Ý cao tình đẹp

Started by saos@ngmo, 25/11/06, 13:32

Previous topic - Next topic

saos@ngmo

TĚM THĘM BẠN MỚI


Mùa hč năm ngoái tôi ngồi xe ca Thụy Sĩ, và một buổi sáng đẹp trời nọ, ở Berne, đoàn du lịch lên đường bỏ lại tôi. Mới đầu tôi thấy bực mình; nhưng các bạn đồng hành hôm sau thế nào cũng sẽ trở lại, tôi nghĩ khôn hơn hết là tìm cách lợi dụng thời gian phải ngừng chân bất như ý này. Vậy là tôi đi ngắm chiếc đồng hồ cổ - đồng hồ đó cứ mỗi giờ chuông gő thì lại có một đoàn nhân vật cổ diễn qua - và coi cái hầm nhốt gấu nổi danh của thị trấn.
  Tôi nhờ một người đứng bên cạnh tôi chỉ cho một khách sạn tốt. Người Thụy Sĩ đó nhận ngay ra rằng tôi là một người ngoại quốc, bảo tôi:
  - Tôi về nhà ăn bữa trưa đây, xin mời ông về dùng bữa với chúng tôi.
  Tôi thú thực rằng lời mời mọc đó bất ngờ quá, nên tôi do dự một chút rồi mới nhận. Ông ta giới thiệu tôi với bà vợ và hai đứa con quấn quít chung quanh; cả gia đình đều nhã nhặn và tôi thấy thoải mái liền.
  Ăn xong chủ nhân mời tôi đi thăm xưởng đồng hồ nhỏ của ông. Tôi nhìn cách người ta lắp các bộ phận tế vi ra sao, hỏi chuyện vài người thợ.
  Chúng tôi chia tay nhau, thân mật lắm và cùng hứa sẽ nối chặt thêm thiện cảm mới mẻ đó. Hôm sau, gặp lại bọn đồng hành rồi, tôi không hề tiếc một chút rằng tôi đã bị bỏ rơi, vì nhờ vậy tôi mới được thêm một tình bằng hữu trường cửu và tin thêm rằng nhiều người có một tâm trạng lầm lẫn làm tê liệt đời sống của họ.
  Những người đó cho đời sống như một "cuộc du lịch đã được tổ chức", chỉ giao du với người đồng hành, không bao giờ ra khỏi những lộ trình lớn, chỉ coi những cảnh đã được sắp hạng. Sau này - nhưng lúc đó đã trễ quá - xét lại cuộc đời chật hẹp của mình, họ phàn nàn đã "không được sống một cách mãnh liệt" mà không hay rằng nguyên do là tại họ, vì chỉ cần quả quyết bỏ những đường mòn đi, tìm kiếm và chinh phục tình thân thiện trong mọi giới, là đời của họ sẽ phong phú lên vô cùng. Như câu tục ngữ Ả Rập đã nói: "Sung sướng thay người nào biết tìm nhiều bạn thân khác nhau, vì người đó được sống một ngàn lẻ một cuộc đời".
  Từ Aristote, tất cả các triết gia đều bảo rằng tình bạn mà phong phú thì quí nhất đời, không gì bằng, hơn cả tài năng nữa.
  Hầu hết những người có một cuộc đời rực rỡ đều đã chọn lựa bạn trong mọi giới vì họ cho rằng không tiếp xúc với mọi hoàn cảnh của loài người thì không thể nói là biết đời được.
  Sự thực thì gây một tình bằng hữu đâu có khó khăn như người ta tưởng. Một chính khách nổi danh nọ có thói quen khi vô một tiệm nào thì hỏi chuyện người bán hàng về vài điểm rő rệt nào đó trong nghề của họ, về cách xay cà phê chẳng hạn hoặc cách lựa một thứ xì gà ngon. Ông ta biết rằng ít ai mà không thích nói về một đề tài mà mình thông thạo; như vậy ông ta phá tan được sự lãnh đạm, gây được thiện cảm và nhờ đó sự giao thiệp của ông được dễ đàng hơn.
  Một cách khác là sốt sắng tỏ lòng mang ơn người khác dù người đó chỉ giúp mình một việc nhỏ nhặt. Thế là hàng rào phân cách bị hạ xuống và mình được lòng người hơn là nói chuyện tào lao cả một giờ. Chính nhờ một lời cảm ơn mà tôi được quen một người vào hạng có cá tính mạnh mẽ nhất, một ông lão đánh giày ở Picadilly. Ông ta có nước da sạm nắng, cử chỉ ngôn ngữ bình tĩnh và lễ độ. Hầu hết các khách hàng của ông chỉ nói với ông vài lời lãnh đạm rồi bỏ đi mà không lợi dụng cơ hội để được biết một người lạ lùng, thú vị nhất trên đường phố London, một cựu kỵ binh sở cảnh sát Canada, biết năm sinh ngữ và vô số chuyện kỳ cục, hấp dẫn, sôi nổi.
  Trong những cuộc gặp gỡ ngẫu nhiên, nếu hai bên có một điểm chung nào thì dễ thân với nhau ngay. Cùng đọc một thứ nhật báo hoặc cùng có một kiểu xe, thế là có thể thành thân với nhau được.
  Tình bằng hữu có nhiều nỗi vui mà có nhiều người không biết gây nó để cho đời mình thêm phong phú. Một số người tự cho mình là sang trọng quá, không muốn ra khỏi cái giới của mình. Họ thường là những ông bà không có gì để cho, và nguyên do họ không chịu tự thú, là tại họ sợ bị lột mặt nạ, hiện nguyên hình, không đáng được hưởng tình thân của người khác.
  Nhưng họ phải biết rằng những nhân vật cao thượng nhất trong lịch sử không bao giờ chê tình thân của bất kỳ ai, và trái lại, mới gặp ai, họ cũng đem hết tấm lòng của họ ra mà đối xử. Disraeli rời bọn chính khách để xem xét tình cảnh của dân nghčo trong khu hạ tiện Whitechapel. Rembradt trọng các người ăn mày cũng ngang các thị trưởng Amsterdam.
  Có người lại tưởng lầm rằng phải có cùng thị hiếu, lý tưởng với nhau thì mới thân với nhau được. Trái lại, những quan điểm khác nhau nhất lại thường gây những tình bằng hữu thân mật nhất.
  Mới rồi tôi gặp ở Pháp một vị tư tế biết rất kỹ về Bắc Mỹ. Tôi hỏi ông:
  - Ông qua Hoa Kỳ hồi nào?
  Ông mỉm cười đáp:
  - Tôi có bao giờ qua bên đó đâu. Năm 1944, sau khi Đồng minh đổ bộ lên, đạo quân Hoa Kỳ đóng ở làng tôi.
  Một hôm một sĩ quan lại trại ruộng của tôi xin nước, chúng tôi vừa đi ra giếng vừa nói chuyện với nhau. Hết chiến tranh ông ta viết thư cho tôi, từ đó chúng tôi thư từ đều đều với nhau. Ông ấy ở San Francisco và kể về đời sống ở đó cho tôi nghe tới nỗi tôi biết rő như đã có thời ở đó.Có người nghĩ phải gặp nhau thường thì tình thân mới bền. Không đúng. Thân hay không thân là do có tâm sự với nhau, có hiểu biết nhau không, mà những tình đó dù xa cách về không gian hay thời gian thì cũng vẫn còn hoài. Không ai sống cô liêu hơn nhà thám hiểm David Livingstone, vậy mà ông có rất nhiều bạn thân. Cô con gái út của ông bảo:
  - Tôi thấy ba tôi lúc nào cũng viết thư!...
  Mỗi năm ông gởi mấy trăm bức thư đi khắp nơi trên thế giới cho những bạn mà hầu hết ông chỉ ngẫu nhiên gặp một lần ngắn ngủi.
  Điều này cũng lầm nữa: có vài ông bạn cũ, vài ông hàng xóm và vài ông bạn làm ăn là đủ rồi. Như vậy chân trời của ta rất bị hạn chế. Huân tước William Osler thường bảo:
  - Khi không tìm ra bạn mới nữa là chúng ta bắt đầu già rồi vì tìm thêm bạn là một dấu hiệu nảy nở, một chứng cớ rằng mình vẫn còn yêu đời, vẫn thích biết thêm những ý mới.
  Đừng bao giờ nên rụt rč mà bỏ lỡ cơ hội làm quen bất kỳ ai. Tôi nhớ một buổi dạ hội để mừng nhà chơi đàn piano danh tiếng Vladimir de Pachmann; trong buổi đó tôi đã đề nghị với một nhạc sĩ trẻ sẽ giới thiệu chàng với nghệ sĩ tài danh đó. Chàng lúng túng, rồi từ chối, lấy lẽ rằng như vậy chỉ làm phiền cho ông ấy thôi.
  Sau bữa ăn, Vladimir bảo tôi:
  - Lúc nãy tôi thấy ông nói chuyện với một thanh niên có vẻ mặt dễ thương và những bàn tay của một nhạc sĩ ... Tôi muốn làm quen với cậu ấy.
  Thế là cậu ta bỏ lỡ cơ hội duy nhất để kết thân với một nghệ sĩ có thế lực.
  Khi nhờ các bạn thân mà ta mở rộng chân trời của ta được, khi giao du với họ mà kinh nghiệm của ta tăng tiến là lúc đó cá tính của ta mạnh mẻ và vững rồi đấy.
  Hết thảy chúng ta đều có một cái gì để tặng bằng hữu, dù chỉ là một nét đặc biệt của cá tính ta, một quan niệm độc đáo về đời sống hoặc cái tài kể chuyện vui. Tiếp xúc với nhiều bạn bč, tâm hồn ta phong phú lên, rồi lại làm cho tâm hồn những bạn sau này của ta cũng sẽ phong phú lên.
  Ngày nào chúng ta cũng có cơ hội làm cho một nét mặt lạ thành một nét mặt thân yêu. Phải biết nắm lấy cơ hội khi nó đi qua, vì sống trong lòng đời sống của người khác thì bao giờ cũng làm cho đời sống của mình được kích phát lên đến cực độ.


