Menu

Show posts

This section allows you to view all posts made by this member. Note that you can only see posts made in areas you currently have access to.

Show posts Menu

Topics - tinhbanvatoi

#101
không thể không có em

trần thị thanh du

Thanh Bình ! Em đừng đi ! - Nguyệt Bình chợt khóc - Đừng bỏ chị ! Thanh Bình !

-- ...

-- Thanh Bình !

Tiếng gọi của Nguyệt Bình vọng vào hư không tĩnh lặng, làm cho cô bạn ngủ cùng phòng phải bật ngồi dậy

-- Nguyệt Bình !

Đôi mắt nhắm nghiền, Nguyệt Bình vẫn lảm nhảm

-- Thanh Bình ! Thanh Bình ! ...

-- Nguyệt Bình ! Tỉnh lại đi Nguyệt Bình !

Lần này thì cô gái đã tỉnh . Cô mở mắt ra ngơ ngác

-- Hoài Trang !

-- Mi lại nằm mơ nữa à ? Thấy gì mà la hét dữ vậy ? Còn khóc sướt mướt nữa .

-- Ta thấy Thanh Bình , Nó ko chết, nó về đùa giỡn với ta .. Hai chị em đang trò chuyện vui vẻ thì có một người áo trắng đến và Thanh Bình đã đi theo người đó . Ta gọi hoài, Thanh BÌnh cũng ko trở lại .

Hoài Trang đưa khăn giấy cho bạn

-- Lau mồ hôi và nước mắt đi ! Mi nhớ thương Thanh Bình quá nên mới thấy nó hoài vậy đó . Thanh Bình đã chết rồi, mi để cho nó thanh thản được ko hả Nguyệt BÌnh ?

Cô nhìn bạn áy náy rồi nói tiếp

-- Người chết là hết . Thanh Bình cũng đâu muốn bỏ mi mà đi . Tại số phận nó như thế, phải chấp nhận thôi . Mi đừng cứ hoài đau thương, ngày ko ăn đêm ko ngủ, liên tục nằm mơ réo gọi . Cứ đà này, mi ko chịu nổi đâu .

-- Nhưng số phận gì mà khắc nghiệt thế ? Thanh Bình còn quá trẻ, còn hoài bão và cả một tương lai phía trước .

Nguyệt Bình sụt sùi

-- Nếu như ngày trước ta ko cho nó đi học võ thì đâu có kết cục như ngày hôm nay . Tất cả là tại ta .

-- Mi ko thể nói như thế được ! Nếu là số phận thì ko ai cãi lại được ông trời . Cái chết của Thanh Bình tuy là một sự tiếc nuối đau thương, nhưng nó đã mãn nguyện vì mọi người yêu thương nó và nhơ tới nó bằng cả tấm lòng . Huống chi đây là ocn đường nó chọn , ko thể trách ai được .

-- Hoài Trang .

Nguyệt Bình ôm bạn, nước mắt vẫn cứ rơi . Hoài Trang vỗ nhẹ lưng bạn

-- Đừng như thế Nguệt Bình !

-- Ta nhớ Thanh Bình lắm , mi có biết ko ? Ba mẹ mất, hai chị em nương tựa vào nhau mà sống . Thanh Bình là người thân là niềm vui duy nhất của ta . Thế mà bây giờ nó lại bỏ ta mà đi . Hoài Trang, ta ko cần gì hết, ta chỉ cần Thanh Bình trở về với ta thôi .

-- Nguyệt Bình ! Mi cũng biết điều đó ko thể được mà . Nghe ta, giảm bớt đau thương để dưới suối vàng, Thanh Bình nó ko phải lo lắng cho ngươi .

-- Hoài Trang ơi, ngày nào tao cũng nhớ Thanh Bình cả, Sự mất mát này ai hiểu cho ta đây ? Ko có gì bù đắp được cả .

Hoài Trang ôm lấy bạn

-- Ta hiểu được nỗi đau mất đi người thân của mi . Thanh Bình ra đi cũng được hơn một tháng rồi, và trong thời gian ấy mi triền miên trong đau buồn, ko tha thiết gì đến bản thân . MI làm vậy, Thanh Bình có sống lại được ko ? Hay là chỉ làm cho tâm hồn của nó ko được thanh thản ? Nếu thương nó nhớ nó thì mi cần phải nghĩ đến cuộc sống của mình và sống tốt hơn . Có như thế, Thanh Bình mới yên tâm .

-- Nhớ thương phải để trong lòng ?

-- Ừm !

-- Nhưng ngày nào tao cũng nhìn thấy di ảnh của nó, tao ko thể cầm được nước mắt .

-- Thời gian rồi sẽ làm mi giảm bớt thương tâm đau buồn nhưng ko xóa sạch bóng hình và tình thương đâu . - Hoài Trang nói - Biết đâu Thanh Bình sẽ sớm đầu thai làm một con người mới và có một cuộc sống tốt đẹp hơn .

Cô với tay lấy tấm hình bán thân của Thanh Bình xuống

-- Nó sẽ mãi mãi ở bên chị của nó .- Nguyệt Bình sờ lên tấm ảnh - Phải ! Thanh Bình luôn ở bên chị mà phải ko ?

Hoài Trang thì thầm

-- Ko còn Thanh Bình thì mi cũng ko cô đơn đâu . Lúc nào tao cũng ở bên cạnh mi cả .

Nguyệt Bình mệt mỏi

-- Cám ơn mi, người bạn tốt .

Hoài Trang đỡ bạn nằm xuống

-- Bây giờ đi ngủ nhé !

Nguyệt Bình nhìn bạn như có lỗi

-- Ta đã phá giấc ngủ của mi phải ko ?

-- KO sao đâu, bây giờ thì ngủ lại .

-- Hoài Trang này !

-- Nói đi !

-- Ngày mai ta muốn đi làm .

-- Ko được khoẻ thì nghỉ luôn đi . Tổng giám đốc biết hoàn cảnh của mi mà, ko cần phải lo .

-- Nhưng ở nhà hoài ko có gì làm ta lại nghĩ lung tung . Có công việc ta sẽ bớt buồn hơn .

Hoài Trang suy nghĩ

-- Vậy....sáng mai ta cùng đến công ty, giờ thì cùng ngủ nhé !

Nguyệt Bình gật đầu, cô và Hoài Trang nằm quay lưng lại với nhau.

Đêm khuya yên lặng, hai cô gái cùng hai suy nghĩ . Hoài Trang vẫn nghe được tiếng thở dài trăn trở của bạn . Thanh Bình ra đi còn mới mẻ quá, an ủi chỉ để an ủi vậy thôi. Bảo NGuyệt Bình giảm bớt đau thương thì thật khó . Cả cô còn ko chịu đựng được cái chết của Thanh Bình, nói chi người chị ruột của anh, Nguyệt Bình .

Hoài Trang còn nhớ như in những tháng ngày quen biết với chị em Nguyệt Bình, với cô, đó là những chuỗi ngày hạnh phúc nhất . Quê cô ở Cần Thơ, hai chị em Nguyệt Bình ở Đồng Tháp . Cả hai đều là người miền Tây của vùng đồng bằng sông nước . Cô lên thành phố đi học rồi đi làm, Nguyệt Bình cũng vậy. Sau khi tốt nghiệp đại học , xin được việc làm, Nguyệt Bình đưa cậu em trai mình cùng lên vì cả hai ko còn ai thân thích nữa . Ba mẹ mất cách đó hai năm . Sự gặp gỡ của HT và NB tại công ty tài chính Đông Á đã đẩy hai người xích lại gần nhau và thân nhau hơn . Cùng là dân tỉnh lẻ, sống ở thành phố mưu cầu tương lại, HT và NB nhanh chóng trở thành những người bạn đồng cam cộng khổ . Sau nửa năm quen biết, HT đã dọn đến ở chung với NB trong một căn nhà thuê . Họ sống hòa thuận với nhau như những người trong gia đình . HT và NB làm việc tại công ty tài chính Đông Á, còn THanh Bình, em trai NB thì ngoài học phổ thông ra cậu còn tập võ ở câu lạc bộ .

Sống gần mới biết, HT thật sự cảm phục nghị lực, ý chí và lòng kiên nhẫn của chị em NB . Ở quê, Thanh Bình cũng tập võ, thi đấu và đạt nhiều giải cao nên khi lên thành phố, cậu nhanh chóng hòa nhập vào các câu lạc bộ lớn . HT cũng từng xem TB thi đấu, cậu là một tài năng trẻ của quốc gia . Nhưng thật đáng tiếc ... Trong một lần tập với đồng đội chuẩn bị cho giải đấu lớn, TB đã bị chấn thương gãy đốt sống cổ . Được ban huấn luyện và đồng đội đưa đi cấp cứu nhưng vì chấn thương quá nặng nên TB đã vĩnh viễn ra đi . TB ra đi bao ngày là bao ngày NB vật vã trong đau thương . Còn đâu một NB tươi vui tràn đầy sức sống ? Đối diện với cái chết của một tài năng trẻ, ai mà ko thương tâm, nói chi đến TB là em trai của NB . Nhìn NB đau đớn mà bản thân HT ko giúp được gì, cô thấy xót xa vô cùng .

Hình như thượng đế ko công bằng với chị em NB, ba mẹ mất, hai chị em nương tựa vào nhau mà sống, thế mà TB cũng ra đi. Rồi những ngày sau của NB sẽ như thế nào đây, khi một mình cô độc đối diện với nỗi co đơn mất mát ?

HT nghiêng người nhìn NB . Cô cảm thấy thương bạn quá. Cuộc đời sao mà quá tàn nhẫn . Tiếng thở dài của một đêm muộn màng vọng lại . Rồi HT cũng thiếp đi trong giấc ngủ . Cô đâu biết được người bạn kế bên vẫn thổn thức, giọt nước mắt thương tiếc đứa em vắn số lặng lẽ rơi .

o0o0o0o0o0o0

Nhiệm vụ mở màn đã xong . Sau này ai muốn post típ thì cứ post thoải mái nha , vì có lẽ tui ko có nhiều thời gian . Chúc đọc vui vẻ !

Khuyến mại cho các sis một khúc nữa nà !

o0o0o0o0o0o0o
Những tia nắng chiếu qua khe cửa, nghịch ngợm trên khuôn mặt xinh đẹp của HT làm cô giật mình choàng dậy

-- Ơ, muộn quá rồi !

HT bỏ chân xuống giường, xong cô nhìn lại

-- Nguyệt Bình đâu ? Đêm qua nhỏ nhớ thương Thanh Bình và nằm mơ, tâm trạng vô cùng đau khổ ...

Sự lo lắng mơ hồ dâng lên trong lòng, HT chạy nhanh ra ngoài, miệng gọi inh ỏi

-- Nguyệt Bình ! Nguyệt Bình ! Mi đâu rồi ?

--....

-- Nguyệt Bình !

Ko có tiếng trả lời nhưng HT ngửi thấy mùi thơm của trứng chiên . Cô đi lần xuống bếp

-- Nguyệt Bình !

HT tròn mắt khi thấy bạn đang lui cui bên bếp gas

-- Dậy rồi hả ? NB quay lại cười .

-- Ừ, mi đang làm gì đấy ?

-- Điểm tâm sáng cho hai đứa mình .

NB bước lại đẩy vai bạn

-- Vệ sinh đi rồi ăn sáng, chúng ta còn phải đến công ty nữa đó .

Thấy HT cứ tròn mắt nhìn mình, NB quơ quơ tay

-- Ê ! Ko phải là mi còn mộng du đó chứ ?

-- Ơ .... ko .

-- Vậy thì đi vệ sinh đi, ko còn sớm đâu .

-- Ta ...

- Sao ? Mi có gì muốn hỏi ta hả ?

-- Mi ko sao chứ ?

NB xoay tròn

-- KO sao ! Như mi thấy đấy .

-- NB, đừng gắng gượng nhé .

NB bẹo má bạn

-- Ta thấy mi sao sao thì đúng hơn đó, HT ạ . Từ lúc thức dậy đến giờ, toàn nhìn ta hỏi những câu đâu đâu ấy . Có phải đêm qua ngủ ko được nên mệt phải ko ?

- KO phải, ta thấy mi kì lạ quá nên hơi lo thôi .

-- Ta vẫn bình thường mà, chỉ có điều là sẽ ko sống trong đau khổ triền miên nữa . Mi nói đúng, người chết là hết, ko còn gì để lo lắng nữa .

-- NB !

-- Mi thích nhìn ta cười hay nhìn ta khóc ?

-- Đương nhiên thích nhìn mi cười rồi .

-- Vậy còn ko mau...

HT giơ tay

-- Ok, ta đi vệ sinh đây, năm phút nữa sẽ có mặt ngay .

Cô nhảy chân sáo vào nhà tắm, trên môi điểm một nụ cười nhẹ

-- Hèn gì sáng nay nắng rất đẹp .

NB nhìn theo HT, khuôn mặt thật buồn

-- Xin lỗi nha, HT . Ta chỉ có gắng gượng được như thế thôi, để cho mi ko phải lo lắng . Thật ra trong lòng ta, nỗi đau buồn luôn xâm chiếm . Bản thân ta cũng ko biết bao giờ nó dứt và sẽ ngã quỵ lúc nào .

Loáng một cái, HT đã có mặt tại bàn ăn với bộ đồ công sở, cô hít hít mũi

-- Thơm quá, NB ơi !

-- Có đói bụng ko ?

-- Đương nhiên là đói rồi . Đặc biệt hôm nay ta thấy rất đói . Đã hơn một tháng rồi ko có bàn tay nội trợ làm thức ăn cho ta .

HT ngán ngẩm

-- Sáng nào cũng vậy, ko cục xôi thì khúc củi . Trời ơi, ta sợ lắm rồi !

o0o0o0o0o0

Thế thui nghen ! Đọc vui vẻ !
#102
Chàng Trai Không Biết Yêu

Hà Thu

CHƯƠNG 1

- Nhật Hà ! Em còn bao thư không, cho chị xin một cái.

- Hả ! - Dứt mắt khỏi bài tập Anh văn, Nhật Hà nhìn Tịnh Nghi ngơ ngác - Lại xin bao thơ nữa hả? Chị viết thư cho ai mà nhiều vậy ? Mới một tuần đã ngốn của em hết năm cái bao thư rồi.

- Ờ... thì... - Chựng lại một giây khó nói, Tịnh Nghi trợn mắt nạt ngang - Viết cho ai thì kệ tao, còn không thì nói ?

- Còn...

Cho tay vào cặp táp tìm bì thư, lòng Nhật Hà bỗng dậy lên một nghi ngờ: Lẽ nào... chị Tịnh Nghi có bồ rồi. Mà bồ chị ở đâu ? Xa lắm sao mà phải gởi thư ?

Cả tuần nay đúng là chị Nghi có cái gì lạ lắm. Chiều nào cũng không chịu ăn cơm, lo trang điểm, thay đồ đẹp rồi biến mất tiêu đến tối mịt mới mò về. Mà... lần nào về cũng mua quà về cho mình và mẹ. Khi thì mấy chiếc bán plan, khi thì vài miếng rau câu, khi thì chơi sang lại mua cả xúp bóng cua mang về nữa. Chị Tịnh Nghi làm gì có tiền như vậy được. Chà, nguy rồi ! Phải nói ngay với mẹ chuyện này.

- Có chưa ? Mày làm gì mà lâu quá vậy ?

Giọng Tịnh Nghi hối hả bên tai. Nhật Hà ngẩng đầu lên, chưa vội đưa ngay phong bì vừa tìm được :

- Chị gởi thư cho ai vậy ? Nói em nghe với ?

- Không phải chuyện của mày, lo học đi nhóc con.

Giật mạnh phong bì khỏi tay Nhật Hà, Tịnh Nghi tung chân sáo chạy đi ngay đến bên góc nhà, giang sơn nhỏ của riêng mình. Cô ngồi xuống, lôi từ dưới gầm giường ra một chiếc hộp con rồi hí hoáy lo trang điểm.

Bài kiểm tra sáng mai vẫn chưa thuộc chữ nào, nhưng Nhật Hà không thèm quan tâm đến chúng. Hai mươi tuổi, cậu đã đủ trí khôn nhận định. Thái độ của chị chẳng bình thường một chút nào. Nhưng... liệu có nên kể với mẹ không? Lòng Nhật Hà nặng nỗi lo. Mẹ đang bệnh nặng, nếu kể cũng chẳng giải quyết được gì, chỉ làm mẹ bận tâm thêm.

Không nói với mẹ thì làm sao bây giờ ? - Nhật Hà vẽ một vòng trên giấy. Bỏ mặc chị ư? - Mà chị có chuyện gì thế nhỉ ?

Lòng đầy ắp mối tơ vò, nhưng thật sự Hà biết mình sẽ không dám vặn hỏi chị đâu vì... chị sẽ chẳng bao giờ nói, chị sẽ trừng mắt, sẽ nạt ngang rồi bỏ đi một nước. Vì cậu sợ... một nỗi sợ hãi pha lẫn niềm kính trọng thương yêu. Bốn năm rồi... từ ngày mẹ bị tai biến mạch máu não phải nằm yên một chỗ, tất cả mọi việc trong nhà, đều do một tay chị quán xuyến chăm lo tươm tất. Mọi chi phí trong nhà, từ cái ăn, cái mặc, từ thuốc men đến sách vở, học phí của cậu đều đổ lên vai chị. Vất vả, cực nhọc lắm, làm quần quật từ sáng đến chiều, vậy mà chị không nửa lời than thở. Trái lại, chị cười nói suốt ngày, líu lo như chim sáo. Nhiều lúc thấy chị cực nhọc quá, Nhật Hà chỉ muốn nghỉ học phụ chị một tay lo cho mẹ. Nhưng lần nào cũng vậy, nghe cậu nhắc đến chuyện này là Tịnh Nghi lập tức cau mày nhăn mặt, mắng cho một trận :

- Không được nghỉ học đâu nhé, dù chỉ trong ý nghĩ thôi, chị cũng cấm. Gì thì gì... em cũng phải học xong đại học. Chị đã dở dang rồi, bây giờ chỉ còn hy vọng ở mình em.

Nắm tay chị, Nhật Hà rưng rưng nước mắt. Hơn ai hết, cậu hiểu rõ tâm nguyện lớn nhất đời chị Tịnh Nghi. Chị rất muốn trở thành bác sĩ chữa bệnh cho người bởi tấm lòng chị đầy nhân hậu. Nhưng... hoàn cảnh bó buộc chị phải xa mái trường yêu dấu với hai năm học còn dang dở.

Nhật Hà thì không thích ngành Y lắm, cậu thích trở thành nhà kinh tế hơn. Nhưng thương chị, cậu nguyện lòng sẽ trở thành một bác sĩ thật giỏi, nên năm nào cậu cũng được bầu chọn là học sinh xuất sắc.

- Nhưng... chị ơi... - Cuối cùng không thể cãi lời của chị, Nhật Hà đành ôm lấy tay chị bùi ngùi - Chị là con gái, suốt ngày cứ đẩy xe đi giao hàng như vậy, em thật đau lòng quá. Chị có hai năm học Y, sao không tìm một chân hộ tá bác sĩ cho nhẹ nhàng hơn.

- Làm hộ tá lương chẳng bao nhiêu. Với lại... - Nhún vai, chị cười hì hì - Đi giao hàng vui hơn, tiếp xúc được nhiều người, biết đâu... có ngày chị kiếm được một ông chồng xịn.

Tính chị ngang lắm, có cãi cũng bằng thừa. Nhật Hà đành phải cười theo chị :

- Nhưng... chị cũng nên quan tâm đến mình một chút. Đội nón, đeo bao tay, đeo khẩu trang vào, đen thùi lùi như ông Táo thế kia, chẳng ma nào dám để ý chị đâu.

- Hổng dám đâu cưng. - Tịnh Nghi trề dài môi - Nhìn kỹ chị chú mày một lần nữa coi. Đen nhưng người ta đen duyên đấy, có khối người muốn đen như vậy không được đó.

Nói xong, chị bỏ chạy ngay đến bên góc nhà, tìm chiếc hộp con.

Xì ! Nói là đen duyên, là đẹp lắm , là khối kẻ mơ, vậy mà... chị lại vội thoa kem lên đầy mặt, dầy một lớp trắng toát như tô tường vậy.

Mỹ phẩm chị xài toàn hàng nội, rẻ tiền và cũ kỹ lắm. Một lần, lén lấy chiếc hộp con của chị ra xem, lòng Nhật Hà quặn thắt khi nhìn cây son của chị bị cụt đầu gần hết, lại không có nắp. Sinh nhật chị năm đó, Nhật Hà đã bán đi chiếc quần jean đẹp nhất - quà tết của chị - để mua tặng chị một cây son thật đẹp.

Và tuy bị chị mắng thật lâu, nhưng Nhật Hà không cảm thấy buồn vì cậu biết chị thích cây son ấy lắm. Mấy ngày liền, chị cứ tô nó lên môi và bảo màu son này đẹp quá, hệt như màu môi tự nhiên.

Chị Tịnh Nghi đẹp lắm. Nhật Hà không cần thiên vị, khen lấy lòng của chị đâu. Chị có một nét đẹp rất khác người. Hoang sơ đầy ấn tượng, bướng bỉnh và gai góc nhưng cũng không kém phần kiêu kỳ, gợi cảm. Son phấn không làm chị đẹp lên thêm được chút nào, nhưng chị không biết vậy, tối ngày cứ chăm chú lo xài mỹ phẩm. Mẹ bảo tại tính chị như vậy, không bỏ được đâu. Thì ra... hồi thôi nôi, chị bắt cục xôi và cây lược. Hèn gì, bây giờ chị ham ăn và xí xọn quá trời.

Tịnh Nghi trang điểm xong, đang tươi tỉnh đẩy chiếc xe đạp ra. Chị diện đẹp như tiên vậy. Chiếc đầm jean hàng siđa mua không quá mười ngàn, vậy mà mặc vào người chị lại trông sang quá, hệt như hàng hiệu mua trong shop vậy.

- Ở nhà coi chừng mẹ. Một lát chị về sẽ mua quà cho.

Ra đến cổng, Tịnh Nghi còn quay đầu dặn. Nhật Hà dạ to một tiếng phục tùng, trong lúc mắt sáng long lanh nhìn ranh mãnh. Đừng hòng, đêm nay cậu nhất định phải khám phá xem chị đi đâu mới được.

Tịnh Nghi ra khỏi nhà chưa được hai phút, Nhật Hà vội bám theo bằng chiếc xe cuộc cà tàng của chị mua cho năm ngoái. Chị kia rồi ! May mà mặc đầm không tiện chạy nhanh, chứ nếu không thì... việc theo dõi chẳng dễ dàng thuận lợi vậy đâu , bởi chị lên xe là vọt, là phóng còn nhanh hơn con trai nữa.

Qua mấy khúc quẹo, Tịnh Nghi bỗng dừng chân trước một nhà hàng sang trọng. Chị làm tiếp viên ở đây ư? Tim Nhật Hà đập mạnh. Đến gần hơn chút nữa, cậu bỗng thở phào ra một hơi dài nhẹ nhõm. Ồ ! Không phải vậy, chị Tịnh Nghi đi ăm đám cưới thôi. Thì ra, chị xin phong bì để đựng tiền mừng cho cô dâu chú rể. Mình... đúng là quá lo xa.

Không còn nghi ngờ gì, Nhật Hà vui vẻ quay đầu xe, đạp vội về nhà. Nhưng... được một đoạn ngắn, lòng cậu lại dậy lên nỗi nghi ngờ khác. Bạn chị Nghi sao giàu có sang trọng quá... và tại sao họ lại rủ nhau cùng lấy vợ, lấy chồng cùng một thời điểm như vậy nhỉ ? Một tuần dự liền sáu cái đám cưới cùn g một lúc... cũng đáng ngờ lắm chứ ?

Một tuần dự sáu cái đám cưới, tại sao ư ? Nhật Hà không tài nào biết được đâu.

Tịnh Nghi khẽ mỉm cười, cho một con tôm vào miệng nhai rau ráu. Cũng như cô dâu chú rể và toàn bộ thực khách đến dự kia, không thể nào ngờ nổi, cô chính là vị khách chẳng được mời.

Thật đấy, xin đừng vội tròn đôi mắt lên quá ngạc nhiên như vậy. Chuyện không có gì ầm ĩ. Tất cả được bắt đầu từ đầu tuần trước. Thoạt tiên là lời xúi bẩy của bà bếp trưởng khi cô vô tình buột miệng :

- Bác làm món tôm rang me này trông hấp dẫn quá. Cả đời cháu, mẹ cháu và em cháu không biết bao giờ mới được nếm thử các món ngon đến dường này.

- Có gì khó đâu... - Vẫn đều tay trên chiếc bếp cháy đùng đùng, bà bếp trưởng nói tỉnh bơ - Chỉ cần cháu thay một bộ đồ cho lịch sự. Chiều chiều, đến đây giả làm người đi đám cưới là tha hồ được ăn rồi.

- Giả đi đám cưới ? - Mắt Tịnh Nghi ngơ ngác - Nhưng... cháu làm gì... có tiền bỏ bao thơ... mừng cô dâu chú rể... Bác cũng biết lương cháu đâu có bao nhiêu.

- Ai bảo mày đi tiền, con ngốc...

Múc những con tôm vàng ươm ra dĩa, bà bếp trưởng quay lại nhìn Tịnh Nghi trìu mến. Trước cô đã có nhiều người đến đây giao hàng, nhưng bà chưa thấy mến ai bằng cô cả. Cô bé thật thà... tốt bụng, lại chẳng biết tham lam. Mấy lần bà cố ý tính lộn tiền, cô vẫn đem trả lại và không tham một đồng. Vui vẻ, hoà đồng, chẳng hề khó nhọc dù mưa dù nắng, bao giờ cô cũng giao hàng đúng hạn, không trễ một ngày.

- Không đi tiền ư ?

Tịnh Nghi vẫn chưa hiểu. Bà gật đầu giải thích :

- Không. Mày chỉ cần một cái bao thư trắng, bỏ vào thùng cho hợp lệ thôi. Khách hàng mấy trăm người, không ai phát hiện ra đâu, hoặc nghĩ mày đi thế người thân thôi. Mà dù có thắc mắc, người ta cũng lịch sự, không dám đến hỏi mày đâu.

- Nhưng... - Tịnh Nghi cắn cắn ngón tay - Như vậy là ăn lường gạt. Một món ăn hơn trăm ngàn, cháu đi ăn không, lỗ người ta tội nghiệp.

- Cái con thật thà chưa. - Không chỉ bà bếp trưởng, mà khu bếp cùng dậy tiếng cười - Mày không đi, người ta cũng bỏ thôi. Đám cưới bây giờ ế lắm, hiếm khi người ta đi đủ, hôm nào mà không bị dư mấy bàn liền. Mày chỉ đi ăn của phần khách vắng mặt thôi. Đừng áy náy, mày không ăn người ta cũng bỏ cho heo nó ăn thôi.

- Bỏ cho heo ăn ? Trời ơi! Sao uổng vậy ?

Tịnh Nghi kêu trời tiếc rẻ... Rồi tối hôm đó, theo lời bà bếp trưởng, cô đến dự đám cưới bằng cái phong bì không. Lần đầu nên cô run lắm, mắt cứ len lén ngó trước ngó sau, sợ bị người ta phát hiện ra. Nhưng thật là may mắn, không ai phát hiện ra sự dối trá này. Đích thân cô dâu đưa cô đến bàn ăn, còn thân mật hỏi han này nọ.

Ngồi ăn mà lương tâm Tịnh Nghi ray rứt quá, cô biết mình sai, mình đang làm một việc bôi nhọ nhân cách của mình, nhưng lại không sao cưỡng được cái miệng đang hau háu đòi ăn. Bác bếp trưởng nêm nếm vừa ăn quá , trong đời Tịnh Nghi chưa bao giờ được ăn những món ngon như thế.

Bà bếp trưởng nói không sai. Đêm đó, thực khách vắng những bốn bà, cô dâu chú rể buồn thiu, phải đi nài nỉ đám tiêp viên và các anh nhạc công ăn hộ, điều đó phần nào làm lương tâm Tịnh Nghi nhẹ nhàng hơn.
#103
Vị Đắng Tình Yêu
By: Hồng Phượng

Chương 1
Nhè nhè đưa bút chì kẻ sơ viên mắt đen láy, dậm sơ một lượt phân hồng thật nhạt trên đôi má vốn đã ửng đỏ no tròn, Đong Thảo lẩm bẩm .

Thật bực mình ghê đi , Tiệc với tùng ..Ông ta đi hay về mặc Ông ta chớ , ảnh hưởng gì tới nhà này mà phăi đến đo đón mừng . Cũng tại cha mẹ mình nữa , hai ông bà thích thì cứ đi , cớ gì cứ buộc mình phải theo . Cha thì cứ một hai : " Đong Thảo phải đi dự tiệc đấy " . Mẹ lại " Mẹ không muốn con vắng mặt tối nay" . À ! Bà còn dặn thêm nữa chớ . Con nhớ trang điểm cẩn thậ nhé, Mẹ muốn con me phải la ngôi sao sáng chó c?a buổi tiệc tối nay ....

Buông mạnh cây son xuống bàn phấn Đông Thảo dùng dằng bước lại tủ quần áo . Hai cánh tủ lớn chật kín những bộ quần áo đầy màu sắc : từ màu trắng khiêm nhường đến nhửng màu sậm khiêu kỳ nhất , từ chiếc áo dài đơn sơ đến những chiếc đầm , dài ngắn khác nhau , thế mà ... ĐT vẩn chưa chọn đưỢc chiếc nào vừa ý .

Cuối cùng nàng quyết định sẽ mặc chiếc đầm trắng có những viền đăng ten cùng màu rủ mềm theo triền áo , trông khá xin xắn .

Mang chiếc áo rời khỏi tủ , ướm lên người , ĐT bước lại chiếc gương lớn ở góc phòng , ngắm nghía . Cô buột miệng :

- Ôi chao ! Một cô bé còn thích ô mai ...

ĐT lắc đầu :

- Không được ! Trẻ con quá .

Cởi chiếc áo ra , ĐT định máng lại chổ cũ . Nhưng rồi sực nhớ buổi tiệc dự ngoài ý muốn , ĐT khựng lại , chắt lưỡi :

- Thôi , mặc kệ ! Càng con nít càng tốt , khỏi bị ai quấy rầy . Thâm tâm mình đã không thích đi kia mà

Tiếng bà Vạn Phát - mẹ ĐT - vẳng lên :
- Thảo ơi ! Sửa soạn xong chưa con ? KhôNg khéo lại trể giờ mất !

ĐT hét to lên :

- Vâng . Mẹ ơi ! Con xuống ngay đây nè !

Vội vã cài chiếc nơ trắng lên mái tóc den mượt mà , ĐT chạy nhanh xuống lầu . Bà Vạn Phát kêu lên , vẻ phiền trách :

- Thảo ! Sao con không đàng hoàng trong đi đứng chút nào vậy ? Con gái lớn rồi , buông ra là nhảy .

