên bờ tiếng suối reo ngàn thông réo..." Hồi còn Ở mặt trận Huế, mỗi lần sinh hoạt đội cất tiếng hát bài "Nhớ chiến khu" các em lại thấy hiện ra trước mắt những rùng thông vi vu trong gió ngàn, dòng suối bạc lấp lánh chảy róc rách giữa hai bờ đá trắng phau-.. Một đoàn chiến sĩ ngồi bên suối mài gươm, lau súng- Một toán chiến sĩ khác cưỡi ngựa phi vun vút qua đčo.
Bởi vậy mà chiều hôm đó, khi đã đặt chân lên đất chiến khu Hòa Mỹ rồi mà cả đội vẫn không ngớt mồm hỏi ông Bụng:
-Sắp đến chiến khu chưa ông?
- đi chừng bao lâu nữa mới tới chiến khu ông?
ông Bụng khoát tay chỉ bao quát vùng đồi núi trước mặt nói:
- Chiến khu ta đây chớ mô nửa các cháu.
Cả đội sửng sốt:
Chiến khu là đây thiệt hả ông?
Ông Bụng lên giọng giảng giải:
- Cái vùng núi non ni từ đời thủy tổ thì gọi là Hòa Mỹ- Mới đây Chính phủ cải ra tên mới là chiến khu- Chiến khu với Hòa Mỹ cũng là một cả thôi.
Cả đội nhìn nhau tưng hửng. Chẳng có gì giống với những điều các em tưởng tượng trước đây.
Hòa Mỹ là một cái làng ven núi, lơ thơ chừng vài chục nóc nhà nằm rải rác trên một rẻo đất dài và hẹp.
Một bên là núi cao trùng điệp, một bên là con sông Ó Lâu quanh co uốn khúc. Sông hẹp, nhiều khúc vén quần lội qua được, phơi cả sỏi đá dưới dòng. Từng quãng, từng quãng, người ta đắp những cái kč bằng cọc gỗ và đá chắn ngang sông. Nước chảy ào ào qua những chỗ kč để hở, đẩy những chiếc guồng nước nặng nề, kĩu kịt quay đều đều vục nước sông lên đổ vào những cái máng nước trên cao, tưới những thửa ruộng ven sông- Những ngôi nhà tranh, vách đất nép mình dưới những rặng tre lồ Ô dày rậm như rừng. Một lối đi nhỏ ngoằn ngočo chạy xuyên qua làng- Dọc hai bên lối đi là những dãy sán, khoai chen lẫn với những đám cỏ tranh cao quá đầu người- Trên các vồng khoái, sán rất nhiều dấu chân lợn lòi CÓ những đám sán rất rộng bị lợn lòi dũi nát.
Đồng bào Ở đây người nào nước da cũng xanh mai mái bởi bệnh sốt rét kinh niên.
Về chiều, khí núi một màu trắng đục, dâng lên mờ mịt- Mưa rả ních. gió núi thổi ào ào- BỘ đội cán bộ, công nhân các cơ quan, công xưởng của tỉnh, từ các ngả đường rút lui khác cũng lần lượt nối nhau đổ lên Hòa Mỹ Người nào cũng mệt nhoài, mặt mày phờ phạc ướt mčm lấm láp suốt từ đầu đến chân.
Khắp làng nhà nào cũng chật ních người, súng đạn ba lô đồ đạc- Những cây sào lồ Ô dài phơi đầy quần áo- Đường đi lối lại, bùn sục lên dưới hàng trăm bàn chân mang vác nặng nề, trơn như đổ mỡ. Tiếng gọi nhau í a ới suốt từ đầu làng đến cuối làng.
Làng Hòa Mỹ được gọi là tiền-chiến-khu. Chiến khu chính nằm sâu trong dãy núi xanh rì đằng sau làng. Đội Thiếu niên trinh sát trực thuộc Trung đoàn bộ, phải vào đóng Ở chiến khu Một, gọi tắt là Xê-ca Một. Từ Hòa Mỹ vào đến Xê-ca Một xa vào quãng hai cây số, qua một dải rừng thấp bằng phẳng. Một con suối khá rộng nước chảy Ổ ồ, với những tảng đá xanh rêu trơn nhẫy, đâm sâu vào dãy núi miên man trùng điệp. Men theo bờ suối đi thêm chừng nửa cây số là đến nơi đóng quân- Một dãy lán một mái, dựng ngay bên bờ suối. Dãy lán này mới dựng cách đây chỉ vài hôm, lá lợp, cột, kčo, rui, lạt buộc vẫn còn tươi nguyên. Mỗi bên có một dãy sạp dài suốt từ đầu lán đến cuối lán, để làm giường nằm. Mặt sạp lát bằng những cành cây còng queo, so le, gồ ghề, nằm lên đó khác nào nằm lên một bó củi.