A.J.Cronin

saos@ngmo

CỤT TAY MŔ VẪN
  XÂY DỰNG ĐƯỢC TƯƠNG LAI


Khoảng hai chục năm trước, một hôm tôi đáp một chiếc tàu ở Seattle chạy dọc theo bờ biển phía Tây Alaska. Ngay buổi tối đầu, tôi để ý tới một nhóm hành khách quây quần chung quanh một bàn đánh bạc, chăm chú theo dői một ván bài. Tôi lại gần coi.
  Con bạc không có vẻ là bọn đi tìm vàng. Tôi cho họ là bọn du khách: một ông hơi lớn tuổi, ăn bận đàng hoàng, một bà duyên dáng, chắc là vợ ông kia, một thanh niên và một thiếu nữ khoảng mười tám tuổi, đẹp đẽ mảnh mai, vai khoác chiếc áo choàng. Họ đánh bài "bridge" và tôi thấy không có gì làm cho họ đam mê như vậy.
  Tôi đã sắp quay gót thì bỗng thấy nhói ở tim. Tôi đã tưởng là thiếu nữ đó đặt hai bàn tay lên bàn, bây giờ mới nhận ra là hai bàn chân. Con người diễm lệ đó nằm ngửa trên một chiếc ghế bành, một chân cầm bài, một chân hạ những quân bài xuống một cách khéo léo. Đôi vớ đã được cắt bớt để lộ ngón chân và mu bàn chân, một khoảng rộng bằng bàn tay. Nhìn chiếc áo choàng bó sát thân hình nàng, tôi hiểu rằng nàng cụt tay.
  Hiển nhiên là bọn đó không phải làm trò cho thiên hạ coi như bọn "mãi vő" trong các chợ phiên. Thế thì đánh bài trước công chúng như vậy, còn có gì vô duyên hơn nữa? Nhưng nhìn nét mặt những người đứng coi và tự xét lòng tôi, tôi thấy không phải là vô duyên. Nhìn thiếu nữ đó cụt tay mà đánh bài bằng những ngón chân, chúng tôi không cho là chướng, trái lại thấy một gương can đảm là khác.
  Tôi bčn kiếm cách làm quen với thiếu nữ tràn trề sinh lực đó. Tối hôm sau, trong phòng khách có một ban hợp tấu, tôi cúi chào nàng và mời nàng khiêu vũ một điệu. Nàng mỉm cười, đứng dậy, lại đứng sát người tôi. Tôi quàng hai tay lên vai nàng, dìu nàng đi. Nàng vũ không giỏi lắm, nhưng cũng khá.
  Nghe tôi khen, nàng đáp:
  - Tôi đã khó nhọc lắm mới tập vũ được. Vì cụt tay nên tôi mất thăng bằng. Nhưng tôi ham vũ, nên quyết tâm tập luyện đến khi nào vũ tàm tạm được mới thôi.
  Nàng cho tôi hay nàng theo một ông chú đến bờ biển phía Tây Alaska này vì ông đi thanh tra vài cơ sở đánh cá thu. Trong cuộc du lịch khá dài đó, chúng tôi thành bạn thân với nhau. Nàng thẳng thắn kể nhân sinh quan của nàng và cuộc chiến đấu bền bỉ để phát triển cá tính ra sao. Nàng bảo:
  - Lần đầu tiên tôi hiểu rằng tôi không bình thường như những trẻ khác thì tôi có ý muốn trốn. Sanh ra mà hình thù kỳ quái như vầy thì thật là ghê gớm quá, có khác gì xúc phạm cả nhân loại không. Trường hợp của tôi còn tệ hơn một người thường bị cụt tay vì tai nạn. Tôi biết chứ, nhiều người chỉ trông thấy những kẻ kỳ quái như tôi cũng đủ tởm rồi. Mới đầu tôi đã mong chết cho rảnh, nhưng một hôm tôi tự nhủ, muốn làm cho người khác khỏi tởm là việc có thể được, mà cái đó chỉ tùy tôi thôi. Nếu tôi ráng tỏ vẻ bình thường, có thái độ của một người bình thường thì có lẽ người khác không thấy tôi là kỳ quái nữa.
  "Điều khó khăn nhất là làm sao thắng cái bản năng muốn trốn của tôi. Tôi tập nhập bọn với các trẻ khác mà không thčm che giấu tật nguyền của mình. Nếu các bạn tôi đòi coi vai tôi thì tôi chìa cho họ coi. Tôi đỏ mặt tía tai vì xấu hổ đấy nhưng tôi rán chịu. Không bao giờ tôi khóc trước mặt người lạ và tôi rán cười cho nhiều. Có lẽ ông không biết rằng cười có thể là một thói quen, nhưng tôi thì tôi biết khi cười là một vấn đề sinh tử thì ai cũng có thể tập cười được.
  "Điều mà tôi không sao chịu nổi là lòng thương hại của người khác, vì vậy tôi rán thích nghi với hoàn cảnh. Tôi có cảm tưởng rằng cả trong giấc ngủ tôi cũng tập thích nghi nữa. Và tôi chú hết tâm vào việc làm cho bề ngoài của tôi được dễ coi. Sau một thời gian, tôi tự thuyết phục tôi được rằng tôi có thể làm cho người khác không thấy tởm, xa lánh tôi nữa mà chú ý tới tôi. Ý nghĩ đó đã cứu vớt tôi. Tôi không còn làm nhục cho nhân loại nữa bằng cách tỏ cho ai nấy thấy nguồn sinh lực kỳ diệu của cơ thể con người.
  Tôi tiếp lời:
  - Và thấy sức mạnh đáng kính của tâm hồn con người.
  Nàng rưng rưng nước mắt, mỉm cười, lấy chân mặt đưa khăn mùi xoa lên chùi mắt. Rồi nàng xỉ mũi thật mạnh, làm cho cả hai chúng tôi đều cười, không khí hết ngột ngạt. Nàng nói tiếp:
  - Một số người có lẽ cho rằng tôi trườn mặt ra với thiên hạ như vầy, thật là vô duyên. Nhưng tôi quyết chiến đấu cho họ mất cảm tưởng đó đi. Gặp những người lạ nào bỗng thấy tật nguyền của tôi mà có vẻ chướng mắt thì tôi làm một cử động thật tài tình, chẳng hạn đưa một chiếc lược lên chải tóc. Những người đó tức thì trố mắt ra và mặt họ tươi rói. Điều tôi quí nhất là các bạn thân của tôi &

saos@ngmo

CỤT TAY MŔ VẪN
  XÂY DỰNG ĐƯỢC TƯƠNG LAI


Khoảng hai chục năm trước, một hôm tôi đáp một chiếc tàu ở Seattle chạy dọc theo bờ biển phía Tây Alaska. Ngay buổi tối đầu, tôi để ý tới một nhóm hành khách quây quần chung quanh một bàn đánh bạc, chăm chú theo dői một ván bài. Tôi lại gần coi.
  Con bạc không có vẻ là bọn đi tìm vàng. Tôi cho họ là bọn du khách: một ông hơi lớn tuổi, ăn bận đàng hoàng, một bà duyên dáng, chắc là vợ ông kia, một thanh niên và một thiếu nữ khoảng mười tám tuổi, đẹp đẽ mảnh mai, vai khoác chiếc áo choàng. Họ đánh bài "bridge" và tôi thấy không có gì làm cho họ đam mê như vậy.
  Tôi đã sắp quay gót thì bỗng thấy nhói ở tim. Tôi đã tưởng là thiếu nữ đó đặt hai bàn tay lên bàn, bây giờ mới nhận ra là hai bàn chân. Con người diễm lệ đó nằm ngửa trên một chiếc ghế bành, một chân cầm bài, một chân hạ những quân bài xuống một cách khéo léo. Đôi vớ đã được cắt bớt để lộ ngón chân và mu bàn chân, một khoảng rộng bằng bàn tay. Nhìn chiếc áo choàng bó sát thân hình nàng, tôi hiểu rằng nàng cụt tay.
  Hiển nhiên là bọn đó không phải làm trò cho thiên hạ coi như bọn "mãi vő" trong các chợ phiên. Thế thì đánh bài trước công chúng như vậy, còn có gì vô duyên hơn nữa? Nhưng nhìn nét mặt những người đứng coi và tự xét lòng tôi, tôi thấy không phải là vô duyên. Nhìn thiếu nữ đó cụt tay mà đánh bài bằng những ngón chân, chúng tôi không cho là chướng, trái lại thấy một gương can đảm là khác.
  Tôi bčn kiếm cách làm quen với thiếu nữ tràn trề sinh lực đó. Tối hôm sau, trong phòng khách có một ban hợp tấu, tôi cúi chào nàng và mời nàng khiêu vũ một điệu. Nàng mỉm cười, đứng dậy, lại đứng sát người tôi. Tôi quàng hai tay lên vai nàng, dìu nàng đi. Nàng vũ không giỏi lắm, nhưng cũng khá.
  Nghe tôi khen, nàng đáp:
  - Tôi đã khó nhọc lắm mới tập vũ được. Vì cụt tay nên tôi mất thăng bằng. Nhưng tôi ham vũ, nên quyết tâm tập luyện đến khi nào vũ tàm tạm được mới thôi.
  Nàng cho tôi hay nàng theo một ông chú đến bờ biển phía Tây Alaska này vì ông đi thanh tra vài cơ sở đánh cá thu. Trong cuộc du lịch khá dài đó, chúng tôi thành bạn thân với nhau. Nàng thẳng thắn kể nhân sinh quan của nàng và cuộc chiến đấu bền bỉ để phát triển cá tính ra sao. Nàng bảo:
  - Lần đầu tiên tôi hiểu rằng tôi không bình thường như những trẻ khác thì tôi có ý muốn trốn. Sanh ra mà hình thù kỳ quái như vầy thì thật là ghê gớm quá, có khác gì xúc phạm cả nhân loại không. Trường hợp của tôi còn tệ hơn một người thường bị cụt tay vì tai nạn. Tôi biết chứ, nhiều người chỉ trông thấy những kẻ kỳ quái như tôi cũng đủ tởm rồi. Mới đầu tôi đã mong chết cho rảnh, nhưng một hôm tôi tự nhủ, muốn làm cho người khác khỏi tởm là việc có thể được, mà cái đó chỉ tùy tôi thôi. Nếu tôi ráng tỏ vẻ bình thường, có thái độ của một người bình thường thì có lẽ người khác không thấy tôi là kỳ quái nữa.
  "Điều khó khăn nhất là làm sao thắng cái bản năng muốn trốn của tôi. Tôi tập nhập bọn với các trẻ khác mà không thčm che giấu tật nguyền của mình. Nếu các bạn tôi đòi coi vai tôi thì tôi chìa cho họ coi. Tôi đỏ mặt tía tai vì xấu hổ đấy nhưng tôi rán chịu. Không bao giờ tôi khóc trước mặt người lạ và tôi rán cười cho nhiều. Có lẽ ông không biết rằng cười có thể là một thói quen, nhưng tôi thì tôi biết khi cười là một vấn đề sinh tử thì ai cũng có thể tập cười được.
  "Điều mà tôi không sao chịu nổi là lòng thương hại của người khác, vì vậy tôi rán thích nghi với hoàn cảnh. Tôi có cảm tưởng rằng cả trong giấc ngủ tôi cũng tập thích nghi nữa. Và tôi chú hết tâm vào việc làm cho bề ngoài của tôi được dễ coi. Sau một thời gian, tôi tự thuyết phục tôi được rằng tôi có thể làm cho người khác không thấy tởm, xa lánh tôi nữa mà chú ý tới tôi. Ý nghĩ đó đã cứu vớt tôi. Tôi không còn làm nhục cho nhân loại nữa bằng cách tỏ cho ai nấy thấy nguồn sinh lực kỳ diệu của cơ thể con người.
  Tôi tiếp lời:
  - Và thấy sức mạnh đáng kính của tâm hồn con người.
  Nàng rưng rưng nước mắt, mỉm cười, lấy chân mặt đưa khăn mùi xoa lên chùi mắt. Rồi nàng xỉ mũi thật mạnh, làm cho cả hai chúng tôi đều cười, không khí hết ngột ngạt. Nàng nói tiếp:
  - Một số người có lẽ cho rằng tôi trườn mặt ra với thiên hạ như vầy, thật là vô duyên. Nhưng tôi quyết chiến đấu cho họ mất cảm tưởng đó đi. Gặp những người lạ nào bỗng thấy tật nguyền của tôi mà có vẻ chướng mắt thì tôi làm một cử động thật tài tình, chẳng hạn đưa một chiếc lược lên chải tóc. Những người đó tức thì trố mắt ra và mặt họ tươi rói. Điều tôi quí nhất là các bạn thân của tôi đều coi tôi như một người bình thường".
  Riêng phần tôi, tôi phải thú nhận rằng tôi quên hẳn tật nguyền của nàng, nhưng trước mặt nàng, lúc nào tôi cũng ngạc nhiên khâm phục nàng chứ không coi nàng như một người bình thường bao giờ. Nàng đã tự tạo được một cá tính lạ lùng. Nàng nói chuyện vui vẻ, có duyên, ăn bận thanh nhã, biết làm nổi bật nét đẹp của nàng lên làm cho người khác không để ý tới hai vai co rúm lại của nàng nữa.
  Nàng rất ít khi phải nhờ người giúp đỡ, tự xoay xở lấy một cách tài tình lạ lùng, thành thứ tôi quên rằng nàng tàn tật. Sách, đồ vật của nàng, nàng đeo lên vai, đưa cằm ra đỡ
  • . Chân của nàng mềm mại lạ thường, thay cánh tay được.Một hôm tôi gặp nàng trong phòng một sĩ quan, gỡ một cây viết máy để trên cái giá, vặn nắp ra, viết một cách rő ràng, rồi lại đặt cây viết vào chỗ cũ. Nàng đan suốt ngày và đan khéo hơn nhiều bà hay cô có đủ cả hai bàn tay nữa. Nàng đánh phấn bằng những ngón chân, chiếc gương đặt thăng bằng trên mu bàn chân kia. Nàng lật trang sách hay báo, hút thuốc cũng dễ dàng, duyên dáng như một bà già quí phái.
      Trước khi lên bờ, tôi mời ông chú, bà thím nàng và nàng trên đường về, ghé nhà tôi chơi để vợ chồng được cái hân hạnh tiếp đón. Hai ông bà nhận lời.
      Về tới nhà, tôi kể lại chuyện đó cho bạn bč, họ không tin. Một người làm y sĩ bảo cứ xét cách cấu tạo của cơ thể con người, thì chân không thể làm những việc như vậy thay tay được.
      Nhưng khi ba vị khách của tôi tới, nhà tôi làm bữa tiệc để đãi thì cả những người hoài nghi nhất cũng phải chưng hửng.
      Tôi thư từ với thiếu nữ đó trong một thời gian rồi chúng tôi dọn đi ở nơi khác, từ đó bặt tin của nàng. Nhưng những ai đã được tiếp xúc với nàng đều nhận rằng nàng đã chứng minh một cách linh động rằng tinh thần con người có thể có một sức mạnh vĩ đại vô cùng.