Giật mình , ĐT bước chậm lại , đánh trống lãng bằng câu nói nũng nịu :

-Mẹ ! Mẹ xem con gái mẹ như thế này được chưa ?

Bà VP quên ngay sự bực dọc ngó con , mĩm cười vẻ hài lòng :

- Ờ ... Đâu , đứng ngay ngắn lại để mẹ ngắm kỹ xem nào ! - Quay qua chồng , bà gật gù - Anh xem , con gái chúng ta đẹp thật , phải không ? Chắc chắn đêm nay mọi người sẽ điêu đứng vì con bé .

ĐT giãy nảy :

- Mẹ ! Mẹ cứ trêu con hoài , con chẳng thèm đi dự tiệc cho coi . Còn mẹ , bộ mẹ không đẹp sao ?

ĐT nháy mắt với mẹ , nàng nói tiếp :

- Mẹ nhớ hôm mẹ dẩn con đi sắm đồ không ? Ông chủ shop cứ ngó mẹ trân trối và còn mời mọc :" Hai chị em vào mua đồ giùm anh đi !" Gián tiếp , ông ta khen mẹ trẻ và con thì đã già , con buồn ghê !

Bà VP đỏ bừng mặt . Tâm lý chung của phụ nữ ai củng thích được khen trẻ , khen đẹp , dù người khen là con mình . Liếc nhìn chồng thật nhanh , bà nạt ngang :

- Thôi , đừng nói bậy bạ hoài vậy ! - Nhìn vào đồng hồ , bà hốt hoảng - Chết ! Đã sáu giờ bốn mươi lăm rồi . Nhanh lên , kẽo trễ .

Ông VP đến lúc này nới lên tiếng :

- Vậy mà tôi cứ ngỡ hai mẹ con bà định ở nhà khỏi đi chớ . - Quay qua ĐT - Còn cô , liệu mà nhõng nhẽo cho nhiều vào đi , mai mốt giỏi làm nũng với chồng đó !

Nói xong , ông bước nhanh ra cửa , ĐT quên bẳng ngay lời mẹ dặn cô phóng nhanh theo , nắm lấy tay cha lắc lắc :
- Ba ơi ... ba à ! Con không lấy chồng đâu nha . Con ở hoài với ba mẹ , nhất định chẳng theo ai cả .

Bà VP giơ tay cốc nhẹ đầu ĐT :

- Cô nói thì phải nhớ lời đấy nhé .

ĐT hếch mũi :

- Thưa mẹ ạ , rồi mẹ sẽ thấy .

Ông VP quay lại thúc hối :

- Thôi , nhanh lên nào !

Chiếc xe du lịch màu trắng bạc lướt nhẹ trên phố . Ngồi một mình ở băng sau , ĐT tha hồ vẩn vơ ...


Nhìn mẹ , ĐT nghĩ thầm :

" Mẹ còn trẻ thật ". Chiếc áo nhung màu đỏ thẫm bó sát người làm nổi bật làn da mịn màng , đường cong mềm mại tuyệt mỹ do khéo giữ gìn , dù mẹ đã quá bốn mươi . Nhất là ánh mắt , vẩn còn rực sáng vẽ quyến rủ của người phụ nữ một thời sắc nước hương trời . ĐT đã thừa hưởng ở mẹ cặp mắt chết người này . Bởi thế , trong trường , ngoài tên " cúng cơm " Vũ Trần Đông Thảo , cô còn có biệt danh " Thảo mắt nhung ". Chính Xuân - người yêu của Thảo - củng thường thì thầm :

" Mắt em là một dòng sông

Thuyền anh bơi lội trong dòng mắt em "

Hơi chồm lên băng trước . ĐT đưa tay vuốt nhẹ làn áo mẹ , nói nho nhỏ :

- Mẹ ơi ! Bao giờ mẹ không thích chiếc áo này nữa hả mẹ ?

Bà VP ngạc nhiên , quay lại nhìn ĐT :

- Để chi vậy T ? A ... Mẹ biết rồi , có phải con thích nó không ?

ĐT đỏ mặt thú nhận :

- Vâng mẹ ạ . Thật đúng là mẹ nhất , nhất , nhất . Mẹ biết ý con hết trơn hà .

- Thôi đi cô ơi , thích thì cứ nói tôi mua cho , đừng làm bộ khen thôi mãi .

Lắc đầu nguẩy nguậy , ĐT giả vờ chân thật :

- Mẹ lúc nào củng nghi ngờ con cả , hỏng thèm chơi với mẹ nửa đâu .

Bà VP bật cười :

Nào, nào, xem cái mặt giận dỗi kìa ! Cô ơi ! Cô biết cô mấy tuổi rồi không ?

Đông Thảo mỉm cười :

- Mới 19 chớ bao nhiêu mẹ .

Bà Vạn Phát mắng yêu con

- Mười mấy tuổi mà mẹ chả thấy con lớn chút nào hết, cứ vòi vĩnh ba mẹ mãi . Được rồi, chủ nhật này, mẹ sẽ đưa con lại chỗ cũ, cắt cho con một chiếc áo giống hệt . Sao, chịu chưa ?

Mừng rỡ, Đông Thảo nhích lên định hôn mẹ, bỗng đụng tay ông Vạn Phát khiến tay lái hơi chuệnh choạng . Ông bực mình càu nhàu .

- Hai mẹ con bà sao rắc rối quá ! Có ngồi im không nào, để tôi lái xe chứ .

Bị ba rầy, Đông Thảo giận dỗi ngồi phệt xuống băng xe, suy nghĩ vẩn vơ . Không hiểu sao lúc này ba thường hay cáu gắt, bực dọc quá ? Hay là ở công ty có việc gì ? Thật ra, công việc của ba mẹ ra sao, Thảo ít bận tâm đến . Sinh ra và lớn lên trong một gia đình nức tiếng giàu có ở Sài Gòn này, cha Thảo hiện điều hành công ty xuất nhập khẩu hải sản, một công ty đang ăn nên làm ra, nhắc đến giám đốc Vũ Vạn Phát, ít ai không biết, cuộc sống vật chất được ưu đãi từ thuở nhỏ, nên Đông Thảo chưa hề biết nghèo khổ, thiếu thốn là gì . Hễ Đông Thảo muốn gì là ba mẹ đáp ứng ngay, từ quần áo, tiêu xài cho đến những phương tiện đi lại .

Quần áo toàn vải vóc sang trọng, cắt may ở những hiệu nổi tiếng, vòng vàng sáng rực chẳng thiếu món gì . Lúc nhỏ đi học, có tài xế đưa đón , vào cấp III, Đông Thảo được ba mẹ thưởng chiếc Spacy bóng loáng .

Sống trong nhung lụa cao sang thế, sao Đông Thảo rất giản dị, khiêm tốn từ ăn mặc đến nói năng, nên bạn bè cùng khoa cùng lớp rất thích chơi với cô .

Đông Thảo chợt nhíu mày . Không hiểu sao gần đây, mỗi ngày đi làm, mẹ đều lấy xe cô, khiến Thảo phải đi quá giang Thanh Loan để đến trường . Thế xe mẹ đâu nhỉ ? Phải hỏi lại mẹ mới được !

Nhớ tới Thanh Loan, Đông Thảo thấy buồn bực ghê . Thảo và Loan chơi thân với nhau hồi cấp II, hiện đang cùng là sinh viên năm thứ nhất khoa ngoại ngữ của trường đại học Tổng Hợp . Thảo và Loan giống hệt như hai chị em sinh đôi . Tuy đôi lúc có giận hờn nhưng chỉ như những cơn mưa bóng mây tan nhanh và Loan là người luôn chịu lùi bước trước . Lẽ ra, giờ này Thảo đang cùng Loan vui chơi thỏa thích ở tiệc sinh nhật của Lan Trinh, bạn học cùng lớp, nhưng ba mẹ nàng đã quyết liệt, sự quyết liệt xưa nay chưa từng xảy ra, vì ông bà Vạn Phát luôn cưng chiều cô con gái duy nhất . Ông Vạn Phát nghiêm khắc :

- Con còn thiếu gì dịp để dự sinh nhật bạn mình, năm nay không dự thì năm tới . Riêng buổi tiệc hôm nay ... Mà thôi, con chỉ cần biết cơ hội không đến hai lần . Ba mẹ nhất định rồi, không được cãi lời !

Đông Thảo cố cãi bướng, vì Thảo nghĩ mẹ vẫn thường muốn cô vui kia mà .

- Mẹ ơi ! Con đã lỡ hứa rồi mà mẹ , mẹ xin ba giùm con đi nha mẹ ! Nha mẹ !

Nhưng bà Vạn Phát lại đồng tình với chồng :

- Mẹ đã nói rồi, con phải đi thôi . Con biết không ? Được mời dự tiệc tối nay là cả vinh hạnh đó
Đông Thảo rơm rớm nước mắt . Lỡ hẹn với Loan rồi sao đây, còn bạn bè nữa . Và Thảo nghe mắt hơi cay cay khi nghĩ rằng đêm nay Vĩnh Xuân sẽ buồn nhiều vì thiếu cô, mà điều đó Đông Thảo không muốn bao giờ . Thấy con muốn khóc, bà Vạn Phát vừa vỗ về, vừa nài nỉ :

- Thôi, con hãy nghe ba mẹ đi Đông Thảo ! Mẹ chỉ xin con một lần này thôi .

Thấy mẹ nài nỉ, Đông Thảo không giữ lòng được đành phải vâng lời . Vì Thảo vẫn được khen là hiếu thảo kia mà .

Nghĩ tới lát nữa vào tiệc, Thảo sẽ tìm cách đối mặt với ông Thái Hoàng Đăng Huy nào đó, để xem ông ta là người như thế nào mà cha mẹ Thảo cũng như mọi người đều nể trọng, khi nhắc đến, và " kiểm tra " xem lời đồn đãi về một Đăng Huy coi đàn bà như món đồ trang sức là đúng thật không ? Nếu cần, Đông Thảo sẽ cho ông ta biết tay . Đông Thảo này là cỏ lạnh, cỏ mùa đông kia mà !

Bà Vạn Phát bỗng quay đầu lại, giọng nghiêm trang :

- Đông Thảo ! Mẹ dặn con điều này, nếu đến đó có gặp gia đình Thái Hoàng Đăng Huy, con nhớ nói năng đàng hoàng lễ phép, đừng để người ta cười ba mẹ đấy !

Nghe mẹ dặn, không kiềm chế được, Đông Thảo bật cười khanh khách . Ông Vạn Phát chau mày nhìn con . Hoảng hồn, Đông Thảo giơ bàn tay lên bịt miệng lại . Đông Thảo bật cười vì chợt nhớ đến ban nãy khi nghĩ về Đăng Huy , thế mà
giờ mẹ cô lại dặn dò này nọ .... khiến Đông Thảo không thể nín cười được . Không nghe Đông Thảo trả lời chỉ nghe tiếng cười khúc khích nhưng cố nén, bà Vạn Phát bực mình , gay gắt :

- Con làm cái trò gì vậy , Đông Thảo ?

Đông Thảo ấp úng :

- Dạ ... dạ ... đâu có gì mẹ .

- Vậy chớ sao tự dưng con cười ---- Bà bực dọc --- Thật con gái gì mà lạ lùng, lúc nào cũng cười giỡn được cả . Con không thể thuỳ mẹ chút sao Thảo ?

Đã lấy lại tính bướng bỉnh thường ngày, Đông Thảo chu môi, hếch mặt lên :

- Con nhớ chuyện trong trường mà

- Thật rõ trẻ con ! --- Bà Vạn Phát thở dài, giọng hơi rắn lại : ---- Mẹ dặn con những gì, con có nghe không ?

- Dạ thưa mẹ, có ạ ! -- Đoạn Đông Thảo nói làu làu như trả bài --- Thưa mẹ, mẹ dặn : " Thảo này ! Khi đến nhà người ta nhớ đi đứng, ăn nói cẩn trọng , ư... a... coi trước ngó sau, đừng để người ta chê cười .. ư... a... ba mẹ không biết dạy con " . Hết

Bà Vạn Phát phì cười, bà tặc lưỡi :

- Hết nói nổi ! Không biết chừng nào con mới bỏ được tính lì lắc này .

Ông Vạn Phát nãy giờ lặng thinh không góp chuyện, nhưng nét mặt thoáng cười trước hành động của hai mẹ con . Ông nhủ thầm :

" Đúng là cả mẹ lẫn con đều là trẻ con ! " -- Chợt ông Vạn Phát nhíu mày " Biết rồi đây, trong gia đình này, có còn giữ mãi được tiếng cười hạnh phúc như hôm nay không ? "

Một tiếng thở dài lặng lẽ, uất nghẹn .....

#104
Nguồn được lấy từ: nguyentl.free.fr





#105
Văn xuôi / Ruồi trâu
12/01/07, 21:20

Ruồi trâu


Hà Ngọc dịch
Phần thứ nhất - Chương I
Chương I

Áctơ ngồi trong thư viện trường dòng thánh Pidơ (1), đang lần giở từng tập bản thảo những bài giảng đạo. Đó là một chiều tháng sáu oi ả. Khung kính các cửa sổ đều mở toang, cửa chớp khép nửa chừng. Môngtaneli, cha giám đốc trường, ngừng viết và âu yếm nhìn mái tóc đen cặm cụi trên những trang giấy.
- Không tìm thấy ư, carino (2)? Không sao. Phải viết lại thôi. Chắc cha xé tờ ấy đi rồi làm con phải phí công ngồi lại.
Tiếng Môngtaneli cất lên khe khẽ, nhưng rất lắng sâu và du dương. Giọng trong như bạc làm cho tiếng nói có một sức quyến rũ lạ thường. Đó là tiếng nói của một nhà hùng biện bẩm sinh, một thứ tiếng nói uyển chuyển giàu âm điệu. Mỗi khi cha giám đốc nói với Áctơ thì lúc nào tiếng nói ấy cũng đượm vẻ trìu mến.
- Không, thưa cha (3), con sẽ tìm thấy. Con chắc chỉ ở đâu đây thôi. Nếu cha có viết lại thì cũng chẳng được như cũ đâu.
Môngtaneli lại tiếp tục công việc đang bỏ dở. Một con bọ dừa vo ve độc điệu ở đâu ngoài cửa sổ. Từ ngoài đường phố vọng lại tiếng rao kéo dài và não nuột của một người bán hoa quả : "Dâu tây đây! Dâu tây đây!" (4)
- "Giảng về chúa và những người tật phong" (5) đây rồi.
Áctơ tiến lại gần Môngtaneli với những bước đi nhẹ nhàng. Những bước đi ấy lúc nào cũng làm cho người nhà Áctơ bực bội. Dáng người mảnh khảnh yếu ớt, Áctơ giống như người Ý vẽ trong tranh thế kỷ mười sáu hơn một chàng trai trẻ của những năm ba mươi (6) sinh trưởng trong một gia đình tư sản Anh. Mọi vẻ ở anh đều hết sức xinh đẹp như tạc vậy. Đôi hàng lông mày dài như hai mũi tên, đôi môi mỏng, chân tay nhỏ nhắn. Khi anh ngồi yên người ta có thể cho anh là một cô gái yêu kiều giả trai; những cử chỉ mềm dẻo của anh lại làm cho người ta nhớ tới một con báo đã thuần, một con báo không nanh vuốt.
- Tìm thấy thật ư? Áctơ ạ, không có con thì cha chẳng biết làm thế nào. Có lẽ rồi lúc nào cha cũng đánh mất đồ đạc... Thôi chẳng viết nữa. Đi ra vườn đi, cha sẽ giúp con học bài. Chỗ nào không hiểu, hở con?
Họ bước vào một khu vườn im ả, đầy bóng mát của trường dòng. Ngày xưa, ngôi trường vốn là một tu viện rất cổ kính của dòng Thánh Đôminích (7), nên hai trăm năm trước đây khu vườn vuông vắn này được chăm bón rất chu đáo. Đôi bờ hoàng dương đều đặn viền lấy khu đất trồng cỏ thơm và cắt xén gọn ghẽ. Những tu sĩ mặc áo trắng xưa kia chăm bón những cây cỏ này đã bị chôn vùi và lãng quên từ lâu rồi, nhưng giờ đây trong những buổi chiều hè êm dịu cỏ thơm vẫn cứ ngào ngạt mặc dù không còn ai lấy cỏ về làm thuốc nữa. Ngày nay những nhánh cần dại Hà Lan và rau sam đã mọc lởm chởm giữa những kẽ đá trên lối đi. Giếng nước giữa vườn mọc đầy cỏ lưỡi mèo. Những gốc hồng bỏ thành hoang dại; những cành hồng dài chằng chịt lan theo mọi lối đi. Những đoá mào gà đỏ choé giữa những bụi hoàng dương. Những nhánh mao địa hoàng cao lớn ngọn loà xoà trên thảm cỏ. Còn cây nho không người tỉa bón và cằn cỗi thì cũng rung rinh lả ngọn trên cành một cây sơn trà đang buồn bã gật gù chiếc chỏm um tùm.
Ở góc vườn sừng sững một cây mộc lan với chòm lá xum xuê, xanh thẫm, lơ thơ điểm hoa màu trắng sữa. Cạnh thân cây mộc lan là một chiếc ghế gỗ thô sơ. Môngtaneli ngồi xuống chiếc ghế ấy.
Áctơ học triết học ở trường đại học. Hôm ấy gặp một đoạn khó trong sách, anh đến xin cha giảng giúp. Tuy Áctơ không học ở trường dòng song đối với anh Môngtaneli là cả một pho từ điển bách khoa.
Khi nghe cha giảng xong những đoạn khó hiểu, Áctơ nói:
- Thôi, xin phép cha, con về thôi. Chẳng hay cha còn có điều gì cần đến con không?
- Thôi, cha không làm việc nữa đâu. Nếu con có thì giờ thì ở lại với cha một chút.
- Tất nhiên con có thì giờ!
Áctơ tựa lung vào thân cây, và qua đám cành lá um tùm anh ngắm nhìn những vì sao đầu tiên run rẩy trong bầu trời yên tĩnh và sâu thẳm. Dưới hàng mi đen, đôi mắt xanh biếc của anh mơ màng và bí ẩn. Đôi mắt ấy là di sản của bà mẹ người miền Coócuên (8). Môngtaneli quay mặt đi để tránh phải nhìn đôi mắt ấy.
Môngtaneli nói:
- Sao con có vẻ mệt mỏi thế, carino?
- Biết làm sao được, thưa cha.
Môngtaneli cảm thấy ngay vẻ mệt mỏi chứa chất trong giọng nói của Áctơ.
- Con vội vào đại học như thế làm gì, hở con? Thời gian chăm sóc mẹ con ốm và những đêm không ngủ đã làm con kiệt sức. Lẽ ra cha phải bắt con nghỉ ngơi đầy đủ rồi mới rời khỏi Livoócnô (9).
- Nghỉ làm gì thưa cha? Sau khi mẹ con mất đi, con không thể nào ở lại ngôi nhà thảm hại đó được. Giuli làm cho con phát điên mất.
Giuli là vợ người anh cả cùng bố khác mẹ và từ lâu đối với Áctơ là một chiếc gai nhọn.
Môngtaneli nói:
- Cha cũng không muốn con ở với anh em bà con đâu. Cha biết điều đó làm con rất đau lòng. Nhưng sao con không nhận lời mời của người bạn bác sĩ người Anh, đến đó chơi một tháng rồi hãy về học?
- Không, thưa cha! Con cũng chẳng muốn thế. Gia đình nhà Uaren tuy đối xử tốt và thân tình, nhưng họ cũng không sao hiểu được con. Họ có vẻ thương hại con. Trông mặt họ cũng đủ biết. Đến đấy họ sẽ lại khuyên dỗ, lại nhắc đến mẹ... Giêma thì chắc chắn không thế đâu. Giêma bao giờ cũng cảm thấy được chuyện gì là không nên nhắc tới. Ngay từ lúc chúng con còn bé, Giêma đã thế rồi. Còn những người khác thì không được như vậy đâu. Nhưng cũng chẳng phải vì thế mà thôi...
- Vậy còn vì sao nữa, con của cha?
Áctơ ngắt mấy bông hoa trên cành mao địa hoàng lả ngọn, và bực bội vò nát trong tay.
Sau giây lát yên lặng, Áctơ nói tiếp:
- Sống trong thành phố đó, con không sao chịu nổi nữa. Con không muốn nhìn thấy những cửa hàng xưa kia mẹ con đã đến mua đồ chơi cho con và cả con đường bờ sông mà con vẫn đưa mẹ con đi chơi khi mẹ con chưa ốm nặng. Đi đến đâu cũng gặp cảnh như vậy. Các cô gái bán hoa trong chợ lại cứ mời con mua hoa như xưa... Họ tưởng đâu bây giờ con vẫn cần mua hoa thì phải? Rồi cả khu nghĩa trang nữa... Không, con nhất định phải rời khỏi thành phố đó! Nhìn thấy cảnh cũ con đau lòng lắm.
Áctơ nín lặng. Anh ngồi, tay xé nhỏ từng chiếc chuông nhỏ trên nhánh hoa mao địa hoàng. Phút im lặng kéo dài nặng trịch khiến Áctơ phải đưa mắt nhìn cha, không hiểu sao cha lại không trả lời. Bóng chiều dần tắt dưới những cành mộc lan. Mọi vật đều trở nên u ám mơ hồ, nhưng ánh sáng vẫn chưa đủ để trông thấy bộ mặt trắng bệch như da người chết của Môngtaneli. Môngtaneli ngồi, đầu cúi gục, tay phải nắm lấy mép ghế, Áctơ quay mặt đi. Anh cảm thấy lạ lùng và kinh hãi, dường như đã vô tình lọt vào nơi đất thánh vậy.
Áctơ thầm nghĩ:
"Trời ơi! Sao so với cha thì ta bé nhỏ, yếu hèn và ích kỷ đến thế! Nếu nỗi khổ của ta không phải là nỗi khổ của cha thì cha đâu đến nỗi cảm thương đến như vây".
Môngtaneli ngẩng đầu nhìn xung quanh rồi âu yếm nói:
- Thôi, bây giờ cha không ép con phải trở về đấy nữa. Nhưng con phải hứa với cha rằng dịp nghỉ hè này con sẽ nghỉ ngơi thực sự, mà nghỉ ở nơi nào xa Livoócnô thì tốt hơn. Cha không muốn để con hao phí sức khoẻ.
- Trường dòng đóng cửa nghỉ thì cha đi đâu, thưa cha?
- Cũng như mọi lần, cha sẽ dẫn học sinh lên nghỉ trên núi. Cha phó giám đốc đi nghỉ mát đến trung tuần tháng tám sẽ về. Lúc ấy cha sẽ đi du ngoạn trên dãy núi Anpơ. Ừ nhỉ! Hay là con đi với cha? Cha sẽ đưa con đi rong chơi trong núi sâu và con sẽ có dịp tìm hiểu các loài rêu trên núi Anpơ. Nhưng cha chỉ sợ đi với cha con sẽ chán thôi.
- Thưa cha! – Áctơ nắm chặt tay. Thói quen ấy Giuli gọi là "cái lối kiểu cách của người ngoại quốc" – Con có thể từ bỏ mọi thứ trên đời này để đi với cha! Nhưng con không tin rằng...
Áctơ ngưng bặt.
- Con sợ anh Bớctơn không cho phép con đi chăng?
- Tất nhiên anh sẽ không hài lòng nhưng anh không cản được con và cha. Con đã mười tám tuổi đầu, con muốn làm gì con làm. Hơn nữa anh ấy với con chỉ là anh em khác mẹ, con không nhất thiết phải phục tùng anh ta. Đối với mẹ con, anh ấy bao giờ cũng tỏ ra không tốt.
- Nhưng dù sao nếu anh Bớctơn không thuận thì cha thiết tưởng con nên nhịn là hơn. Tình cảnh của con trong gia đình có thế khó xử hơn nhiều nếu...
- Khó xử hơn ư? Chưa chắc! – Áctơ nóng nảy ngắt lời – Họ đã ghét con thì dù con làm gì đi nữa họ cũng vẫn ghét. Vả lại, con đi với cha... là cha linh hồn của con thì anh ấy phản đối sao được?
- Con nên nhớ rằng anh ấy theo đạo Tin lành! Cứ nên viết thư hỏi anh ấy thì hơn. Xem anh ấy trả lời ra sao. Đừng nóng vội con ạ! Thái độ của ta đối với mọi người không thể chỉ vì rằng người yêu ta hoặc ghét ta.
Lời thuyết phục ấy thốt ra một cách nhẹ nhàng đến nỗi nghe xong Áctơ đỏ mặt. Anh thở dài đáp:
- Vâng, con biết. Nhưng làm được như vậy thật là khó.
- Cha rất tiếc là thứ ba vừa qua con đã không đến được – Môngtaneli đột nhiên lảng sang chuyện khác – Cha định đẻ con biết mặt đức giám mục từ Arétxô (10) đến.
- Hôm đó con đã trót hứa đến chơi nhà một người bạn học. Ở đấy có cuộc họp, mọi người đều đợi con.
- Họp gi?
Áctơ dưòng như luống cuống vì câu hỏi đó.
#106
Văn xuôi / Làng bên kia sông
10/01/07, 10:56
TRUYỆN NGẮN
 
Làng bên kia sông
Phạm Đức Long


Làng Lợt ở bên kia sông. Mùa khô nước cạn, lòng sông trồi lên toàn đá trọc đầu. Chiều chiều lớn nhỏ trong làng đều ra sông lặn ngụp, phơi mình trên cát, ngồi trên những hòn đá trơn nhẵn tắm nắng. Mùa khô con nước hiền hòa như vậy, song đến mùa mưa dòng sông cuồn cuộn, lắm lúc rất dữ dằn.

Hoa về dạy học ở làng Lợt được bảy năm. Bảy năm là khoảng thời gian đủ để cho người ta gắn bó với một vùng đất.

Trường làng có ba cô giáo. Cô Hường đứng tuổi đã lấy chồng người Ba Na ở luôn trong làng. Cô Thanh trẻ hơn chưa lập gia đình. Hoa lấy chồng bộ đội ở bên này sông.

Làng Lợt nằm trong một thung lũng bên sông. Cả làng chỉ có một hộ người Kinh cư trú. Họ có một căn nhà ở ngoài huyện, con cái ăn học ở đó. Hai vợ chồng thường thay phiên nhau cõng hàng vào làng, đổi các sản vật của rừng đem về huyện bán lấy tiền. Ðã nhiều năm, ngôi làng Ba Na này di chuyển đến đâu, họ đều đi đến đó, làm nên cuộc sống cộng sinh bền bỉ. Nhờ họ mà làng biết đồng tiền. Nhờ họ mà làng có rượu đế để uống. Nhờ họ mà làng có thuốc lá để hút, có cá khô để ăn...

Làng sống giữa vùng đất nguyên sinh, lại gần rừng, gần sông nên lúa gạo, thực phẩm rất dồi dào. Những năm đời sống giáo viên còn khó khăn, thiếu gì, các cô giáo đều được đồng bào đem cho. Từ con cá, con gà, đến gùi gạo, gùi măng, đọt bí, rau rừng. Hồi tất cả còn độc thân, ba chị em cùng ở lại trong làng. Ðến lúc Hoa lấy chồng bộ đội, phải qua sông với chồng. Rồi đến cô Hường lấy chồng, chỉ còn trơ trọi mỗi mình cô Thanh.

Làng Lợt ở cái thế mưa không ngập, nắng không hạn, thiên nhiên hiền hòa, đất đai màu mỡ tốt tươi. Ðời người từ khi mới sinh ra đã không phải quá lam lũ tìm cái ăn. Việc trồng tỉa chỉ làm một tháng ăn một năm. Ngoài ra sản vật của núi rừng sông suối thì mùa nào thức ấy. Từ măng le, rau dớn, nấm rừng, đến chim thú, cá sông... thức nào cũng sẵn.

Người làng Lợt vì thế sống rất hào phóng, vô tư. Trẻ em sinh ra cứ chơi mãi cho đến tuổi tay cầm được cái rìu, cái dao, cái yết, chân vượt được dốc đèo, lội được con suối thì mới đi săn, đi rẫy. Ðời người là một vòng quay chậm rãi và đơn giản. Ðến những mùa làm rẫy hay thu hoạch xong, cả làng quây quần lễ hội, uống rượu vui chơi thâu ngày thâu đêm. Bắt được con thú dù to dù nhỏ, làng cũng chia đều cho tất cả mọi thành viên cộng đồng từ người già đến trẻ em. Những lúc có trợ cấp của Nhà nước cho bất kỳ đối tượng nào, làng cũng cứ chia đều cho hết thảy mọi người.

Người làng Lợt coi những thứ hiện có là rất thỏa mãn. Họ không muốn những gì phức tạp, khó hiểu. Ví như đứa trẻ sinh ra chỉ làm cái lễ thổi tai, tức là báo cho Giàng biết trong làng đã có thêm một thành viên mới. Khi bắt chồng bắt vợ, được gia đình ưng thuận, được già làng cho phép thế là làm lễ cưới nhau. Khi bỏ nhau, già làng chỉ cần bắt hai người cầm căng hai đầu một sợi dây, rồi dùng dao cắt đứt đôi là xong...

Ðó là nói những hồi còn chiến tranh và những năm đầu giải phóng, những năm trước đây. Bây giờ thì các cô giáo người Kinh đã về làng dạy cho trẻ con cái chữ. Nhờ các cô giáo, người làng mới biết được nước Việt Nam rất rộng. Thế giới cũng không chỉ bó hẹp ở mấy ngọn núi, mấy con sông quanh làng.

Bây giờ tên tuổi ai cũng phải ghi, đất đai cũng phải ghi. Cán bộ ghi nhằng nhịt đủ thứ, còn người làng phần lớn chỉ biết chấm ngón tay vào mực đỏ rồi lăn trên trang giấy, chẳng hiểu ra làm sao. Cái lợi của việc học chữ rõ là rất tốt rồi, song bọn trẻ từ bao nhiêu đời nay sinh ra chỉ biết chơi. Bây giờ phải đi học chữ, chúng nó ngại ngùng lắm. Lại phải khai giấy. Mỗi lần vào đầu năm học, cô giáo lại phải đi từng nhà ghi chép, rồi lên xã làm giấy khai sinh cho từng đứa trẻ để được đến trường. Chỉ có các cô giáo mới làm được việc đó, cả làng Lợt chẳng ai đủ trình độ để ghi chép được như vậy. Cũng chính vì không biết chữ mà mấy năm trước có bọn người buôn bò đưa tiền giả vào mua hết bò của làng mà chẳng ai biết. Ðến khi có công an về, người làng mới vỡ lẽ tiền giả tiền thật.