Đội được chỉ định Ở cái lán số ba kể từ dưới lên.
Tư-dát sờ tay lên mặt sạp, gật gù nói- Người ta nói đời chiến sĩ nằm gai nếm mật là như ri đây anh em ạ.
Tức cảnh sinh tình, em ứng khẩu đọc luôn một đoạn thơ nhỏ vừa chợt nghĩ ra:
,'Sống thời nằm trên cành cây,

Chết thời áo súng bọc thây chiến trường

Nhưng ta là Vệ Quốc Đoàn

Gian nguy đâu có sờn gan anh hùng-. ".
Hay! Hay! - Cả đội nhiệt thành khen ngợi. Nhiều em yêu cầu Tư-dát đọc lại để học theo. Chỉ một tí là cả đội thuộc. Em hát, em ngâm nhộn nhạo cả khu rừng.
Không khí trong đội phút chốc tươi vui phấn chấn hẳn lên.
Vừa đặt ba lô, túi dết xuống sạp nằm, đội trưởng liền huy động cả đội ra rừng phát củi khô. Trời sập tối, đội trưởng cho nhóm lên Ở giữa lán một đống lửa to như đống lửa trại. Khói xông mù mịt- ánh lửa bập bùng. Cả đội vây quanh lấy đống lửa, cởi áo quần ướt ra hơ, trêu chọc nhau cười nói râm ran.
Hành quân mệt lả thế mà cả đêm đó cả đội đều thao thức đến quá nửa đêm, không sao ngủ được- Một phần tại cái sạp nằm cứ đâm nhói nhói giữa lưng, một phần vì những tiếng động dễ sợ của rừng đêm- tiếng hoẵng kêu, vượn hú, tiếng một đàn voi ào ào đi qua đâu đó trên dốc núi, làm cành cây gãy răng rắc, tiếng chim từ quy khắc khoải buồn thảm và nhiều tiếng rừng huyền bí khác làm cho cả đội cứ sởn hết gai ốc, cứ nhích dần nép sát vào nhau.
Hôm sau, đội ăn bữa ăn đầu tiên của chiến khu. Cơm gạo lức với muối tráng, phải bẻ lá rừng cuộn lại làm bát và bẻ cành cây làm đũa ôi, nhớ sao xiết, kể sao hết những gian khổ thiếu thốn của chiến khu những ngày đầu tiên ấy.
Mười năm sau một nhà chép sử đã ghi lại mấy nét tổng quát của hoàn cảnh chiến khu Hòa Mỹ ngày đó như sau:
" Việc tổ chức các chiến khu Ở các vùng rừng núi đều làm rất sơ sài. Lương thực dự trữ rất thiếu thốn ở Thừa Thiên lúc rút lên núi, lương thực vẻn vẹn chỉ còn hai tấn gạo. Trong lúc đó số người ăn kể cả cán bộ, bộ đội nhân viên các ngành, tự vệ chiến đấu, công nhân cơ xưởng có tới hai ngàn người.." Chỉ mấy dòng vắn tắt đó cũng đủ gợi cho chúng ta ngày nay hình dung được một phần sự gian khổ thiếu thốn đáng sợ của hoàn cảnh chiến khu Hòa Mỹ những ngày đầu tiên ấy.

10.

Hai hôm sau, sau bữa cơm chiều, trung đoàn trưởng hà Văn Lâu đến gặp đội.
Ngay trước mặt lán là dòng suối mấp mô đá phủ rêu trơn tuột, phía sau là dốc núi cao dựng, hai bên là rừng rậm, nên đội không thể tập họp thành hàng ngũ chỉnh tề để đón trung đoàn trưởng như hồi nào. Các em phải ngồi xếp bằng trên sạp nằm để đón ông. Tất nhiên đội trưởng cũng không thể hô nghiêm khi thấy trung đoàn trưởng bước vào đầu lán.