    Edison Marshall
      ____
     
  • Tháng 11 năm 1954 ở phòng Triển lãm Galerie du Tertre 67 đường Maubeuge, Paris có bày 60 bức tranh sơn dầu của cô Denise Legrix, biệt hiệu là Daisy. Cô sanh ra cũng không có cánh tay, tập vẽ từ hồi mười tuổi, đặt cây cọ vào nách mà vẽ. (Lời cước chú trong bản tiếng Pháp).

saos@ngmo

CỤT TAY MŔ VẪN
  XÂY DỰNG ĐƯỢC TƯƠNG LAI


Khoảng hai chục năm trước, một hôm tôi đáp một chiếc tàu ở Seattle chạy dọc theo bờ biển phía Tây Alaska. Ngay buổi tối đầu, tôi để ý tới một nhóm hành khách quây quần chung quanh một bàn đánh bạc, chăm chú theo dői một ván bài. Tôi lại gần coi.
  Con bạc không có vẻ là bọn đi tìm vàng. Tôi cho họ là bọn du khách: một ông hơi lớn tuổi, ăn bận đàng hoàng, một bà duyên dáng, chắc là vợ ông kia, một thanh niên và một thiếu nữ khoảng mười tám tuổi, đẹp đẽ mảnh mai, vai khoác chiếc áo choàng. Họ đánh bài "bridge" và tôi thấy không có gì làm cho họ đam mê như vậy.
  Tôi đã sắp quay gót thì bỗng thấy nhói ở tim. Tôi đã tưởng là thiếu nữ đó đặt hai bàn tay lên bàn, bây giờ mới nhận ra là hai bàn chân. Con người diễm lệ đó nằm ngửa trên một chiếc ghế bành, một chân cầm bài, một chân hạ những quân bài xuống một cách khéo léo. Đôi vớ đã được cắt bớt để lộ ngón chân và mu bàn chân, một khoảng rộng bằng bàn tay. Nhìn chiếc áo choàng bó sát thân hình nàng, tôi hiểu rằng nàng cụt tay.
  Hiển nhiên là bọn đó không phải làm trò cho thiên hạ coi như bọn "mãi vő" trong các chợ phiên. Thế thì đánh bài trước công chúng như vậy, còn có gì vô duyên hơn nữa? Nhưng nhìn nét mặt những người đứng coi và tự xét lòng tôi, tôi thấy không phải là vô duyên. Nhìn thiếu nữ đó cụt tay mà đánh bài bằng những ngón chân, chúng tôi không cho là chướng, trái lại thấy một gương can đảm là khác.
  Tôi bčn kiếm cách làm quen với thiếu nữ tràn trề sinh lực đó. Tối hôm sau, trong phòng khách có một ban hợp tấu, tôi cúi chào nàng và mời nàng khiêu vũ một điệu. Nàng mỉm cười, đứng dậy, lại đứng sát người tôi. Tôi quàng hai tay lên vai nàng, dìu nàng đi. Nàng vũ không giỏi lắm, nhưng cũng khá.
  Nghe tôi khen, nàng đáp:
  - Tôi đã khó nhọc lắm mới tập vũ được. Vì cụt tay nên tôi mất thăng bằng. Nhưng tôi ham vũ, nên quyết tâm tập luyện đến khi nào vũ tàm tạm được mới thôi.
  Nàng cho tôi hay nàng theo một ông chú đến bờ biển phía Tây Alaska này vì ông đi thanh tra vài cơ sở đánh cá thu. Trong cuộc du lịch khá dài đó, chúng tôi thành bạn thân với nhau. Nàng thẳng thắn kể nhân sinh quan của nàng và cuộc chiến đấu bền bỉ để phát triển cá tính ra sao. Nàng bảo:
  - Lần đầu tiên tôi hiểu rằng tôi không bình thường như những trẻ khác thì tôi có ý muốn trốn. Sanh ra mà hình thù kỳ quái như vầy thì thật là ghê gớm quá, có khác gì xúc phạm cả nhân loại không. Trường hợp của tôi còn tệ hơn một người thường bị cụt tay vì tai nạn. Tôi biết chứ, nhiều người chỉ trông thấy những kẻ kỳ quái như tôi cũng đủ tởm rồi. Mới đầu tôi đã mong chết cho rảnh, nhưng một hôm tôi tự nhủ, muốn làm cho người khác khỏi tởm là việc có thể được, mà cái đó chỉ tùy tôi thôi. Nếu tôi ráng tỏ vẻ bình thường, có thái độ của một người bình thường thì có lẽ người khác không thấy tôi là kỳ quái nữa.
  "Điều khó khăn nhất là làm sao thắng cái bản năng muốn trốn của tôi. Tôi tập nhập bọn với các trẻ khác mà không thčm che giấu tật nguyền của mình. Nếu các bạn tôi đòi coi vai tôi thì tôi chìa cho họ coi. Tôi đỏ mặt tía tai vì xấu hổ đấy nhưng tôi rán chịu. Không bao giờ tôi khóc trước mặt người lạ và tôi rán cười cho nhiều. Có lẽ ông không biết rằng cười có thể là một thói quen, nhưng tôi thì tôi biết khi cười là một vấn đề sinh tử thì ai cũng có thể tập cười được.
  "Điều mà tôi không sao chịu nổi là lòng thương hại của người khác, vì vậy tôi rán thích nghi với hoàn cảnh. Tôi có cảm tưởng rằng cả trong giấc ngủ tôi cũng tập thích nghi nữa. Và tôi chú hết tâm vào việc làm cho bề ngoài của tôi được dễ coi. Sau một thời gian, tôi tự thuyết phục tôi được rằng tôi có thể làm cho người khác không thấy tởm, xa lánh tôi nữa mà chú ý tới tôi. Ý nghĩ đó đã cứu vớt tôi. Tôi không còn làm nhục cho nhân loại nữa bằng cách tỏ cho ai nấy thấy nguồn sinh lực kỳ diệu của cơ thể con người.
  Tôi tiếp lời:
  - Và thấy sức mạnh đáng kính của tâm hồn con người.
  Nàng rưng rưng nước mắt, mỉm cười, lấy chân mặt đưa khăn mùi xoa lên chùi mắt. Rồi nàng xỉ mũi thật mạnh, làm cho cả hai chúng tôi đều cười, không khí hết ngột ngạt. Nàng nói tiếp:
  - Một số người có lẽ cho rằng tôi trườn mặt ra với thiên hạ như vầy, thật là vô duyên. Nhưng tôi quyết chiến đấu cho họ mất cảm tưởng đó đi. Gặp những người lạ nào bỗng thấy tật nguyền của tôi mà có vẻ chướng mắt thì tôi làm một cử động thật tài tình, chẳng hạn đưa một chiếc lược lên chải tóc. Những người đó tức thì trố mắt ra và mặt họ tươi rói. Điều tôi quí nhất là các bạn thân của tôi đều coi tôi như một người bình thường".
  Riêng phần tôi, tôi phải thú nhận rằng tôi quên hẳn tật nguyền của nàng, nhưng trước mặt nàng, lúc nào tôi cũng ngạc nhiên khâm phục nàng chứ không coi nàng như một người bình thường bao giờ. Nàng đã tự tạo được một cá tính lạ lùng. Nàng nói chuyện vui vẻ, có duyên, ăn bận thanh nhã, biết làm nổi bật nét đẹp của nàng lên làm cho người khác không để ý tới hai vai co rúm lại của nàng nữa.
  Nàng rất ít khi phải nhờ người giúp đỡ, tự xoay xở lấy một cách tài tình lạ lùng, thành thứ tôi quên rằng nàng tàn tật. Sách, đồ vật của nàng, nàng đeo lên vai, đưa cằm ra đỡ
  • . Chân của nàng mềm mại lạ thường, thay cánh tay được.Một hôm tôi gặp nàng trong phòng một sĩ quan, gỡ một cây viết máy để trên cái giá, vặn nắp ra, viết một cách rő ràng, rồi lại đặt cây viết vào chỗ cũ. Nàng đan suốt ngày và đan khéo hơn nhiều bà hay cô có đủ cả hai bàn tay nữa. Nàng đánh phấn bằng những ngón chân, chiếc gương đặt thăng bằng trên mu bàn chân kia. Nàng lật trang sách hay báo, hút thuốc cũng dễ dàng, duyên dáng như một bà già quí phái.
      Trước khi lên bờ, tôi mời ông chú, bà thím nàng và nàng trên đường về, ghé nhà tôi chơi để vợ chồng được cái hân hạnh tiếp đón. Hai ông bà nhận lời.
      Về tới nhà, tôi kể lại chuyện đó cho bạn bč, họ không tin. Một người làm y sĩ bảo cứ xét cách cấu tạo của cơ thể con người, thì chân không thể làm những việc như vậy thay tay được.
      Nhưng khi ba vị khách của tôi tới, nhà tôi làm bữa tiệc để đãi thì cả những người hoài nghi nhất cũng phải chưng hửng.
      Tôi thư từ với thiếu nữ đó trong một thời gian rồi chúng tôi dọn đi ở nơi khác, từ đó bặt tin của nàng. Nhưng những ai đã được tiếp xúc với nàng đều nhận rằng nàng đã chứng minh một cách linh động rằng tinh thần con người có thể có một sức mạnh vĩ đại vô cùng.


    Edison Marshall
      ____
     
  • Tháng 11 năm 1954 ở phòng Triển lãm Galerie du Tertre 67 đường Maubeuge, Paris có bày 60 bức tranh sơn dầu của cô Denise Legrix, biệt hiệu là Daisy. Cô sanh ra cũng không có cánh tay, tập vẽ từ hồi mười tuổi, đặt cây cọ vào nách mà vẽ. (Lời cước chú trong bản tiếng Pháp).