Người Ba Na tốt bụng, chịu khó chịu khổ được, nhưng học cái chữ không khổ mà sao khó quá. Bọn trẻ hằng ngày chỉ thích vào rừng, ra sông ra suối. Bắt ngồi để nghe nói về cái chữ rõ là chúng không thích. Chỉ đến khi cô Hoa đưa ra cái lệ phát kẹo thì tất cả lớn bé lại hè nhau đến lớp. Chị địu em, anh địu em. Từ đứa vị thành niên đến đứa lẫm chẫm, đứa còn cõng trên lưng đều vào chung một lớp. Lớp học trở nên rất hỗn độn với đủ lứa tuổi. Trẻ con làng Lợt đến lớp như một ngày hội. Ðể lập nên trật tự, các cô giáo phải chia lớp thành hai khối ngồi quay ngược lại với nhau. Một khối lớn quay lên phía trước để học chữ. Khối nhỏ hơn quay về phía sau để học hát. Khốn nỗi bọn trẻ từ lớn chí bé đứa nào cũng thích học hát. Ðể duy trì tốt lớp học, cô Hoa lại phải đưa ra sáng kiến: Em nào ngồi đúng vị trí theo sơ đồ mới được phát kẹo. Về sau, để có đủ quà phát cho học sinh, mỗi đợt có đoàn cán bộ y tế xuống làng khám bệnh, các cô giáo lại xin cấp rất nhiều vi-ta-min C để hằng ngày phát cho học trò thay kẹo. Nhờ những viên kẹo, viên C ấy mà đã có rất nhiều lớp học được mở ra, nhiều lứa học trò được đến lớp. Trẻ em làng Lợt đã có thói quen đi học. Có em học mãi hai ba năm một lớp, hết lớp rồi còn xin học lại nữa...

Mặc dù chỉ học đến trường làng, song sau một thời gian, đã có khá nhiều em đọc và viết được con chữ rất sành sỏi. Nhờ có những lớp học, con mắt của dân làng Lợt như sáng hơn, rộng ra. Người làng tiếp thu tốt hơn những lời cán bộ nói. Ðã nhiều người biết ký được tên mình. Cũng nhờ thế mà người làng Lợt biết phân biệt đúng sai. Có lần bọn xấu vào làng vận động mọi người gia nhập các tổ chức phản động, già làng đã trả lời dứt khoát: "Làng Lợt chỉ tin theo cái đạo của Bác Hồ thôi!".

Bây giờ trong làng có những việc cần phán xử, cần giải quyết, người làng Lợt đã biết nhờ đến chính quyền. Nhiều việc của làng, của dân đã được đưa ra chính quyền làm sáng rõ...

Bảy năm, làng Lợt đã để lại trong cô Hoa bao nhiêu kỷ niệm vui buồn. Những tháng ngày khó khăn gian khổ. Có lúc nắng nôi. Có khi mưa lũ. Những chặng đường rừng. Những lần vượt sông...

Có lần gặp cơn lũ bất ngờ, Hoa bị nước cuốn trôi khi lội sông từ làng trở về. Biết tin ấy, làng Lợt đã rã ra cả ngày cả đêm đi tìm. Lần ấy, làng đã tìm thấy cô Hoa bị mắc trên bụi tre gai, không lên, cũng không xuống được. Ðó là một kỷ niệm khó quên trong cuộc đời dạy học của cô.

Gần đây, anh Dũng chồng Hoa được điều động lên trên. Sau khi nhận nhiệm vụ mới một thời gian, anh đã xin chuyển công tác cho vợ về dạy học ở vùng ven đô thị. Nhận được tin ấy làng Lợt buồn lắm. Bọn học trò nhiều đứa khóc rưng rức trong lớp học. Con gái thì đan lát thêu thùa những đồ thổ cẩm tặng cô. Mấy thằng con trai vẽ tặng cô một tấm hình phụ nữ đôn hậu ngộ nghĩnh và đẹp như tiên. Ðó chính là hình ảnh của cô Hoa dưới con mắt của bọn chúng.

Hoa chuyển đi, đồng nghĩa với một cô giáo trẻ khác sẽ trở về thế chân cô ở cái làng heo hút nhưng hiền hòa chân chất này! Cô giáo trẻ ấy có đủ tình yêu sưởi ấm những đôi mắt trẻ thơ trong trẻo mà ngây ngô? Liệu cô giáo trẻ ấy có đủ nghị lực lội sông hàng chục năm trời để mang theo cái đạo chữ đến cho làng!...

Khi đã trở về bờ bên này lần cuối cùng, Hoa mới thực sự thấy hết, mới thực sự lưu luyến với những chuỗi ngày cực nhọc, gian khổ nhưng tươi vui và cao đẹp ấy.

Bây giờ với cô, làng Lợt đã cách một con sông. Nơi ấy có những ánh mắt hồn nhiên ngây thơ. Có những giọng đọc ê a ngọng nghịu. Có những cuộc đời phẳng lặng như trang giấy trắng. Có những đồng nghiệp một đời cõng vác các con chữ vui buồn, lặng lẽ đi qua thời gian.

Và cái làng nhỏ bên sông ấy cứ trở đi trở lại trong những giấc khuya trằn trọc của Hoa, vừa ngọt ngào vừa như day dứt...

Theo Nhân dân
#107
Văn xuôi / Mồ côi
10/01/07, 10:55
TRUYỆN NGẮN
   


Mồ côi
Phùng Phương Quý


Hoàn thành nghĩa vụ quân sự, về nhà được hơn tháng nay nhưng Mão loanh quanh ra vào, không làm giúp chú thím Tửu việc gì tử tế. Thấy thằng cháu vốn chịu thương chịu khó bỗng sinh tật như thế, ông Tửu chỉ vân vê bộ râu quai nón, không nói gì.

Một buổi tối, ông gọi Mão sang uống nước, Mão nem nép ngồi ghé đít ngoài mép phản, chờ đợi. Chẳng mấy khi chú Tửu gọi ngồi cho uống nước chung thế này.

Từ ngày bố mẹ còn, Mão đã sợ chú Tửu một phép, chỉ cần chú trợn mắt vểnh bộ râu ra là cu Mão sợ tè cả ra quần. Khi bố hy sinh ngoài mặt trận, mẹ đi bước nữa, Mão thành kẻ "sảy cha theo chú".

Thương cháu, ông Tửu nhất định không cho Mão theo bố dượng mà đem nó về nuôi từ năm Mão mười tuổi. "Thế nào ông hạ sĩ. Nghỉ ngơi 1 tháng đủ chưa? Bây giờ anh tính sao?" "Dạ... có gì mà tính ạ!".

Vẻ mặt ngờ nghệch của Mão làm ông Tửu khó chịu. Sao lại không có gì? Là đàn ông đã qua quân ngũ, giờ về địa phương nên có kế hoạch như thế nào chứ. Xin việc Nhà nước, hay ở nhà với chú thím? Hay cưới vợ? Tính đằng nào?

Mão ngồi đực mặt, tay mân mê mép chiếu, nhìn chăm chăm vào chiếc xe điếu của chú Tửu, lòng bộn rộn. Văn hóa thấp như vịt xin đi đâu? Đi công nhân cầu đường hay lâm nghiệp, thà ở nhà cày ruộng với chú còn hơn.

Hay là... mắt Mão chợt sáng lên. "Chú ạ! Cháu xin... cháu xin..." "Anh định thế nào cứ nói, tôi là bố anh cơ mà!". Mão nói như hụt hơi. "Cháu xin cưới vợ".

Thấy thằng cháu trán lấm tấm mồ hôi, tay níu chặt mép chiếu, ông Tửu phá lên cười "Tiên nhân nhà anh! Ngứa cựa rồi hử? Khá lắm!". Khói thuốc lào phả mù mịt vào mặt Mão, chú Tửu cười khơ khơ. "Thế có đám nào rồi à?".

Thấy chú vui vẻ, Mão mạnh dạn hẳn lên "Có rồi chú ạ. Con Tuất bên xóm Đa ấy" "Con nhà ai?" "Con bà Lạc ạ". à! Nhà ấy thì ông Tửu biết. Thời trẻ bà Lạc xinh gái nhất xã, chỉ tội số vất vả đường chồng con, ông Lạc mất sớm, một nách nuôi 2 con.

Thằng cả chắc có gia đình rồi, cô này chắc con út. Đổ chén nước chè vào lại ấm chuyên, ông Tửu dùng răng mở nút chai rượu bằng lá chuối khô rót một chén đầy.

Ngửa cổ làm một hơi. Được! Ngày mai đưa chú sang nhà nó xem tình hình thế nào. Mão hốt hoảng "Chú ơi, nhưng...". Không nhưng nhị gì cả! Bảo đi là đi. Mão toan cãi nhưng thấy chú trợn mắt, vểnh râu ra thì hốt quá, ngồi im.

Ông Tửu móc trong lưng quần ra chùm chìa khóa, mở cánh tủ li cổ, lôi ra chiếc khăn Phula cũ sọc xanh đỏ. Giữa chiếc khăn là bọc ni lon nhỏ, ông đưa cả cho Mão.

Một sấp tiền các loại, tờ cũ tờ mới được vuốt phẳng phiu, buộc dây nịt từng trăm một. Mai ra phố mua lấy bộ quần áo mới và đôi giày da. Mão đưa lại cho chú gói tiền.

"Thôi chú ạ! Quần áo bộ đội cháu còn 2 bộ mới, mua làm gì tốn tiền". "Phí thế nào. Tôi lại vả cho anh một cái bây giờ. Sang nhà người ta phải cho chững chạc.

Đi cày đi cuốc đâu mà mặc quần áo lính". Mão run run cất gói tiền vào túi. "Mà này, nó tuổi gì nhỉ?". "Nó 18 kém cháu 7 tuổi". Ông Tửu bấm đốt ngón tay nhẩm tính. Bỏ mẹ! Nó tuổi chó mày ạ.

Mão ngạc nhiên. "Nó tên là Tuất, chẳng là chó thì là gì hả chú!". "Thế anh cũng biết nó cầm tinh con chó à?" "Vâng!" "Tiên sư anh! Biết sao còn đâm mặt vào? Không nghe người ta bảo cắn nhau như chó với mèo à?".

Mặt Mão câng câng. Nó hiền lắm. Lại xinh đẹp nữa, chó Nhật ấy mà. Ông Tửu gắt "Thế nó là chó Đức thì chết cha mày chứ". "Chẳng bận gì chú ạ! Chó nào vào tay cháu cũng ngoan tất".

Ông Tửu lẩm nhẩm, đúng là cái dòng giống lỳ lợm. Thôi được! Tôi cũng chiều anh đấy. Sướng khổ cố mà chịu.

Tửu mua quần áo mới về, lôi chiếc xe đạp Thống Nhất cũ của chú ra lau lại, cả bộ khung tróc sơn cũng được bôi dầu luyn bóng loáng. Chú Tửu ngồi ngất ngưởng sau xe, hai tay nắm chặt chiếc yên.

Mão gò lưng đạp xe, mồ hôi lấm tấm lưng áo trắng. Quần màu tím than, áo trắng sơ vin, giầy da bóng lộn, trông anh chàng chững chạc hẳn lên. Nếu được bộ râu quai nón như chú thì còn oách nữa.

Ông Tửu thầm so sánh. Rồi ông Tửu chợt nhói trong lòng vì thương anh trai, nếu anh ấy còn sống nhìn thằng cu Mão trưởng thành thế này chắc sướng lắm.

Con đường đất đỏ chạy quanh co theo chân đồi cọ. Những cây cọ mới chặt tỉa lá, búp như những lưỡi gươm tua tủa chĩa lên trời. Con dốc nhỏ đổ xuống cánh đồng ngô đang trổ cờ, lắc lư gió và hoa ngô tím nhạt.

Mão buông phanh, phóng vùn vụt, miệng huýt sáo bài "Hành quân xa". Ông Tửu bỏ tay khỏi yên xe ôm cứng eo thằng cháu.Tiên sư cha nó định nắn gân ông già này hử.

Hồi đánh Mỹ, xe ô tô mất phanh lao xuống dốc Trường Sơn tao còn đếch sợ nữa là, cái dốc chó [em xin lỗi, em là người chửi bậy] này. Xe đạp liệng tránh một gốc cọ mọc chờm ra đường, loạng choạng suýt ngã. Mão phanh kít xe lại. Đến rồi chú ạ. Nhà nó đâu? Cái nhà thứ 2 kia ạ.

Nhìn cánh cửa đóng im ỉm, sân vắng hoe, ông Tửu chột dạ. "Anh báo cho họ hàng nhà nó chưa?" "Chưa ạ!" "Quân đầu đất! Sao lại làm ăn thế! Bây giờ ai người ta tiếp tao đây?" "Chú cứ giục như đốt pháo vào đít, cháu xoay thế nào kịp".

Thật chẳng ra thế nào. Anh coi tôi là trẻ con à? Tao thì vả cho một cái... Thấy chú gầm gừ trong họng, râu quai nón vểnh ra, Mão thấy bụng dưới tưng tức. Dựa xe vào bờ rào duối, anh chạy vội vào cái ngõ gần đấy.

Từ bụi chuối bước ra, chưa kịp kéo khóa quần, Mão nghe tiếng hồng hộc. Con chó Mực cộc đuôi, to tướng, không thèm sủa một tiếng mà nhe răng lao ra. Hoảng hồn Mão nhảy vội lên cành mít thấp bên cạnh.

Con chó mất đà mãi mới đứng lại được. Nó nhe răng dữ tợn quay lại. Mão đu cả hai chân lên như đánh võng. Con Mực nhìn chằm chằm vào cái mông tròn của kẻ đột nhập, lấy đà nhảy lên.

Mão ối một tiếng, thấy mông đau nhói. "Mực! Có vào ngay không". Tiếng con gái quát to, loẹt quẹt tiếng dép lê. Con Mực cúp đuôi chạy vào. "Ôi anh Mão, sao anh lại vào đây?". Mão cố nhịn đau buông tay nhảy xuống đất. Trước mặt anh là cô Đào, bạn thân của Tuất. "Anh đưa chú sang nhà Tuất, nhưng...".

Mão ngượng quá, đỏ mặt quay ra. Đào kêu lên. Chết, hượm đã anh. Cái quần của anh... Nhìn theo tay Đào chỉ, Mão thấy dưới mông quần mới bị rách toạc một miếng bằng bàn tay, hở cả quần lót bộ đội màu xanh lá cây. Mão cuống lên lấy tay bịt kín chỗ rách.

Ngoài kia ông Tửu giục. "Mão! Anh ngồi [em xin lỗi, em là người chửi bậy] trong vườn người ta à?". Đào thấy lo ngại cho anh chàng Mão hiền lành. Cô vội tháo chiếc kim băng gài túi áo đưa cho anh. "Anh cài chỗ rách lại, rồi buông áo ra ngoài là ổn thôi". Mão cố nèo Đào cùng sang nhà Tuất với mình. "Sang với tớ một tý. Ngượng quá".

Mẹ con cô Tuất cuống cà kê lên lo tiếp 2 ông khách bất đắc dĩ. Ông Tửu thấy sượng mặt quá. Không ý kiến trước, tự nhiên chú cháu đùng đùng vác mặt đến nhà đàn bà góa. Có khác gì đội thu thuế nông nghiệp của xã.

Cái thằng Cả đẫn chỉ biết ăn no vác nặng, không nghĩ gì đến thể diện gia đình. Bà mẹ Tuất rót ra chén nước chè loãng "Bác sang chơi đột ngột quá, mẹ con em chẳng chuẩn bị gì được".

Ông Tửu còn lúng túng hơn. "Thật xin lỗi bà vì đường đột thế này. Tôi cứ tưởng thằng Mão nó xin phép bà rồi. Biết cháu hay đi lại chơi bên này. Tôi sang xin phép bà...".

"Bác cứ dạy thế. Nhà tôi mẹ góa con côi, anh Mão hay đi lại thăm hỏi giúp đỡ quý hóa lắm. Chẳng biết hai cháu có ý gì với nhau không?". Ông Tửu giơ tay.

"Ấy chết! Là lỗi tại bên gia đình tôi không quán xuyến cháu tử tế. Thôi thì cùng làng cùng xã với nhau bà thật thông cảm tôi mới dám nói. Hai gia đình hoàn cảnh giống nhau, cũng đất liền dải, giếng liền mạch, bà cho phép cháu Mão qua lại như con cháu trong nhà.

Tuất xấu hổ giấu mặt sau lưng Đào. Mão ngồi dựa lưng vào tường, áp bên mông đau rát vào nền đất mát lạnh. Cô Đào mặt đỏ như hoa mười giờ, mắt long lanh nhìn Mão. Anh chàng còn nháy mắt ra hiệu với Đào.

Nhìn cảnh ấy, Tuất giật mình. Cái lão chết toi, định bắt cá hai tay à? Thảo nào lúc nãy thấy hai người đi từ trong ngõ nhà cái Đào ra. Cô vùng vằng đứng dậy, đi ra hiên. Mão không hiểu gì, cũng lập cập đi theo.

Tuất đứng dựa lưng vào cột hè, mặt đỏ phừng phừng.

Mão hỏi "Sao lại bỏ ra đây?" "Tôi ra đây cho 2 người tự nhiên". Mão ngơ ngác. Em bảo gì cơ? Còn giả vờ, đừng có cái kiểu bắt cá hai tay, người đâu mà bạc.

Mão chẳng hiểu mô tê, cũng nóng mặt. Cô bảo tôi là cái gì. Tuất mím môi để khỏi bật khóc. Người đâu mà bạc như vôi ấy. Thấy hai đứa cãi nhau bên ngoài, ông Tửu giận quá, xin phép bà Tuất bước ra.

Thấy Mão quần áo lôi thôi, ông tím mặt. "Tại sao ra nông nỗi này hử Mão?". Mão cuống cà kê "Dạ... tại con chó kia...". Tuất òa khóc. "Đấy chú xem. Chưa gì mà anh ấy đã bảo cháu là chó".

Đào vội kéo tay bạn, một tay lật áo Mão lên. Con nỡm, mày nhìn đây này. Lúc nãy con Mực nhà tao cắn anh ấy rách cả quần đấy. Ông Tửu nhìn cháu lắc đầu xót xa. Đã bảo rồi. Cái tuổi nó là xung khắc với chó, thế mà cứ lăn mãi vào.

Cưới vợ cho cháu xong, ông Tửu cảm thấy thanh thản phần nào. Ông đã thay anh lo liệu việc cả đời cho cháu. Không phải ông chỉ có hai mụn con gái đã lấy chồng xa, nên phải vun vén cho cháu để mong cậy nhờ lúc tuổi già, mà làm đúng nghĩa tình ruột thịt với người anh liệt sỹ, còn đời ông, trời còn cho sức khỏe lo gì không kiếm nổi bát cơm cho hai ông bà.

Nhưng cái việc hai vợ chồng Mão Tuất tuổi xung thì ông vẫn lo lắm.. Thằng cháu cục tính, lì lợm. Con Tuất nhanh nhẹn nhưng xem ra đanh đá, lắm lời.

Điều lo lắng của ông Tửu không thừa. Ngay sau đám cưới, dọn dẹp xong, hai đứa chui tọt vào buồng từ lúc trời chưa tối. Ông Tửu vê râu cười khẩy. Bố cái thằng ngựa non háu đá.

Chỉ vài hôm thôi con ạ, con Tuất không làm cho mày mắt nhắm mắt mở, vừa đi vừa lết, thì tao chớ kể làm người. Nhưng ông thấy chúng chí chóe với nhau mãi tên người này, người kia, những chục, những trăm gì gì.

Sáng hôm sau, con Tuất đưa cho ông gói tiền. "Chú ạ! Đây là tiền mừng đám cưới, cả thẩy bốn triệu tám. Chúng con gửi lại chú trang trải công việc xem thiếu đủ thế nào".

Ông Tửu mừng thầm, con dâu mới cũng biết ăn ở đây. Đến trưa, thấy hai đứa lại to tiếng với nhau. Con Tuất mắt đỏ hoe bỏ cơm đi nằm. "Vợ chồng chúng mày thế nào?".

Ông Tửu hỏi nhỏ thằng cháu. Mão phồng mồm "Nó mới vừa chân ướt chân ráo về nhà này mà láo, dám qua mặt chồng". "Nó có lỗi gì?". "Thì nó đem tất tiền mừng đám cưới đưa cho chú đấy thôi".

Râu ria ông Tửu lại dựng ngược. Thằng này gớm thật, cứ tưởng nó lành hiền. "Thế anh định dùng tiền ấy làm gì?". "Cháu định đưa cho chú cất đi". "Tưởng thế nào! Vợ anh đưa cho tôi rồi thôi".

Mão bảo vợ nó tự ý, tự quyền, không hỏi chồng lấy một câu. Giời ạ! Hết nước rồi, hai cái tuổi nó xung khắc là thế đấy. Việc không đâu cũng cãi nhau. Ông Tửu lắc đầu, râu quai nón quặp xuống.

Mấy tháng sau, vợ chồng nhà Mão xin ra ở riêng. Chuyện này thì đương nhiên rồi, hai vợ chồng sức dài vai rộng, tập lo liệu dần đi là vừa. Thế mà chúng cũng cãi nhau một trận.

Cậu con Tuất có mấy gian nhà bỏ không gần chợ thị trấn, có ý cho vợ chồng nhà Mão mượn, xem có buôn bán gì được thì ra mà làm. Mão đồng ý ngay, đùng đùng đòi ra chợ mở quán thịt chó.

Tuất không thích, nó muốn ở nhà ruộng nương giúp chú thím. "ở nhà mà lo làm ăn, anh ra chợ lại học hỏi những thói hư tật xấu". Mão nổi tính cục, giơ tay định tát vợ. Tuất chạy vào đứng cạnh chú, khóc thút thít.

Mão lỉnh mất. Hỏi ra nhẽ, ông Tửu lại động viên Tuất "Nếu làm ăn được vợ chồng bảo nhau ra ngoài ấy mà buôn bán con ạ, ở nhà trông vào mấy sào ruộng, đủ ăn là may lắm rồi. Tiền mừng đám cưới tao còn cất đây, mang đi mà làm vốn".

Mão giục vợ hỏi nhà ông cậu, rồi chuẩn bị mở quán thịt chó. Hồi đóng quân trên Hà Giang, anh học lỏm được cách chế biến dồi, dựa mận bằng cách cho hạt dổi và thảo quả vào thịt chó. Khách sành ăn ở thị trấn, chỉ ít bữa đã rủ nhau đến đều đều.

Chú Tửu ra quán cháu hôm khai trương, còn không hề bén mảng lần nào, dù ông rất thích uống rượu thịt chó. Đạp xe 2 cây số ra uống chén rượu, chẳng lẽ lại uống suông, mang tiếng quấy rầy các cháu. Thực lòng ông rất

lo cho thằng cháu, nó cục nhưng hiền lành, con vợ thì sắc sảo lắm miệng. Thằng đàn ông đã bị vợ cưỡi cổ thì nhục lắm, còn múa may được gì.

Mấy bà hàng xóm đi chợ về đưa cho ông Tửu gói thịt chó và chuyển lời cô cháu dâu nhắn chú ra nhờ chút việc. Nghe thế ông Tửu đã biết ngay vợ chồng nó đã có chuyện, nên buổi chiều đạp xe ra.

Mão đem ra mời chú đĩa thịt chó tổng hợp, chai rượu nếp. "Chú thấy thịt chó nhà cháu thế nào?". Mão cười nhăn nhở. Ông Tửu bảo: "Ngon! Nhưng hôm nay con Tuất nhắn tao ra có việc gì?".

Bị hỏi chặn họng, Mão len lén đi vào sau bếp, Tuất le te chạy đến "Chú nói hộ với nhà cháu bớt rượu đi. Dạo này anh ấy hư lắm, uống rượu như thần trùng.

Chú tính, ngày mổ ba bốn con chó, hai vợ chồng quay như chong chóng, thế mà khách đến mời chén rượu nào là cạn chén ấy. Hôm qua còn say rượu chửi cháu, rồi đập mất cái phích".

Ông Tửu không nói gì, ngậm chiếc tăm, chắp tay sau đít đi ra bếp. Mão đang lúi húi làm lòng chó. Mão! Dạ...?? Đận này anh giỏi hơn chú rồi, uống rượu xong dám đập cả phích cơ mà. Mão lúng túng.

Vâng! Ông Tửu quát "Tưởng tài giỏi lắm hả? Có thích đập phá để bảo tao". Mão luýnh quýnh buông bộ lòng chó, đứng dậy nép vào góc tường. Cháu xin chú. Tại cháu say quá, lỡ tay. Tao mà nghe đập phá thứ gì nữa, thì liệu xác.

Được nửa tháng, lại thấy mấy bà đi chợ nhắn lời cái Tuất mời ông Tửu ra. Lần này không chờ cháu mang rượu thịt mời, ông Tửu hỏi luôn "Thằng Mão lại đập phá cái gì?".

Mão gãi đầu gãi tai, nói không dám đập phá mà lần này do con Tuất. Khách ăn đông quá có hôm khuya rồi còn gọi, Mão nhất định không bán, đi ngủ. Tuất tham tiền, lụi cụi hầu khách đến 2 giờ sáng, mấy ông khách say rượu còn buông lời cợt nhả với cô chủ, Mão ghen, vợ chồng cãi nhau đến sáng.

Tuất thấy chồng vất vả bảo thuê thêm một người, Mão không chịu, bảo tin gì bọn người làm thuê, vừa gian, vừa bẩn. Thế là lại cãi nhau. Bọn này như chó với mèo rồi, hết thuốc chữa.

Ông Tửu than thầm, rồi ngồi uống rượu với cái đùi chó hầm. Kệ cha chúng mày, nói lắm chỉ mỏi mồm ông thôi. Ra về, ông dặn với "Lần sau cấm nhắn nhe gì nữa".

Từ lần ấy, không thấy vợ chồng Mão Tuất nhắn chú ra. Thi thoảng Tuất gửi biếu ông gói thịt chó và cút rượu. Lâu lắm ông Tửu cũng không ra chợ nhưng vẫn nghe ngóng tin tức làm ăn của cháu.

Thấy đồn vợ chồng nó phát đạt lắm, đã mua được xe máy rồi, nhưng vẫn hay chõm chọe nhau. Đêm nằm, ông Tửu vắt tay lên trán ngẫm ngợi, thấy làm lạ sao hai cái tuổi chó mèo lại làm nên sự nghiệp.

Ngày mồng một đầu tháng, không có khách ăn thịt chó. Hai vợ chồng Mão Tuất cưỡi xe máy về thăm chú. Mão mua một túi lỉnh kỉnh những đường sữa, mì chính, hoa quả, không may hôm ấy ông Tửu bị cảm, người mỏi mệt.

Gạt đống đường sữa sang một bên, ông nhìn Mão "Thịt chó đâu?". Tuất đỡ lời chồng. Hôm nay mồng một chú ạ. "Mồng một tao cũng ăn".

Mão để vợ ở lại, còn mình quay về lấy thịt chó mang cho chú. Ông Tửu ăn hết hai cái đùi, uống hết nửa cút rượu rồi đi nằm. Lúc hai vợ chồng Mão ra về, ông vẫy tay gọi vào dặn "Cố bảo ban nhau mà làm ăn các con nhé!".

Người làng đạp xe ra chợ, báo là chú Tửu bị cảm mất tối qua rồi. Mão khóc tồ tồ, quẳng ngay con chó đang mổ dở, dắt xe máy phi về nhà, bỏ cả vợ. Tuất chỉ kịp thu quén tiền hàng, rồi cũng khóa cửa thuê xe ôm về theo chồng.

Khi hai cô con gái của ông Tửu về đến nhà, thì việc ma chay của ông, vợ chồng Mão đã lo liệu đâu vào đấy. Hôm sau, sắp đưa chú ra đồng, vợ chồng nhà Mão lại cãi nhau.

Lần này to chuyện vì Mão dám tát vào mặt vợ. Lý do là Mão gây sự với mấy ông trong ban tang lễ vì không phủ quân kỳ lên quan tài ông Tửu. Chú tôi 10 năm đi đánh Mỹ, cũng là cựu chiến binh sao không được phủ quân kỳ.

Chi hội trưởng cựu chiến binh vỗ vai Mão "Là thế này anh Mão ạ. Từ ba năm nay ông cụ bỏ sinh hoạt trong hội cựu chiến binh rồi. Theo quy định thì...".

"Chẳng có quy định nào cả. Chú tôi không đi họp cựu chiến binh chỉ vì không thích ngồi cùng với mấy người chẳng đi bộ đội ngày nào bây giờ cũng xin vào cựu chiến binh. Họ xin vào cựu chiến binh cũng chỉ mong lúc chết được phủ quân kỳ thôi chứ gì. Tôi phải hỏi ông Tuân huyện đội cho ra nhẽ, ông ấy lạ gì nhà tôi".

Tuất gàn chồng. Việc tập thể cứ để các bác ấy lo liệu, anh biết gì mà tham gia. Mão quay sang tát vợ một cái. Cô im mồm đi, đàn bà biết gì. Xong việc chú, tôi sẽ xử lý cô.

Cuối cùng thì quan tài của ông Tửu cũng được phủ lá quân kỳ "Quyết chiến quyết thắng". Mão đi sau xe tang, khóc rưng rức. Xong việc ma chay, không thấy Mão nói đến việc xét xử vợ. Anh buồn rầu như người mới ốm dậy. Tuất lo lắng bảo chồng ăn uống nghỉ ngơi, để rồi còn bán hàng. Mão bảo vợ. Cô thuê lấy một người giúp việc. Tôi về quê ở với thím, hương khói cho chú hết bách nhật đã.

Theo Tiền phong
#108
Văn xuôi / Chiếc nhẫn ngọc
10/01/07, 10:53
TRUYỆN NGẮN
 
Chiếc nhẫn ngọc
Trần Thùy Mai

Đó là chiếc nhẫn có số phận kỳ lạ mà vì ngốc nghếch hoặc tham lam, người ta đã luôn ngộ nhận về giá trị của nó. Một người đàn bà đã phải trả cho nó cái giá quá đắt, và một người đàn ông cũng suýt vì nó mà đánh mất hạnh phúc của mình.

Tuấn bước lên sân thượng khách sạn. Người đàn bà đang ngồi chờ anh. "Tên tôi là Manuelle, người ta thường gọi là Manu".

Làm việc với khách sạn hơn sáu năm, Tuấn đủ kinh nghiệm trong ngành du lịch để nhận biết khá nhanh về nhân thân của người khách lạ. Người đàn bà này lịch lãm, quen tiếp xúc với nhiều người. Tên tuổi như vậy, nói tiếng Pháp chuẩn như vậy, nhất định là dân Pháp. Nhưng mái tóc đen như thế thì người Pháp không có. Cũng không phải người Việt, người Việt không có đôi mắt này. Đôi mắt tỏa sáng huyền bí như mắt người Ấn hay người Mã Lai... Tuấn phân vân, nhưng anh không hỏi. Du khách đến khách sạn giống như đoàn lữ hành qua sa mạc, đến và đi với gió, họ thường không thích lưu lại dấu chân mình trên cát.