Chỉ sau mấy tuần gặp lại mà ông lạ hẳn đi- Người ông gầy sọp, gương mặt hốc hác, hai mắt trũng sâu, thâm quầng tưởng đâu như có đến trăm đêm nay rồi ông không chợp mắt.
ông ngồi lên mép sạp, nhìn cả đội khắp lượt- Cặp mắt thâm quầng mệt mỏi của ông vẫn ánh lên vẻ dịu dàng, trìu mến của người cha. ông chợt nhíu trán lại hỏi đội trưởng?
-Quân số đội sao ít hẳn đi thế nảy? CÓ em nào đi đâu không?
Đội trưởng ngồi cạnh ông nói:
Báo cáo anh, đội hiện nay chỉ còn mười chín đội viên. Bốn em đã hy sinh, và tám em được cử vào tham gia chiến đấu Ở Mặt trận phía Nam chưa có tin tức gì.
Trung đoàn trưởng ngồi yên lặng một lúc khá lâu- Mắt ông đám đăm nhìn dòng suối Ổ Ổ chảy xiết dưới chân lán- Nhìn nét mặt ông, các em hiểu ngay rằng ông sáp nói với mình những điều quan trọng-..
- Các em ạ, - ông ngẩng lên nhìn cả đội và nói,- hoàn cảnh chiến khu của chúng ta lúc này gian khổ thiếu thốn như thế nào, anh không nói chắc các em cũng đã rő. Và mai đây chắc sẽ còn gian khổ thiếu thốn nhiều hơn nữa. Sắp đến, cả chiến khu sẽ phải ăn cháo, ăn rau rừng thay cơm.-- Trong những ngày chiến đấu vừa qua hầu hết các em đã tỏ ra xứng đáng là bạn chiến đấu của người liệt sĩ thiếu niên anh hùng chết trên cột thép thu lôi. đội các em đã góp phần không nhỏ công lao và xương máu cho cộng cuộc kháng chiến cứu nước. Anh xin thay mặt Ban chỉ huy trung đoàn biểu dương và khen ngợi tất cả các em! Nhưng hoàn cảnh chiến đấu của bộ đội chúng ta sẽ vô cùng gian khổ nặng nề- Anh sợ rằng sức vóc nhỏ bé của các em khó lòng kham chịu nổi Bởi vậy đêm qua Ban chỉ huy trung đoàn đã họp để giải quyết vấn đề đội của các em- Cuộc họp đã đi đến quyết nghị là anh sẽ đến gặp trực tiếp các em, hỏi ý kiến các em- em nào muốn trở về sống với gia đinh thì trung đoàn đồng ý cho các em về. Trung đoàn sẽ bố trí người đưa các em về đến chỗ mà một mình các em có thể trở về tìm lại gia đình được- Các em thấy thế nào?
Trước ý kiến đột ngột của trung đoàn trưởng, cả đội ngồi lặng đi rất lâu, lòng xao xuyến bồn chuồn khôn tả.
Tiếng củi nổ lép bép, tiếng suối chảy Ổ ồ, lúc này nghe sao mà to mà vang đến thế" Tự nhiên cả đội em nào cũng thấy cổ mình nghẹn lại muốn khóc- Nhưng chưa rő tại sao mình muốn khóc? CÓ lẽ đó là cảm giác khi thấy mình sắp phải rời bỏ một cái gì vô cùng thân thiết, -mà nếu mất nó là mất hết mọi mềm vui trên đời, là chẳng còn biết mình phải sống ra sao đây.
- Các em cho anh biết ý kiến đi? - Trung đoàn trưởng nhắc lại và ngạc nhiên khi thấy tất cả những cặp mắt đang nhìn ông đều ướt đỏ hoe. Mừng thì khóc thật sự, nước mắt chảy ràn rụa trên hai gò má đen nhẻm bụi tro than.
Lượm ngồi Ở gần cuối lán bỗng nhảy xuống đất- Em bước lại gần đống lửa, nhìn trung đoàn trưởng mím mím môi như đang cố nuốt cái gì cứ chực trào lên cổ Em nói giọng rung lên:
- Thưa anh, các bạn khác trong đội nghĩ răng em không biết- Riêng em, em tha thiết xin trung đoàn cho em được Ở lại chiến khu. Dù mai đây có đói khổ gấp mười ri em cũng xin chịu. Em ưng thà phải Ở truồng, Ở lỗ mà chết đói trên chiến khu còn hơn phải trở về thành phố mà Ở chung. Ở lộn với tụi Tây, tụi Việt gian.