saos@ngmo

MỘT BŔI HỌC CỦA BIỂN CẢ

Một số người có được một thiên tư kỳ diệu. Tôi không biết nên gọi là gì cho đúng: tinh thần bình thản, sức mạnh nội tâm hay tinh thần đại độ, khoáng đạt? Dù sao thì mỗi khi gặp những nỗi thắc mắc đau khổ là tự nhiên chúng ta hướng về những người đó. Họ có một cái gì thu hút chúng ta như đá nam châm hút sắt. Tôi có một ông bạn thân thuộc hạng người ấy. Cho nên buổi tối hôm nọ, có một nỗi ưu tư đč nặng trong lòng, tôi kêu ngay điện thoại hỏi anh. Anh đáp:
  - Mời anh lại chơi. Alma đã đi ngủ rồi, tôi sắp pha cà phê cho tôi đây.
  Tôi bčn lại nhà anh và một giờ sau, y như tôi đã đoán, tinh thần tôi phấn khởi hẳn lên. Không phải là nỗi khó khăn của tôi đã giải quyết được đâu, nhưng không hiểu tại sao, tôi không thấy nó ghê gớm như trước nữa. Ngồi trước mặt anh Ken, thấy anh thoải mái dựa lưng vào cái ghế bành, hai chân gác lên bàn viết, tay chắp sau gáy, ít nói nhưng chăm chú nghe... và tỏ thiện cảm với tôi, thì làm sao mà tâm hồn tôi chẳng bình tĩnh lại?
  Bỗng tôi thấy cần phải tỏ ít lời cảm ơn anh và tấm lòng tôi quí mến anh. Tôi bảo:
  - Anh Ken, tôi chưa thấy ai có tài làm cho tinh thần người khác phấn khởi lên được như anh. Anh làm cách nào vậy?
  Nụ cười của anh nở một cách chậm chạp, cơ hồ như lần nào cũng hiện lên ở khóe mắt trước hết.
  Anh đáp:
  - Có gì đâu! Tôi hơi lớn tuổi hơn anh, thế thôi.
  Tôi lắc đầu:
  - Tuổi tác mà ăn nhập gì tới cái đó. Anh có cái đức bình tĩnh mà tôi cảm thấy rất thâm trầm. Nhờ đâu vậy, anh?
  Anh ngó tôi vài giây, có vẻ suy tư, như do dự không biết có nên kể cho tôi nghe không. Sau cùng anh lấy đầu mũi giày móc kéo một hộc tủ bàn viết, rồi lấy ra một hộp giấy, đặt lên tấm bìa lót tay trên mặt bàn. Anh trỏ hộp giấy đó, bảo:
  - Nếu tôi có được một chút xíu cái đức mà anh khen tôi đó thì có lẽ là nhờ cái hộp này.
  Tôi đợi anh giảng giải. Phòng rất tĩnh mịch, tôi nghe thấy tiếng tích tắc của chiếc đồng hồ quả lắc đặt trên mặt lò sưởi.
  Anh lựa một ống điếu cũ, thuốc đã đóng dày một lớp, rồi nhồi thuốc.
  - Chúng mình quen nhau từ bao lâu rồi nhỉ? Mười năm, mười hai năm? Cái hộp này có từ lâu hơn nhiều. Trên ba chục năm rồi. Chỉ có Alma và tôi là biết trong đó có gì thôi, nhưng lâu quá, có lẽ nhà tôi quên rồi. Còn tôi thì cứ thỉnh thoảng lại mở ra ngắm nghía vật chứa trong đó.
  Ngọn lửa ở đầu cây quẹt chập chờn, khói thuốc tỏa lên thành những cuộn xanh phản chiếu ánh đčn.
  Anh Ken bắt đầu kể, giọng như văng vẳng từ dĩ vãng.
  - Năm 1920, tôi ở trên đường thành công. Một sự thành công kỳ dị. Tiền vô như nước, mỗi ngày mỗi nhiều mà tiêu pha còn nhiều hơn nữa. Đúng là hạng thanh niên được trời cưng, tôi suy nghĩ tính toán mau hơn ai, mà tửu lượng thì cũng vô địch. Tôi cưới nhà tôi vì thấy nàng đẹp, làm cho nhà cửa, cuộc đời thêm tươi, chứ không phải vì tình. Nói thực ra, tôi không yêu nàng chút nào cả. Tôi chỉ yêu tôi, tự cao tự đại, thế thôi.
  Tôi ngạc nhiên ngó anh. Anh tự vẽ cho anh bức chân dung tàn nhẫn như vậy, làm sao tôi có thể tin được là đúng.
  Anh nói tiếp:
  - Chắc anh đoán được rằng số phận đâu có chịu thua tôi, phải quật lại chứ? Mà nó quật lại một cách ghê gớm làm sao! Những người nào không trải qua cuộc kinh tế đại khủng hoảng năm 1929, thì khó tưởng tượng được nó bi đát tới mức nào. Mới tuần lễ trước, tôi còn là một nhà triệu phú - trên giấy tờ - mà tuần sau đã nhẵn túi. Phản ứng của tôi dễ đoán được: tôi say sưa tối ngày, có lần ba ngày liền say mčm, không còn biết trời đất gì cả.
  Anh cười gằn một tiếng ngắn, đứng dậy, lùa ngón tay vào mớ tóc rối bù.
  - Nơi mà tôi lựa để thỏa tình than thân trách phận là một biệt thự của chúng tôi trên bờ biển, nhưng từ khi đất sụp ở dưới chân, nó không còn thuộc về chúng tôi nữa. Alma muốn theo tôi ra đó, tôi bảo đừng. Tôi chỉ muốn mỗi một điều: uống rượu tới say bí tỉ để quên hết mọi sự. Và nốc hết ve này tới ve khác.
  Nhưng rồi cũng tới một lúc tinh thần người ta bình tĩnh lại. Lúc đó tôi sắp thành một thằng nghiện rượu, điều đó thực ghê gớm quá. Tôi tởm cho cái con người tôi, tôi tuyệt vọng. Tôi soi gương: cặp mắt đỏ ngầu, râu ria ba ngày chưa cạo, tôi thấy rằng mình hoàn toàn là một thằng bỏ đi. Tôi hoàn toàn là một con người hư hỏng, một người chồng hư hỏng, một công dân hư hỏng. Tôi nghĩ rằng chỉ có cách tôi từ bỏ cői đời này là có lợi cho nhà tôi, cho xã hội hơn cả.
  Tôi đã kiếm được một cách chắc chắn rồi. Gió thổi ào ào. Biển động mạnh. Tôi sẽ bơi ra thật xa, tới khi đuối sức mới thôi, thế là vô phương trở vô bờ được và bao nhiêu nỗi ưu tư sẽ trút được hết.- Khi đã có một quyết định như vậy thì chỉ còn nghĩ tới cách thực hiện cho mau. Tôi không chần chừ nữa vội vàng xuống các bực thềm, tiến ra bãi biển. Tôi còn nhớ lúc đó trời hừng đông, đỏ rực, dưới ngọn cuồng phong, sóng nổi cao ngất. Tôi bước thẳng lại mí nước. Khi tới nơi, tôi để ý thấy cái gì lấp lánh trên mặt cát. Anh mở hộp giấy ra, bảo:
  - Đây, vật này đây. Hộp chứa một vỏ sò. Không phải là thứ vỏ sò hiếm thấy, vì tôi cũng đã gặp nhiều vỏ như vậy, chỉ là một thứ vỏ hình bầu dục dài, có rạch màu lợt coi khá đẹp. Anh Ken nói tiếp:
  - Tôi đứng lại ngắm nghía nó. Sau cùng lượm nó lên. Nó ướt, bóng loáng và chỉ khẽ bóp một chút cũng bể liền. Mặc dầu vậy, nó còn nguyên, không sứt mẻ gì cả.
  Trong khi gió gào, sóng gầm ở chung quanh, tôi tự hỏi: "Làm sao mà có thể như vậy nhỉ? Cả tấn nước dập dồn cuốn nó, tung nó lên trên lớp cát cứng này, mà sao nó không bể ra, tan tành ra từng mảnh vụn nhỉ? Cái gì làm cho nó còn nguyên vẹn không hề rạn nứt như vầy nhỉ? Tôi ráng suy nghĩ rồi bỗng nhiên tôi hiểu. Nó đã chấp nhận cơn dông tố như chấp nhận sự an tĩnh ở đáy biển, nơi nó phát sinh. Nhờ vậy nó không bị tiêu diệt. Bỗng nhiên tôi thấy mình đã vô lý chiến đấu với một biến cố không thể tránh được.
  Tôi không nhớ tôi đã đứng như vậy bao nhiêu lâu, sau cùng tôi lượm vỏ sò đó lên rồi trở về biệt thự. Tôi giữ vỏ sò đó cho tới bây giờ.
  Tôi đỡ cái hộp anh chìa cho tôi, nhấc vỏ sò lên. Thật đều đặn, không sứt mẻ chút nào cả mà nhẹ như lông chim.
  Tôi hỏi anh:
  - Anh có biết tên nó không?
  Anh đáp:
  - Có. Người ta gọi nó là "cánh thiên thần".


Arthur Gordon

saos@ngmo

MỘT MĚNH TRĘN BIỂN
  SUỐT MỘT NGŔY


Mới rồi tôi bị một cơn chán nản mà nhiều người cứ lâu lâu lại trải qua một lần: bỗng nhiên nguyên khí hạ thấp xuống, thấy cái gì cũng ảm đạm, vô vị, sinh lực giảm thiểu, hết hăng hái. Công việc làm ăn của tôi bị ảnh hưởng tai hại. Buổi sáng nào tôi cũng nghiến răng càu nhàu: "Hôm nay thì nhất định phải tìm lại được cái ý nghĩa trước kia của cuộc sống; thế nào cũng phải thoát khỏi cái tâm trạng này mới được".
  Nhưng rồi những ngày vô nghĩa cứ kéo dài ra và sự tê liệt về tinh thần mỗi ngày một tăng. Sau cùng tôi thấy rằng phải nhờ một người nào cứu giúp mới được.
  Tôi kiếm một y sĩ không chuyên môn, không phải là một nhà phân tâm học, một y sĩ thường thôi, lớn tuổi hơn tôi, tuy bề ngoài có vẻ quạu quọ nhưng lòng rất nhân từ.
  Tôi rầu rĩ thú thật:
  - Tôi không biết bị cái chứng gì, nhưng tôi có cảm tưởng rő rệt rằng tôi không có lối thoát. Ông có thể trị cho tôi được không?
  Ông ta chậm rãi đáp:
  - Tôi không dám quyết.
  Ông chắp tay, đầu ngón tay bên này chống đầu ngón tay bên kia, ngó tôi một hồi lâu, rồi thình lình hỏi tôi:
  - Hồi nhỏ, ông ở đâu thấy thích nhất?
  - Hồi nhỏ ư?... Có lẽ tôi thích bờ biển nhất.
  Chúng tôi có một căn nhà nhỏ ở bờ biển, cứ mùa hč ra đó nghỉ mát, thú lắm.
  Ông ta ngó qua cửa kính nhìn những lá vàng lả tả, cuốn theo chiều gió.
  - Ông có thể theo đúng lời tôi chỉ bảo, chỉ trong một ngày thôi, được không?
  Tôi đáp:
  - Tôi xin sẵn sàng thử bất kỳ cái gì.
  - Được. Đây, ông nghe tôi dặn. Sáng mai ông lái xe ra bờ biển, phải ráng tới bờ biển trước chín giờ. Mang theo bữa trưa đi, nhưng cấm ngặt không được đọc sách báo, viết lách, nghe máy thâu thanh hoặc nói chuyện với bất kỳ ai. Tôi cho ông mấy toa thuốc, cứ ba giờ thì làm theo đúng như tôi dặn.
  Ông ta xé bốn tờ giấy, viết lên mỗi tờ vài chữ, gấp lại, đánh số rồi chìa cho tôi:
  - Uống những thuốc này lúc 9 giờ, giữa trưa, 3 giờ và 6 giờ chiều.
  Tôi hỏi:
  - Ông không đùa đấy chứ?
  Ông ta khẽ cười:
  - Ông sẽ phải trả tiền coi mạch đấy, không phải chuyện đùa đâu.


*
  *
*
  Sáng hôm sau, tôi lái xe ra bờ biển mà lòng hơi hoài nghi. Chỗ đó thật vắng vẻ. Gió bấc thổi và mặt biển xám như cau mày lại; ngồi trong xe tôi chán ngán nghĩ tới cái nông nỗi phải ở bờ biển đó suốt một ngày dài. Tôi lấy miếng giấy thứ nhất ra đọc: Lắng tai nghe.
  Tôi tưởng tôi đọc lộn chứ! Tôi nghĩ bụng: "Ông này điên thật tình rồi. Ông ấy cấm mình đủ thứ: nhạc, tin tức đài phát thanh, nói chuyện với người khác; như vậy thì còn cái gì để nghe nữa mà bảo mình phải lắng tai nghe?"
  Tôi ngẩng đầu lên, lắng tai. Không có một tiếng động nào cả, trừ tiếng sóng gầm đều đều, tiếng kêu the thé của một con hải âu, tiếng vù vù của một phi cơ bay rất cao, mà tất cả những tiếng đó đều quen tai quá rồi.
  Tôi bước ra khỏi xe, một luồng gió sập mạnh cánh cửa xe. Tôi tự hỏi: "Mình phải lắng nghe tất cả những của nợ đó sao?"
  Rồi tôi leo lên một động cát ngồi ngắm bờ biển hoang vắng. Ở đây, biển gầm lên dữ dội tới nỗi át hơn mọi tiếng khác. Bỗng tôi nghĩ bụng: "Vậy mà nếu lắng tai, gí sát tai vào thì tất cũng vẫn nghe được tiếng cát di động sạo sạo nhč nhẹ và tiếng gió lào sào khi thổi lên động cát".
  Rồi như có một cái gì thúc đẩy tôi cúi xuống, rúc đầu vào một đám cỏ ong ở bờ biển, mà không thấy vậy là kỳ cục. Và tôi phát kiến được điều này: nếu ta chú ý nghe thì sẽthoáng có một lúc mà mọi sự sinh hoạt như ngưng đọng lại, chờ đợi, mọi tư tưởng bỗng hết quay cuồng trong đầu óc, không thể nào chú ý nghe một cái gì ở ngoại giới mà không làm cho tiếng động của nội tâm phải im bặt. Óc lúc đó được nghỉ ngơi.
  Tôi trở về xe, ngồi sau tay lái. Lắng tai nghe. Tôi lại nghe tiếng gầm của biển và nghĩ tới sự mênh mông của biển, những tiết điệu lạ lùng của nó, tới mặt biển đẹp như nhung dưới ánh trăng nhưng lừa gạt ta, nguy hiểm như một cái bẫy, tới những làn sóng viền bọt trong dông tố, tới những bài học nó dạy cho chúng ta hồi nhỏ: bài học kiên nhẫn, vì không thể bắt thủy triều xuất hiện mau hơn được; bài học thận trọng, vì không nên đùa với biển cả; bài học về sự liên quan bí mật và mênh mông giữa mọi vật; gió, thủy triều, luồng nước, trời lặng, mưa hoặc bão, tất cả những cái đó hòa hợp với nhau mà quyết định con đường di thê của cá và chim. Và bài học sạch sẽ nữa: không có một bãi biển nào không được ngọn chổi mênh mông của biển quét sạch mỗi ngày hai bận.
  Tóm lại, tôi trầm tư về những cái vượt ra khỏi bản thân nhỏ bé của tôi, nhờ vậy, làm nhẹ được gánh nặng ưu tư của tôi.
  Nhưng thời gian đi chậm quá: đã bao lâu nay tôi có thói quen gặp vấn đề gì thì sấn vào giải quyết, bây giờ ở không, tôi thấy bơ vơ. Trong khi tôi tiếc rẻ nhìn cái máy thâu thanh trong xe thì bỗng một câu của Carlyle hiện ra trong óc: "Các tác phẩm lớn lao thành hình trong sự yên lặng".