"Các bạn gái tôi giới thiệu anh. Họ bảo anh dễ mến lắm. Tôi đến đây chỉ có một mình".

Tuấn hiểu. Anh là một nhân viên khách sạn đẹp trai và khá khôn lanh. Nhiều nữ du khách đã trở nên thân thiết với anh sau một lần lưu trú. Anh luôn tìm hết cách để chiều lòng họ, và anh chẳng thiệt thòi gì. Nhưng hôm nay e phải chối từ: Mai là lễ ăn hỏi của anh. Sáng nay anh đã xin nghỉ, nhưng đúng một phút trước khi rời khách sạn thì nhận được tấm danh thiếp của người đàn bà lạ.

Tuấn nghĩ cách từ chối mà không phải nhắc đến vị hôn thê của mình. Anh là người sành tâm lý phụ nữ. Đàn bà, họ luôn muốn độc tôn, dù là trong mắt một người đàn ông xa lạ. Vả lại, Festival còn kéo dài đến hết tuần, mà đến ngày kia anh đã có thời gian rồi. "Thưa bà...".

Nhưng cũng đúng lúc đó người đàn bà mở miệng nói, nên theo phép lịch sự anh phải nhường lời cho phụ nữ. "Hôm nay tôi muốn đi một chuyến về phía tây. Các bạn tôi bảo anh có xe riêng rất tốt, phải không?".

Đúng vậy, anh đã mua xe để thêm thuận lợi trong công việc, cũng vì chiếc xe mà hiện nay anh còn mắc nợ ít nhiều. Anh rất muốn nhận chuyến đi này, nhưng không thể được. Liên rất hay hờn, vẫn thường giận dỗi bảo anh chỉ biết tham công tiếc việc, chẳng dành đủ thời giờ cho nàng. Anh đã lao đao nhiều lần suýt vuột mất cô bạn gái xinh xắn bé nhỏ, nếu bà mẹ nàng không luôn miệng bênh vực và tán dương ông con rể tương lai.

"Tôi sẽ không quên công anh". Manu nói, bà cử động hai bàn tay đang nắm lấy nhau trên mặt bàn, một cử động hết sức uyển chuyển làm nổi bật lên chiếc nhẫn ngọc xanh biếc. Theo Tuấn, cử chỉ ấy mang một ngụ ý khá rõ rệt. Thấy ánh mắt chàng trai, Manu hỏi rất tự nhiên:

- Anh có thấy chiếc nhẫn này đẹp không?

Tuấn gật đầu. "Ngọc lục bảo phải không?". Anh hỏi. Người đàn bà im lặng mỉm cười. Tuấn buột miệng:

- Phải đến ba nghìn đô-la?

Nói xong Tuấn chợt thấy ngượng, anh nhận ra mình đã có câu nói hớ hênh, không thanh lịch chút nào. Thật tầm thường, mình đã mở miệng hỏi giá tiền trong khi lẽ ra phải tán dương vẻ đẹp của nó. May sao Manu không có vẻ gì phản cảm với anh, bà ta chỉ vỗ vai chàng thanh niên với một vẻ bao dung:

- Anh sành giá cả như thế, nhất định biết rất rõ các thứ ngọc quý.

Tuấn lấy lại tự tin. Không biết tự lúc nào, anh đã quên mất lời cáo từ.

Tuấn cho xe lướt rất êm. Manu ngồi bên cạnh, cặp mắt sâu và đen nhìn đăm đăm về phía núi xanh trước mặt.

Điện thoại di động trong túi Tuấn rung nhẹ. Chắc chắn là Liên. Tuấn hơi bối rối, nhưng rồi anh quyết định để nó rung thoải mái cho tới khi tắt. Anh nhủ thầm sẽ cố xong mọi việc với Manu để về sớm, còn lý do để giải thích với Liên thì khi nào cũng sẵn có trong đầu anh, ngại gì. Tự thu xếp với mình như vậy, anh thấy yên tâm, nhận ra Manu đang hướng anh đi theo con đường dẫn lên A Lưới. Không sao, đường này anh cũng đã đưa du khách đi nhiều lần, khách nước ngoài rất thích du ngoạn những vùng đất hẹp trong sơn ao. "Chị muốn xem những vùng có người dân tộc phải không? Mình phải kịp về trước khi trời tối, ban đêm ở vùng cao không an toàn đâu. Tôi đã nhận trách nhiệm với khách sạn phải đưa chị đi về an toàn".

Anh đã nói dối, thói quen nói dối trơn tru không cần suy nghĩ. Đêm vùng cao ở đây chẳng có gì nguy hiểm cả, chỉ có điều anh đang cần về sớm. Manu xem chừng chẳng bận tâm mấy đến lời hăm dọa của anh, bà ta bảo:

- Tôi có bản đồ đây, tôi sẽ chỉ đường cho anh - Thấy Tuấn chưng hửng, Manu mỉm cười giải thích: Tôi là biên đạo múa ở Nhà Hát Trẻ thành phố S... Tôi đang dựng một vũ kịch trong đó nhân vật chính là cô bé Kalang - Nga, người Tà Ôi.

- Sao lại người Tà Ôi?

- Đúng vậy. Ở Pháp không có dân tộc ít người. Những đề tài về các dân tộc miền núi làm người ta quan tâm.

- Làm sao chị biết về người Tà Ôi, từ tít bên kia?
Manu cười, đưa bàn tay có chiếc nhẫn, lật cuốn sổ có một trang ghi chú những con đường núi với những cái tên Tà Ôi đã phiên âm. Viên ngọc trên bàn tay phản chiếu ánh mặt trời, xanh biếc. "Có nhiều cách. Thư viện. Cộng tác viên. Và cả trí tưởng tượng nữa".

Manu quây kính xe lên, lập tức phía bên kia Tuấn cũng quây kín cửa lại cho khỏi gió. Người đàn bà cởi áo khoác. Đôi vai trần nâu mịn hiện ra trước mắt anh trên chiếc áo hai dây. Từ đôi vai anh có thể tưởng tượng ra cơ thể mảnh mai lạ thường mà phụ nữ trung niên thường không có. Có cảm giác như vừa uống một ly bia, anh bốc lên, dận ga cho xe lao rất nhanh trên đường đèo. Manu đặt một tay lên vai anh, như muốn bảo anh chậm lại. Hơi ấm từ bàn tay xuyên qua lần vải áo. Điện thoại đúng lúc ấy lại rung khẽ trong túi anh. Những hồi rung kéo dài, nối tiếp nhau, dai dẳng, như muốn níu giữ anh lại. Nhưng xe đã tiến lên dốc đèo Aco, ra ngoài vùng phủ sóng.

* * *

Sau gần sáu mươi cây số chạy xe và hơn một giờ đi bộ, họ tới nhà mộ Tà Ôi giữa thung lũng hoang vắng. Tuấn phải rút dao nhíp cắt bớt những nùi dây leo quấn quýt bít lối đi để đưa Manu vào đến tận nơi.

Mặt trời nghiêng xuống chiếu vào cây cột lớn trong nhà mồ, rọi những tia dữ dội lên hình mặt người khắc trên cột. Phía sau cột cái, một dãy quan tài nằm cạnh nhau, mỗi quan tài là một thân cây đẽo vuông vức. Manu đến chỗ quan tài lớn nhất, đặt lên đấy bó hoa hồng trắng. Bó hoa đã hơi ủ rũ sau nửa ngày đường, nhưng vẫn rất thơm, thơm ngát.

Hoa hồng trắng của một người phương Tây nơi nhà mộ hoang vu này... Tuấn thầm nghĩ. Manu lấy ra một gói lớn, bà ta trầm tư một lát rồi mở gói, đặt lên nắp quan tài những nén bạc lớn. Tuấn đếm được tất cả ba mươi nén bạc.

Họ liên quan gì đến nhau, Manu và những người chết ở đây? Tuấn nghĩ thầm nhưng không dám hỏi. Manu đã xăm xăm trở ra giữa hai bờ cỏ tranh. Tuấn chăm chú nhìn vào mái tóc quăn cuốn cao trên cái ót đầy đặn. Anh chăm chú quan sát vẻ mạnh mẽ uyển chuyển kỳ lạ trong từng cử chỉ của người đàn bà: Vẻ bí ẩn bao quanh bà ta giống như một thứ men rượu, kích thích và gieo vào anh một sự hưng phấn mãnh liệt.

Trời đã sẫm chiều. Khi ra đến chỗ để xe hơi, Manu ngồi bệt xuống vệ cỏ. Tuấn trải tờ báo ra, bày mấy thức ăn khô có sẵn trong xe. Manu uể oải nhai mẩu bánh mì với một lát xúc xích. Phần Tuấn đã đói cồn cào, anh ngốn hết những thứ đã mang theo. "Manu, mình về thôi". Manu nhìn lên, mặt tái xanh. Lúc đó Tuấn mới nhận ra dưới vẻ mạnh mẽ và tự kiềm chế, người đàn bà đang xúc động cực độ. Anh hốt hoảng: "Manu, chị cần phải nghỉ một chút. Tôi đưa chị vào làng nhé?". Nghe câu nói của anh, Manu giật mình: "Khỏi cần, tôi không vào đâu, trên xe được rồi".

Tuấn lật ghế xuống, tạo thành hai cái giường song song. Manu ngả lưng xuống băng ghế sau, vẻ như kiệt sức. Tuấn giúp Manu kê đầu lại cho ngay ngắn, cởi giúp bà ta đôi giày đang bó chặt lấy cổ chân. Anh do dự không biết có nên giúp Manu nới những cái móc, cái cúc tế nhị hơn không. Rồi có lẽ được cảnh hoang vắng chung quanh khuyến khích, anh ôm choàng lấy Manu, ngực sát vào ngực người đàn bà. Hai bàn tay anh vuốt từ dưới gáy đến đôi vai, rồi dọc theo lưng, bằng cách đó anh làm cho người đàn bà thư giãn và tỉnh táo lại sau cơn xúc động. Mặt bà ta hồng lên, mắt mở. Tuấn cúi xuống, những lọn tóc rũ trước trán khiến khuôn mặt anh mang một vẻ buông thả mê muội. "Xem kìa, Tuấn, sao vậy?". Manu hỏi. Tuấn nói, không quanh co:

- Tôi thích chị.

Manu ngồi dậy, nói như hụt hơi:

- Cảm ơn, nhưng tôi không thể... Tôi lại có cảm tưởng như ở trong lễ pok ruông. Tôi sợ đến không thở được.

Tuấn bóp trán Manu, vầng trán giờ đây lạnh buốt, anh phải cố cho hơi ấm trong tay anh thấm vào.

"Đừng sợ, chị sẽ dễ chịu lại ngay thôi mà".

Trong tay anh, mạch cổ tay của Manu dần đập đều trở lại. Tuấn lấy tấm chăn có sẵn trong xe phủ lên người Manu. "Anh muốn biết pok ruông là gì phải không? Cứ ngồi với tôi một chút, tôi sẽ kể cho anh nghe".

Tuấn là người phóng túng, nhưng khi cần anh biết kiềm chế bản thân. Thôi không quấy Manu nữa, anh ngoan ngoãn ngồi bên bà ta trong tấm chăn ấm. Bên ngoài, sương xuống ướt ròng trên kính xe, chung quanh trời đất tối mịt thành một khối đen vô tận.

* * *

Kalang Nga vừa đi vừa thút thít khóc. Lúa đã về nhà rồi, chỉ còn nửa con trăng nữa là đến Tết. Tế thần Yang Tro xong, cả nhà sẽ được ăn cơm mới. Nhưng năm nay thì không được rồi. Nhà Aviet đã giục đón dâu, chỉ năm sáu bữa nữa là phải ra đi.
Kalang Nga mười hai tuổi. Cả bản làng khen cô đẹp, phơi phới như lúa đầu mùa. Những người già nói Kalang Nga giống mẹ. Mẹ chỉ còn là người đàn bà đen đúa, gầy còm sau nhiều năm vất vả. Vậy mà ngày còn trẻ mẹ Kalang Nga nổi tiếng đẹp nhất vùng, có tài dệt thổ cẩm rất khéo, cha Kalang Nga đã phải đi vay ở nhà Aviet để nạp tiền "văn" - tiền thách cưới - mới đủ. Vì món nợ ấy, Kalang Nga vừa lọt lòng đã được chủ nợ đặt cọc. Bây giờ, mẹ Kalang Nga đã chuẩn bị cho con váy, áo và chiếu nằm. Kalang Nga bứt tóc van vỉ. "Cho con ăn cơm mới ở nhà ". Mẹ Kalang Nga lắc đầu:

- Không được đâu. Nhà trai đòi đón dâu từ hồi con năm tuổi. Khất nhiều nhiều rồi, không khất thêm được đâu.

Cha Kalang Nga thì trừng mắt bảo con:

- Mày làm dâu nhà Aviet là có phước lắm rồi, làm dâu nhà sang, được đeo dây Katteng ngàn sợi, không hơn ở nhà khó quanh năm ăn củ nưa à.
Người lớn đã nói vậy, Kalang Nga chỉ còn biết nuốt nước mắt thôi. Bên nhà Aviet đã nối thêm gian mới. Aviet Khất giàu có, nhiều vợ, nhiều con cháu, nhà dài đến chín gian. Kalang Nga chưa đến gần bao giờ, nhưng cô bé sợ ông ta, sợ lắm. Aviet Khất là người thợ săn hùng mạnh và cũng rất hung dữ. Một lần khi lên tám tuổi, Kalang Nga đã nhìn thấy người vợ thứ ba nhà Aviet bị xử tội. Người đàn bà bị buộc vào sau ngựa và bị kéo lê đi khắp xóm, thân hình đầy máu.

Một hôm trước ngày đón dâu, cô bé đã chạy đến nhà Pasieng Rêm, người lái buôn thường về xuôi buôn bán sau mùa gặt. "Bác Rêm, cháu có nhiều đồ quý, bác bán giùm cháu được không?" Cô bé vừa hổn hển nói vừa quỳ xuống, buông vạt váy mà cô đang lật lên, khư khư bụm lấy trước bụng. Một mớ hòn cuội trong, nhẵn bóng đổ ra trên sàn. Đó là tất thảy những viên cuội đẹp nhất mà cô bé Kalang Nga nhặt được trong những lần đi cõng nước ngoài suối trong suốt năm năm.

Pasieng Rêm ngạc nhiên. "Mày muốn gì?". Kalang Nga năn nỉ:

- Cháu nghe nói bác về xuôi, đem vật quý của rừng về đổi gạo, muối, bạc. Cháu muốn nhờ bác đổi những thứ này lấy bạc.

- Những hòn cuội, người Kinh họ không thích, mày cất đi mà chơi. Vả lại mùa này ta không đi buôn, đã có ông bạn người Kinh đây đem saphia, nồi đồng, thanh la, muối lên cho ta rồi.


#109
Văn xuôi / Lương dân
10/01/07, 10:50
TRUYỆN NGẮN
 
Lương dân
Nguyễn Minh Sơn

Ba! Đôi mắt ba vẫn mở mà không còn nhìn thấy gì nữa. Miệng ba muốn nói mà không nói được nữa rồi. Con ước sao ba cất lên một lời. Dù chỉ một lời thôi. Điều ấy giờ đây thật khó khăn quá. Vĩnh viễn... Mãi mãi... Ba đã bỏ con đi. Bỏ con đi giữa một chiều thu vàng rực rỡ.

Trong căn phòng tối om phía sau phòng cấp cứu của bệnh viện, con đã vuốt mắt ba. Ba đã dạy con sống để đừng bao giờ sợ chết. Sao giờ đây con sợ cái chết đến vậy. Nó thật lạnh lùng, thật tàn nhẫn và khốc liệt. Ba dạy con, con người chỉ nên sợ sự sống để sống tốt hơn. Đừng bao giờ sợ chết. Chết là hết. Là chấm dứt. Dù lên thiên đường, xuống địa ngục hay về với ông bà tổ tiên thì cũng hết. Chấm hết!

Ba còn nhớ không? Năm con lên sáu tuổi ba tập bơi cho con. Trẻ con trong làng Khương Hạ này muốn biết bơi thì phải bắt chuồn chuồn cho cắn lỗ rốn. Ba đã ngăn con làm như vậy. Ba dẫn con ra bến Gành. Từ trên cao, ba thảy con xuống dòng sông. Con phải vật lộn để cứu mình. Con đuối sức. Con uống nước no bụng. Con giận ba... Ba vẫn thản nhiên cười. Cuộc đời như một dòng sông. Con phải biết bơi. Bơi mãi... Bơi mãi không ngừng nghỉ. Con lớn lên chút nữa ba bắt con đi giữ trâu, cày ruộng. Bốn giờ sáng, ba đã kêu con dậy ăn cơm. Trời tối om, mùa tháng mười lạnh căm căm. Con cưỡi trên lưng con trâu Sinh đi trước. Ba vác cày theo sau. Bao giờ ba cũng đi sau con. Ba biết con sợ ma giữa đồng không mông quạnh trong thời khắc "nhứt chạng vạng nhì rạng đông". Có lần, con cưỡi trâu đi cày trên Hóc Khóm. Con trâu già lười biếng đi chậm vô cùng. Ba la con tại sao để trâu đi chậm. Con bảo tại con trâu nó đi ngược chiều gió. Ba liền cười, không la rầy con nữa.

Thời buổi lúc đó thật khó khăn. Gia đình đói triền miên. Ba và con chỉ có một mo cau cơm độn sắn và gói muối tiêu để qua buổi trưa. Vậy mà khi nào ba cũng chỉ ăn một phần tư gói. Tất cả còn lại ba dành cho con. Con biết. Con nuốt cơm không trôi. Con nài nỉ ba ăn cùng con một miếng nữa ba cũng không ăn. Có lúc đi rừng, hai cha con vào trại Hòn Than một tuần mà chỉ có mấy lon gạo. Ba phải xuống suối bắt ốc đá, đào củ môn dóc, hái trái cây rừng để ăn thêm. Được con ếch to ba cũng dành cho con. Được chùm dâu sặt, trái vàng nhợ chín ba cũng dành cho con. Có đêm trời dông bão giữa rừng sâu chỉ có một mình ba với con. Ba chất một đống lửa to ngồi canh cho con ngủ. Nhưng con chẳng ngủ. Con nằm đó mà trong lòng buồn bã. Con thương ba vô hạn. Cuộc sống khi ấy sao mà tối tăm.

Một bữa con đi câu cá dưới suối, ba đẽo cây trên núi. Ba dặn con đừng đi quá xa. Hễ không nghe tiếng rìu đẽo nữa thì phải quay lại. Đó là trại mới. Cá nhiều quá. Con ham cá nên đi mãi đi mãi. Trong bụng con lúc đó nghĩ rằng ba với con sẽ được một bữa ngon. Bất ngờ con nhìn thấy dấu cọp còn ướt in trên bãi cát. Con chạy về báo với ba. Ba mắng con thằng này lì thật. Con cọp đó ba đã gặp nó ngày hôm qua. Vậy mà ba không báo cho cho biết. Ba sợ con nhát gan. Nhưng con chẳng bao giờ nhát gan đâu. Ba đã dặn kỹ con, gặp cọp phải nhìn trực diện vào mắt nó. Không được quay lưng tháo chạy. Con cọp nhìn vào mắt người, biết người đó có sợ nó hay không. Ba đã từng nhiều lần nhìn trừng trừng nhìn vào mắt nó và nó phải bỏ đi. Con cọp không đáng sợ. Chỉ nên sợ con người. Ba hỏi con biết cây gì độc nhất trên đời này. Con không biết. Ba bảo cây viết độc nhất. Con dặn hôm nào ba chỉ cho con để tránh cây đó. Ba nói cây viết là cây bút con cầm đi học đó sao lại không biết. Khi đó con cũng chưa hiểu nhưng sau này con giật mình. Con giật mình ba ơi... Ba đâu có học nhiều bằng con nhưng ba thấu thị như vậy.

Ba! Ba đã bỏ con ra đi giữa một chiều thu vàng rực rỡ. Giờ phút cuối cùng, con đứng cạnh ba nhưng con có biết đâu. Ba trăng trối với con, con cũng không biết. Ba nói chắc ba chết mất nhưng con cũng không hiểu ra. Con còn đùa với ba rằng chết gì, mai mốt ba còn uống được cả mấy chai rượu nữa. Không ngờ ba lại ra đi. Ba ơi! Chén rượu đời mà con nói ba không bao giờ còn uống được nữa. Khi đó con muốn nói với ba chỉ một lời cũng không được nữa rồi. Con ước sao khi đó ba chỉ cất lên một lời rồi thôi. Điều ấy sao khó khăn quá. Con biết ba không sợ cái chết nhưng giờ đây con lại quá sợ. Ba dạy con phải sợ sự sống để được sống tốt hơn chớ đừng sợ chết.

Năm 1970, gia đình mình sống ở gần đồn bà Lẫm. Ban ngày lính Sài Gòn vào nhà thăm dò. Ban đêm du kích cũng vào nhà nằm ở gầm giường. Ba vẫn thản nhiên. Người ta bắt ba đi lính ba trốn lính. Ba trốn biệt vào hố Cây Si để làm ruộng nuôi gia đình và bốn chị em. Gặp du kích, họ bảo ba lên rừng theo cách mạng ba cũng không đi. Ba nói mình không chống đối ai, mình không sợ ai, mình không bàng quan ngoài cuộc. Ba chỉ cần yên bình làm ruộng nuôi gia đình. Nông dân chỉ cần như vậy. Người dân chỉ cần vậy. Ba không học hành nhiều nhưng ba biết dạy con "quân tử phải phòng thân". Hồi đó ba mua được một cây súng lận lưng. Một bữa nọ lính bảo an từ dưới Đức Dục bất ngờ lên bắt lính. Má dọn cơm cho ba ăn từ bốn giờ sáng để ba trốn vào hố Cây Si. Đang bữa cơm lính ập vào nhà. Má ngồi đối diện quăng chén cơm giữa bàn. Ba vọt lẹ xuống nhà dưới quơ vội cây súng nhảy lên bực đất sau hè. Lính xả súng theo xối xả. Tưởng ba đã trúng đạn, má la lên. Không ngờ, chạy được một đoạn ba quay lại bắn trả. Bọn lính hoảng sợ không dám đuổi theo. Ba thoát chết nhưng bác Bốn Cầm thì không thoát. Giận cảnh trốn lính chui nhủi mãi, bác ra trình diện. Ba khuyên bác đừng đi lính. Bác bảo thôi đi cho rồi. Ba can vì sợ bác chết để lại đàn con không ai nuôi. Đúng như thật, chỉ một tháng sau bác chết dưới An Hòa...

Tuổi thơ con nghịch ngợm vô cùng. Đi giữ trâu trên hố Bà Lòng, con thả trâu ăn lúa chú Năm Thí. Giữ trâu trên Đá Ghe, con nhổ trộm sắn ông Bốn Lý nướng ăn. Mùa đông đói quá nên phải ăn trộm sắn để nướng. Buổi tối, đêm nào họp đội sản xuất người ta cũng nêu tên ba ra. Vì con để trâu ăn lúa, con hoang nghịch nên ba mới bị nêu tên. Ngày tất niên, con và ba còn phải lặn lội vào rừng đẽo gỗ để tháng giêng còn có cái cho gia đình sinh sống.

Ba ơi! Đó là một cái Tết đáng nhớ nhất đời con. Tết mà không có cái ăn. Hơn chín giờ đêm giao thừa rồi mà con và ba mới lê thê lếch thếch ra khỏi bìa rừng. Chiếc ba lô nhẹ tênh với một nhúm ốc đá mà sao nghe nặng trĩu. Con buồn. Con biết ba cũng buồn. Buồn cho cảnh bần hàn túng thiếu. Con đói. Con khát. Con liều mình vào đại một đám mía của mấy người ở Mậu Long trồng bẻ một cây vừa đi vừa ăn. Ba không chịu ăn. Ba la con đừng có đi ăn trộm. Một cây mía có đáng gì đâu mà ba phải la con? Sau này, con nhớ mãi lời ba. Đói cho sạch rách cho thơm. Đừng trộm cắp, đừng sống bất nghĩa bất lương...

Ba ơi! Ba nuôi con ăn học. Đói ba cũng bắt con đi học. Con đi chăn trâu lúc nào cũng lận lưng vài cuốn sách. Mải mê học bài con để trâu đi mất. Trâu ăn lúa người ta ba cũng không đánh con. Buổi sáng con đi cày với ba. Buổi chiều con đi học. Buổi trưa con không kịp đem cơm cho ba tận trong Chèo Bẻo, ba cũng không la con.

Con nhớ năm học lớp một giờ ra chơi con trốn xuống bến Đá tắm sông. Ba đã dạy con biết bơi vì xứ sở mình hay lụt lội. Không biết bơi nghĩa là phải chết. Mới sáu tuổi đầu con đã bơi như rái. Con vượt sông qua làng Đại Bình ăn trộm dưa gang. Giờ vào học bị trễ, cô giáo bắt quỳ xơ mít, đầu gối rớm máu. Ba ra tận nhà cô giáo rầy cô. Dạy học trò phải nghiêm khắc nhưng dạy bằng tình thương. Cô giáo xin lỗi ba, ba bỏ qua. Ba là người rộng lượng. Con hay đi đánh lộn với lũ trẻ trong làng ba cũng không rầy con. Nhiều hôm bị chúng nó đánh bầm mặt con cũng không dám khóc. Ba dạy con đã có bụng chơi phải có bụng chịu. Con biết, nếu con bị họ đánh mà khóc là bị ba đánh thêm. Thằng Phương bên nhà học cùng lớp hơn con bốn tuổi. Nó mạnh hơn con. Nó kéo bạn đánh con hoài. Nó là địch thủ của con. Nó là thằng con ghét nhất. Con nhớ Tết năm đó, con và thằng Bạn con của chú Bảy sắp xếp âm mưu. Hai anh em ngồi rình trong hàng chè tàu trước ngõ nhà nó. Sáng mồng một Tết, nó lơn tơn mặc bộ đồ mới đi ra. Hai anh em nhảy ra gùi cho nó một trận như đống giẻ rách. Đầu năm mới, bà ngoại nó sang tận nhà chửi ba không biết dạy con. Ba gọi con về đánh cho một trận nên thân bằng cả nắm hom tranh. Ba đánh con không phải vì quê mình vốn kiêng kỵ năm mới mà chọc cho người ta chửi. Ba đánh con vì tội chơi hội đồng.

Ba! Bây giờ con ra đời rồi. Người ta vẫn hay đánh hội đồng con nhưng con không bao giờ làm như vậy. Con sống vì ba. Vì lương tâm con người không cho phép như vậy. Làm vậy là bẩn thỉu phải không ba?

Ba đã sống vì con. Ba đã hy sinh tất cả vì con. Ba đã nuôi cho con ăn học đường hoàng. Cả làng mình lúc đó có mình con đi học. Mỗi tháng, ba nhịn ăn gửi tiền cho con học đại học ngoài Huế. Khổ ba cũng không kêu ca. Ba chỉ muốn biết con có học giỏi hay không. Và con đã học giỏi. Ba đã yên lòng nhưng bây giờ con chẳng yên lòng. Con đi học để làm gì? Học làm người con chỉ cần học ba. Ba là lương dân. Con học cả đời cũng không bao giờ hết được.

Ba! Con học để làm gì? Con đã ra đời với dăm ba chữ nghĩa. Con đã đi làm với vài chức phận cỏn con... Con đã lăn lộn giữa bùn đời ô trọc. Con đã chiến đấu với quân vô đạo để làm một lương dân như ba nhưng người ta không cho. Con đã ghét cái ác như kẻ thù cũng vì muốn được sống như ba. Con không kể với ba những nhọc nhằn của đời sống nhưng ba biết được. Ba là nhà tiên tri. Ba chỉ khuyên con nhẹ nhàng. Chỉ có người ngu, cái ác và kẻ xấu mới la mắng mình, mới hằn học với mình. Con nghe lời ba và con đã hiểu. Nhưng giờ đây, tất cả đều vô nghĩa. Tất cả đều phù phiếm ba ơi! Con chỉ cần ba nhưng ba không còn nữa... Mãi mãi...

Con là đứa con bất hiếu. Ba đã chết trong cô đơn. Ba đã nuôi đàn con lớn lên. Đứa nào cũng bay về thành phố sinh sống. Người thành phố không giống như người ở quê. Người thành phố không thuần phác. Con phải khuấy đục, con phải chuốc say mới sống được. Nhiều lúc con đã không giữ mình. Con cảm thấy có lỗi với ba. Con là đứa con bất hiếu. Con đã để ba ra đi trong sự cô đơn. Một mình ba kiên quyết ở lại quê. Ba bảo ba sống chết gì cũng ở đất này. Và ba đã toại nguyện nhưng con không toại nguyện. Ba đã chết trong nỗi cô đơn vò võ. Thằng Phương địch thủ của con ngày nào giờ đây mở quán rượu đầu làng. Nó đã kể cho con nghe tất cả. Ba hay la hay mắng nó vì nó hư hỏng, không nên người nhưng nó bao giờ cũng thương ba. Chiều nào ba cũng ra quán nó ngồi uống rượu một mình. Chiều nào ba cũng ngồi trên cùng một cái ghế ngóng ra đầu dốc. Nhất là những chiều cuối tuần... Ba biết con không về nhưng ba vẫn ngóng. Ba thương con, ba nhớ con mà ba chẳng bao giờ nói với con... Mỗi lần con về dài ngày ba lại hối thúc con đi. Ba sợ con bận bịu công việc. Khi con đi rồi ba lại ra quán rượu ngồi ngóng. Ba! Nhiều lúc con có bận gì đâu. Nhiều lúc con đã mải vui quên mất ngày cuối tuần lẽ ra phải về với ba...

Đêm trước con còn ngủ với ba. Sáng hôm sau ba lại hối thúc con đi. Nửa đêm, ba kêu khát nước và gọi con dậy nấu ấm nước chè. Nấu nước xong, con không sao ngủ được. Đó là lần hiếm hoi con đã bưng nước cho ba. Còn nằm thao thức và suy nghĩ... Trên đỉnh núi Cà Tang con mang trắng cứ tác nghe buồn buồn. Nó tác hoài tác mãi những phận đời, phận người. Ba thường kể cho con nghe đó là con mang thần. Không ai săn bắn được nó. Lông nó trắng như tuyết, mắt nó vàng rực rỡ như mặt trời... Mỗi lần nó tác thì trời đang nắng chuyển sang mưa, trời đang mưa chuyển sang nắng. Thời tiết không thay đổi mà nó tác hoài, trong làng Cà Tang tất có người chết. Đêm định mệnh đó con đã nghe nó tác mà con có nghĩ gì đâu. Con đã quá vô tâm vô tính...

Ba! Ba đã bỏ con đi trong một chiều nắng vàng rực rỡ. Ba đã ngủ một giấc nghìn thu kêu chẳng dậy nữa rồi. Con ước sao ba chỉ mở miệng nói với con một lời thôi. Dù chỉ một lời gì đó thôi. Điều ấy giờ đây sao khó quá ba ơi!

