Khu Phố Văn Hoá => Văn xuôi => Topic started by: saos@ngmo on 28/11/06, 13:02 Return to Full Version

Title: Chiếc mề đay
Post by: saos@ngmo on 28/11/06, 13:02
Chiếc mề đay

Kate Chopin

Nhất Thân Tầm dịch


I.

Một đêm mùa thu, vài người đàn ông quây quần quanh đống lửa trên sườn đồi. Họ thuộc một tiểu đội trong lực lượng phòng vệ liên bang và đang chờ lệnh hành quân. Những bộ quân phục xám sờn cũ. Một người đang hơ chiếc lon thiếc trên đám than đã vạc. Hai người nằm duỗi dài cách đó một chút, còn người thứ tư đang cố luận chữ trong một bức thư và cứ nhích dần về phía có ánh sáng. Anh nới cổ và mở một khuy trước ngực chiếc áo sơmi vải thô.

"Này Ned, cậu đeo cái gì trên cổ thế?" – người nằm trong bóng tối hỏi.

Ned, hay còn gọi là Edmond, không trả lời, máy móc đóng cúc áo lại. Anh tiếp tục đọc thư.

"Có phải ảnh người yêu không?"

"Không phải ảnh cô nào mới chán chứ!" – người ngồi gần đống lửa nhất lên tiếng. Anh ta đã bỏ cái lon xuống và lụi cụi quấy những thứ cáu bẩn trong đó bằng một chiếc que nhỏ. "Đấy là cái bùa, được niệm chú để trừ tà, tránh xui xẻo. Những người đi đạo hay làm thế mà. Thảo nào mà cái gã người Pháp này chả bị vết xước nào kể từ khi nhập ngũ. Ę người Pháp, đúng thế không?" Edmond lơ đãng ngẩng lên khỏi bức thư.

"Gì cơ?" – Anh hỏi

"Có phải cái cậu đeo bùa trên cổ không?

"Phải đeo, Nick à" - Edmond mỉm cười trả lời. "Tôi không thể sống qua năm nay và nửa năm nữa mà thiếu nó được."

Lá thư đã làm Edmond nhớ người yêu và nhớ nhà. Anh duỗi người ngả lưng và nhìn thẳng lên những vì sao lấp lánh. Nhưng anh không nghĩ đến sao trời, không nghĩ đến gì khác ngoài một ngày xuân nào đó khi những con ong vo ve trong cụm hoa tiên nhân thảo, khi một người con gái nói lời từ biệt anh. Anh như ngắm lại nàng khi nàng cởi móc chiếc mề đay để đeo cho anh. Đó là một chiếc mề đay vàng kiểu cũ mang bức ảnh nhỏ xíu của cha mẹ nàng với tên và ngày cuới của họ. Đó là vật quý giá nhất trên đời đối với nàng. Edmond như cảm nhận lại những nếp gấp trên chiếc áo choàng trắng mềm của người con gái, và nhìn thấy những nét rủ của hai ống tay áo thiên thần khi nàng vòng tay qua cổ anh. Gương mặt ngọt ngào của nàng, van lơn, cảm động, dằn vặt bởi nỗi đau chia lìa, hiển hiện trước mắt anh như là thực tại. Anh xoay người, vùi mặt trong cánh tay và cứ nằm đó, im lìm, bất động.

Bóng đêm thăm thẳm và bất trắc với vẻ tĩnh lặng và bình yên bề ngoài của nó phủ xuống chỗ dựng trại. Anh mơ Octavie xinh đẹp đem đến cho anh bức thư. Anh không có ghế để mời nàng ngồi, đau đớn và ngượng nghịu vì bộ quần áo. Anh xấu hổ vì những thức nghčo nàn làm nên bữa tối mà anh mời nàng ở lại dùng.

Anh mơ một con rắn cuộn quanh cổ họng mình, và khi anh thở hổn hển cố níu lấy thứ trơn nhớt đang trượt đi khỏi tầm tay, anh hét lên và choàng tỉnh.

"Nào nào cái đồ vô dụng! Này, người Pháp" – Nick quát vào mặt anh. Có dấu hiệu của một cuộc xâm nhập và tiến công ác liệt hơn là một cuộc hành quân thông thường. Mé đồi trở nên rùng rùng với tiếng ồn và những chuyển động, với thứ ánh sáng bất chợt như của ngày đầu xuân phía trên rừng thông. Ở đằng đông, bình minh vừa ló dạng. Ánh sáng le lói trải mờ khắp dải đồng bằng phía dưới.