*
  *
*
  Tới giữa trưa, gió đã làm tan hết các đám mây, và mặt biển nhấp nhô vui vẻ lấp lánh: tôi mở ra coi "toa thuốc" thứ nhì, và lại ngồi xuống: nửa thấy ngộ nghĩnh nửa bực mình. Toa này gồm sáu chữ: Ráng trở lui về dĩ vãng.
  Trở lui về dĩ vãng? Làm sống lại dĩ vãng? Tại sao? Tôi ưu tư là ưu tư về hiện tại và tương lai kia mà!
  Tôi rời xe, trầm ngâm đi bách bộ theo các động cát. Ông y sĩ đó bảo tôi ra bờ biển vì bờ biển nhắc nhở tôi những hồi ký đẹp đẽ thời nhỏ: có lẽ vì vậy mà phải làm sống lại kho tàng hạnh phúc đã chìm trong sương mù của thời gian chăng?
  Tôi kiếm một chỗ khuất, nằm dài trên lớp cát ấm ánh nắng. Ráng trở ngược lên nguồn của dĩ vãng, tôi thấy lấp ló những hồi ký sung sướng nhưng mơ hồ: những vẻ mặt mờ mờ, xa xăm, những hình ảnh đã chôn kỹ từ lâu.
  Và tôi nảy ra ý tô cho những ấn tượng mơ hồ đó thêm rő, như một họa sĩ sửa lại màu, vẽ lại nét trên một bức tranh. Tôi chọn một việc đặc biệt nào đó đã xảy ra, ôn lại được càng nhiều chi tiết càng tốt, tưởng tượng những người đã dự vào trong việc đó, một cách thật đầy đủ: từ y phục, cử động, giọng nói, tiếng cười (y sĩ đã khuyên tôi phải lắng tai nghe mà).
  Thủy triều đã hạ, nhưng sóng còn gầm ở những chỗ đá ngầm. Tôi trở lại hai chục năm trước, nhớ buổi câu cá cuối cùng với em tôi. Tôi nhận thấy rằng nhắm mắt lại và chú hết tinh thần vào thì tôi có thể làm sống lại một cách rő rệt lạ lùng hình ảnh người em yêu quí, trông thấy lại được cái khóe mắt vui vẻ, hăng hái của chú ấy trong buổi sáng xa xăm đó nữa.
  Thực ra, tôi trông thấy lại được tất cả khung cảnh bãi biển hình vòng cung màu ngà, nơi chúng tôi câu, mặt trời mọc làm cho nền trời ở phương Đông như lem luốc, những lớp sóng cao viền bọt đập vào bờ; tôi cảm thấy nước âm ấm cuồn cuộn rút ra, buồn buồn ở đầu gối tôi; tôi thấy cần câu của em tôi uốn cong lại mỗi khi em tôi giật cá, tôi nghe thấy tiếng la hét mừng rỡ của em tôi khi bắt được cá. Tôi xây dựng lại hoạt cảnh đó, từng khúc từng khúc một, rő ràng mà không sai, dưới lớp sơn trong suốt của thời gian. Rồi hình ảnh biến mất.
  Tôi chậm chạp đứng lên. Ráng trở lui về dĩ vãng. Những người sung sướng thường rất tự tin. Cố ý tiếp xúc lại với hạnh phúc đã qua, chính là một cách giải thoát những tia nghị lực, nguồn li ti sinh khí của ta đấy.
  Phần thứ nhì của ngày hôm đó trôi qua mau hơn. Trong khi mặt trời chầm chậm bắt đầu hạ xuống, tôi tham lam cố ôn lại nhiều dĩ vãng, sống lại giai đoạn này, tìm lại được giai đoạn khác đã hoàn toàn quên từ lâu. Một hôm, hồi đó tôi vào khoảng mười ba tuổi, em tôi mười tuổi - thân phụ tôi đã hứa dắt chúng tôi đi coi xiếc, nhưng rồi trong bữa trưa, có người kêu điện thoại bảo có việc gấp, thân phụ tôi phải lại hãng ngay. Anh em tôi đã sẵn sàng nhận nỗi thất vọng rồi, nhưng thân phụ tôi bình tĩnh bảo:
  - Không, tôi không tới được: việc gấp gì thì cũng để đó.
  Người trở về bàn ăn, thân mẫu tôi mỉm cười bảo:
  - Gánh xiếc đó thường trở lại mà.
  Thân phụ tôi đáp:
  - Phải, nhưng tuổi thơ không trở lại nữa.
  Đã bao nhiêu năm trôi qua rồi, tôi còn nhớ chuyện đó, và thấy lòng tôi ấm áp lên, tôi hiểu rằng không có một việc thiện nào mà hoàn toàn mất bao giờ cả.*
  *
*
  Khoảng ba giờ chiều, lúc nước ròng, tiếng sóng chỉ còn văng vẳng, đều đều từ xa đưa vào, như hơi thở của một người khổng lồ. Tôi nằm trên cát, sung sướng, thoải mái, và hơi tự đắc nữa: những toa ông ấy cho mình, có khó theo chút nào đâu.
  Nhưng tôi không ngờ được nội dung trong toa thứ ba: không phải là một lời gợi ý nữa mà là một mệnh lệnh nghiêm nhặt: Xét lại các động cơ thúc đẩy ông hành động.
  Phản ứng đầu tiên của tôi hoàn toàn có tính cách tự vệ: mình có làm cái gì bậy đâu mà phải xét lại.
  Tôi muốn thành công: ai chẳng muốn thành công? Tôi muốn có chút danh vọng: mọi người cũng mong như tôi.
  Có tiếng thì thầm trong thâm tâm tôi: "Có thể rằng động cơ của mình không được cao thượng lắm chăng? Có thể rằng vì vậy mà tinh thần của mình mất quân bình chăng?"
  Tôi vốc lên một nắm cát rồi để cho nó chảy qua kẽ tay. Hồi xưa, mỗi khi tôi làm được một việc gì hoàn hảo thì là tự ý làm, vui vẻ làm, không chút bó buộc. Ít lâu nay tôi làm theo một lối "thông thái", tính toán, lạnh lùng. Tại sao? Tại tôi còn nhắm cái gì khác ở ngoài công việc, nhắm phần thưởng mà tôi mong được hưởng: sự làm việc không còn là cứu cánh nữa mà thành một phương tiện để kiếm tiền.
  Tôi bừng tỉnh, giác ngộ được chân lý này: khi động cơ của ta xấu thì không có gì tốt được cả, dù ta làm người phát thư, người hớt tóc, nhân viên hãng bảo hiểm hay bất kỳ một nghề gì khác. Hễ ta còn cái cảm tưởng rằng ta phụng sự xã hội thì công việc ta làm còn được hoàn hảo; nếu ta chỉ nghĩ đến tư lợi thôi thì công việc hóa kém, tồi đi: luật đó cũng nghiêm khắc như luật trọng lực vậy, không ai thoát khỏi nó.
  Tôi ngồi đó trầm tư trong một hồi lâu. Ở ngoài xa, trên chỗ đá nổi, tôi nghe thấy tiếng sóng nhào ì ầm biến thành tiếng gầm; thủy triều đã dâng; sau lưng tôi, ánh tà chiếu gần như ngang ngang trên cảnh vật: sắp tới lúc rời bãi biển rồi. Tôi không thể không phục y sĩ đó: toa thuốc của ông tài tình thật mà ông có vẻ chép ra một cách dễ dàng, chẳng cần suy nghĩ gì nhiều. Lúc đó tôi mới nhận ra rằng lối trị bệnh tuần tự đó có thể giúp được mọi người trong mọi nỗi khó khăn.
  Lắng tai nghe: để tinh thần dịu xuống, thắng nó lại, không cho nó thắc mắc, ưu tư về những vấn đề nội tâm nữa mà hướng về thế giới bên ngoài.
  Ráng trở lui về dĩ vãng: óc con người cùng một lúc chỉ có thể nghĩ tới một ý thôi; nghĩ tới những lúc vui đã qua thì tự nhiên quên hết các ưu tư hiện tại.
  Xét lại các động cơ thúc đẩy ta hành động: lệnh nghiêm khắc đó chính là điểm cốt yếu của phương pháp: đánh giá lại động cơ để cho nó hòa hợp với khả năng và lương tâm của mình. Nhưng muốn làm được như vậy, thì trí óc phải sáng suốt và dễ thụ cảm, cho nên cần được chuẩn bị trước trong sáu giờ hoàn toàn im lặng.


*
  *
*
  Khi mặt trời đỏ rực như một bầu lửa lớn ở chân trời, tôi lấy ra nốt miếng giấy cuối cùng. Lần này cũng chỉ có sáu chữ. Tôi tiến chậm chậm lại phía biển, khi còn cách mí nước lớn vài thước, tôi ngừng và đọc lại: Viết ưu tư lên trên cát.
  Tôi tung cho tờ giấy bay theo gió, bước vài bước, lượm một vỏ sò rồi quì xuống, viết lên trên cát mấy chữ, chữ nọ đč lên chữ kia.
  Sau cùng tôi về xe mà không quay lại ngó ở phía sau: tôi đã viết những ưu tư của tôi lên cát và thủy triều đương dâng.