Theo Thanh niên





#110
Ðêm không nghe tiếng sóng
Ðào Thị Thanh Tuyền

Anh có đúng 22 năm để trở lại nơi này. Nếu không phải là đại biểu có tham luận trong hội nghị ngày mai chắc có lẽ anh không bao giờ đến đây. Ban chiều, khi chiếc xe rẽ ngoặt vào con đường chính, tim anh như muốn vỡ tung, kỷ niệm cũ và nỗi day dứt mơ hồ nào đó thi nhau vò xé lòng anh.

Hai hàng đèn cao áp mầu vàng sáng rực soi rõ từng đám cỏ bên vệ đường. Có một con rắn mối đi ăn đêm chạy xẹt ngang thật nhanh từ bên này; đến giữa đường tim mầu trắng nó khựng lại, ngẩng đầu lên nghe ngóng rồi tích tắc phóng vụt vào bãi cỏ phía đường bên kia. Chỉ có anh và chiếc bóng đen ngắn ngủn đồng hành. Anh dừng lại lấy trong túi áo cái bật lửa và điếu thuốc rồi ngồi xuống. Trên bầu trời đen chiếc đĩa tròn sắc nét mầu trắng dõi theo anh qua những con phố mờ tối giờ nhòe đi nhợt nhạt. Anh nhìn quanh những con đường mới nằm trong khu quy hoạch chạy vuông vức như ô bàn cờ. Vẫn còn những khu đất trống đầy cỏ lau chen lẫn những khu nhà đã được xây cất tử tế, có ánh đèn vàng hắt ra từ những ô cửa sổ. Một con chó hoang như vừa chui ra từ lùm cỏ lau nào đó chạy tới phía anh, nó dừng lại dỏng tai, giương mắt nhìn anh như muốn làm quen. Anh huýt sáo và đưa bàn tay vẫy, con chó ngần ngừ một lúc rồi chầm chậm bước tới. Ðến gần chỗ anh ngồi, nó chăm chăm chờ những tín hiệu tỏ vẻ chấp thuận cho nó tới gần hơn nữa. Thấy anh không còn vẫy tay hay huýt sáo con vật dè dặt nằm xuống cách xa anh khoảng hai thước. Nhìn con chó tự dưng trong anh có một cảm giác cô đơn và hụt hẫng lạ thường. Anh nhìn về phía trước mặt, ánh đèn sáng chói nơi anh ngồi nhấn chìm khu rừng dương và biển trong một màn đen. Như vậy, anh đã đi bộ hơn năm cây số từ khu phố cũ để về lại nhà khách nằm trong khu vực quy hoạch mới này của thị xã.


Anh có đúng 22 năm để trở lại nơi này. Nếu không phải là đại biểu có tham luận trong hội nghị ngày mai chắc có lẽ anh không bao giờ đến đây. Ban chiều, khi chiếc xe rẽ ngoặt vào con đường chính, tim anh như muốn vỡ tung, kỷ niệm cũ và nỗi day dứt mơ hồ nào đó thi nhau vò xé lòng anh. Anh đã trải qua năm năm của thời tuổi trẻ không buồn, không vui ở đây. Con phố chính cắt đôi thị xã chạy dài từ quốc lộ 1A về phía biển bị chắn bởi khu quân sự cũ và rừng dương cùng một cồn cát làm đường ranh phố - biển ngày xưa thường ngăn bước chân khám phá của anh. Anh không thích biển nơi đây, không có núi che chắn, nó bao la và mênh mông quá dễ làm anh choáng và ngộp thở. Cho đến một ngày, không chịu nổi sự tĩnh lặng luôn mang dáng vẻ uể oải của nó, những bài giảng nhai lại kèm theo những khuôn mặt học trò vô cảm, anh ra đi.


Những con đường trong phố vẫn còn nguyên hàng cây xà cừ thật lớn chạy ngang dọc như những nhát dao băm vằm tim anh - sự thay đổi chậm chạp nơi đây làm lòng anh càng thêm trĩu nặng. Phải chi nó khác đi nhiều so với ngày xưa để anh có cảm giác mình đang đến một nơi hoàn toàn xa lạ. Ðã vậy, những tấm băng-rôn ghi dòng chữ chào mừng đại biểu về dự hội nghị như vả nhẹ vào mặt anh, thị xã vẫn đang bao dung mở rộng tấm lòng đón anh - một kẻ đã từ chối và bỏ chạy để bây giờ nhìn lại mọi việc diễn ra trong cuộc đời như một "nhãn tiền" mà ở tuổi hai mươi ngày ấy anh làm sao biết được!


Ra trường năm hai mươi hai tuổi anh nhận quyết định về dạy học ở một trường trung cấp nằm trong thị xã. Cùng về với anh đợt ấy có Khoa và Bích, hai người là bạn học cùng trường. Anh và Khoa là dân thành phố còn Bích là người địa phương. Học trò đa phần là các em học sinh vừa tốt nghiệp lớp 9, bộ đội phục viên hay cán bộ đi học. Anh dạy môn phụ nên dù có đầy nhiệt huyết cũng không thoát khỏi tâm trạng chán nản. Còn Khoa, tuy dạy môn chính nhưng do gia đình ở thành phố tương đối khá giả, phải về đây Khoa cũng chẳng phấn khởi gì. Chỉ có Bích là thoải mái vì cô được về gần nhà và được dạy môn chính.


Anh và Khoa ở cùng phòng trong khu tập thể. Biết tâm trạng buồn chán của hai người, sáng nào lên lớp Bích cũng tranh thủ đi sớm gần nửa tiếng tạt vào lôi anh và Khoa lên lớp. Có hôm cả hai trùm chăn kín mít mặc cho Bích gõ cửa đến mỏi tay và luôn vùng dậy khi nghe giọng cô bắt đầu nghèn nghẹn nước mắt.


Nhiệt tình của Bích dần cảm hóa được hai người, cô kéo anh và Khoa từ trong đống chăn mền bèo nhèo trên chiếc giường đơn ở khu tập thể những ngày nghỉ cuối tuần để ra phố, về quê, ra biển hay về nhà cô - một ngôi nhà nằm trên con phố chính có cây xà cừ xòe tán rộng phủ trùm hết vuông sân thượng, có những buổi sinh hoạt gia đình đầm ấm cùng những món ăn ngon do chính tay mẹ cô làm thết đãi hai người. Ba Bích, một người đàn ông vui tính và chân thật, thích chơi cờ; thỉnh thoảng ông vẫn nói đùa anh và Khoa là Sơn tinh và Thủy tinh, ai thắng ông liên tiếp ba ván sẽ được ông gả con gái. Không bao giờ anh hay Khoa thắng được ông, nhưng chắc có lẽ khi ấy cả hai người chẳng ai có ý nghĩ muốn thắng ông liên tiếp ba ván...


Một học kỳ, hai học kỳ rồi những học kỳ sau đó trôi qua trong bình lặng và tẻ nhạt vô cùng đối với anh. Những lá đơn xin việc anh gửi về thành phố mong được chuyển một công việc làm khác ngày càng ít hy vọng; sự tự tin trong anh mòn dần, có đôi lúc biến thành mặc cảm, tự ti hay những buồn vui vô cớ. Anh đem tất cả những muộn phiền ấy trút hết cho Bích. Cô yên lặng hàng giờ nghe anh tâm sự, cố gắng cùng anh tưởng tượng về một tương lai khá hơn cho anh, thế nhưng cuối cùng bao giờ cô cũng nhận từ anh một gáo nước lạnh hất đi vùng vằng: "Em làm sao hiểu hết được những điều ấy!". Anh chẳng thèm đếm xỉa những nét buồn u ám đến tội nghiệp trên gương mặt Bích, anh chỉ biết loay hoay với những trăn trở cho riêng mình.


Một buổi tối thứ bảy, Khoa đã về nhà. Anh cảm thấy rất ngột ngạt trong căn phòng mười sáu mét vuông, anh lôi chai rượu ra uống một mình. Những suy tư về một tương lai không có viễn cảnh gì sáng sủa ở thị xã nhỏ bé và hiu hắt này thi nhau dằn xé, anh có cảm giác mình như con cá bị bủa trong tấm lưới chật hẹp, càng vẫy càng bị bó chặt. Ðang lúc cực điểm của sự bế tắc thì Bích đến. Như người chết đuối vớ được chiếc phao, anh ôm lấy Bích và trút hết vào cô những nỗi buồn, những bế tắc. Bích dịu dàng vuốt ve anh xoa dịu dần sự căng thẳng. Khi sợi dây đã chùng, cô nhận thấy anh chẳng hề yêu cô; cô chỉ là một từ hay một cụm từ điền vào dấu ba chấm đang bị khuyết trong cuộc đời anh, cô lặng lẽ rời khỏi căn phòng ấy và nuốt ực xuống cổ cảm giác buồn, tủi, đớn đau.


Cuộc sống là một chuỗi thất vọng rồi hy vọng kéo dài theo dạng biểu đồ hình sin lay lắt kéo anh những giờ lên lớp vô cảm. Cho đến một ngày chuỗi hy vọng ở đỉnh điểm cao nhất là lúc anh nhận được sự chấp thuận về làm việc ở một viện nghiên cứu trung tâm thành phố. Cùng lúc đó, tất cả như nhấn chìm anh xuống điểm cực tiểu khi Bích đến báo tin có một mầm sống đang cựa quậy trong cô. Ðó là một đêm mưa. Tiếng mưa rơi đều đều trên mái tôn đưa anh từ từ rớt xuống đến tận cùng. Biểu đồ hình sin cuốn lại chập chờn dùng dằng trong anh, cuối cùng như một sợi dây nó kéo nhanh anh lên khỏi vực sâu với một lời từ chối quyết liệt: "Anh đã quyết định rời khỏi nơi này trong tháng tới!". Khi buột miệng nói xong câu đó, có lẽ lần đầu tiên trong đời anh nhìn thấy một đôi mắt khác thường như vậy từ Bích. Nó như một tấm thảm trải rộng được đan bằng những sợi dây thương yêu, oán hận, tuyệt vọng đến căm hờn và cuối cùng được gút lại ở đường biên bằng những sợi chỉ lạnh lẽo, vô hồn, không cảm xúc. Bích đứng lên, quyết liệt và mạnh mẽ. Cơn mưa bên ngoài đã hết, cầm tấm áo mưa cô rũ thật mạnh cố làm rớt hết từng hạt nước nhỏ rồi xếp lại một cách chậm rãi và bước rất nhanh ra khỏi căn phòng ấy.


Cuối cùng mọi việc kết thúc như có một bàn tay sắp đặt khéo léo. Ngày đám cưới Khoa và Bích cũng là ngày anh bước lên xe đò rời khỏi thị xã. Hôm ấy mưa rất to, những giọt nước mưa như những viên đá quất vào mặt anh đau rát và lạnh buốt; dù việc ra đi đã quyết định từ trước nhưng cái tâm trạng của người vội vã chạy trốn vẫn theo anh bao năm trời đằng đẵng về sau và đến mãi hôm nay.


Anh không gặp lại Khoa, Bích từ đó; tin tức của hai người thỉnh thoảng tạt vào đời anh như những cơn mưa bóng mây, khi thì nhỏ lúc thì ồ ạt. Họ đã có con, một bé gái xinh đẹp nhưng yếu ớt vì được sinh ra và nuôi nấng trong bối cảnh người mẹ bị đau ốm triền miên. Hai năm sau họ chia tay. Người ta nói họ không hợp nhau nhưng anh hiểu Khoa đã làm xong vai trò của mình. Khoa chuyển công tác về một thành phố trên cao nguyên và lập gia đình sau đó ít năm; còn Bích sau những chìm nổi trong cuộc đời, như một con bướm được thoát xác cô vươn mình đứng dậy, nghe nói mấy năm sau được đề bạt làm hiệu trưởng.


Anh bơi ngược bơi xuôi trong bể cuộc đời khi chìm, khi nổi cũng đến gần mười năm sau đó mới lập gia đình. Cuộc sống gia đình của anh sẽ hoàn toàn thuận lợi và đầy đủ nếu vợ anh mang đến cho anh những đứa con; thế nhưng, một năm, hai năm rồi năm năm hy vọng ấy càng ngày càng tắt, càng chờ càng mất. Vợ anh đòi đi khám, nhưng anh nhất quyết không chịu. Anh biết rất rõ điều này, anh yêu vợ thật sự và anh không muốn cô phải mang tâm trạng người có lỗi. Anh nhận phần thua thiệt về mình, đó là lần đầu tiên trong đời anh nhận mình là người bại trận : "Có lẽ anh đã lớn tuổi nên không thể có con được, nếu chúng mình yêu nhau thì sống như vầy cũng được rồi". Anh nói với vợ như thế. Và từ đó căn nhà của họ là hai thế giới riêng biệt, cô lao vào những đề án, những chương trình, những công việc ngoài xã hội; anh chìm đắm vào những trang sách dịch, những bản văn tự cổ, những tấm văn bia trải qua nhiều thế hệ, lút đầu sau những cuốn tự điển thật dày tìm lại quá khứ trong những trang tài liệu đã có hàng trăm năm. Cuộc sống của anh như con thuyền trôi chậm rãi, bình an trên dòng sông thời gian đưa con người về đến một cái đích cuối cùng nào đó. Thế nhưng ám ảnh về những đứa con vẫn không thôi rời bỏ anh, những giấc mơ của anh thường xuyên có những đứa trẻ bụ bẫm với nhiều tiếng bi bô không rõ nét hay những tiếng cười trong trẻo; thỉnh thoảng anh mơ thấy ngôi nhà trên con phố chính có cây xà cừ xòe tán rộng, trên vuông sân thượng đặt sẵn một bàn cờ, có anh và một người đàn ông đang thận trọng tiến thoái đẩy lui mong giành phần thắng cuộc, chung quanh lũ trẻ con chạy nhảy, chơi ô quan, chơi canh chuông, có đứa thụp xuống níu lấy người anh mong được anh che chắn trong một trò chơi trốn tìm... Tất cả những điều đó luôn dằn vặt anh như anh đã từng có những dằn vặt một thời trai trẻ ở cái thị xã buồn tẻ và uể oải ấy.


Con chó hoang đã lần hồi nhích đến sát chân anh tự lúc nào, anh giật mình khi bàn tay bỗng chạm vào lớp lông mềm của nó. Búng tàn thuốc còn đốm lửa đỏ ra xa anh đứng dậy và đi về phía bóng tối. Chiếc bóng và con chó lại lẳng lặng theo chân anh trên con đường vắng. Hết con đường có hàng đèn cao áp, anh rơi vào vùng ánh sáng mờ nhạt của những bóng đèn nhỏ đủ soi đường cho anh xuống biển. Mặt trăng ló ra khỏi lùm dương như một con mắt tò mò cố dõi theo anh. Bóng cây in trên bờ cát những vệt đen lờ mờ xiên xẹo không hình thù. Không có một ngọn núi nào che chắn, biển lặng như một tấm thảm trải rộng. Không gian bao la và thoáng đãng làm anh ngộp thở. Xuống đến mép nước, anh thấy rõ những con sóng chạm nhẹ vào bờ cố không gây nên một tiếng động nào dù là tiếng xạc xào nho nhỏ. Gió se se mang cái lạnh gai gai của đêm đang chuyển dần sang ngày khác. Con chó lúc này đã mạnh dạn hơn, nó quấn lấy chân anh như muốn tìm một chút hơi ấm. Anh ngồi xuống bờ cát, con chó phục xuống nằm bên cạnh, anh lấy tay vuốt đầu con vật, được bàn tay người thương yêu nó duỗi mình dài ra và mọp sát đầu xuống cát.


Người ta có thể dối với bất cứ ai, giấu giếm nhiều người nhưng không bao giờ qua mắt được người mẹ. Tối nay anh đã đến ngôi nhà đó. Thời gian phủ một lớp mờ lên tất cả mọi thứ. Anh dựa lưng rất lâu vào cây xà cừ đã có dáng vẻ hơi cỗi vẫn xòe tán sum suê như tựa vào một người quen cũ. Qua khung cửa kính anh vẫn còn nhìn thấy bộ salon cổ ngày trước. Khi cánh cửa bật mở ra, một người đàn bà có gương mặt phúc hậu, mái tóc bạc trắng, dáng đi nhẹ nhàng thanh thoát nhìn anh chẳng có gì lạ lẫm hay ngạc nhiên:


- Tôi biết rồi cũng sẽ có một ngày cậu đến đây!


Không mời anh vào nhà, đứng dưới gốc cây xà cừ bằng một giọng nhẹ như gió thoảng bà đã nói với anh:


- Mọi việc qua lâu rồi, chúng tôi đã quên tất cả. Mong cậu hãy hiểu cho là giờ đây chúng tôi đang sống rất bình yên.


Cánh cửa sắt kéo lại, những bánh xe có lẽ từ lâu chẳng được tra dầu mỡ nghiến ren rét trên đường ray như nghiền nát quả tim anh. Ánh sáng bên trong vụt tắt trả lại bóng tối của cây xà cừ trùm kín lấy người anh.


Mặt trăng đã nghiêng chếch về tây. Con chó dưới chân anh đã ngủ từ lúc nào. Biển mênh mông là thế nhưng sao không hề nghe tiếng sóng? Cảm giác mỏi mệt thấm dần khắp người anh. Mọi thứ mờ ảo trước mắt. Anh đứng dậy trở ngược lên con đường đi về nhà nghỉ bỏ lại sau lưng bờ biển vắng và con chó hoang bằng bước chân của người đi trong vô thức. Thả người xuống chiếc giường nệm, anh nằm im cố lắng nghe tiếng sóng từ xa dội lại, thế nhưng chung quanh anh tất cả đều yên ắng. Anh đã có một đêm ở biển không hề nghe tiếng sóng.


Anh ngủ được chút xíu thì bị đánh thức bởi những âm thanh xôn xao ngoài hành lang. Hình như có một đoàn khách ở xa vừa đến. Mầu trời xanh thật nhạt bên ngoài khung cửa sổ đã kéo anh nhổm dậy. Biển gần đến nỗi anh tưởng mình có thể nhảy qua khỏi khung cửa kia là rơi ngay vào làn nước xanh lơ đó. Anh bước đến bên cửa sổ nhìn xuống đường. Dòng người đi biển sớm như những quân cờ di động, hàng dương kéo dài ngút mắt không có điểm dừng. Trời và biển xanh đến nao lòng, thị xã mang một vẻ đẹp hoang sơ và tinh khiết của một cô gái không hề có chút điểm trang. Anh nhìn mãi những mầu xanh được pha trộn một cách hoàn hảo trước mặt với đầu óc trống rỗng và giật mình khi có người gõ cửa phòng mời anh chuẩn bị đi ăn sáng để bắt đầu cho ngày làm việc đầu tiên.


HỘI nghị được tổ chức theo kiểu bàn tròn tọa đàm. Từng thành viên tham dự lần lượt được giới thiệu. Anh bị thôi miên vào góc cuối căn phòng, người ta vừa giới thiệu một đại biểu còn rất trẻ, cô vừa tốt nghiệp ra trường nhưng đã có nhiều công trình nghiên cứu đóng góp cho địa phương và hiện đang là giáo viên trường cao đẳng của thị xã. Một mái tóc xõa dài ôm bờ vai nhỏ nhắn, nụ cười e ấp và khuôn mặt ửng hồng vì thẹn. Anh giật mình. Có phải là tuổi trẻ của anh đó không? Một khuôn mặt quen lắm trong miền ký ức xa thẳm nào đó? Bên cạnh anh có tiếng một người giới thiệu với một người như muốn khẳng định thêm uy tín cho cô gái: "Con cô Bích, hiệu trưởng trường Trung cấp Y...". Sống lưng anh lạnh toát, tay anh run rẩy, đầu óc anh choáng váng. Mọi việc sau đó diễn ra một cách máy móc đối với anh, những ánh đèn flash lóe sáng, những ống kính đưa tới chụp gương mặt anh cận kề, bài tham luận và những câu trả lời phỏng vấn bên lề hội nghị... Ðầu anh ong ong, tim anh muốn vỡ tung ngàn mảnh... Ngôi nhà có cây xà cừ xòe tán rộng và câu nói của một người lại văng vẳng bên tai: "Giờ chúng tôi đang sống rất bình yên...". Anh đã làm dang dở một thời tuổi trẻ của cả ba người: anh, Khoa và Bích và đã gây nên biết bao sự việc rắc rối trong quá khứ ở đây. Anh không có quyền làm xáo trộn sự bình yên nơi này một lần nữa. Thị xã vẫn rất yên tĩnh cũng như đêm qua biển không có sóng đấy thôi!


Hội nghị còn tiếp tục một ngày nữa. Nhưng chiều tối hôm ấy, không chịu nổi những dằn vặt và nỗi buồn nặng trĩu trong tim, anh rời khỏi nhà nghỉ ngoắc một chiếc xe đò Bắc - Nam, vội vã giống như một ngày mưa cách đó 22 năm.


Chiếc xe đò dừng lại trước một quán ăn bên đường cho tài xế cùng hành khách nghỉ ngơi, ăn tối. Ðứng tựa lưng vào một gốc cây nhìn ra quốc lộ nhuộm mầu đen thẳm của đêm, anh nghe tiếng hát một người mù ai oán tả cảnh gà trống nuôi con và trách cứ ông trời sao bày vẽ chi nhiều bi kịch bắt người đời phải gánh chịu. Người chủ quán đang chế cà-phê cho khách nói bâng quơ một mình theo thói quen muốn tìm ai chia sẻ trong cái đám đông đang lặng lẽ đứng, ngồi chung quanh: "Ông ta mù hát rong kiếm tiền mà nuôi con gái tươm tất lắm. Con gái ông học rất giỏi, vừa thi đậu vào trường chuyên thị xã...".


Câu nói bâng quơ như nhát dao xắn vào quả tim nặng trĩu của anh. Không suy nghĩ gì thêm nữa, anh khoác vội chiếc túi du lịch bước ra đường cái vẫy một chiếc xe đò Nam - Bắc khác đang ngược về thị xã bỏ lại sau lưng vài câu suy đoán mơ hồ của đám đông...


Người phụ xe xếp cho anh một chỗ ngồi trên băng ghế sau cùng. Ngả đầu vào thành ghế, anh nhắm nghiền đôi mắt mệt mỏi. Quá khứ, hiện tại, tương lai hiện lên như một cầu vồng nhiều mầu sắc khi nhòa, khi tỏ. Những luồng gió đêm tạt vào xe mang theo cái mùi nồng nồng của rơm rạ và của đất hòa quyện với hơi người trong xe tạo thành một hơi ấm xoa dịu dần nỗi đau đớn trong trái tim anh. Biển trước mặt anh trải rộng đến vô cùng và xanh thẫm một mầu ngọc bích. Vẫn là đêm không hề nghe tiếng sóng.

Theo Nhân dân
#111
Bỏ phố lên rừng
Lê Xuân Hoa


Dung đến Sa Pa giữa lúc chạng vạng của buổi chiều muộn sau hơn một tiếng đồng hồ bã bời trong chiếc commămgca lắc lư đổ đèo. Dung lôi thôi lếch thếch đi thẳng vào Trung tâm Khuyến nông.

Đã hết giờ làm việc, các phòng ban đều đóng cửa. Trụ sở của trung tâm là dãy nhà hai tầng lúp xúp nằm lọt thỏm giữa bạt ngàn cây xanh. Bảo vệ dắt Dung vòng ra phía sau, mọi người về hết rồi, chỉ còn mỗi chị Nhân- trưởng phòng hành chính ở đây, có lẽ cô cứ gặp chị ấy mà trình bày. Dung khẽ "dạ", bước chân đạp lào xào trên lá.

Dãy nhà cấp bốn được dựng tạm bằng gỗ ghép lại nằm chơ vơ giữa khoảng sân rộng, chắc là nhà tập thể, Dung đoán thế. Thấp thoáng dáng người phụ nữ đang lúi húi xúc cám. Lũ lợn ỉn thả rông chạy lông nhông xung quanh, những cái mõm háu ăn khịt khịt liên hồi. Dung đứng lại, cầm giấy giới thiệu của ủy ban và tập hồ sơ lủng củng những văn bằng, chứng chỉ trên tay, ngập ngừng: "Dạ, cho em hỏi chị Nhân". "Cán bộ mới về tăng cường à? Trời ơi nhỏ quá, chị tưởng em là sinh viên thực tập chứ". Chị Nhân reo lên ngạc nhiên rồi hối hả cầm xâu chìa khóa xủng xẻng, lôi tuột Dung đi mà không buồn liếc qua đống giấy tờ bảo lãnh của Dung cho đúng thủ tục. "Nhà công vụ có năm phòng" chỉ mình chị ở, bây giờ thêm em nữa là hai. Chị ấn chiếc chìa khóa vào tay Dung: "Đi đường xa chắc mệt, em đi nghỉ đi. Phòng chị ngay bên cạnh, nếu cần em cứ gọi. Sáng mai chị sẽ đưa em lên gặp giám đốc".

Luận án của Dung mất sáu tháng lọ mọ để nghiên cứu về atisô, một loại cây sinh trưởng ở vùng cao, có giá trị gấp năm lần cây lúa và đang được thị trường châu Âu quan tâm. Tốt nghiệp, Dung được thầy chủ nhiệm giới thiệu với Trung tâm Khuyến nông trên Sa Pa. "Đấy là nơi thích hợp nhất để gieo trồng những mầm cây atisô của em". Khi rời Hà Nội, chỉ mình Lâm đưa Dung ra ga. Mẹ rầu rĩ, rên hệt như Dung đang đi vào chỗ tự đầy ải thân xác mình, người ta chạy chọt để về thành phố, mình lại đâm đầu về cái nơi heo hút ấy. Bố xoa đầu Dung bảo, cứ đi đi con, tuổi trẻ mà, con cần phải tự thể nghiệm, khi nào không chịu được thì về nhà. Lâm im lặng, không can ngăn, phản đối, cũng không tỏ thái độ ủng hộ, khuyến khích. Mãi đến lúc tàu chạy mới dúi cho Dung chiếc CD bỏ túi, để những lúc rảnh rỗi em có thể nghe nhạc. Dung nhoài người ra khung cửa sổ, chỉ thấy Lâm nhạt nhòa, nhỏ xíu trên sân ga.

Hóa ra Trung tâm Khuyến nông không thuộc thị trấn Sa Pa mà còn phải đi thêm 4 km đường rừng. Bao phủ là đồi núi, trung tâm rộng mênh mang, hoang vắng và biệt lập như một ốc đảo. Nhân viên trung tâm vỏn vẹn có chục người, cũng đầy đủ cơ cấu các phòng ban. Ngày đầu tiên đi làm, đích thân giám đốc đưa Dung xuống phòng thí nghiệm, trân trọng giới thiệu "Cán bộ về nghiên cứu dự án trồng thí điểm cây atisô trong chương trình chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi". Dung rón rén ngồi xuống bàn làm việc, chỉ thấy bụi mờ trên giá. Ống thí nghiệm cái nứt, cái mẻ vứt chỏng chơ trên khay. Dung tá hỏa, phòng không có máy tính, không Internet, không email. Cả trung tâm mới có một điện thoại đặt trong phòng giám đốc, nhấc lên nghe chỉ thấy rọt rẹt, rọt rẹt. Nói chuyện mà cứ phải quát tướng lên như cãi nhau vì tín hiệu yếu, lúc bắt được, lúc không nên không nghe thấy gì. Dung đờ đẫn cả người, hốt hoảng. Dung không hề lường trước được cảnh tượng này. Không có dụng cụ thí nghiệm, không trao đổi thông tin với bên ngoài, chắc Dung chỉ còn cách gieo atisô xuống đất và cầu Trời khấn Phật, cây ơi nẩy lộc đi!

Nhìn Dung thần người vì lo lắng, đồng nghiệp cười vang, ngạc nhiên lắm hả em, rồi sẽ quen cả thôi, như bọn anh đây này, quanh năm suốt tháng lên lịch về vùng cao tập huấn nuôi trồng VAC cho già làng, trưởng bản, thế là xong. Thôi ngồi xuống đây làm lễ ra mắt, hôm nay em là trung tâm đấy. Rượu được rót đều ra các chén, sóng sánh và thơm như mật. Dung bị xếp vào giữa. Sau cái cụng ly keng một cái của trưởng phòng và lời tuyên bố dài dòng: "Hôm nay chúng ta vinh dự tiếp đón một trí thức trẻ tình nguyện về vùng cao xóa nghèo...". Dung nhắm mắt uống liền một hơi và đặt cốc không xuống bàn. Tiếng vỗ tay vang lên từng tràng dài, không dứt. Mặt Dung đỏ nhừ, nóng bừng, Dung thấy đầu nặng trĩu. Rượu lại được rót ra, rồi lại uống. Dung uống liên miên không dám từ chối, sợ mọi người cho là gái thành phố không thật lòng. Nhưng chưa hết một vòng chào hỏi Dung đã đầu hàng. Dung đi thẳng về phòng, nằm vật xuống giường.

Chị Nhân đã ngoài bốn mươi, là trưởng phòng hành chính nhưng kiêm đủ thứ, từ kế toán, thủ quỹ đến văn thư, công đoàn. Chị về trung tâm từ những ngày đầu tiên mới thành lập. 15 năm gắn bó, chị đã chứng kiến biết bao sự đổi thay, bao đời giám đốc. Trước đây, chị Nhân là thanh niên xung phong, thoát ly từ năm 17 tuổi. 17 tuổi nhưng hồi ấy chị phổng phao lắm chứ không còi cọc như Dung bây giờ. Những tháng năm tuổi trẻ, vụt một cái qua đi từ lúc nào không biết nữa. Cả đời chị lúc nào cũng gắn bó với rừng, lúc nào cũng cắm cúi cây với cối, đến khi soi gương, giật mình vì tóc đã rụng, da đã nhăn. Chị Nhân ở vậy không lấy chồng. Thì bảo yêu đương vào lúc nào? Hồi thanh niên xung phong, một tổ rà phá bom mìn toàn con gái hơ hớ giữa rừng sâu, chỉ có những đoàn xe chở vũ khí, lương thực ra tiền tuyến. Giữa những cuộc gặp gỡ vội vàng, chớp nhoáng ấy cũng có đứa không giữ được mình nên mang bầu, lập tức bị đơn vị trả về địa phương ngay. Kỷ luật chiến trường nghiêm khắc lắm. Lúc ấy chị lại là tổ trưởng, là đảng viên nên phải gương mẫu. Nhiều khi cứ phải cắn răng lại mà tự nhủ, thôi cố cho qua cái đận này, đến khi hòa bình... Rồi hòa bình thật và chị được điều về đây, quá lứa lỡ thì cả rồi, trung tâm thì lèo tèo dăm ba người đều đã có gia đình. Nơi này heo hút lắm, cả năm cũng không có khách vãng lai. Hồi đầu chị hãi lắm, chị nuôi bầy lợn, dăm con gà. Nuôi cho vui cửa, vui nhà, cho có tiếng kêu. Nhiều đêm thức giấc chị chỉ thèm nghe thấy tiếng kêu của con lợn, con gà để tự an ủi là mình không chỉ có một mình.