Những tiếng nói sau cùng của em biến thành tiếng nấc nghẹn ngào.
- Dạ thưa anh, em cũng xin như bạn Lượm.
- Em cũng xin như rứa!
Cực khổ chi em cũng xin Ở lại chiến khu.
Tất cả đội cùng giơ cao tay lên và tranh nhau nói với Trung đoàn trưởng.
Mừng cũng nhảy từ trên sạp xuống đất, bước lại đứng sát bên Lượm, nói giọng gần như van lơn:
- Thưa anh, chúng em còn nhỏ, chưa làm được chi nhiều cho chiến khu thì trung đoàn cho chúng em ăn ít đi cũng được- Mỗi bửa các anh ăn một chén cơm thì chúng em chỉ xin ăn nửa chén thôi. Đừng bắt chúng em phải về nhà, tội chúng em lắm anh nờ.
ôi, những lời van xin thơ ngây mà thống thiết, van xin được nhận phần gian khổ thiếu thốn, được cùng sống cùng chết với chiến khu, được chiến đấu hy sinh vì sự sống còn của TỔ quốc, của các chiến sĩ nhỏ tuổi này.
đã làm cho trung đoàn trưởng phải rơi nước mắt- ông rút mùi xoa trong túi thấm nhanh hai mắt- ông rời chỗ ngồi bước lại ôm Mừng vào lòng và nói:
- Một lần nữa các em càng làm cho anh thêm tin rằng các em đã xứng đáng và sẽ xứng đáng là bạn chiến đấu của em Vịnh- Bây giờ thì thế này: nếu tất cả các em đều tình nguyện Ở lại chiến khu để tham gia chiến đấu, anh sẽ về báo cáo lại với toàn thể Ban chỉ huy trung đoàn, chắc chắn các anh cũng sẽ đồng ý để các em Ở lại thôi- Còn bây giờ anh chúc các em đêm nay ngủ một giấc thật ngon Và sáng ngày mai chúng ta sẽ cùng nhau bắt tay vào việc xây dựng tổ chức chiến khu.
chuẩn bị để bước vào trận chiến đấu mới.
Đội trưởng vỗ vỗ hai bàn tay nói với đội:
- Các em, chúng ta hãy hát lên một bài thật to, thật hay để tiễn trung đoàn trưởng nào!
Kỳ đang ngồi xếp bằng trên sạp, vụt đứng ngay dậy. Em thay Quỳnh làm quản ca của đội. Quỳnh vẫn nằm Ở trạm quân y Mặt trận, nghe đâu trạm đang trên đường chuyển lên chiến khu. Kỳ ngẩng cao đầu, hơi phướn người lên rồi cất giọng trong ngần, lanh lảnh cao vút:
"đoàn Vệ Quốc quân một lần ra đi-.." Cả đội vùng đứng hết cả dậy trên sạp, lấy hết hơi sức hòa theo:
"Nào có mong chi đâu ngày trở về Ra đi ra đi bảo tồn sông núi Ra đi ra đi thà chết không lui.-." Tiếng hát bay lượn trên mặt suối, tràn qua những lớp lớp cây rừng, tràn qua gai góc tối tăm, quấn quít theo chân trung đoàn trưởng cho đến tận bìa rừng.
Tiếng hát của các em hôm nay làm cho ông thấy lòng cảm động, xốn xang khác thường. Trước khi trčo khuất sang bên kia dốc núi, ông dùng lại lắng nghe cho đến lúc tiếng hát tắt hẳn. ông bỗng có cảm giác những lời hào hùng quyết liệt và sục sôi nghĩa khí kia không phải do các chiến sĩ nhỏ bé của ông hát lên mà chính là tiếng đồng vọng thôi thúc của ý chí Nhân Dân và Đất Nước trong giờ phút vô cùng nghiêm trọng của lịch sử.
Tiếng hát như một ngọn lửa bùng lên cháy rực rỡ giữa đêm rừng lạnh tối, nó làm cho rừng và lòng ông ấm hẳn lại, vui hẳn lên.