Arthur Gordon

saos@ngmo

LŔM CHO KỲ ĐƯỢC MỚI THÔI


Trong thị trấn nhỏ của chúng tôi không ai biết bá tước đó ở đâu tới Có lẽ bà là người ngoại quốc vì ráng nói cho đúng giọng. Chắc bà giàu có vì dinh thự to lớn, gia nhân đông. Nhưng bà không tiếp ai hết, không giao du với ai hết (...)
  Bà luôn luôn cầm một chiếc gậy để chống mà cũng để trị những đứa trẻ nghịch ngợm, cần phải uốn nắn theo ý bà. Tôi tinh mắt mà lanh chân, luôn luôn tránh được chiếc gậy đó. Vậy mà một hôm, năm tôi mười bốn tuổi, muốn đi đường tắt, tôi vừa nhảy qua hàng rào của bà, thì ở đâu bà đập cho tôi một cái vào đầu, tôi kêu "ái" và nhảy lùi lại tới gần một thước.
  Bà bảo:
  - Này cháu, già muốn nói với cháu điều này.
  Tôi tưởng bà sẽ thuyết cho tôi về cái tội nhảy qua hàng rào nhà người khác, nhưng bà ngó tôi, hơi mỉm cười, có vẻ thay đổi ý kiến.
  - Phải cháu ở căn nhà sơn xanh bên kia không? Nhà có trồng liễu ở ngoài vườn đó?
  - Dạ phải.
  - Chính cháu săn sóc, tưới, xén và hớt bồn cỏ đó phải không?
  - Dạ phải.
  - Được lắm. Chú làm vườn của già nghỉ việc rồi. Sáng thứ năm, bảy giờ cháu lại đây, nghe. Nč đừng có kiếm chuyện nói rằng mắc việc này việc nọ, già đã thấy thứ năm nào cháu cũng lê la, lang thang trong xóm.
  Tôi không dám cãi bà nên thứ năm đó tôi lại hớt đi hớt lại ba lần bồn cỏ của bà rồi bà mới vừa lòng. Kế đó bà bắt tôi bò đi nhổ những cỏ ngú: đầu gối tôi xanh như bồn cỏ vậy. Sau cùng bà đứng dưới hiên gọi tôi vô:
  - Cháu muốn lãnh công bao nhiêu đây?
  - Cháu đâu có biết được. Có lẽ 50 quan...?
  - Theo ý cháu thì công việc cháu làm đó đáng 50 quan hả?
  - Dạ... Nghĩa là... vào khoảng đó vậy mà!
  - Được. Đây là số 50 quan mà cháu cho đáng công cháu. Già thêm vào đó 150 quan nữa, công của già đã theo gót, coi chừng cháu suốt buổi. Bây giờ già cho cháu hay cách thức chúng mình làm việc chung với nhau ra sao, nghen. Có bao nhiêu người làm thì có bấy nhiêu cách hớt bồn cỏ. Và công việc của họ đáng giá cũng rất khác nhau, từ 1 xu tới 500 quan. Công việc của cháu hôm nay đáng giá 300 quan nếu cháu... tự làm lấy một mình, không có già theo gót, chỉ bảo. Muốn lãnh được 400 quan thì công việc phải gần như hoàn toàn, hớt một bồn cỏ mà tốn công như vậy thì già cho là điên. Còn như muốn cho công việc đáng 500 quan... thì chúng ta đừng nên nghĩ tới: không thể làm được. Vậy từ nay mỗi tuần cháu lại hớt bồn cỏ cho già một lần và cháu tự định công việc của cháu đáng bao nhiêu, già sẽ trả bấy nhiêu.
  Tôi đi về với 200 quan trong túi, có cảm tưởng rằng mình giàu nhất đời, và quyết tâm tuần sau phải moi được 400 quan của bà ta mới nghe. Hỡi ơi! Tuần sau, tôi không đạt được cái giá 300 quan nữa. Khi hớt lần thứ nhì, nghị lực của tôi bắt đầu giảm đi.
  - Cũng chỉ đáng 200 quan Thế này thì già chắc phải mướn người khác thôi, cháu ơi!
  - Dạ, nhưng tuần sau cháu sẽ cố gắng hơn.
  Tôi không nhớ đã làm cách nào mà giữ được lời hứa. Khi hớt lại bồn cỏ lần cuối cùng, tôi đã mệt đừ, vậy mà vẫn còn gắng sức thêm được nữa. Lần đầu tiên thấy cái cảm giác thắng lợi đó, tôi mừng rỡ, không do dự gì cả, xin bà 300 quan.
  Bốn hay năm thứ năm sau, có lần tôi định giá công việc của tôi là 300 quan, có lần 350 quan. Làm được ít lâu, tôi biết rő bồn cỏ đó: chỗ nào mặt đất gồ ghề, chỗ nào tôi phải hớt cụt, chỗ nào phải để cỏ cao, như ở gần mép, như vậy đường cong toàn thể bồn cỏ được điều hòa hơn. Càng quen với công việc tôi càng nhận định rő được một "công việc đáng 400 quan" thì phải ra sao. Và tuần nào tôi cũng quyết tâm thực hiện cho được cái mẫu mực mà tôi đã tính trước trong đầu. Nhưng khi kiếm cho được 300 quan hoặc 350 quan, tôi thấy mệt quá rồi, nên quên cái dự định cố vượt mức đó.
  Bà bá tước khi trả tiền cho tôi, bảo:
  - Cháu có vẻ ngừng ở cái mức 350 quan!
  Nhìn số tiền đó, tôi mừng quá, không nhớ rằng mình đã nhắm cao hơn nữa, nên đáp:- Cháu cũng có cảm tưởng như vậy!
  Bà an ủi tôi:
  - Có gì đâu mà phải tự trách mình. Xét cho kỹ thì hạng người hớt một bồn cỏ mà đáng được lãnh 400 quan đâu có nhiều gì.
  Mới đầu nghe lời đó, tôi cũng thấy mát ruột. Nhưng rồi trong lòng tôi có sự thay đổi lần lần mà tôi không ngờ, sau cùng tôi thấy bực mình về lời đó và tôi quyết tâm kiếm cho được 400 quan, muốn ra sao thì ra.
  Một buổi đêm thứ năm tôi ráng quên sự thất bại trong ngày để ngủ một giấc, thì ý nghĩ đó hiện lên, mạnh mẽ vô cùng, tôi nhổm dậy, xúc động đến nghẹt thở.
  Phải đạt cho được 500 quan, chứ không phải 400 quan! Phải làm cho được một việc mà không ai làm được, chính vì lẽ rằng nó không làm được.
  Tôi biết những nỗi khó khăn tôi phải vượt. Chẳng hạn có vài chỗ, sâu bọ, giun dế đã đùn đất lên, phải san cho phẳng. Có lẽ bà bá tước chưa nhận thấy những chỗ đó vì nó nhỏ quá: nhưng tôi đi chân không, tôi biết và tôi phải sửa sang lại cho bằng phẳng.
  Thứ năm sau, trước hết tôi dùng một cái hủ lô (rouleau) để san phẳng những chỗ đất đùn lên đó. Sau hai giờ làm việc, tôi chán nản, gần chín giờ sáng tôi đã tính bỏ dở! Rồi chỉ nhờ một sự ngẫu nhiên lạ lùng, tôi bỗng đổi ý. Xong việc san bằng hủ lô đó rồi, tôi ngồi nghỉ dưới một gốc cây dẻ và ngủ thiếp đi một lát. Tỉnh dậy thấy bồn cỏ đẹp quá, đi chân không lên thấy êm quá, tôi nóng nảy muốn tiếp tục công trình của tôi.
  Khoảng tám giờ tối, mọi việc hoàn thành. Tôi hãnh diện quá, quên mệt, chạy lại cửa phòng bà bá tước:
  - Hôm nay đáng giá bao nhiêu đây?
  Tôi rán bình tĩnh lại một chút, làm ra vẻ nghiêm trang và đáp:
  - 500 quan!
  - 500 quan? Cháu muốn nói 400 quan đấy chăng? Già nhắc lại: không sao đạt được mức 400 quan, không thể được mà?
  - Dạ, được chứ! Chứng cớ là cháu làm được rồi đấy.
  - A! Từ khi khai thiên lập địa tới nay, mới có một bồn cỏ mà một người làm vườn bỏ công sửa sang đáng tới 500 quan, phải đi coi cho biết mới được.
  Trong ánh hoàng hôn sắp tắt, chúng tôi cùng đi coi khắp một vòng bồn cỏ. Chính tôi mà cũng ngạc nhiên vô cùng: không thể tưởng tượng nổi một công trình như vậy.
  Bà đặt tay lên vai tôi, bảo:
  - Này em, già không hiểu em đã có nghị lực mạnh ra sao mà thành công một cách tuyệt vời như vậy.
  Chính tôi, tôi cũng không hiểu nữa. Mà giá có hiểu thì cũng không thể giảng được vì cảm động quá khi nghe bà bảo rằng tôi đã thành công.
  Bà nói tiếp:
  - Già đoán được cảm xúc của em khi em quyết định làm cho được công việc mà già cho là không làm nổi. Chắc lần đầu có quyết tâm đó, em đã sung sướng lắm mà cũng hơi kinh hãi một chút. Già đoán có đúng không?
  Thấy cái vẻ kinh hãi trên nét mặt tôi, bà biết rằng bà đã đoán đúng.
  - Già biết được như vậy là vì hầu hết chúng ta đều có cảm xúc đó. Chúng ta có lúc bỗng cảm thấy bừng phát trong lòng mình cái ý muốn xắn tay làm một công trình lớn lao. Ta được hưởng niềm sung sướng kỳ diệu. Rồi hạnh phúc đó tan dần đi vì chúng ta tự nhủ: "Không, mình không làm nổi: việc đó không thể làm được! Mỗi khi có một tiếng từ đáy lòng em bảo em rằng: "Không thể làm được" thì em nhớ phải xét cho kỹ, đừng vội tin nó nhé .
  Từ buổi đó đến nay đã trên một phần tư thế kỷ rồi, mỗi lần tôi thấy hết phương, cùng đường, không còn chút hy vọng nào cả ở chân trời khi mấy tiếng "không thể làm được" lại hiện lên trong óc tôi, tôi lại cảm thấy trong lòng bừng hăng lên, như có một sự thúc đẩy kỳ diệu bất ngờ nào đó, và tôi hiểu thêm một lần nữa rằng con đường duy nhất có thể đạt được ở ngay trong cái thiên nan vạn nan, không thể làm được đó.


Richard Thurman

saos@ngmo

BẬC VĨ NHÂN NHẤT THẾ GIỚI


Tôi để cho các học sinh của tôi vô lớp và lặng lẽ ngồi xuống, trước mặt tôi, em nào vào chỗ nấy. Tôi bắt các em ngồi im một lát như vậy, và ngó lén các em, thích thú về cái uy tín của tôi lắm. Còn chúng thì đã bắt đầu ngài ngại rồi. Chúng đã đoán được hôm nay tôi tính "trác" chúng cái gì chăng?
  Khi đã áp chế được chúng rồi, tôi mới bảo:
  - Lấy một tờ giấy ra!
  Chúng nhao nhao lên phản đối:
  - Thưa thầy đừng! Để hôm khác, thầy.
  Tôi yêu chúng lắm, như bầy con của tôi! Tôi yêu cái tánh hay phản đối, ranh mãnh, dại dột, làm biếng của chúng. Tôi yêu em Kobert mập lù kia, cứ ba ngày thì hai ngày quên không mang sách; tôi yêu em Annette nhỏ xíu không lần nào nộp một bài mà không có vết mực; yêu em Herve nữa không làm sao nhớ được những lỗi chánh tả dễ dàng nhất; và em Philippe nữa mà không có sức mạnh nào trên đời này có thể ngăn em viết leo ra ngoài lề được. Tôi yêu hết thảy các em và các em biết như vậy lắm. Đã nhiều lần tôi suýt mềm lòng, chiều các em năn nỉ, đòi cái này cái nọ!
  - Nào mau lên chứ! Chép đầu đề tác văn.
  Thấy các em vội vàng lấy giấy, tôi hiểu rằng lúc này, các em ngại tôi ra bài ám tả. Có vài em càu nhàu đấy, nhưng rồi giấy trắng, giấy chặm và viết máy đã hiện đủ trên mặt bàn. Rồi hết thảy đều ngước mắt nhìn tôi, và trong cặp mắt chúng, tôi chỉ thấy vẻ lo ngại, đợi đầu đề.
  Tôi sẽ bỏ suốt ngày chủ nhật tới để chấm bài tụi con nít này đây, còn chúng thì chúng sẽ chỉ bỏ ra một phút để phê phán tôi tùy đầu đề tôi sắp ra. Tôi hồi hộp lo ngại cũng gần như chúng:
  - Trò phục vĩ nhân nào nhất, bất kỳ vĩ nhân trong lịch sử, trong thời này hoặc trong truyền thuyết. Cho biết tại sao lựa vĩ nhân đó.
  Bao nhiêu cái đầu cúi xuống đều ngửng lên cả. Hầu hết đều toét miệng cười, chắc chắn chúng sẽ chăm chú làm bài. Chúng thích đầu đề đó, và tôi khoái lắm: - trong thâm tâm chúng, thế nào chúng chẳng phê cho tôi một điểm tốt.
  - Thôi bây giờ làm bài đi... Hễ chuông đổ là thầy thu bài đấy...
  Chúng lại cúi đầu xuống. Có em ngậm đầu một cây viết chì, có em vẽ nguệch ngoạc lên giấy để suy nghĩ, rán nhớ lại những danh nhân đã được biết. Rồi bỗng có mấy em đưa ngón tay lên xin hỏi:
  - Thưa thầy, con lựa Chúa Kitô được không ạ?
  A! Có biết bao ý nghĩ kỳ dị trong đầu óc những em nhỏ đó! Mà chúng làm cho mình nhiều khi lúng túng chứ, chịu chúng thật!
  - Ờ... được chứ, dĩ nhiên. Nhưng thầy ngại rằng lựa vĩ nhân đó, con sẽ khó viết đấy...
  - Thưa thầy, bà Jeanne D'Arc phải là một vĩ nhân không ạ?
  - Thưa thầy, lựa một con vật nổi danh, có được không ạ?...
  Tôi đành để cho mỗi em tự lãnh lấy trách nhiệm và bảo chúng thôi đừng hỏi nữa, làm bài đi. Một lát sau, viết chì và viết mực bắt đầu đưa tít trên giấy và trong cảnh im lặng của lớp học, chỉ thỉnh thoảng còn nghe thấy tiếng vò một bản nháp hoặc tiếng một cây thước kẻ rớt xuống sàn.
  Nhưng tôi nhận ngay ra rằng trong khi các em khác đã viết hết hàng này tới hàng khác thì em Benoit Trévol vẫn để tờ giấy trắng. Em có vẻ do dự lung. Em rất siêng năng. Không phải là hạng giỏi nhất trong lớp nhưng nhiều lần thấy em chuyên cần mà tôi cảm động. Có ý tứ, và thiện chí thì tôi chắc là không em nào bằng. Đầu đề như vậy mà em có vẻ lúng túng, hoang mang, thì nhất định là có lý do gì quan trọng đây. Thấy em ngơ ngác ngó tôi, tôi ra dấu bảo em lên. Em đứng dậy, rón rén đi qua lớp học rồi bước lên bục, lại sát ghế của tôi. Em đăm đăm ngó tôi, muốn nói mà vẫn còn do dự.
  Tôi nói nho nhỏ để em dễ kể nỗi lòng:
  - Sao Benoit, tại sao con không làm bài? Có cái gì khó khăn không?
  Em thu hết can đảm lại, mặt đỏ bừng, đỏ hơn chiếc áo lạnh em bận nữa, ghé sát tai tôi, hỏi:
  - Thưa thầy, con có thể lựa ba con được không?
  Nghề giáo viên qučn của chúng tôi chẳng có danh vọng gì mà gần như vô vọng nữa. Nhưng có lúc chúng tôi được hưởng những niềm vui thầm kín, nhờ vậy mà quên được hết thảy mọi nỗi chán nản: một em nhỏ mười tuổi, nhón chân lên, tin cậy mình, thì thầm hỏi mình có quyền được nhắc tới ba của em không, cái đó đủ an ủi mười năm âm thầm tận tụy với nghề rồi! Thử hỏi trên đời này, có ông lớn nào, có bậc thiên tài nào, bậc vua chúa nào được nhận bảo vật đó không: những ánh sáng đầu tiên lóe trong óc một em nhỏ, sự nảy nở của một tình cảm mới mẻ! Tôi cảm động vô cùng, và phải gắng bình tĩnh lắm mới khỏi để lộ cho em thấy:- Con tin rằng ba con thực là một vĩ nhân sao?
  Benoit thốt lên, giọng tràn trề quyết tín:
  - Dạ!
  - Vậy thì làm bài mau lên và coi chừng chánh tả đấy nhé!
  Một lát sau, ngọn bút của Benoit cũng đưa lia lịa trên giấy như chúng bạn. Lưỡi thč ra, em chăm chú làm bài cho tới hết giờ.
  Trong thị trấn nhỏ này, ai cũng biết rő ông Trévol, thân phụ của em, nhưng chắc chắn là danh vọng của ông không bao giờ vượt ra khỏi quận. Vừa xúc động, vừa ngài ngại nữa, tôi thắc mắc tự hỏi không hiểu ông có cái gì mà con trai ông coi ông là bậc vĩ nhân. Ông trạc tứ tuần, chẳng có nét nào giống Tyrone Power hay Frenandel
  • .
      Từ khi lại ở thị trấn này, ông làm kỹ sư trong một hãng thuộc da nhỏ ở ngoại ô. Theo tôi biết thì chức vụ của ông trong hãng chẳng có gì quan trọng đặc biệt, và ngày nào ông cũng đi xe điện lại hãng như hầu hết các nhân viên khác. Ông ở tầng dưới một biệt thự có đủ tiện nghi, nhưng chẳng có gì sang trọng, cùng với vợ và hai đứa con. Thỉnh thoảng bà Trévol và nhà tôi gặp nhau ở ngoài phố hoặc ở chợ. Cũng như các bà nội trợ khác, họ hỏi nhau ít câu về giá cải hoa hoặc bơ nhập cảng. Chính tôi cũng đôi khi trò chuyện với ông Trévol. Ông hỏi thăm tôi về sự học, khả năng, sự gắng sức của Benoit. Tôi khen em, nên ông và tôi tử tế với nhau, buổi chiều thứ bảy, ở trong rạp chiếu bóng ra, hễ thấy nhau là nhã nhặn chào nhau. Tôi không nghe ai nói rằng ông có làm chính trị, các công tác xã hội, hoặc ở trong một đoàn văn nghệ, thể thao nào cả. Cũng như mọi người, ông bị động viên năm 1939, nhưng được làm ở lại hãng vì hãng ông cung cấp cho quân đội. Hồi bị quân địch chiếm đóng, ông không hợp tác với địch mà cũng không gia nhập kháng chiến. Ông quả là một người lương thiện, dễ thương, nhưng nói cho ngay, tôi chẳng thấy ông có một chút xíu gì là "vĩ nhân", hiểu theo cái nghĩa tầm thường nhất của tiếng này. Tôi mong được con trai ông phát giác cho tôi biết cái phong độ vĩ nhân của ông ra sao.
      Vì vậy buổi tối hôm đó về nhà, tôi vội vàng lật xấp bài tác văn để tìm bài của Benoit Trévol. Tôi coi sơ sơ các bài khác để xem học sinh của tôi đã lựa những vĩ nhân nào. Vercingetorix, Mermoz, Robin des Bois, Tarzan, Lyautey, Charlot, De Gaulle được nhiều em lựa hơn cả. Tôi nhận thấy có một bài viết về Staline, một bài viết về Thánh Francois ở Assise. Bài của em Annette lại bị lem một vết mực bự, còn Philippe thì cũng lại viết leo ra ngoài lề nữa. Sau cùng tôi gặp được bài của Benoit, và tôi đọc liền, thích thú lạ lùng. Bài đó như sau:
      "Vĩ nhân bậc nhất thế giới mà con được biết, mà con ngưỡng mộ nhất là ba con. Ai cũng biết ba con. Chủ nhật khi gia đình chúng con dạo mát trong công viên, mọi người luôn luôn chào: "Chào ông Trévol". Và con lấy làm hãnh diện. Ba con nắm tay con. Ba can đảm. Buổi tối, tới giờ đi ngủ, ba ra ngoài khép cửa rào lại. Ba không bao giờ biết sợ. Ba cũng rất mạnh nữa: có khi ba bồng má trong tay mà leo cầu thang. Ba cũng rất thông thái. Con thấy cái gì ba cũng biết, biết cả tên các ngôi sao, cũng biết các động cơ chạy ra sao nữa. Hôm nọ máy may gãy, ba đã sửa lại. Ba cũng biết trồng bông trong vườn nữa, và tới mùa xuân, bông nở. Ở hãng, ba chế tạo thứ da tốt nhất thế giới. Vậy mà không bao giờ ba khoe cả: ba không diễn thuyết trong ra-dô, không đăng hình mình lên báo như những người khác. Nhưng chắc chắn là không có bậc vĩ nhân nào hơn ba, cả ở Paris hay ở Mỹ cũng không có.
      Có vài ba lỗi chánh tả nhẹ. Nhưng bài đáng được 18 điểm trên 20. Tuần đó, Benoit Trévol đứng đầu sổ. Dĩ nhiên, bài của em, chỉ hai thầy trò chúng tôi biết với nhau thôi.