Chị Nhân thương Dung lắm, chăm sóc Dung bằng tình thương của một người mẹ. Dung là con gái thành phố, học hành đàng hoàng lại dám bỏ cả gia đình, bỏ cả người yêu lên vùng cao làm việc. Chị tìm thấy sự sôi động, nhiệt huyết với cuộc sống của mình ngày xưa trong Dung. Nghe chị Nhân nói thế Dung chỉ cười. Nụ cười méo xẹo.

Trình dự án và thuyết phục mãi, Dung được giám đốc giao cho 1.000 m2 đất trồng thử atisô. Dung khấp khởi mừng thầm, vậy là atisô của Dung có cơ hội được phủ xanh vạt đồi này rồi. Nhận tiền để thực hiện dự án, Dung mới ngã ngửa, chi phí quản lý, hội họp, liên hoan và đủ thứ không tên khác ngốn mất gần nửa. Dung chỉ còn đủ tiền để mua cây giống, mọi thứ còn lại Dung phải tự lo. Tay Dung chỉ quen gõ bàn phím và nhấn chuột. Làm đất, gieo giống, ủ phân... cuối cùng lại đến tay chị Nhân. Hai chị em túi bụi ngoài đồi cả ngày. Dung lập cả nhật ký theo dõi tiến trình phát triển của atisô, cặm cụi so sánh với những kiến thức trong sách vở. 1.000 m2 đất, Dung thuộc từng nhành cây, mầm lá. Dung gửi cả mẫu cây về trường nhờ thầy chủ nhiệm phân tích thành phần và đánh giá. Dung đứng giữa đỉnh đồi, dõi mắt ra xa. Dung đã nhìn thấy sự lớn mạnh từng ngày của những mầm cây atisô. Dung đã có cả một vườn cây xanh mướt. Huyện cử một đoàn cán bộ về nghiệm thu. Dự án của Dung được thống nhất đánh giá tốt.



Và cũng nhờ atisô, Dung bỗng trở thành trung tâm của mọi sự chú ý. Dung được xuống huyện học cảm tình Đảng. Đâu đâu cũng nhắc đến Dung như một điển hình của sự tìm tòi, sáng tạo trong thanh niên. Dung bị vây kín bởi những buổi báo cáo thành tích. Những cuộc họp làm Dung phát ngấy. Atisô muốn thành sản phẩm xuất khẩu thu ngoại tệ còn cần đầu tư vào dây chuyền chế biến, đóng gói và bảo quản. Dự án giai đoạn hai của Dung vẫn chưa được phê duyệt. Đi đến đâu Dung cũng chỉ nhận được những lời hứa hẹn, sẽ xem xét, sẽ giải quyết. Dung đứng giữa những hàng cây atisô đã qua thời kỳ thu hoạch, lá cây dần ngả màu mà không khỏi xót xa. Chị Nhân vỗ về, phải bình tĩnh chứ em, một dự án lớn như thế cần phải có thời gian. Dục tốc bất đạt em ạ. Dung ngồi bệt xuống đất, tần ngần. Lúc nào cũng chờ đợi, Dung còn phải chờ đợi bao lâu nữa trong khi thị trường có chờ đợi Dung đâu!

Cuối cùng thì giám đốc cũng gọi Dung lên gặp, nhưng không phải để giải đáp thắc mắc của Dung. Trung tâm Khuyến nông chỉ có chức năng nghiên cứu giống cây và ứng dụng phương pháp mới. Việc thành lập công ty để chế biến và phân phối ra thị trường không phải là việc của trung tâm. Tôi biết cô rất có tâm huyết với cây atisô nhưng chúng ta chỉ dừng lại ở việc trồng thí điểm. Hay là cô thử nghiên cứu về đề tài khác nhé. Dung ngồi im trên ghế, mắt tròn xoe. Nhưng nghiên cứu phải đi liền với thực tiễn, nghiên cứu phải ứng dụng chứ ạ. Thế này nhé, cần phải hiểu rõ vị trí và khả năng của mình cô Dung ạ. Cô đang là đối tượng cảm tình Đảng, hành động phải thận trọng, đảng viên làm sao mà làm kinh tế được, thành lập công ty, tuyển dụng lao động, như thế là bóc lột đấy... Dung điếng người, ngồi bất động trên ghế.

Chi bộ Đảng họp để nhận xét giới thiệu đảng viên mới. Dung được mời đến để phát biểu ý kiến và nghe góp ý. Dung bảo mục đích em lên đây là muốn tìm một phương thức mới, muốn tạo ra một dây chuyền hoàn chỉnh từ đầu vào đến đầu ra của cây atisô. Liên quan đến bài toán kinh doanh, chức năng trung tâm chỉ để nghiên cứu chắc không còn phù hợp nữa, có lẽ phải thành lập công ty, đừng nghĩ công ty là bóc lột, chúng ta có doanh nghiệp Nhà nước đấy thôi. Không lẽ các công ty Nhà nước cũng là bóc lột cả sao? Mọi người ngồi nghe Dung phát biểu, bảo cần phải làm rõ tính cơ hội trong việc vào Đảng của Dung. Vào Đảng là để cống hiến cho lý tưởng cao đẹp chứ không phải vào Đảng để làm bước tiến thân. Dung có hộ khẩu dưới thành phố, có bằng cấp đàng hoàng, xin về vùng rừng núi chẳng qua là để lợi dụng danh nghĩa Nhà nước, lợi dụng Đảng để kinh doanh, để mưu cầu lợi ích cá nhân. Tai Dung ù đi, mắt Dung mở to. Những người nghi ngờ về tính cơ hội của Dung chính là những đồng nghiệp thân quen. Dung không hiểu nổi, cùng một hành động, cùng một người nhận xét mà tại sao lúc lại là tốt, lúc lại là xấu. Cũng chính những đồng nghiệp này đã từng hết lời ca ngợi việc Dung lên vùng cao là đầy nhiệt huyết, đầy trách nhiệm của trí thức trẻ đấy thôi.

Cuộc họp kết thúc, chỉ có tác dụng làm Dung bế tắc và hoang mang. Việc giới thiệu Dung vào Đảng cần tiếp tục xem xét. Dung đi lang thang một mình ra vườn atisô. Đêm nay trời trong và cao. Dưới ánh trăng bàng bạc, từng phiến lá xanh ánh lên, lấp lánh. Dung nghĩ về những tháng năm sinh viên với những hoài bão, dự định. Cây atisô của Dung, chắc lại trở về với ống nghiệm mà thôi. Dung gục mặt, thẫn thờ. Bất chợt có bàn tay đặt lên vai Dung. Dung ngước mắt nhìn. Chị Nhân ôm Dung vào lòng, vỗ về: "Mạnh mẽ lên chứ em, những chuyện thế này rồi em sẽ gặp thường xuyên".

Nhưng rồi Dung không thể mạnh mẽ, những háo hức của cái ngày xách hành lý đi thẳng vào Trung tâm Khuyến nông Dung không tìm lại được. Hằng ngày ra vào nhìn hàng cây atisô lụi dần, Dung cứ thấy lòng mình thắt lại. Dung thu xếp đồ đạc, viết cho chị Nhân vài dòng rồi vẫy xe ôm xuống thị xã mua vé tàu về Hà Nội. Dung không dám đối diện với chị Nhân, người phụ nữ cả đời lặng lẽ hy sinh vì cuộc sống của mọi người. Dung được sinh ra vào một thời đại khác. Dung có những toan tính và những lý do riêng của mình. Dung cũng bị những điều kiện vật chất quyến rũ, chi phối. Dung không hành động không có mục đích. Dung muốn làm giàu. Dung không thể ở lại trung tâm, tiếp tục nghiên cứu khi Dung biết mục đích của mình không đạt được. Dung lên tàu, vội vã bỏ lại sau lưng Sa Pa với chập chùng gió, chập chùng mây.

Lâm ra tận sân ga đón Dung, lặng lẽ nắm tay Dung băng qua đám đông nhốn nháo mà không hề hỏi han. Nét mặt Lâm bình thản, chỉ như Dung vừa trở về sau một chuyến công tác xa. Dung nhón chân đi bên cạnh Lâm, bối rối đến ngạt thở vì sự ồn ã, huyên náo của phố phường. Lâm cười, siết chặt tay Dung "Về nhà thôi, em nhé!". Dung ngoan ngoãn gật đầu. Đi mãi cuối cùng cũng chỉ có nhà mình là nơi trông ngóng, là nơi thúc giục trở về. Và Dung nghe giọng mình thật nhỏ, thật khẽ khàng "Vâng, về nhà thôi!".

Và đêm ấy Dung đã mơ. Trong giấc mơ Dung thấy mình đem sổ đỏ nhà đi thế chấp vay tiền ngân hàng để thành lập công ty xúc tiến đầu tư nông nghiệp. Cầm giấy phép trong tay, Dung chỉ muốn khóc, atisô ơi, mau mau mà thành ngoại tệ đi thôi!

Theo NLĐ
#112
Văn xuôi / Kỷ vật
05/12/06, 13:34
Kỷ vật

Trọng Huấn

Tốt nghiệp ra trường, tôi về dạy học ở một huyện vùng trung du. Cái thị trấn nho nhỏ. Ngôi trường ngự ngay trên đồi. Từ khu trường có thể nhìn bao quát xuống thị trấn, những mái nhà lô xô, cái mái ngói, cái mái tranh, trông đến vui mắt. Xa xa nữa, là những vạt chč xanh, trải dài ngút ngát. Một thị trấn thanh bình, mơ mộng!

Lũ học trò hiền lành, chăm chỉ. Cứ nhìn chúng tròn xoe mắt, lắng nghe từng câu, từng chữ trong các tiết học, trong những bài giảng của tôi, thấy chúng thật đáng yêu. Công việc, cuộc sống chỉ đến thế là cùng, mình có ước ao gì hơn nữa.

Năm dạy học đầu tiên qua đi tốt đẹp. Vào cuối năm ấy, tôi có người yêu, anh công tác ở một cơ quan trong huyện và hơn tôi dăm tuổi. Bước vào năm thứ hai, mọi việc diễn ra vẫn bình thường, nếu như không có chuyện, một cậu học trò thường gây khó chịu cho tôi. Ngay tiết học môn văn đầu tiên, lên lớp được chừng 5 phút, đang giảng bài, tôi chợt nghe có tiếng thưa rő to:

- Thưa cô!

Nhìn ra cửa, một cậu học trò cao lớn, không cặp, không sách, áo bỏ ngoài quần và nhất là cái đầu - trọc lốc - nghênh nghênh đứng. Trong lớp nổi lên những tiếng cười khinh khích. Tôi khó chịu, song cố nén, cất tiếng hỏi:

- Cậu... tên gì?

- Thưa cô, em là Nguyễn Lê Tùng Sơn, mười tám tuổi, học sinh tổ bốn, ngồi bàn cuối, nhà ở thôn Chùa...

Cả lớp rộ lên tiếng cười

- Thôi! Cậu vào lớp ngay cho tôi nhờ!

Trường hợp này, chỉ còn cách xử lý như vậy. Nếu giằng co, làm căng, mất hết cả tiết học, mà lại là tiết học đầu năm. Cậu học sinh khuỳnh khuỳnh đi vào lớp, vừa đi, vừa đưa tay nhứ nhứ cậu này, hất hàm với cậu kia. Tôi cố nén, tiếp tục tập trung vào bài giảng. Một lúc sau nhìn xuống chỗ cậu ta, cậu học trò cũng kiếm đâu được cây bút, đang hý hoáy viết vẽ gì đó. Đến giữa tiết học, cậu ta không viết vẽ nữa, cái đầu trọc lốc gục trên mặt bàn. Cho đến tận lúc ra chơi, cậu vẫn ngon lành ngủ. Biết làm gì với thứ học trò này đây, một loại học sinh cứng đầu, cứng cổ. Tôi băn khoăn tự hỏi, cần phải áp dụng biện pháp cứng rắn, hay mềm dẻo. Nghe tôi phàn nàn ở văn phòng, cô giáo dạy văn năm trước của cậu ta, nhún vai:

- Ŕ, cái cậu Nguyễn Lê Tùng Sơn chứ gì? Chịu! Đến Tài thánh cũng chịu. Loại đó, chỉ có.... đuổi.

Đuổi thì đơn giản, tôi nghĩ. Trong những tiết học tiếp theo, cậu ta còn nghĩ ra nhiều trò quỷ quái khác. Cả lớp đang cắm cúi chép bài, bỗng dưng một cái máy bay giấy phi đánh včo. Truy hỏi thủ phạm, cả lớp ngồi im lặng. Hay có lần, ngay trên mặt bàn giáo viên, một tờ giấy nguệch ngoạc những hình vẽ bậy bạ... Một hôm, tôi đang giới thiệu về tác giả, thì cậu ta đứng lên, cắt ngang:

- Thưa cô, cô cho em hỏi một câu ạ?

- Cậu hỏi gì?

- Thưa cô! Thế nhà thơ Nguyễn Khuyến ở đâu ạ?

- Cậu đã học chương trình văn học lớp dưới chưa?

- Thưa cô, rồi ạ! Sách viết, ông Nguyễn Khuyến quê ở Hà Nam, đỗ tam nguyên, ra làm quan... Thế mà nay ở quê em, hàng ngày vẫn thấy ông Nguyễn Khuyến dắt trâu ra đồng?

Cả lớp cười rộ lên. Tức quá, không kìm được, tôi quát to:

- Ra, ra ngay! Cậu ra ngay khỏi lớp!

- Thưa cô, em phải ra ngay ạ? Cô bảo em về mời ông Nguyễn Khuyến đến đây! Vâng, thưa cô em đi, đi ngay đây ạ!

Nói rồi, cậu ta tót nhanh ra khỏi lớp. Tôi chỉ còn biết nhìn theo, uất ức, không nói lên lời. Cố kìm nén mà nước mắt cứ trào ra. Học trò cả lớp cúi gằm. Ngay ngày hôm sau, theo kiến nghị của tôi, Ban giám hiệu nhà trường yêu cầu cậu ta lên văn phòng làm kiểm điểm. Tối ấy tôi đang ngồi chấm bài. Đây là bài kiểm tra văn đầu tiên của năm học. Nhìn đến cái tên Nguyễn Lê Tùng Sơn, tôi đã định cho con hai rő to, song chợt dừng lại. Kể chữ viết của cậu ta cũng đẹp, nó có cái vẻ khoáng đạt. Chữ như thế này mà sao người lại có những hành động như vậy nhỉ? Tôi chậm rãi đọc bài văn của cậu ta. Ừ, cậu ta viết khá, câu cú chuẩn xác, văn phong súc tích, ý tưởng của bài văn khá mới lạ. Đang vu vơ nghĩ, chợt nghe tiếng động cửa, ngẩng lên nhìn, tôi thấy cậu học trò tai quái kia:

- Thưa cô...

Khác với mọi khi, cậu học trò rụt rč. Tôi nghĩ bụng, hoá ra biện pháp cứng rắn lại có tác dụng. Tôi bảo đến mấy lần, cậu ta mới lúng túng ngồi xuống. Thấy cậu ta cứ ấp a ấp úng, tôi đành chủ động:

- Cậu.... Cậu đã thấy khuyết điểm của mình chưa?

- Dạ... thưa cô!...

- Tôi vừa đọc bài kiểm tra của cậu xong. Sơn ạ, tôi thấy buồn và hơi lạ, một học trò viết được những điều như thế, sao có thể....

- Thưa cô... Em...

- Em làm sao?

- Dạ... em phải nghỉ học.

Cậu học trò vốn có cái vẻ phớt đời, ngông nghênh, giờ hiền khô, tội nghiệp. Tôi thoáng thấy ái ngại và hơi mủi lòng:

- Sao, sao Sơn lại nghỉ học?

- Thưa cô... hoàn cảnh nhà em... Hôm nay em đến xin lỗi và chào cô...

Sơn đặt bản kiểm điểm lên mặt bàn, rồi lặng lẽ đứng lên. Bất ngờ khi biết ý định bỏ học của Sơn, tôi bảo cậu ta ngồi xuống, định có vài lời khuyên nhủ. Cậu ta vẫn đứng, lí nhí chào và dứt khoát ra về. Khi cậu ta đi rồi, tôi thoáng ân hận. Có phải vì mình mà cậu học trò bỏ học? Vài ngày sau, vào sáng chủ nhật, hỏi thăm địa chỉ, tôi đạp xe đến thăm nhà Sơn. Nhà Sơn nằm lưng chừng một quả đồi, căn nhà tranh ba gian, có vườn chč bao quanh. Sơn cởi trần, đang lúi húi sửa cái xe cải tiến. Nhìn thấy tôi dắt xe vào sân, cậu ta có vẻ bất ngờ, miệng ấp úng chào. Trong khi tôi đang tìm nơi dựa xe, thì Sơn vội vã chạy vào nhà. Tôi ý tứ đứng lại ngoài sân, đợi cậu học trò mặc quần áo. Từ trong nhà, một người đàn bà xấp xỉ tuổi năm mươi, tong tả chạy ra:

- Cô giáo... cô giáo đến chơi. Thằng cháu Sơn nhà tôi nó chẳng báo trước gì cả. Mời cô, mời cô giáo vào nhà...

Tôi bước vào nhà theo người đàn bà. Một căn nhà tềnh toàng, nền đất gồ ghề, giáp tường có mấy bao sắn và bao thóc chồng lên nhau. Tài sản đáng giá nhất là ban thờ và cái giường gỗ rẻ quạt. Người đàn bà lúng túng giải thích, nhà chỉ có hai người, nên chẳng nước non gì cả. Nói rồi bà xách cái ấm xuống bếp. Từ trong buồng, Sơn ngập ngừng bước ra:

- Sơn... sao hai ba hôm rồi, không thấy Sơn tới lớp?

- Thưa cô...

Vẫn chưa hết lúng túng, cậu học trò tay vân vê gấu áo...

- Có điều gì mà Sơn lại nghỉ học? Có phải tại tôi...

- Dạ... thưa cô, không, không... Nhà em có chuyện. Khó...

- Khó thì mới phải cố gắng. Chỉ còn dăm tháng nữa. Sơn không nghĩ tới tương lai của mình sao?

Chúng tôi đang dang dở câu chuyện, thì bà mẹ từ dưới bếp xách ấm nước lên. Bà ngỡ ngàng khi hay tin con trai định bỏ học:

- Báo cáo cô giáo, thảo nào, mấy hôm nay, thấy nó cứ ở nhà. Hỏi thì nó bảo...

Sơn cắt ngang lời mẹ:

- Kìa mẹ! Mẹ biết gì mà... Con, con đã quyết rồi!

- Thế có chết không cơ chứ. Đã đến đận gì mà phải bỏ học. Việc của bố mày là việc của bố mày. Làm sao mày phải bỏ học...

Tôi đã biết lý do vì sao Sơn bỏ học qua câu chuyện của bà mẹ. Vừa dấm dứt khóc, bà vừa kể: Bố Sơn là thợ xây, ông thường đi vùng nọ, vùng kia xây cất nhà cửa. Trước đây ông còn có trách nhiệm với gia đình, thỉnh thoảng mang về chút tiền cho vợ con. Hai ba năm lại đây, đã rất ít về, mà tiền nong cũng tịnh không thấy một đồng nào. Mãi cho đến gần đây, mẹ con Sơn mới biết, ông có vợ bé. Giờ đây mọi công việc đều trút lên vai người vợ. Bà lại hay đau ốm. Thương mẹ, Sơn quyết định bỏ học, để kiếm một công việc nào đó. Tôi ngồi lại qua trưa, ăn bữa cơm đạm bạc với hai mẹ con họ và rì rầm khuyên nhủ Sơn. Sau buổi tôi đến nhà, Sơn trở lại lớp học.

Từ buổi ấy Sơn như người khác lạ. Cậu học trò ngỗ ngược ngày nào, nay trầm tĩnh. Đúng là một học sinh có năng khiếu môn văn, những ý tưởng lạ, mơ mộng, những bài phân tích, bình luận sắc sảo, khúc chiết. Trong những giờ tôi lên lớp, cậu yên lặng, chăm chú nghe bài giảng. Một lần đang ngồi xem sổ điểm, trong khi cả lớp cắm cúi làm bài, bất chợt ngẩng lên, tôi vô tình bắt gặp cái nhìn của Sơn, cậu ta lúng túng, vội nhìn nhanh sang hướng khác. Tôi nghĩ ngợi, hình như gần đây Sơn có cái nhìn khang khác.

Lại một đợt chấm bài kiểm tra. Xem đến bài của Sơn, tôi hơi bất ngờ. Cậu ta không làm theo đề ra, mà kể một câu chuyện yêu đương, chàng trai yêu thiết tha, còn cô gái... Thế là linh cảm của tôi chính xác, Sơn đang yêu tôi, yêu cô giáo của cậu ta. Xử lý thế nào đây, một chàng trai mới lớn. Tôi đâm ra lúng túng. Không thể mang ra kiểm điểm, hay nói trước lớp. Khi trả bài kiểm tra, tôi giữ bài của Sơn và bảo cậu ta, cuối giờ ở lại gặp tôi. Nhìn cậu học trò mặt mũi đỏ rừ, ngắc ngứ ngồi sau bàn, tôi nhẹ nhàng nhắc, Sơn làm lại bài kiểm tra, còn câu chuyện mà cậu ta viết ra, thì ở cái tuổi và vào thời điểm cuối cấp học này, là chưa nên. Sau buổi đó, Sơn tránh giáp mặt tôi. Nhưng đôi lần, vô tình tôi vẫn bắt gặp ánh mắt của cậu ta, từ xa dői nhìn tôi.

Giữa năm học đó tôi xây dựng gia đình. Đám cưới của chúng tôi diễn ra vui vẻ, nào bạn bč, đồng nghiệp hai cơ quan, rồi học trò các lớp. Trên hội trường khi cùng chồng đến các bàn chúc rượu và cảm ơn, tôi bắt gặp cái nhìn đượm buồn của cậu học trò sau khung cửa sổ. Rồi năm học sắp kết thúc, học trò tập trung vào kỳ thi tốt nghiệp, thi đại học. Trong buổi liên hoan chia tay, lớp Sơn tổ chức ăn uống, đàn hát đến khuya. Tránh tiếng đàn hát, chúc tụng ồn ào, tôi bước ra khỏi phòng liên hoan. Đêm hč sân trường yên tĩnh. Cái nóng gắt gao ban ngày đã dịu bớt. Ngẩng lên, thấy bầu trời đầy sao. Lâu lắm rồi, có lẽ từ khi ra trường, tôi mới có dịp ngắm sao. Nghĩ nhanh thật đấy, ngày nào còn là cô sinh viên mơ mộng, bao lần cùng đám bạn bč leo lên gác thượng, ngồi tán gẫu và ngắm sao. Đang thả hồn vẩn vơ giữa bầu trời đêm thăm thẳm, tôi chợt thoáng nghe có tiếng chân người bước sau lưng và đứng lại. Linh tính mách bảo, đó là ai. Một lúc khá lâu, vẫn không thấy cậu ta lên tiếng. Hình như có tiếng thở dài. Tôi chủ động quay lại, hỏi:

- Sơn đấy hả?... Sao không ở trong lớp vui với các bạn!

- Dạ...

- Chuẩn bị thi tốt chứ? Phải cố gắng lên nhé, Sơn!

- Dạ...

Rồi cả hai im lặng. Thời gian trôi đi. Chắc đã muộn rồi, tôi quay mình định vào chào mọi người, đến lúc này Sơn mới lên tiếng!

- Dạ... Cô... Cô cho Sơn gửi...

Sơn trao nhanh cho tôi lá thư, rồi vội vã bước vào khoảng tối trên sân trường. Lá thư tỏ tình chứa chan lời yêu đương. Phân vân, cuối cùng tôi quyết định, đưa lá thư của cậu học trò cho chồng tôi xem. Xem xong, anh mỉm cười, nói một mối tình học trò, chỉ tiếc là không có đoạn kết. Sau mùa thi, Sơn trúng vào trường sĩ quan công binh. Tiếp đó, thỉnh thoảng tôi nhận được những thông tin rời rạc về Sơn. Ra trường cậu ta được điều về một đơn vị công binh. Nghe nói đơn vị không đóng ở một chỗ cố định, mà nay đây, mai đó. Còn tôi, do bộn bề công việc và chuyện chồng con, nên ít có thời gian nghĩ về cậu học trò ấy nữa.

Số phận con người ai mà biết được. Cuộc đời của tôi tưởng như êm đềm, bất ngờ bị đảo lộn. Chồng tôi không may mắc một căn bệnh hiểm nghčo, bao thuốc thang, mà anh không qua khỏi. Những ngày tháng đó tôi như kẻ mất hồn. Ban ngày vì công việc có thể còn nguôi ngoai, chứ đêm xuống, trong gian nhà vắng lặng, nhìn đứa con nhỏ, tôi tưởng như không sao chịu nổi. Để dịu bớt đi nỗi buồn, tôi chỉ còn biết lặng lẽ thắp nén nhang lên ban thờ chồng. Nhìn làn khói hương chao lượn, cảm giác trong tôi như thấy anh đang về cùng với mẹ con tôi. Sau lễ cúng trăm ngày, lúc đó khoảng tám giờ, tám rưỡi tối, tôi nghe có tiếng ai gő cửa. Thật bất ngờ, Sơn sừng sững đứng trước hiên nhà. Bộ quần áo sĩ quan làm Sơn thêm già dặn, cứng cỏi. Sơn đặt bó hương lên ban thờ và thắp một nén nhang. Tôi đứng khóc lặng sau Sơn. Đến lúc này tôi cảm giác, càng thấy mình mất mát lớn quá. Sơn nói mấy lời chia buồn, rồi lặng lẽ ngồi hút thuốc. Tôi cũng ngồi yên lặng.

Tối hôm sau Sơn lại đến. Một tối nữa, một tối nữa, cho đến hôm trước khi trở lại đơn vị:

- Lan... tôi yêu Lan. Biết Lan đang đau khổ... Nói chuyện vào lúc này thật không hợp, nhưng...

- Thôi, đừng nói nữa Sơn. Tôi biết, tôi biết Sơn... Nhưng... không thể. Có lẽ, không bao giờ tôi quên được anh ấy. Hãy hiểu tôi...

- Không... Sơn sẽ đợi. Dù là bao lâu... anh sẽ đợi.

Sơn trở về đơn vị. Qua những lá thư, tôi biết Sơn đang ở đâu, khi thì một thị xã miền Trung, lúc tại một khu phát triển công nghiệp. Nhận thư của Sơn, nhưng tôi không hề đáp lại. Có lẽ đó là cách trả lời tốt nhất. Tháng tháng, vẫn những lá thư Sơn đều đặn gửi cho tôi. Chợt bẵng đi một, hai tháng, tôi không nhận được thư của Sơn nữa. Thôi, thế cũng hay, có lẽ Sơn đã hiểu. Một buổi chiều đang đứng lớp, tôi thấy đám học trò lao xao, ngó ra ngoài sân. Trên sân trường, tôi nhìn thấy từ phía sau lưng, ông bảo vệ đi cùng một anh bộ đội. Tự dưng tôi lại nghĩ tới Sơn. Hết tiết học, đang ngồi trong lớp, thì một cậu học trò chạy vào báo, tôi có khách, đang đợi ở văn phòng.

Tôi hồi hộp nghĩ, hay là Sơn. Bước vào văn phòng, thì biết mình nhầm. Anh bộ đội từ tốn đứng dậy:

- Chào cô giáo!

- Chào anh!

- Có phải, cô là Nguyễn Thị Huyền Lan?

- Vâng...

Anh bộ đội vẻ ngần ngừ, chưa biết bắt đầu chuyện ra sao. Rót chén nước mời anh, tôi chủ động:

- Dạ... Có việc gì thế ạ?

- Dạ. Tôi... Tôi cùng đơn vị với Sơn.

Anh bộ đội tần ngần lôi từ trong cặp ra cuốn sổ nhỏ.

- Đây là cuốn sổ tay của Sơn.

Tôi hơi bực mình nghĩ, cậu ta còn bày ra trò gì nữa đây. Thư từ gửi mãi rồi, chưa đủ sao. Giọng hơi bực bội, tôi hỏi:

- Sao... Sao lại gửi cho tôi?

- Đây là kỷ vật của Sơn. Cậu ấy đã hy sinh rồi!

- Sao?

- Hai tháng trước Sơn nhận nhiệm vụ tháo gỡ một quả mìn... Trước khi tắt thở, Sơn nhắn lại, muốn cuốn nhật ký này đến tận tay Lan.

Thế là một người nữa lại ra đi! Đặt cuốn nhật ký lên ban thờ, bên tấm ảnh của chồng, tôi thắp nén nhang. Chắc chồng tôi sẽ rộng lượng, cảm thông cho nén nhang thắp chung này, thắp cho một người đàn ông và một chàng trai, một người tôi yêu tha thiết và một người tha thiết yêu tôi.

2004

Theo Evăn



#113
Văn xuôi / Xe đạp đôi
05/12/06, 13:30
Xe đạp đôi
Nguyễn Văn Học

Những đêm phố yên ả và thanh bình, hai đứa dạo chơi. Tôi thấy mình ấm áp bên em. Lá thì thầm như lời tỏ tình bên tai chỉ hai đứa biết. Tôi lái xe bằng một tay, tay còn lại nắm lấy tay em, chầm chậm đạp xe, có khi vừa đi vừa hát nữa, bài hát tình yêu Love story hơi buồn buồn, nhưng không có đứa nào buồn.

Tôi đùa Thy: "Anh sẽ thì thầm bên tai em cả đời Thy nhé!", em nhại lại: "Em cũng thì thầm bên tai anh cả đời, chúng mình chỉ nuốt nước bọt mà sống thôi". Cả hai cùng cười.

Tôi yêu Thy chỉ vì hai đứa có cùng sở thích, đó là đi xe đạp đôi vào những buổi chiều. Vô tình chúng tôi gặp nhau ở hiệu cho thuê xe đạp. Lúc đó, hiệu chỉ còn trống một chiếc mà đến hai người thuê. Chủ hiệu bảo hay là hai người đi chung. Em lưỡng lự ngại ngùng, nhưng tôi bảo em thích thì chúng ta cùng đi. Thế là đi. Chúng tôi quen nhau từ đó. Buổi chiều hôm đó đã thành định mệnh cho một tình yêu. Một vòng hồ Tây, em muốn đi vòng nữa. Cả quãng đường chỉ có tiếng cười như thân từ lâu. Đi nữa chứ anh? Em hỏi. Tôi bảo ừ đi. Thế là lại đi. Trên đường Âu Cơ, một chiếc xe tải đi sát vào lề đường, xe chúng tôi dài nên không tránh kịp, loạng choạng rồi đâm vào lề, mỗi người chỉ xước tí da. Tiếng cười vẫn không dứt.