    Maurice Pons
      _____
     
  • Những nhân vật nổi danh trên màn ảnh.

saos@ngmo

PHẢI BIẾT CHẾ NGỰ BẢN THÂN


Ba chục năm trước, hồi tôi là một y sĩ trẻ ở Londres, trong số thân chủ của tôi có một cựu giáo viên bị một bệnh nan y. Ông ta mướn một phòng trong căn nhà một gia đình thợ thuyền nọ ở khu Paddington. Ông già tội nghiệp đó có một vẻ gì đặc biệt làm cho tôi cảm kích. Phải chăng là cái niềm vui bình tĩnh, cái nét thanh thản nó tỏa ra từ thân hình già nua mảnh khảnh và từ cặp mắt sáng ngời màu hạt dẻ của ông? Thành thử tôi lại thăm ông thường, cả những khi ông không cần tôi săn sóc.
  Đầu mùa hč, tôi xin được một cơ quan từ thiện cấp cho ông 20.000 quan để ông thoát khỏi cái không khí ngột ngạt trong thành phố mà ra biển nghỉ mát một tháng vì tôi biết ông thích biển lắm. Mười ngày sau tôi thấy ông mệt mỏi, tiều tụy. Ngạc nhiên, tôi hỏi ông tại sao không đi. Ông làm thinh một chút rồi mới thú thực rằng ông không đi nghỉ mát, mà cho hai đứa trẻ của thím chủ nhà đi. Tôi cự ông, ông làm thinh, sau cùng mỉm cười một cách gượng gạo:
  - Bác sĩ ạ, đôi khi cũng nên... nhịn tiêu đi.
  Một tu sĩ vô danh Đức ở thế kỷ XV, Thomas a Kempis sống cô liêu trong tu viện, đã viết câu thâm thúy này, tóm tắt được cả vấn đề đó:
  "Chúng ta không thể hưởng được một sự tự do hoàn toàn nếu chúng ta không hoàn toàn hy sinh bản thân".
  Sự thực, khả năng tự chủ đó là căn bản của mọi đức hạnh, nguồn gốc của mọi tự do. Muốn được tự do về tinh thần thì con người phải làm chủ được bản năng của mình đã. Thánh kinh có câu: "Thà làm chủ được lòng mình còn hơn là chiếm được một châu thành".
  A, nếu chúng ta hiểu được điều ấy? Không tự chủ được thì không rčn được nhân cách, không làm được một sự nghiệp gì có giá trị cả. Những công trình lớn lao, những cuộc đời vẻ vang không phải dễ dàng mà có đâu; phải nghiêm khắc kiểm soát bản thân, thắng được mình và hoàn cảnh rồi mới được hưởng những thành công đó. Nhạc sĩ nổi danh về piano, Paderewski, tóm tắt những gắng sức không ngừng của ông trong câu cô đọng này: "Trước khi thành bậc thầy, tôi đã phải làm nô lệ".
  Người nào tự kiểm soát được mình thì có được cái sức mạnh tự chủ; người đó đã biết lựa chọn giữa hai thứ tự do: một thứ ngụy tự do, tức là hành động theo thị hiếu bất thường của mình; một thứ chân tự do, tức là tự do lựa chọn bổn phận.
  Muốn đạt sự chân tự do đó thì phải theo con đường nào? Nhà vật lý học Nikola Tesla cho ta biết ngay từ hồi nhỏ ông đã tự rčn luyện ra sao:
  - Nếu tôi có một món ăn gì mà tôi thích lắm như bánh hay kẹo, thì tôi đem cho liền, dù là như vậy khổ tâm lắm đấy; nếu tôi có một bài làm hay bài tập nào mà tôi ghét lắm, thì tôi làm liền. Nhiều năm như vậy thì sự xung đột dịu xuống; rốt cuộc sở nguyện và ý chí của tôi không chỏi nhau nữa mà cùng hướng về một điểm.
  Triết gia William James thì "không ai đáng thương hại bằng con người việc gì cũng do dự, dù là đốt một điếu thuốc, uống một ly rượu, định mấy giờ đi ngủ, mấy giờ thức dậy, hay làm một công việc nhỏ nhặt nào cũng phải đắn đo, suy tính".
  Hết thảy chúng ta đều có một tật nào đó, lâu thành thói quen: hút thuốc nhiều quá, uống rượu nhiều quá, phí nhiều thì giờ quá trước màn ảnh truyền hình. Trước hết chúng ta hãy bỏ điếu thuốc lá quá số nhất định đó đi, bỏ ly rượu thứ hai, thứ ba đi. Nếu chúng ta mê coi truyền hình thì hãy khoan đã, đợi làm xong một công việc gì ích lợi rồi hãy coi. Chúng ta ăn nhiều quá ư? Thỉnh thoảng cần nhịn một bữa, có lợi cho sức khỏe, và ta sẽ được hưởng ngay phần thưởng của sự nhịn ăn đó, vì ta sẽ thấy dễ chịu trong người: ăn nhiều quá thì làm hại cơ thể.
  Khi ta thực sự làm cái việc tự chinh phục mình đó thì lý tưởng của ta cao hơn lên, mở rộng ra. Chẳng hạn ta quyết tâm làm công việc một cách chuyên cần hơn, không làm phật ý ai, mà nếu người khác có làm thương tổn lòng tự ái của ta thì cũng không nổi quạu lên. Thắng được những việc nhỏ nhặt, thì chắc chắn sẽ thắng được những nỗi khó khăn lớn hơn; rồi một ngày kia sẽ thấy rằng, tinh thần mình mạnh lên lúc nào mình không hay, mình đã bỏ được những thói quen hồi trước làm cho mình tự khinh mình. Epictčte bảo: "Anh nên sống một đời đạo đức, tập quen gắng sức thì sẽ thấy vui thích".
  Không sao tả được cái nỗi vui khi mình đã khó nhọc tự thắng được mình. Chỉ có mỗi một con đường đưa tới hạnh phúc hoàn toàn là tự mình làm chủ được mình.
  Mà nhân loại thì lại tin - điều này là một ảo tưởng nguy hiểm nhất - rằng càng có tiền nhiều càng sung sướng, chỉ có của cải mới làm cho ta giàu có, phong túc. Ngược dòng lịch sử, chúng ta thấy thời nào cũng vậy, những người đi tìm những hạnh phúc chân chính luôn luôn có một chủ trương hoàn toàn ngược lại. Thi hào Horace nói: "Càng sống thanh bạch thì càng được thần thánh ban nhiều phúc"; ông cho sự xa hoa, phóng đãng, ích kỷ của dân La Mã là những dấu hiệu báo trước sự suy sụp của đế quốc mênh mông đó.
  Những kẻ nào bị thị dục chi phối, chỉ nghĩ tới chuyện hướng lạc thì ở cuối đường đời chỉ thấy sự chán chường, chết rồi thành tro bụi hết. Vậy mà thời đại chúng ta có biết bao nhiêu người coi mục đích chính ở đời là hưởng lạc. Họ miễn cưỡng làm việc và cho sự vui chơi mới là việc quan trọng trong đời người.
  Thế giới ngày nay xáo động trầm trọng; không phải là nhờ sống xa hoa, chơi bời cho thỏa thích, có đủ những tiện nghi vật chất - cái đó chỉ làm cho cơ thể suy yếu, tâm hồn nhu nhược đi thôi - mà nhân loại được cứu rỗi đâu, chính là nhờ tâm hồn và nghị lực của mỗi người. Loài người được trời ban cho cái khả năng tự tạo vận mạng cho mình - theo cái hướng tốt hoặc theo cái hướng xấu - từ trước tới nay đã chế ngự được các thú dữ và thiên nhiên, đã chinh phục được biển cả và không trung, nhưng chỉ khi nào tự chế ngự được bản thân thì lúc nào đó mới được biết sự tự do đích thực và nguồn hạnh phúc chân chính.
A.J.Cronin

saos@ngmo

MARY ! VÔ ĐI CON, VÔ ĐI !


Cứ mỗi năm chúng ta lại có được thêm một mớ hồi ký và niềm vui. Chuyện tôi sắp kể đây là một chuyện vui, rất đặc biệt của tôi hồi năm ngoái, chuyện một cuộc khởi hành mới trong đời người, chuyện một thiếu nữ cài một vòng hoa trên mái tóc nâu để về nhà chồng. Tên thực của em đó không phải là Mary, tôi đã lựa tên đó vì thấy nó rất hợp.
  Tôi nhớ chừng rằng đã gặp em mấy lần đầu cách đây mười bốn năm, vì lúc đó em tám tuổi. Một buổi sáng nọ tôi nhận được một bức thư nói về một em bé bị mọi người bỏ quên, nhờ vậy mà tôi được biết em. Lúc đó em ở trong một viện nuôi các trẻ mà cha mẹ đem lại gởi tạm vì không săn sóc được. Các trẻ đó chỉ ở trong viện một thời gian thôi, nhưng riêng em Mary thì ở lại lâu. Người ta bảo các giấy tờ về em đã thất lạc mấy năm trước từ khi em được đưa vào viện. Không ai biết cha mẹ em là ai, em sanh ngày nào ở đâu, nhưng em có vài nét phương đông. Em không nói, vậy chắc là trì độn. Người viết thư hỏi tôi có thể lãnh em trong cơ quan nhận nghĩa tử mà tôi đã tiếp tay thành lập mấy năm trước không [1].
  Bức thư không có gì đặc biệt trừ điểm này: đứa nhỏ đó không nói, nó trì độn. Tôi đáp rằng rất tiếc cơ quan của tôi là một cơ quan nghĩa tử [2] không giúp gì được nhiều cho em Mary, nhưng nếu tôi kiếm được một nơi nào nhận những trẻ như vậy thì tôi sẽ giới thiệu. Rồi tôi ráng quên em nhỏ đó mà mọi người đã bỏ quên nó.
  Nhưng nửa đêm hôm đó tôi bỗng tỉnh dậy, và tôi hiểu ngay vì đâu một câu hỏi lởn vởn trong đầu óc tôi làm tôi thức giấc. Có thực là em Mary trì độn không? Tôi chưa thấy em. Nhân viên trong cơ quan đó có lòng tốt cả đấy nhưng họ bận việc quá, có lẽ chưa dò xét kỹ cá tính của em nhỏ đó chăng? Việc đó mình phải làm mới được. Tôi bčn dậy viết một bức thư ngỏ ý muốn gặp em Mary và xin người ta cho tôi giữ em vài tháng.
  Ít bữa sau, một bà đã đứng tuổi, vẻ hiền từ, dắt một em gái lại kiếm tôi. Em nhỏ nhắn yếu ớt, cầm một chiếc "xắc" đỏ, thứ rẻ tiền, nhưng còn mới.
  Tôi bảo em:
  - Mary, vô đi con, vô đi !
  Mary đứng yên trong khi bà đó cởi áo ngoài, lột nón cho em. Em không ngước mắt lên mà cứ đứng đợi, tay nắm chặt cái xắc đó, cho tới khi bà đó đẩy nhẹ để em ngồi xuống một chiếc ghế dựa. Bà ta nói với tôi:
  - Nó như vậy đấy. Không bao giờ nhúc nhích, mà cũng không bao giờ nói một tiếng.
  - Bà có điều gì cho tôi biết thêm về em không?
  - Không. Nó như vậy đấy. Nếu không bị thúc đẩy thì nó không làm gì cả. Thế thôi.
  Quả thực là em Mary không làm gì hết. Em ngồi yên mặt cúi xuống, có vẻ không nhận ra mình ở đâu nữa.
  Bà nọ đứng dậy cáo biệt:
  - Nếu có điều chi khó khăn, xin bà cho tôi hay.
  - Chắc không có gì khó khăn đâu.
  Đó câu chuyện bắt đầu như vậy. Rồi mấy tuần kế đó ra sao? Chúng tôi cứ nói chuyện với Mary, coi em như là biết nói vậy. Cũng may, trong lẫm có mấy con mčo con mới sanh và lần đầu tiên tôi thấy em cười khi chơi với chúng. Tôi để em tự do đi đi lại trong nhà tùy ý, và em tập đánh du dưới cây dẻ cổ thụ. Đi đâu em cũng kč kč ôm cái xắc đỏ, không rời một phút. Sau cùng một hôm em để nó ở trên lầu. Chúng tôi mừng, một tia hy vọng lóe ra rồi đây. Mấy ngày sau cũng vui nữa. Em chạy trên bãi cỏ. Em hết sợ bò cái và có khách tới thì em không trốn nữa vì biết rằng người ta lại không phải để bắt em đem đi.
  Sau cùng, hết một tháng thì em bắt đầu nói. Chỉ để xin những vật mà em muốn: một trái cam, một con búp bê, một cái áo đẹp. Hết hai tháng, em đã nói chuyện rồi và chúng tôi quyết định cho em đi học. Chúng tôi tìm được một cô giáo có tinh thần hiểu biết, cô hứa không ép em tập đọc ngay. Trong một thời gian cô để mặc cho Mary ngồi ngó các em khác. Và Mary tập chơi trước khi tập đọc. Sau sáu tháng, thái độ của em làm cho tôi vững bụng. Tôi dắt em lại một nhà tâm lý học để ông kỹ lưỡng trắc nghiệm em. Trắc nghiệm xong ông bảo tôi:
  - Không có gì đáng ngại cả. Em đó hoàn toàn bình thường, chỉ bị một xúc động tinh thần thôi. Có thể nói, em như mất hồn. Bây giờ em đương tự tìm lại em đây. Em phải tự tìm thấy được em đã rồi người khác mới tìm ra được em.
  Tới lúc chúng tôi không thể nuôi em làm con nuôi được nữa vì chúng tôi già quá rồi, không thể làm cha mẹ em được. Nhưng tôi không thể đành lòng cho em đi đâu xa quá thị trấn bên cạnh. Tôi bảo em:
  - Con phải có ba và má trẻ. Còn vợ chồng tôi thì sẽ là ông bà của con.
  Một cặp vợ chồng trẻ nọ muốn nuôi em. Em làm quen với gia đình đó gồm hai đứa trẻ nữa và chịu lại đó ở. Lúc đó em đã hoàn toàn an tâm rồi. Nhưng buổi sáng cuối cùng, khi chia tay, vài giọt lệ lấp lánh trên hàng lông mi đen của em. Tôi làm bộ như không thấy, bảo em:
  - Ngày mai con lại đây tắm với ông bà nhé.Viễn cảnh đó làm em mỉm cười vì em mới tập lội được ít bữa.
  Rồi mấy năm sau ra sao? Chúng tôi mừng rằng càng ngày chúng tôi càng hóa ra không cần thiết cho em nữa, như vậy là em đã vui với gia đình ba má nuôi. Thỉnh thoảng ba má em lại nhờ tôi chỉ bảo. Em tới nhà tôi lần nào là chạy ngay vô lẫm kiếm xem có mčo không.
  Ba má em bảo:
  - Cũng có nhiều lúc khó khăn. Cháu bình thường đấy, nhưng phải gắng sức lắm mới học được. Không biết rồi cháu sẽ học được tới đâu.
  Nhưng mỗi ngày em một diễm lệ lên. Những mái tóc nâu bao khuôn mặt của em. Cặp mắt em hồi trước rầu rầu, lờ đờ có vẻ như nhìn mà không thấy, thì bây giờ sáng ngời, sắc sảo. Bóng dáng em thanh nhã, em có một cái duyên say đắm. Tôi đoán rằng Jonathan bắt đầu để ý tới em hồi ở Trung học. Em Jonathan lớn con, thông minh, mê khoa học và toán. Ba má nuôi em Mary và tôi đều lo ngại. Tôi dặn ông bà đó:
  - Đừng để cho Mary mê thiếu niên đó. Cả hai còn trẻ quá. Tôi không muốn cho nó khổ. Với lại cha mẹ cậu nọ có chịu nhận Mary không? Làm sao cho ông bà ấy biết được Mary thực sự ra sao? Chỉ có thể cho họ biết hiện lúc này đây nó ra sao thôi.
  Ba má Mary là những người thận trọng, coi chừng không cho Jonathan gặp Mary thường quá. Với lại Mary cũng rất bận việc: học may vá, làm bếp. Nghỉ hč, theo cha mẹ đi nghỉ mát, và gặp những thiếu niên khác. Hết Trung học, em lên lớp Dự bị Đại học.
  Sau cùng chúng tôi thấy rằng chúng tôi đã lo ngại hão. Cứ sau mỗi lần xa nhau, hai trẻ lại tìm kiếm nhau. Jonathan, thi cử nhân, đậu cao, được học bổng để chuẩn bị thi tiến sĩ. Từ hai năm rồi, Mary đã đi làm và hãng rất thỏa mãn về công việc của em. Tới lúc bọn trẻ lãnh lấy trách nhiệm. Tôi còn nhớ lần chúng lại thăm tôi. Tối đó là tối mùa đông, trước ngày Noel. Tuyết đổ. Tôi đương ngồi trước lò sưởi, đương nghe một khúc hòa tấu của Brahms. Họ nắm tay nhau, bước vào, má đỏ ửng vì lạnh.
  Jonathan bảo:
  - Chúng con sắp cưới nhau.
  Chúng tôi ngồi nói chuyện cho tới khi củi cháy hết, chỉ còn than. Jonathan tặng Mary một chiếc nhẫn làm quà Noel. Kế đó tôi ra nước ngoài trong vài tháng rồi về ngay để kịp dự đám cưới mà tôi không muốn bỏ lỡ vì bất kỳ một lý do gì. Lễ cưới cử hành một buổi chiều đẹp tháng sáu, trong một giáo đường nhỏ, nơi trước kia Mary đã được rửa tội. Người ta dành cho tôi một ghế ở hàng đầu. Bản hành khúc vang lên. Chúng tôi đứng dậy. Chú rể đứng đợi với cậu phù rể, nghĩa huynh của Mary.
  Tôi quay lại. Đi đầu là bốn cô phù đâu (cô thứ nhất là nghĩa tỉ của Mary) bận áo bằng hàng mỏng màu xanh vỏ trái táo. Rồi tới Mary bận áo sa tanh trắng, chiếc "voan" bằng ren, tay cầm một bó hoa, khoác tay cha tiến tới, mặt tươi rói và diễm lệ. Bây giờ nhớ lại, tôi vẫn còn rưng rưng nước mắt như hôm đó. Không phải khóc vì đa cảm, vì phải xa cháu đâu. Mà khóc vì vui; thế là tôi đã thỏa nguyện. Tôi nhớ lại nét mặt em nhỏ khi người ta dắt lại cho tôi, em nhỏ làm cho người ta tuyệt vọng đó thì bây giờ đây, nhờ tình thương và lòng tin đã biến đổi hẳn rồi.
  Còn một chi tiết nữa làm cho ngày vui đó hoàn toàn. Khi làm lễ xong rồi, khi Mary đã thành vợ của Jonathan, và cùng nhau vui vẻ lanh lẹn bước ra khỏi giáo đường rồi, bà mẹ chồng Mary bước qua gian giữa giáo đường, tiến lại gần tôi, nắm lấy tay tôi bảo:
  - Tôi muốn thưa với cụ rằng vợ chồng tôi lấy làm vinh dự được cháu Mary về làm dâu. Chúng tôi đều mến cháu.
  Bây giờ thì Mary biết mình là ai rồi. Và chúng tôi cũng biết nữa.


Pearl Buck
  _____
  [1] Tác giả, nữ sĩ Pearl Buck, được giải thưởng văn chương Nobel và giải Pulitzer, đã tận tụy cứu giúp các trẻ mồ côi, tàn tật. Bà nuôi chín người con nuôi. Năm 1949 lại thành lập một nhà tiếp nhận các trẻ mồ côi lai Mỹ Á. Gần đây bà lập thêm một hội thiện gọi là Fondation Pearl Buck (hộp thư 2.137, Philadelphie, Pennsylvanie, 19.103) để cứu vớt những con hoang của quân nhân Mỹ bị bỏ rơi bơ vơ ở nước ngoài.
  [2] Cơ quan nuôi các trẻ bơ vơ, gia đình nào muốn nuôi con nuôi thì lại đó tìm lựa.

SEO ngành nghề, cỏ nhân tạo, chuyên sửa máy rửa bát tại hà nội, tình yêu độ xe Mercedes, chuyên sửa chữa tivi tại nhà ở Hà Nội, đặt hàng tượng phật đồ thờ tâm linh làng nghề Sơn Đồng | Điện lạnh Bách Khoa Hà Nội