Đêm đó về, tôi mông lung nghĩ tới người con gái duyên dáng tên Thy có mái tóc vàng hơi xoăn và tôi... làm thơ.

Chiều hôm sau gặp nhau, tôi trao tặng Thy bài thơ. Thy đọc xong rồi cười. Chúng tôi lại thuê chung một chiếc xe đạp đôi. Chủ hiệu bảo: "Đã thân nhau rồi cơ đấy, lớp trẻ có khác, cái gì cũng nhanh". Hai đứa nhìn nhau cười ha hả.

Đường vòng quanh hồ Tây bỗng trở nên quen thuộc. Từ đường Thanh Niên lên Yên Phụ, qua Âu Cơ, đi ra Lạc Long Quân rồi quay lại Thụy Khuê. Hành trình của vòng bánh xe đều đều lăn trên những con đường tôi đã trải thơ. Mỗi chiều đạp xe cùng nhau tôi đều ghi lại bằng những câu thơ tình tứ. Thy bảo: "Anh lãng mạn thế này, cuộc sống lúc nào cũng có niềm vui". "Đúng rồi, sau này anh rước em về, lối em đi anh trải đầy thơ, anh còn mang xe đạp đôi đón em nữa", "Vậy thì nhà gái sẽ cười chết, cái thời nào rồi mà còn xe đạp!". Tôi nói: "Chỉ chúng mình hiểu nhau là được. Vì em là nàng thơ của anh nên cả đời anh đọc thơ cho em".

Tôi đi làm và đi học cũng bằng chiếc xe đạp nửa tây nửa ta. Xe đạp không yếm mác, người ta gọi là "xe cởi truồng", gò lưng xuống mà đạp. Tôi thường đến thăm và đón em đi chơi cũng bằng chiếc xe đạp này.

Có lúc vui tôi hỏi em rằng, tại sao em lại thích ngồi xe đạp của một gã làm thơ lãng mạn nghčo nàn, trong khi ở thời buổi này người ta đưa đón nhau bằng ô tô, xe máy. Thy nói, bao giờ em kiếm được anh chàng đưa đón bằng xe máy em sẽ bỏ anh. Tôi nói, em sẽ nhớ anh và thơ anh đến phát khóc, em không xa anh được đâu.

Tôi biết, bạn bč nhìn em, có đứa còn chế nhạo, sao con Thy lại đi yêu một thằng nhà nghčo. Học ngành ngân hàng thì cũng phải kiếm anh chàng bưu điện hay kinh tế. Bây giờ con gái thường chọn những anh chàng học và làm nghề có tương lai, kiếm được nhiều tiền. Em cãi lại. Lúc gay gắt lên, em bảo chúng mày kệ tao, tao thích thế. Chúng mày không ưa thì thôi.

Tôi nhìn em hồi lâu, sao em đáng yêu đến thế. Phải thưởng em một chầu xe đạp thôi. Hai đứa lại rủ nhau đi thuê xe, lúc nghỉ, ngồi lại quán ốc bên đường Hồ Tây, ăn thì ít nhưng ngắm người, ngắm xe thì nhiều. Giữa đô thị đang tấp nập người và xe trong bộn bề công việc lo toan, có hai kẻ rong chơi bằng xe đạp. Nhiều ánh mắt nhìn chúng tôi như một vật thể lạ đến từ hành tinh khác.

Một chiều mưa Thy ốm, không đi xe đạp đôi, tôi đến thăm em. Thấy đầu tôi ướt, em thốt lên sao anh ăn mặc phong phanh thế, chẳng chịu mặc áo mưa. Tôi vào phòng, bảo anh đến đây để em sang bớt cái sốt cho anh, em đỡ nóng còn anh đỡ lạnh. Em gắt lên "Cái anh ngốc này!". Tôi đọc một đoạn thơ để lấp cái gắt gỏng đáng yêu kia. Em đưa tay ra hứng mưa, bảo em sẽ nhớ mãi chiều mưa này. Rồi em khoe, hôm nay em học đến giá trị thặng dư đấy. Anh có nghĩ tình yêu cũng có giá trị thặng dư không? Tôi chỉ cười, không trả lời. Em bảo đúng là "nhà thơ" có khác, nhắc đến kinh tế là im thin thít.

Thầy giáo của tôi làm thơ, ông luôn tự hào về mối tình xưa cũ của mình. Một mối tình đầy thơ và sóng gió. Người thầy yêu cũng giống như cô gái trong kịch bản thầy đã viết. Về sau cô ta đã theo một người đàn ông khác. Người con gái thầy yêu cũng thế. Bây giờ thầy chỉ có một mình dạy học và làm thơ, cuộc sống rất vui vẻ. Thầy luôn yêu đời và quý mến học trò. Có thể con gái không thích người làm thơ vì họ lãng mạn, mây gió và đặc biệt là họ nghčo không bảo đảm cho người bạn đời có một cuộc sống đầy đủ. Gặp chúng tôi, thầy hay bảo: "Đừng nản, các cậu còn trẻ, làm thơ nhưng vẫn nhiều em theo". Hôm tôi đưa Thy đến thăm thầy, thầy nói với Thy: "Thằng Khánh thế mà tài, tài mới được em yêu". Em cười. Khen thầy đẹp trai và lãng mạn nữa.

Khi Thy khỏi ốm, tôi đưa em về quê bằng chiếc xe đạp "cởi truồng" của mình. Em ngồi lên đòn ngang phía trước. Con đường về quê chỉ có 30 km. Không xa. Trước khi đi em hỏi:

- Anh có ngại không?

Tôi lắc đầu bảo không, rồi hỏi lại:

- Vậy em có ngại không?

Em cũng lắc đầu. Lát sau đổi ý, em bảo có ngại. Ngại vì không biết bố tôi sẽ nói thế nào. Đi giữa đường, em quay lại hỏi:

- Nếu bố anh cấm chúng mình quan hệ với nhau thì sao?

- Em này, làm sao bố anh lại cấm? Bố anh là người rất tâm lý.

Tôi vừa đi vừa huýt sáo cho em vui. Con đường quen thuộc về nhà ngắn dần. Thoáng chốc đã thấy cánh đồng quê trước mặt. Đêm ấy em đã ngủ nhưng bố còn thức. Bố gọi tôi ra sân nhắc nhở, giọng buồn buồn:

- Bố không có ý nhiều chuyện, cũng chẳng phải tướng số gì. Nhưng bố nhìn con Thy không hợp với con. Đôi mắt nó sắc, mệnh nó trái với mệnh con, lấy nhau sẽ không hợp. Trông nó tiểu thư lắm, mà nhà mình thì... Mày theo bố, làm thơ. Cuộc đời mày cũng gian truân lắm con ạ!

Tôi thấy lo. Dẫu rằng tôi chẳng tin những điều đó bởi Thy rất yêu tôi. Nhưng bố tôi chưa nói sai bao giờ. Bố tôi ngày xưa nổi tiếng lãng mạn, một nhà thơ cầm súng, đi khắp các chiến trường. Bố gặp mẹ ở chiến trường. Mẹ lúc ấy là thanh niên xung phong mê thơ của anh chàng gầy còm là bố tôi. Bố kể lại rằng, khi ấy đi lại khó khăn lắm. Nhưng hai người vẫn thường xuyên gặp nhau. Đúng vào dịp kỷ niệm một năm đất nước hoàn toàn thống nhất thì bố mẹ tôi cưới nhau. Sau này, khi đã có tuổi bố vẫn thường đčo mẹ đi ngoài đê đến đầm sen ngắm cảnh và làm thơ. Chỉ tiếc mẹ đã mất sau một căn bệnh hiểm nghčo, không còn được cùng bố an hưởng hạnh phúc tuổi già.

Bố nghčo nhưng mẹ không bao giờ thôi yêu. Tình yêu ấy khiến cho tôi kính nể. Khi còn sống, mẹ bảo: "Cuộc sống giàu niềm vui và hạnh phúc mới có ý nghĩa, tuy vật chất có nghčo nàn". Tôi làm thơ, cũng mong mình sẽ có một người vợ cùng sống cuộc sống có ý nghĩa bằng niềm vui do hai người tạo ra. Và tôi đã có Thy ngự trị trong tim.

Những ngày sau, tôi và Thy vẫn đi với nhau, vẫn dạo phố bằng xe đạp đôi quanh hồ Tây. Thi thoảng tôi vẫn đứng đợi em ngoài cổng trường. Bạn em cười vì thấy riêng mình tôi đón người yêu bằng xe đạp. Hai đứa cứ nhắc nhau ghi lại những hình ảnh tuyệt đẹp này để mai sau nhớ đến như một kỷ niệm. Những góc phố, những hàng cây liêu xiêu, những vòng xe quay, những quán cóc nhỏ bé, hàng ốc luộc quen thuộc. Tất cả những bình dị đó khi có ánh sáng tình yêu bỗng trở nên đẹp lạ lùng. Chúng sẽ được nhắc lại sau này, khi hai đứa thành vợ chồng, ngồi thủ thỉ với nhau và cười.

Những ngày bên nhau qua đi êm đềm như một buổi chiều dạo xe. Em sắp phải theo gia đình vào TPHCM. Thy nói rằng, bố mẹ em muốn em đi xin việc làm trong đó. Tôi buồn chẳng muốn làm thơ. Ngày em đi, tôi không được đčo em bằng chiếc xe đạp của mình. Đã có ô tô chở cả nhà ra sân bay. Tôi ngẩn ngơ, nghĩ rằng em đi rồi nay mai em lại về.

Thành phố vào xuân, cảnh vật ngủ vùi trong màn mưa xuân li ti và hương hoa ngào ngạt. Nhưng không có em. Tôi không đi dạo xe mỗi chiều nữa. Những đêm về da diết nhớ, tôi lại làm thơ. Chiếc xe đạp cọc cạch chỏng chơ góc nhà. Tôi nhìn nó rồi cười, nụ cười méo xệch. Nhiều lần trong mưa, tôi đạp xe đến nhà em, đến nơi mới nhớ ra là em đã xa rồi. Tình yêu đôi khi làm cho con người lú lẫn. Tôi ngậm ngùi quay về. Ba tháng trời qua đi, em gọi điện ba lần, bảo em mới vào nên còn nhiều chuyện dang dở và phải làm gấp. Đến tháng thứ tư vì nhớ quá nên tôi đã quyết định vào TPHCM. Em cản. Tôi hỏi, em chỉ nói anh chưa vào được.

Không phải là chuyện trong kịch bản mà là sự thật. Một sự thật phũ phàng. Tôi đã tìm được nhà em nhờ vào địa chỉ mà em nói trong cuộc gọi lần trước. Cửa khóa bên trong. Tôi quay đi. Buổi tối, tôi lại đến bằng chiếc xe đạp mượn của người bạn. Căn phòng trên gác sáng đčn. Tôi đã nhìn thấy em và một người đàn ông khác. Tôi hiểu vì sao em không muốn tôi vào với em. Có lẽ bố tôi đã đúng. Câu nói sâu xa của thầy giáo cũng đúng. Thầy không viết kịch bản để tự an ủi mình. Có những điều tưởng đã trong tầm tay nhưng rồi vẫn vuột mất.

Em không biết là tôi đã tìm em, càng không biết vì em mà bây giờ tôi phải lang thang trên những con phố Sài Gòn xa lạ. Phố thì tấp nập mà tôi cô đơn và thờ thẫn quá. Những lời hứa đợi chờ ngày trước đã thoảng như gió bay.

Theo Phụ Nữ Chủ nhật



#114
Văn xuôi / Mời rượu
05/12/06, 13:28
Mời rượu

Khang Chí Cương ( Trung Quốc )


Nhị Quân ngày mai cưới vợ, anh ta đến mời ông Tường làm chủ hôn lễ cưới của mình.

Ông Tường càng nghĩ càng thấy việc này hơi lạ. Sao Nhị Quân không mời người khác mà lại tới mời ông? Ơ vùng này, người được mời làm chủ hôn, nếu không phải cán bộ thì cũng là những người già cả đức cao vọng trọng. Trong hai điều ấy, ông Tường chẳng có một điều nào, huống hồ Nhị Quân lại là người có hẳn một cửa hàng cạnh đường cái ở phía bắc thôn, lớn nhỏ gì cũng là một ông chủ, kể ra cũng đáng được coi là một nhân vật có vai vế trong thôn.

Ông Tường suy đi tính lại, thấy vấn đề nảy sinh từ con trai ông là Đại Chấn. Mấy năm nay, Đại Chấn tụ tập một số thanh niên chặn xe tải chở hàng đi trên đường cái qua thôn để "xin đểu" và vòi tiền. Thôn này vắng vẻ, những lái xe từ nơi khác đi qua đây bị bọn Đại Chấn doạ một tiếng là ngoan ngoãn vâng lời ngay; mất tiền, mất hàng cũng chẳng dám khai báo. Đầu mùa đông năm nay, bọn chúng cướp một xe tải chở than, người lái xe tải là bà con với Nhị Quân. Tuy sau đó chúng đã trả tiền cướp được cho người ta nhưng Đại Chấn không chịu xin lỗi Nhị Quân. Vì Nhị Quân là người có vai vế, nên ông Tường không dám đường đột nhận lời. Ông phải bàn bạc với Đại Chấn trước đã.

Nhà Đại Chấn ngoài dáng cao to ra, không có gì khác với các nhà khác trong thôn: Gạch tráng men trắng ốp mặt ngoài, hai bên là hình cây thông vẽ bằng sơn xanh. Nghe tiếng động, con chó bécgiê nhà Đại Chấn nhảy vọt ra. Ông Tường giật nảy người, con chó dường như không nhận ra ông vẫn sủa oang oang, sủa rất to. Vẻ hung dữ đó không phải chỉ là phòng bị mà rő ràng có ý tấn công. Ông Tường khua tay trước con chó, miệng mắng:

- Mẹ mày, chưa được ăn roi hả? Mù rồi hay sao thế?

Mắng xong, ngẩng lên thì trông thấy Đại Chấn. Đại Chấn mồm ngậm điếu thuốc, ngồi xổm trên sân loay hoay với chiếc xe máy, vừa loay hoay vừa càu nhàu, nghe tiếng chó sủa cũng không định ngừng tay.

Nhìn thấy Đại Chấn, trước mắt ông Tường lập tức hiện ra hình ảnh của một người, đó là Ba Thọt, ở cùng thôn. Từ mặt mũi, dáng dấp đến động tác, Đại Chấn rất giống Ba Thọt. Ngày trước, vợ ông có đi lại với Ba Thọt, và Đại Chấn chính là giống của tay này. Thường ngày, cứ trông thấy cái dáng cao to của Đại Chấn là ông Tường lại không khỏi nhíu mày, trong lòng thấy khó chịu như nuốt phải nhặng. Sau đó, ông tìm một lý do để an ủi mình. Mẹ kiếp, dù sao tao cũng nuôi nấng mày từ nhỏ, dù chẳng phải giống của tao cũng có hề gì! Bất kể thế nào mày cũng phải gọi tao bằng bố cơ mà! Quả nhiên với lý do đó, ông Tường thôi không bận lòng nữa, lại còn cảm thấy mình thế mà gặp may. Đó là tính cách của ông Tường: Khi gặp phải việc gì không ưng ý, thế nào ông cũng tìm được lý do để an ủi giải khuây. Vợ chồng ông chỉ sinh được hai con gái, vì thế ông còn thầm lấy làm mừng: Nếu Ba Thọt không xen vào thì đời này cả đến một mảy lông của đứa con trai ông cũng đừng hòng trông thấy. Tuy lai lịch thằng con không vẻ vang gì, thuộc loại "hàng giả" nhưng ông chẳng cần phải so đọ với hàng thật. Việc gì cứ phải thế! Ông tự nhủ mình.

Chó không sủa nữa, bấy giờ Đại Chấn mới ngoảnh đầu ngó ra cổng. Thấy ông Tường đã đứng trong sân, hắn dừng tay, ngẩng lên hỏi:

- Sớm thế này, bố đến có việc gì thế?

Đại Chấn mặc áo jắckét bằng da đen rất dày, mái tóc rậm rối bù, khuôn mặt tròn núng nính đỏ ửng vì rét, trông như vừa uống rượu, trên bộ râu rậm rì vương những hạt nước do hơi thở ngưng kết thành.

Ông Tường sa sầm mặt:

- Phải chăng anh lại vừa làm cái việc ấy? Tôi đã bảo anh từ lâu rằng không nên làm cái biệc bất nhân bất nghĩa ấy rồi cơ mà. Anh định làm cho tôi và mẹ anh uất lên mà chết hay sao?

Nói xong ông rút thuốc ra, châm thuốc rít một hơi rồi trừng mắt giận dữ nhìn Đại Chấn:

- Anh nói ngọt với Nhị Quân mấy câu thì thấp bé đi hay sao? Cha Nhị Quân đối xử với tôi không bạc gì. Lần này thì hay rồi, anh gây phiền toái cho tôi rồi đó!

Đại Chấn đang cưỡi xe máy phành phạch nhấn ga, nghe câu đó thì như phải bỏng, nhảy phắt xuống trợn mắt lên, chất vấn ông Tường:

- Sao nào, tôi gây phiến toái gì cho bố?

Ông Tường đáp:

- Ngày mai Nhị Quân cưới vợ, anh ta mời tôi làm chủ hôn, theo anh, tôi có nên nhận lời không?

Đại Chấn ngửa cổ lên cười ha ha:

- Nhận lời chứ, tại sao lại không nhận? Anh ta mời là coi trọng nhà mình.

Ông Tường mắng:

- Cút mẹ anh đi! Anh định làm tôi mất mặt, để người ta rỡn tôi như rỡn khỉ ấy à?

Đại Chấn liếc xéo ông Tường một cái rồi cười nhạt:

- Bố ấy à, số bố là cái số để cho người ta giày xéo. Nay có người tôn trọng thì bố lại sợ đơn sợ kép. Bố cứ như thế thì suốt đời cũng chẳng ai coi bố là người đâu! Đi đi, bố cứ yên tâm mà đến đi. Nhị Quân rỡn à? Nó dám ư? Nó có gì nào? Chẳng qua là mấy đồng tiền thối! Nếu nó muốn chọc tức, tôi nổi nóng lên thì đập tan cửa hàng nhà nó. Để xem tôi có dám không nào! - Nói xong, bàn tay cầm kìm vung lên thành tư thế chém.
Ông Tường ngán cái cách giơ nanh múa vuốt đó của Đại Chấn, bảo:

- Tôi mới chỉ đoán thôi mà anh đã thế rồi, người ta nghe thấy thì còn ra sao nữa!

Đại Chấn trề môi rồi lại cười ha ha:

- Mặc mẹ nó chứ, nghe thấy thì cứ nghe, ông nó đây sợ ai?

Hắn nói to hơn cả vừa rồi. Con chó dữ như nghe được lệnh, chạy đến trước mặt Đại Chấn, nghếch đầu lên nhìn chằm chằm vào chủ, chẳng khác gì một chiến binh chỉ đợi lệnh xuất kích.

Từ ngày Đại Chấn làm chuyện ăn chặn đó, ông Tường và vợ đã khuyên bảo nhiều lần. Đại Chấn chỉ im lặng, vẻ phớt lờ, chẳng coi lời họ khuyên ra gì. Vẻ mặt hắn chứng tỏ lời dân làng chửi hắn khi hắn còn bé là đúng (lúc đó người ta chửi hắn là đồ con hoang, hoặc gọi hắn là "Ba Thọt"). Hắn coi thường ông Tường nhưng hắn lại không thể nhận nòi giống của mình nên ngoài mặt vẫn phải giữ quan hệ cha con với ông Tường. Hắn thoả mãn với trạng thái này và chủ động trong trạng thái đó. Nếu một ngày nào ông Tường làm hắn phật ý hắn sẽ trở mặt với ông ngay, không thčm nhận ông là bố nữa. Chuyện ấy hắn có thể làm được, vả chăng còn có thể lợi dụng cớ này để vứt bỏ một vướng mắc.

Về việc làm chuyện ăn chặn, hắn có lý lẽ của hắn: Ông bà làm đúng bổn phận thì suốt đời chẳng nghčo rớt đó sao? Có ai coi ông bà là người đâu? Bây giờ cứ có tiền là ông lớn, ông bà chớ cản tôi ăn trộm hay ăn cướp, chỉ cần không giết người là được! Lời hắn nói suýt nữa làm ông Tường tắc họng mà chết. Mỗi lần như thế, chính bộ dạng ngang ngược của hắn, ông Tường chỉ muốn nện cho hắn một trận. Nhưng ông không làm như thế vì ông có niềm riêng và nỗi đau của ông: Dù sao Đại Chấn cũng không phải con đẻ của ông, vì vậy tình cảm của ông đối với hắn cũng vô cùng phức tạp. Ông biết rő hắn là kẻ hễ nói là làm, ông sợ hắn thù ông. Ông đã già rồi, ông mong sau này Đại Chấn còn làm đám ma cho ông. Ông không thể không dạy bảo nhưng lại không muốn làm quá gay gắt. Đối với Đại Chấn, ông phải hết sức cẩn thận.

Lúc này, tuy ông Tường thấy lời Đại Chấn có khó nghe nhưng ông vẫn thấy chắc dạ hơn. Gần đây ông còn thấy chủ nhiệm thôn thường đến chơi nhà Đại Chấn, uống rượu với đám anh em của hắn, lại còn cùng nhau xưng huynh gọi đệ nữa. Trước đây vợ Đại Chấn thường cãi nhau với chồng, cho rằng chồng gây chuyện bậy bạ, không chịu khó làm ăn lương thiện. Sau đó thấy cuộc sống gia đình ngày một khấm khá, cô ta không còn cãi nhau với chồng nữa. Chẳng những không cãi nhau mà còn chiều lòng chồng trong mọi việc, trở thành vợ hiền mẹ thảo ngay lập tức. Hơn nữa cô ta còn "vũ trang" tối tân từ đầu đến chân. Ngoài quần áo toàn đồ xịn ra, cô còn đeo hoa tai, tay còn đeo nhẫn vàng sáng lấp lánh. Rồi cũng theo đòi người thành phố, cô thoa son, tô mắt, chỉ ngoài giọng nói ra, còn mọi mặt đã theo kịp người thành phố. Cũng lạ là, hễ nghĩ tới việc này, ông Tường không còn giận Đại Chấn nữa. Thậm chí trong thâm tâm, ông còn đắc ý và mừng thầm, bởi vì theo nhìn nhận của ông, người đời nay đều thuộc loại mềm nắn rắn buông. Ông gặp ai cũng tươi cười lấy lòng nhưng chẳng ai coi ông ra gì. Đại Chấn thì không thế, trong thôn, hắn chẳng sợ làm mất lòng ai, thế mà chủ nhiệm thôn lại làm thân với hắn.

Vốn dĩ ông Tường còn muốn vào nhà thăm thằng cháu nội, nhưng ông thật lòng không muốn gặp nàng dâu ăn diện nhố nhăng nên lại thôi. Đã có Đại Chấn, ông còn sợ ai nữa! Nghĩ thế, ông bčn quyết định đến nhà Nhị Quân.

Theo phong tục của thôn, trước lễ cưới một ngày, người được mời làm chủ hôn thường phải gặp nhà chủ để bàn bạc cách sặp đặt cho lễ cưới ngày hôm sau. Đến trưa, nhà chủ thường sửa soạn vài mâm rượu để thết đãi người giúp đỡ mình. Nếu coi lễ cưới ngày mai là cao trào của vở diễn thì bữa rượu ngày hôm này là màn mở đầu.

Ông Tường bảo vợ tìm quần áo cho ông, ông cần một bộ quần áo tươm tất để mặc khi đến nhà Nhị Quân.
Thay xong quần áo, vợ ông mắt sáng lên nhìn chồng trong bộ quần áo mới tinh. Nghĩ đến câu "người đẹp vì lụa, lúa tốt vì phân" thật là đúng. Ông Tường mặc chiếc áo nhung bằng lông vũ màu lam thẫm mà vợ ông sau vụ mùa lên thành phố sắm cho ông. Khi bà mang về, ông chỉ mặc có một lúc là cởi ra ngay, lại còn trách bà: "Loại áo này chỉ dành cho bọn trẻ, tôi mặc thế nào được?". Vợ ông bảo: "Ông xem người thành phố đấy, càng già lại càng diện". Nhưng dù bà khuyên bảo đến thế nào ông cũng không mặc, đi ra đi vào vẫn chỉ khoác cái áo ngoài bằng vải màu đen.

Bây giờ mặc áo mới đứng trước gương, ông Tường thấy mình bảnh lên rất nhiều, nhất là cái màu lam lóng lánh ánh lên từ chiếc áo lông vũ dường như che lấp những nếp nhăn trên mặt ông, khiến khuôn mặt nhỏ nhắn xương xương ấy như được thoa một lớp kem. Ông Tường thật không ngờ đến hiệu quả này. Ông nháy mắt với vợ, nhếch mép cười để chiếc răng cửa bàn cuốc loé lên một cái.

Bốn giờ chiều, ông Tường mới trở về.

Vừa vào khỏi cửa, không đợi vợ hỏi, ông đã cười hì hì với bà, hai con mắt lập tức trở thành hình cánh cung, chẳng khác gì dùng bút tô cẩn thận. Bà không nhịn được, hỏi:

- Ông nói đi chứ, câm đấy à?

Ông Tường bước đến, phà một hơi vào mặt bà, nháy mắt với bà rồi như khoe:

- Uống cũng nhiều đấy chứ:

Sau đó, ông ngồi trên xôpha, rút thuốc ra, chúm môi rít một hơi, lại cười tủm tỉm.

- Người này mời được tôi rồi người khác cũng đến mời rượu tôi. Người này gọi tôi là chú, người kia gọi tôi là bác, bà thử nói xem, tôi mà không cạn ly thì họ có chịu tha cho tôi hay không?

Nói xong, ông Tường lại ngoẹo cổ, cười hì hì với bà.

Bà lấy tay bịt mũi, nói to:

- Gớm, hơi rượu nồng nặc đến ngạt thở mất thôi! - Tuy kêu ca vậy nhưng bà lại vui mừng, hỏi thêm - Có những ai, ông kể ra xem nào!

Ông Tường liền kể ra Bé Đen và Nhị Quân. Hai cha con nhìn thấy tôi thì chạy tới hỏi chuyện, lại luôn tay mời tôi uống rượu. Họ nói ra Tết, nhà họ còn định mở một cửa hàng nữa, buôn bán phân hoá học và thuốc trừ sâu, mong Đại Chấn nhà ta để mắt giùm. Ngừng một lát, ông Tường lại bảo vợ:

- Bà thấy chưa, thấy chưa đã, nhà họ còn muốn nhờ Đại Chấn trông chừng giúp cho đấy!

Mùa đông ngày ngắn, mặt trời dường như cũng sợ lạnh, từ sớm đã lẩn vào sau núi. Ráng chiều cũng chỉ dừng lại tượng trưng một lát rồi tan ngay. Trời tối dần. Vì ngày mai phải dậy sớm nên ăn cơm tối xong, ông Tường chui vào chăn ngủ liền. Nửa đêm, bà vợ giật mình thức giấc vì ông Tường nói lảm nhảm gì đó trong mơ. Dường như ông đang cãi nhau với ai, có lúc tiếng rất to như quát tháo. Bà đánh thức ông dậy. Thì ra ông Tường mơ thấy mình bị cha Nhị Quân là... ông Bé Đen mắng cho một trận. Ông Bé Đen mắng ông quản lý và giáo dục con không tốt, để hắn làm bậy làm bạ. Ông Bé Đen còn mắng ông vong ân bội nghĩa, quên rằng năm xưa ông bị người ta bắt uống nước [em xin lỗi, em là người chửi bậy], nhưng chính Bé Đen chỉ đổ nước thường vào chai cho ông uống mà giải nguy được cho ông. Cuối cùng, ông Bé Đen còn nhằm vào mặt ông mà nhổ bẹt một bãi đờm.
Tỉnh dậy, ông Tường không sao ngủ tiếp được nữa. Ông khoác áo, nhoài người trên chăn mà hút thuốc.

Bên ngoài rất yên tĩnh, chỉ có tiếng gió thổi ù ù, lúc to lúc nhỏ, nhưng không khiến người ta cảm thấy phiền lòng bởi vì đó là tiếng sáo trời. Từ phía xa vang lại mấy tiếng chó sủa vang dội. Ánh trăng lạnh lẽo chiếu qua cửa sổ, in hình những ô vuông nho nhỏ nhàn nhạt, tôi tối trên bệ cửa sổ. Thỉnh thoảng từ bếp lò phát ra tiếng than cháy nổ lép bép. Lúc ấy chuyện đã qua lại hiện lên trước mắt ông. Hồi ấy khi ông bị đấu, có người đã nghĩ ra cách làm nhục ông, đó là bắt ông uống nước [em xin lỗi, em là người chửi bậy]. Khi ông Tường nhận lấy cái chai do ông Bé Đen đưa cho, ông đành nhắm mắt uống một ngụm nhưng không hề thấy khai mùi nước tiểu. Ông lập tức hiểu ra, nhìn ông Bé Đen với ánh mắt cảm ơn rồi ừng ực uống hết chai "nước [em xin lỗi, em là người chửi bậy]". Ông thầm nhủ lòng: Nhất định không được quên ơn con người tốt bụng này! Ông Tường cứ vừa nghĩ vừa hút thuốc. Khi từ xa vẳng lại tiếng gà gáy đầu tiên, ông liền trở dậy đi sang nhà Nhị Quân.

Vừa đi ông vừa nhẩm tính phải tìm một lý do nào đó để từ chối việc làm chủ hôn hôm nay. Đột nhiên ông mất hết cả niềm tự tin và đắc ý. Tục ngữ có câu: "Con mất dạy là tội của cha". Có một thằng con như thế, ông còn mặt mũi và tư cách nào điều khiển người ta trong một buổi lễ trang trọng như vậy? Hôm nay, ông cũng phải nói chuyện với Đại Chấn. Nếu nó vẫn không nghe lời ông thì ông dứt khoát không nhận nó là con nữa.

Trời vẫn chưa sáng hẳn. Điếu thuốc trên tay ông vẫn nhấp nháy sáng, chẳng khác gì đom đóm ngày hč men theo đường thôn chật hẹp bay về phía xa. Thực ra đằng sau ông, cũng là đằng trời phía đông, một vùng sáng màu lòng trắng trứng đã lẳng lặng xuất hiện. Đó là một tín hiệu tốt lành, bởi vì ráng sớm mai chẳng bao lâu nữa sẽ lan rộng ra rồi thiêu đỏ cả một bầu trời...

Phạm Tú Châu dịch (Nhà văn Trung Quốc, số 3, năm 2005)

Theo Lao động
#115
Văn xuôi / đôi mắt
05/12/06, 13:24
Đôi mắt
Dương Thanh Vân


Ngôi nhà mà tôi trọ học nằm khuất sâu trong một ngő hẻm của xóm lao động nghčo. Vào mùa khô, con đường dài, hẹp te, ngoằn ngočo, quanh co của con hẻm này lởm chởm những đá, gạch vụn, đôi chỗ có xây xi măng bị trốc lở. Khi chiều về, lũ trẻ chơi trò rượt nhau dọc con hẻm, đàn ông cởi trần, hút thuốc, hoặc ngồi trước cửa nhà, hoặc tụm nhau tán gẫu dưới những cột điện, đàn bà quét tước, phơi phóng trước khoảnh sân bé như cái lỗ mũi. Mùa mưa, con đường trở thành một dòng sông nhỏ, lều bều những rác, trẻ con chỉ còn biết ngồi trong nhà thả ra ngoài đường những thứ có thể thả: cái ca mũ bị thủng, đôi dép con nít bị đứt quai, tờ giấy báo... Người lớn đi làm về lếch thếch dắt xe chết máy, chiếc trước chiếc sau, chỉ thấy những chiếc áo mưa sùm sụp lầm lũi, trông như mấy con quạ xơ xác...

Tôi sống một mình trên căn gác cây, căn gác có cái cửa sổ nhìn xuống đường. Ngày này qua ngày khác, mùa mưa cũng như mùa khô, chỗ tôi ngồi học bài cũng là vọng gác, là cái trạm để tôi quan sát. Từ cái đài là cái cửa sổ của mình tôi có ba kênh "truyền hình trực tiếp". Kênh Bên Trái là nhà của Bảnh Bao. Kênh Trước Mặt là nhà của một đại gia đình mà từ bà lão già cho đến thằng con trai út đều làm nghề thu lượm đồ phế thải. Kênh Bên Phải là nhà của một thằng bé con dễ thương, hình như ba nó là công nhân, mẹ nó là thợ uốn tóc và làm móng tay, tất cả đồ nghề của chị ta đều được xếp gọn ghẽ trong một cái giỏ nhựa và chị ta lang thang khắp xóm nhỏ này để kiếm sống.

Nhân vật chính của tôi là Bảnh Bao. Không hiểu sao một người như hắn lại chịu đút đầu vào trọ ở trong con hẻm như thế này. Hắn chạy chiếc Attila màu mận chín, bao giờ cũng ra đường trong tư thế nai nịt chặt chẽ, tôi không bao giờ nhìn được vào mắt hắn vì hắn luôn đeo cái kính đen to đùng trên mặt. Căn nhà hắn trọ thuộc vào loại tươm tất trong xóm, tuy nhỏ và cánh cổng gỗ đã xập xệ nhưng nền cao không bao giờ bị nước xâm lăng vào nhà và cánh cửa kính được phủ bởi một lượt rčm mỏng buông chùng màu xanh nhạt. Hình như hắn không tự giặt giũ mà hay gom đồ ra tiệm giặt ủi ở đầu hẻm. Phải công nhận là hắn đẹp trai, tướng tá phong độ lại biết cách ăn mặc, đôi khi tôi nhìn những chiếc áo sơ mi màu hắn mặc, nhìn tấm lưng vững chãi của hắn mà thấy nao nao trong lòng: giá mà là người yêu của hắn, giá mà được hắn chở sau chiếc xe màu mận chín, vòng tay qua eo hắn, áp mặt vào cái lưng nam nhi vững chãi ấy. Hẳn hắn phải là một người trẻ rất có trách nhiệm với công việc. Hắn đi làm từ sớm, tối mịt mới về. Tôi ước gì có thể nhìn được vào mắt hắn, đó hẳn phải là một đôi mắt đẹp và buồn, với những tia nhìn ấm áp... Một lần vào buổi tối, tôi đi học Anh văn về cọc cạch đạp xe vào hẻm thì bị hắn đụng phải "Xin lỗi nghe em!" hắn nói rồi phóng vượt lên trước, hình như hắn say và đó cũng là lần đầu tiên tôi nghe giọng hắn, và từ hôm đó tôi lại càng cảm thấy thích hắn. Trong mắt tôi hắn thật mạnh mẽ, đáng yêu và pha một chút bí ẩn. Có một lần vào một buổi tối đã khuya, trời mưa, tôi đã mệt nhoài với những tài liệu của mình nhưng Bảnh Bao chưa về, ngoài trời tối và chỉ có ánh sáng từ chiếc đčn học của tôi tạo thành một quầng sáng nhỏ. Cuối cùng Bảnh Bao cũng về, chiếc xe hắn chạy tóe nước qua hai bên đường nghe loẹt xoẹt trong tiếng mưa rào rào. Hắn không về một mình, sau yên xe hắn lù lù một dáng người, hắn hấp tấp đẩy cổng cho xe vào, người sau xe hắn là một cô gái, cô ta đứng run lập cập vì lạnh khi hắn đang mở khóa cái cửa kính, và khi cửa đã mở được nhanh như chớp tôi thấy hắn kéo cô gái vào trong, ánh đčn đường nhòe nhoẹt vì mưa cũng đủ cho tôi thấy hai người đang xoắn lấy nhau, hắn cật lực lột bỏ những gì ướt mčm trên người cô gái. Tại sao hắn không đóng cửa lại? Lúc đó trong đầu tôi chỉ vang vang lên câu hỏi ngờ nghệch đó, trong tiếng mưa ngày càng lớn sầm sập, bỗng dưng tôi cảm thấy buồn, lạnh lẽo và cô đơn, hình như tôi đã ngủ gục trên bàn học mặc cho tập vở ướt mčm...

Sáng hôm ấy Bảnh Bao đi rất sớm, cái đồng hồ báo thức của tôi đã giúp tôi còn kịp nhìn thấy hắn tươm tất trong chiếc áo màu xanh biển, cặp kính đen quen thuộc, sau lưng là cô gái mặc quần Jeans xanh, áo sơ mi hồng dễ thương và mệt mỏi. Cô ta ngồi rất ngay ngắn trên yên xe, và không vòng tay qua ôm eo hắn... Chiếc xe chạy mất hút dần theo con đường ngoằn ngočo. Khi tầm mắt tôi không còn có thể thấy cái gáy trắng trẻo và mái tóc dài vẹt qua hai bên vai của cô gái nữa, tôi không bao giờ còn gặp lại cô ta...

Bảnh Bao cứ đi về như thế, có khi hắn đi mấy ngày liền, có lẽ là đi công tác, tôi khao khát được biết ánh mắt hắn biết bao, tôi đã có trong đầu trọn vẹn bức chân dung về hắn, ngọai trừ đôi mắt. Chắc đó phải là đôi mắt đa tình, dù sao tôi cũng đã từng thấy hắn yêu một người con gái như thế nào mà. Đôi khi trong giấc mơ, tôi thấy Bảnh Bao, không đeo kính, chở tôi ra khỏi con hẻm nhỏ, vào trung tâm thành phố, hình như là vào một ngày lễ nên thành phố đông vui khác lạ, hắn dừng lại mua cho tôi một cái bong bóng to thật to màu mận chín, khi hắn quay lại trao cái bong bóng cho tôi, tôi nhìn vào mắt hắn, một đôi mắt tuyệt đẹp, to và đen lay láy, có những chùm sao nhỏ nhảy nhót vui tươi trong ấy...

Kênh Trước Mặt thường có những cảnh đánh nhau ngoạn mục, vợ chồng thằng con trai lớn của bà lão luôn khuấy động cái hẻm nhỏ này với những pha mắng mỏ và ném đồ đạc... Kênh Bên Phải hiền hơn, thường thì vào những buổi chiều, khi chờ ba của thằng bé đã đi làm về, mẹ nó thường lui cui nấu nướng và mùi thơm của thức ăn lan tỏa trong gió, thằng bé ngồi trên cái ghế sắt đặt trước cửa và chơi với chiếc ô tô cũ kĩ của nó. Những khi Bảnh Bao không có nhà tôi thường chuyển hướng qua Kênh Bên Phải. Có một lần khi chiếc ô tô của thằng bé đang chạy, từ trên gác, tôi ném một viên cuội trúng chiếc ô tô, thằng bé thấy tôi và nó cười toe toét, nó có vẻ thích tôi và cầm chiếc ô tô dứ dứ ý muốn tôi tham gia tiếp tục cái trò ném cuội đó. Hai má nó phúng phính thật dễ thương...

Rồi bỗng nhiên có một sự kiện vụn vặt xảy ra. Đó là vào một buổi sáng chủ nhật. Một người đàn ông bán táo đang chậm rãi đẩy chiếc xe đạp với cái rỗ to đùng phía sau: " Táo đê... táo đê... vừa rẻ vừa ngon, vừa giòn vừa ngọt...". Cả ba "Kênh truyền hình" của tôi đều hoạt động. Thằng bé Kênh Phải miệng bi bô: "Mẹ... táo...táo...!", vợ thằng con trai bà lão Kênh Trước Mặt đang phơi quần áo, chị ta dợm nhìn những quả táo căng bóng và có vẻ định mua. Vừa lúc đó Bảnh Bao về tới, hắn ngoái nhìn rổ táo và gọi người đàn ông:

- Bao nhiêu một cân?

- Cho em xin mười nghìn thôi, táo ngon lắm anh ạ?

- Bớt đi táo nhỏ thế này, có phải là táo Mỹ đâu mà đắt thế?

- Một cân em chỉ lời năm trăm đồng thôi anh ạ, hay là em lấy vốn thôi, một cân chín nghìn rưỡi...

- Không, tám nghìn nhé tôi mua hai cân.

- Thôi chắc giá chín nghìn, anh lấy giùm em...

- Ừ thì cân đi...

Người đàn ông trao cho hắn bọc táo, chợt hắn nói:

- Đợi chút, tôi muốn cân lại...

Hắn nhìn ngược, nhìn xuôi để tìm chỗ mượn cân, hắn hướng về nhà tôi, đó là căn nhà bán tạp hóa trong xóm và bà chủ nhà đang đi vắng, tôi trông chừng tiệm giùm bà ta một chút... Hắn bước đến. Hắn tháo cái kính đen ra cho vào túi áo. Tôi chú mục vào hắn. Hình như tôi nghe thấy hắn hỏi: "Cho anh mượn cái cân cô bé!". Hình như tôi đã đưa cho hắn cái cân. Hình như sau khi cân xong hắn nói: "Rő ràng là thiếu hai lạng nhé!". Hình như hắn thảy một nắm tiền lẻ vào rổ táo rồi đẩy xe vào trong nhà. Hình như chị vợ thằng con lớn bà lão không mua táo, chị rủa bâng quơ: "Cái lũ này!..." chẳng biết rủa ai. Hình như thằng bé Kênh Phải đang bi bô: "Cân kìa...cân kìa...!". Hình như người đàn ông bán táo cúi gằm mặt, lầm lũi đẩy xe từ từ lui ra khỏi con hẻm, mấy lỗ thủng sau lưng áo anh ta trông thật thảm hại. Và hình như... Vâng... hình như tôi đã được nhìn vào đôi mắt của Bảnh Bao. Đó là đôi mắt nhỏ, ti hí, dưới mỗi con mắt là túi thịt hum húp... Đôi mắt đó lạnh lùng và không đẹp như tôi nghĩ...

Theo Evăn





#116
Văn xuôi / Chân tình, st
23/11/06, 21:02
Thế á là hôm nay ba mẹ và em gái tôi sẽ di dân sang Canada, chỉ có tôi và anh Kiệt ở lại. Tôi thì được nhận vào làm ở công ty Simmi, một công ty lớn có thể coi đây là một ước ngoặc tốt . Và lại tôi không muốn rời xa nơi tôi sinh ra và lớn lên, tôi la như vậy, không thích thay đổi điều gì nếu cảm thấy không cần thiết . Còn anh Kiệt, công việc đang tiến triển tốt đẹp lại có người bạn gái tốt như Mỹ thì sao có thể đành lòng mà bỏ đi.

- Kiệt con ở lại chăm sóc em cẩn thận giùm mẹ nha con.

- Vâng, mẹ cứ yên tâm con sẽ lo cho em mập mạp trắng trẻo mà.

- Hổng biết ai lo cho ai à, lúc ai đó mà lên mạng thì còn quên cơm nước phải chờ người vô mời mới ra ăn, y như em bé. Điệu này em thấy chị khổ dài rồi đó chị Ba.

- Ę, cái co nhỏ này dù gì tao cũng la anh mà mày ăn nói thế hả? Lâu nay không ai đánh không sợ phải không?

- Mẹ anh Hai ăn hiếp con kìa.

- Hai đứa này lớn cả rồi mà như con nít ấy.

- Chứ không phải lúc nào mẹ cũng nói là các con dưới mắt mẹ lúc nào cũng là trẻ con sao.

- Con bé, được cưng quá nên hôm nay dám trả treo cả mẹ hả?

- Con đâu dám.

- Út cưng mà.

- Chứ sao.

- Thanh, con ở lại nếu cảm thấy không vui thì sang ngay với ba mẹ nha con, thằng Kiệt là con trai nên dù sao cũng đỡ hơn. – Mẹ tôi không cầm được nước mắt.

- Thôi mà bà, bà làm vậy tụi nó sao yên tâm được, có gì đâu mà phải khóc nếu nhớ thì gọi điện về thăm tụi nó.

- Ông nói nghe hay lắm từ nhỏ đến giờ tụi nó có xa tui bao giờ, nếu không vì cha ông muốn gặp lại con cháu trong khoảng thời gian cuối đời thì gia đình mình làm gì có cảnh này. Nói đúng ra là ông ấy hối hận muốn bù đắp những lỗi lầm xưa kia, bù đắp gì nữa? Sao ổng không nhớ ổng đã đối xử với gia đình mình như thế nào. Oĺng còn nói tụi này là cháu nội nuôi thì bây giờ cần chi tụi cháu nuôi này.

- Bà,dù gì ổng cũng là ba của tôi, chuyện gì cho qua được thì cứ cho nó qua luôn đi , ổng già rồi.

- Ba nói đúng đó mẹ,bỏ qua đi, đừng làm cho ba khó xử nữa.

- Mẹ, nếu mẹ không tin hai người này thì cũng nên tin chị Mỹ chứ.

- Mỹ Bác giao hai đứa nó lại cho con, cả hai đứa Bác chẳng tin được đứa nào cả.Thằng Kiệt thì nóng nảy, còn con Thanh thì coi vậy chứ nó yếu đuối cả tin lắm, chuyện thằng Tuấn đã là một ví dụ rồi.

- Thôi mà mẹ.

- Vâng con nhớ rồi.

- Mẹ này, mẹ làm như anh em tụi con la con nít b bốn tuổi hổng bằng mà phải nhắn nhủ nhờ người chăm nom.

- Mẹ à có người tự ái rồi kìa, mẹ cũng kì, con nít ba bốn tuổi làm sao biết yêu.

- Ę.

- Em nói người ta chứ có nói anh đâu.

- Thôi tới giờ rồi đi thôi bà, ba không biết nói gì hơn là mong các con ở lại giữ gìn sức khoẻ. Nhơ` chuyện gì cũng nên thận trọng trước khi làm. Rồi cũng một thờii gian ngắn thôi ba mẹ sẽ về lại với các con.

- Ba, sức khoẻ lúc này không như trước nhớ đừng nghe nhạc khuya quá. Ba nhớ nhắc mẹ nên mặc thêm áo, lúc trở trời mẹ hay ho lắm.

- Ừ, ba nhớ rồi.

- Đình chỉ có em ở gần ba mẹ chăm sóc ba mẹ cẩn thận giùm anh chị nha.

- Yes sir.

- Ŕ mẹ, con quên Tuyết nó nhờ con đưa ba mẹ mỗi người một chiếc áo ấm. Nó dặn đi dặn lại xin lỗi vì nó không thể đi đưa ba mẹ được. Nó chúc ba mẹ đi dược mạnh giỏi.

- Con nhỏ thiệt tình, ai mà trách nó chuyện đó được công việc quan trọng hơn mà. Con nói nó mẹ cám ơn nó nhiều.

- Vâng.

- Kì nha tui cũng đi mà sao hổng có quà là sao vậy ta.

- Nč, ai mà dám quên cô.

- Ồ, đẹp quá, cái khăn choàng cổ đẹp quá mẹ nhỉ? Hàng hiệu đó nha.Chị Ba gửi lời em cám ơn chị Tuyết nhiều, chị ấy thiệt là dễ thương.

- Thôi đi nào.

- Ba mẹ nhớ gọi điện về thường xuyên cho tụi con nha.

- Về thôi em.

Trên đường về dù đã cố ném xúc động nhưng nước mắt tôi vẫn cứ rơi.Thấy tôi khóc anh Kiệt an ủi tôi.

- Nín đi em, có muốn thì mai mốt nghĩ phép anh đưa em sang thăm ba mẹ với Tuệ Đình. Phương tiện bây giờ có khó khăn gì đâu mà em sợ.

Nghe anh tôi nói tôi lau nước mắt,tôi biết anh Kiệt cũng buồn không kém gì tôi nhưng anh vẫn tỏ vẻ thản nhiên vì hiện tại anh là chỗ dựa duy nhất của tôi, anh không thể mềm yếu được. Tôi không muốn tạo thêm áp lực cho anh nữa. Anh tôi là thế, một con người sốn gnhiều về nội tâm, dù buồn hay suy sụp đến đâu anh vẫn không để lộ ra bên ngoài cho mọi biết. Mà thôi đàn ông ai chà như vậy nhất là một người đầy kiêu hãnh như anh Kiệt.

Về đến nhà để bớt buồn và khây khỏa tôi dọn dẹp lại căn phòng của Tuệ Đình để Nhã Tuyết dọn sang ơ ű. Dù sao Tuyết cũng ở có một mình, gia đình tôi giờ đây chỉ còn hai anh em. Anh Kiệt đi làm suốt có khi tối cũng không về, nhà còn mình tôi thì buồn lắm.
#117
có người bạn gửi cho mot số bài hát tinhbanvatoii thấy hay lên post cho các bạn cùng nghe hihihi

http://itemvn.com/?song=20
#118
hãy cảm nhận xem sao hihihi

#119
(  topic kia bị một lỗi nhỏ lên không thể post tiếp vào vì thế tinhbanvatoi post phần sau vào một topic riêng khác mang tên Bài tango cuối cùng phần 2 thanks !!!)


-Cần gì, đi với em nóng lạnh gì cũng hạnh phúc hết.

Tôi hơi ngượng:

-Anh kỳ, làm như em là..

Thịnh đứng lên:

-Là người yêu, thôi anh về nhá kẻo mẹ giận cúp phép thì nguy to, chiều anh đến đón nghẹ

Tôi xúc động vì chàng gọi mẹ tôi giọng tự nhiên và thân mật.

Thịnh về rồi, tôi vẫn còn bâng khuâng, đôi mắt Phong chập chờn trên đám mây lang thang. đừng giận em, đừng trách em, bao giờ tình yêu vẫn còn đó, nhưng anh ơi em là con gái mà cuộc đời chỉ cho em một thời xuân sắc thôị Đành rằng em có thể đợi chờ, với tình yêu thời gian là thuốc thử. Nhưng Lan Chi không cho phép em đợi, không cho em hy vọng kia mà.

Tôi nghe lòng trống không? Gian dối với chính mình là điều tôi ghê sợ và bây giờ tôi phải làm nên làm. Sống trung thực với lòng mình đâu phải là điều dễ. Tôi yêu Phong vì cuộc đời cao đẹp của chàng, vì chàng là hiện thân của hình ảnh người cha cách biệt. Người tôi chỉ nghe kể qua giọng mẹ bùi ngùi, người mà trong suốt những năm thơ dại tôi vẽ vời mơ ước trong tim óc non nớt. Nhưng tình yêu ngang trái ngay lúc đầụ Lan Chi hiện ra như một bà phù thủy phá vỡ lâu đài thần tiên của tôị Tôi thành nàng công chúa mất ngai, mất tất cả, lang thang một mình trốn vào rừng, lang thang với cői tình giờ chỉ còn là mơ ước xa xôị

Chân trần, tóc bay như lòng mình tan tác. Về đâu bến bờ nào không còn tình yêu cũng lạnh lùng như thế thôị Tôi như kẻ sắp chết đang lao đảo giữa giòng. Thịnh như chiếc phao nổi chắc chắn nhất Trời ban cho tôị Dĩ nhiên tôi phải vươn tới phải ôm lấy Thịnh để được sống. Thịnh có biết chắc chàng không nỡ giận hờn tôị Mẹ cắt ngang giòng tư tưởng của tôị

-Thầy con về rồi à?

Đạ chiều ông đến.

-Sao bảo xin phép đưa con đi chơị

-Buổi trưa mà đi chơi đâu bây giờ hở mẹ?

Mẹ dò hỏi:

-Con quen ông lâu chưả Cha Hưng giới thiệu cho hở?

Không biết nói sao tôi đành gật đầu, mẹ hài lòng:

-Vậy thì được cha chọn cho con thì mẹ tin rồi, trông người có vẻ cốt cách lắm mà.

Tôi mím môi để đừng cười:

-Thật hở mẹ? Cốt cách lắm hở?

Mẹ gật đầu:

-Như vậy con có hai đám để chọn lựa, cũng hay!

Tôi ngạc nhiên:

-Mẹ nói gì mà hai đám ở trong đó?

-Thì một ông bác Đốc làm mối, giờ một ông cha chọn cho con, không hai là gì? Điều cái ông bác Đốc nhiều em út quá, khiếp sao người ta đẻ lắm thế không biết, mười bốn người con, sợ con về nhà đó chiều mười ba cô không nổi chứ.

Tôi le lưỡi:

-Ghê, chị Phượng ngoan thế hiền lành nữa, một bà cô còn rên như bọng, con những mười ba bà cơ hả mẹ?

Mẹ thừ người:

-Mẹ cũng nghĩ ngợi vì thế đó, lại con cả nữa mới phiền chứ?

Tôi đùa:

-Nếu con yêu con chịu liền, mười ba bà cô ông chú, chứ ba chục con cũng chịu nữạ

Mẹ nghiêm giọng:

-Con định saỏ Xem chừng con yêu ông giáo sư nàỷ

Tôi lắc đầu:

-Con không yêu ai hết, còn ở nhà với mẹ.

Mẹ gắt yêu:

-Thôi cô ơi, mẹ chả dám đâu, để con gái trong nhà phát ốm vì lọ

Tôi cười khúc khích:

-Sao bảo không có con mẹ buồn.

Mẹ cười tủm tỉm:

-Đành vậy rồi,nhưng con gái lớn phải đi lấy chồng chứ, ở nhà làm bà cô người ta cười chết.

-Vì sợ người ta cười nên phải lấy chồng phải không mẹ?

Mẹ cau mặt:

-Thôi đừng có đuà nữa, lớn bằng cái xào rồi đấy, liệu mà ăn nói kẻo người ta chửi mục mả.

Tôi than thở:

-Kiếp sau xin chừa làm con gái, khổ sở trăm chiều, học ăn học nói rồi lo bị chửi, đàn ông sướng không phải đẻ vẫn có con, muốn lấy ai thì lấy, không cũng chẳng ai cườị Con mà làm ông trời, con bắt đàn ông trăm cay ngàn đắng vì đàn bà cũng vẫn còn sướng chán. Cho đàn ông chửi hoang họ biết tay đàn bà liền.

Mẹ cười ngất:

-Cái con này nói gì không nói, nói đàn ông chửa hoang.

Tôi tròn môi:

-Sao không, thứ đàn ông lang bang đầu đường năm mươi tuổi còn chửa hoang nữa ạ, con mà có quyền, con cho đàn ông chửa đẻ một phen.

Mẹ dí trán tôi:

-Này im đi, ăn nói nhảm nhí người ta cườị

Tôi nhún chân chạy vào nhà trong nói vọng lại:

-Chúa bất công bắt mình đàn bà khổ, vừa yêu vừa hồi hộp.

Mẹ gắt theo:

-Ơ hay cái con này điên hở.

Tôi nằm lăn ra giường ôm gối mà cười thầm. Lấy được chồng phải hành cho đã bụng, đàn ông đáng được hành, đáng bị hành, không hành uổng phí của trờị Đàn ông tự do yêu đương, không sợ tai tiếng càng thử lửa nhiều càng hiển hách oai phong. Đàn bà thử lửa một lần ta tnah cuộc đời, bụng to là hết ngẩn cao mặt mà đi, hết cười tươi mà bước, cúi gằm mặt xuống mà trốn lui lủi như loài chuột cống. Đời thành nước mắt còn chàng hiên ngang tiến lên, hiên ngang ghi thêm thành tích.


#120
Từ mới yêu cho đến khi mặn nồng, nàng vẫn lôi ra hỏi. Ban đầu nghe như một sự thẩm vấn vô hại, nhưng thật ngạc nhiên khi nó biến buổi đối thoại lãng mạn chiều cuối tuần trong xanh thành tâm điểm của tranh cãi. Và đây, câu chuyện bắt đầu:

- Tại sao anh yêu em?



+ Ừ, anh thực sự yêu em.



- Vâng...nhưng tại sao? Anh yêu em vì thứ gì ở em?



+ Không vì thứ gì cả. Ý anh là, anh yêu em không phải vì mái tóc dài của em mặc dù anh thực sự thấy mái tóc dài rất hấp dẫn. Đó là một phần của nó, nhưng đó không phải là lý do anh yêu em.



- Vậy tại sao anh lại yêu em?



+ Đơn giản là anh yêu em... không có một lý do nào cụ thể cả. Ý anh là, anh yêu sự đồng hành của em, nhưng anh vẫn yêu em khi anh không thể ở bên em. Anh yêu cái cách em thể hiện sự trìu mến, nhưng anh vẫn yêu em thậm chí khi em không thể hiện điều đó.



- Anh không nghĩ em thể hiện đủ trìu mến sao?



+ Không, đó không phải là điều anh nói.



- Vậy anh định nói gì?



+ Những gì anh muốn nói là anh yêu em vì em, không cần thiết vì điều gì em làm hay vì những thứ em có, chúng có thể mất đi một lúc nào đó.



- Nghe mơ hồ quá. Em không nghĩ anh biết vì sao anh lại yêu em. Anh có yêu em không? Anh có biết điều đó không??



+ Ồ, có chứ! Nhưng, thôi được rồi... Anh yêu em bởi vì em thực sự biết cách nấu món thịt om ngon tuyệt. Điều đó có ý nghĩa gì không? Anh thực sự rất vui khi em là một người phụ nữ giỏi nội trợ.



- Không, nhưng cái đó khác.



+ Khác gì?



- Đừng lẩn tránh câu hỏi.



+ Được rồi. Vậy sẽ thế nào nếu anh nói anh yêu em là bởi vì em đẹp. Điều đó có tệ như em nói em yêu anh vì anh giàu không?

- Nhưng anh không giàu và dù sao em cũng yêu anh.



+ Đúng.



- Ừ, vậy rồi sao?



+ Gì?



- Anh có biết tại sao anh yêu em hay không?



+ Có chứ. Vì...ý anh là, anh biết đó không phải là thứ có thể định lượng được. Nó như...



- Thôi được rồi, anh thậm chí còn không chắc có thực sự yêu em không. Hay thật!



+ Ý em là gì với "hay thật"? Vậy tại sao em lại yêu anh? Em sẽ trả lời như thế nào?



- Em không biết em có muốn nói với anh bây giờ không. Anh làm hỏng hết cả rồi.



+ Anh làm hỏng?! Đó là câu hỏi của em, anh chỉ cố gắng trả lời câu hỏi mà thôi.



- Anh dường như chưa cố gắng lắm.



+ Vậy em nói cho anh biết, tại sao em yêu anh? Anh muốn nghe. Em cứ nói.



- Ừm...đôi lúc, khi anh giải thích chuyện gì đó, nó nhắc em về ngày trước khi cha em giải thích nhiều điều cho em. Em thích điều đó. Anh luôn giải thích một cách nghiêm túc, rất say sưa và hứng thú. Em rất thích điều đó.



+ Nhưng đó không phải là lí do tại sao em yêu anh. Có phải ý em rằng nếu một hòn gạch rơi xuống đầu anh và anh vẫn là một gã trai tốt nhưng không thể suy nghĩ sâu sắc nữa thì em sẽ không còn dành tình yêu đó cho anh nữa?



- Không, em sẽ vẫn yêu anh.



+ Đó, em thấy chưa? Đó không phải là lý do em yêu anh bởi vì em vẫn yêu anh dù anh không có phẩm chất đó.



- Vậy anh nghĩ người khác yêu nhau không vì một lý do tốt đẹp nào sao?



+ Không. Anh nghĩ người ta yêu một ai đó không phải vì người đó là ai hoặc họ có thể nhận được gì từ người đó. Cũng như người phụ nữ có thể yêu một gã đàn ông bần tiện với họ vậy. Họ chẳng nhận được gì nhưng vẫn tận tụy với người đàn ông đó.



- Vậy là anh nghĩ phụ nữ thật ngu ngốc.

+ Không, đàn ông cũng làm thế thôi. Anh chỉ muốn nói rằng em yêu một người vì em muốn yêu chứ không phải vì họ giành được hay xứng đáng với tình yêu của em. Em yêu một người vì chính con người họ, không vì một "lý do" nào cả.



- Nghe không có gì đặc biệt cả.



+ Vậy thì lý do đặc biệt hơn là em biết khi em yêu ai đó, em yêu họ bởi vì không có một ai khác trên thế giới này có thể là họ theo cái cách của họ!



- Anh không trả lời được nên cố gắng làm em rối phải không?



+ Không! Được rồi, một bà mẹ yêu đứa con trai, con gái mình. Tại sao? Bởi vì chúng là những đứa trẻ ngoan? Bởi vì chúng không ăn nhiều? Không. Bà ấy yêu con mình chứ không phải con người khác.



- Cái đó khác. Anh không phải là bà mẹ, vậy sao mà anh biết được?

+ Đó không phải là vấn đề!



- Đừng có hét lên như thế.



+ Anh không hét, anh chỉ đang nhấn mạnh!



- Vậy thì đừng nhấn mạnh nữa!



+ Nhưng em đâu có nghe!



- Nhưng anh nói nghe chẳng có nghĩa gì cả.



+ Đúng, anh là thế đấy.



- Đúng thế không?



+ Đúng!



- Tốt thôi



+ Tốt thôi. Hừm!

...



+ Vậy... tối nay ăn gì?

- ...



Và lại một lần nữa, sự mơ hồ nhập nhằng trong trí óc phái nữ đã va chạm mạnh mẽ với bức tường gạch của lý lẽ đàn ông. Kết quả cuối cùng? Ngành công nghiệp ăn nhanh phát triển mạnh hơn bởi có thêm nhiều đơn đặt hàng buổi tối. 

Phước Đại

Theo Singlescafe
SEO ngành nghề, cỏ nhân tạo, chuyên sửa máy rửa bát tại hà nội, tình yêu độ xe Mercedes, chuyên sửa chữa tivi tại nhà ở Hà Nội, đặt hàng tượng phật đồ thờ tâm linh làng nghề Sơn Đồng | Điện lạnh Bách Khoa Hà Nội