"Không hiểu có chuyện gì?" - con chim lớn màu đen đậu trên ngọn cây cao nhất tự hỏi. Nó như người lính già và khôn ngoan, vậy mà nó không đủ khôn ngoan để đoán ra sắp có chuyện gì xảy đến. Vậy là cả ngày nó cứ máy mắt và tự hỏi.

Tiếng huyên náo trải ra xa dần về phía đồng bằng, ngang qua dãy đồi và đánh thức những đứa trẻ đang ngủ trong nôi. Khói cuộn lên về phía mặt trời và làm cả vùng đất rộng phẳng tối sầm lại đến nỗi những con chim ngu ngốc có thể nghĩ rằng trời sắp mưa. Nhưng con chim khôn ngoan thì nghĩ khác.

"Bọn họ là một lũ trẻ con đang chơi đùa" - nó nghĩ. "Ta sẽ biết rő hơn nếu ta nhìn được xa thêm."

Đến gần đêm, đoàn quân cùng với những tiếng om sòm và khói như tan biến đi. Sau đó con chim già rỉa lông. Cuối cùng nó đã hiểu ra. Đập đôi cánh đen to lớn, nó bay xuống lượn vòng phía trên bình nguyên.

Một người đàn ông đi chậm ngang dải đồng bằng. Ông ăn vận như một linh mục. Nhiệm vụ của ông là làm những thủ tục tinh thần cuối cùng cho những chiến binh đang hấp hối. Một người da đen đi theo phụ ông, mang theo một xô nước và một bình rượu.

Không ai bị thương còn ở đây, họ đã được mang đi. Nhưng cuộc rút lui cập rập đã để lại việc tìm kiếm xác chết cho các con kền kền và những thành viên hội nhân đạo.

Có một người lính - chỉ là một cậu bé - nằm ngửa mặt lên trời. Hai tay cậu nắm chặt túm cỏ, móng tay cáu đầy đất và những mẩu cỏ cậu đã bứt trong khoảnh khắc tuyệt vọng níu kéo sự sống. Cây súng trường của cậu đã biến mất, không có mũ nón và gương mặt nhom nhem, cậu đeo quanh cổ một sợi dây chuyền vàng và chiếc mề đay. Vị linh mục cúi xuống bên cậu, mở móc sợi dây chuyền lấy nó ra khỏi cổ người chết. Ông đã lớn lên cùng trong cảnh khốc liệt của cuộc chiến và có thể đối mặt với nó không nao núng, nhưng đôi lúc trước những cảnh thương tâm nó mang lại, cặp mắt mờ già nua ông vẫn nhoà lệ.

Cách đó nửa dặm, hồi chuông báo hiệu giờ kinh tối ngân lên. Vị linh mục và người da đen quỳ xuống, cùng lẩm nhẩm cầu nguyện, bài kinh tạ và lời cầu hồn cho người chết.

II

Vẻ bình yên và đẹp đẽ của một ngày mùa xuân phủ xuống trái đất như ban phúc lành. Dọc con đường rợp lá men theo dòng suối hẹp ngoằn ngočo ở mạn trung Lousiana, chiếc xe ngựa cũ kỹ xuất hiện, quá tồi tàn để đi trên những con đường nông thôn gồ ghề và các ngő hẻm. Mấy con ngựa ô béo chạy nước kiệu chầm chậm đều đều, mặc cho người đánh xe da đen to béo thúc giục. Octavie ngồi ngay ngắn trên xe, người bạn già láng giềng của nàng, thẩm phán Pillier, đến đưa nàng đi dạo buổi sáng.

Octavie mặc một bộ váy đen trơn, đơn giản một cách kỹ lưỡng. Một chiếc thắt lưng hẹp ôm ngang eo và ống tay áo túm lại ở hai cổ tay chật khít. Nàng đã thôi mặc chiếc váy bồng, vẻ ngoài của nàng không khác một nữ tu. Chiếc mề đay nép trong những nếp gấp của vạt áo. Giờ đây nàng không bao giờ trưng nó ra. Nó đã trở về với nàng, trong mắt nàng nó trở nên thần thánh và vô cùng quý báu bởi nó là kỷ vật nhắc cho nàng về sự hiện diện vĩnh viễn của một người.

Nàng đã đọc bức thư gửi kčm theo chiếc mề đay hàng trăm lần. Mới vừa mới đây thôi, nàng lại miệt mài đọc nó. Nàng ngồi bên cửa sổ, vuốt phẳng lá thư trên đầu gối, một cảm giác nặng nề và cay đắng lan toả quanh nàng cùng với bài ca của chim chóc và tiếng vo ve của côn trùng trong không khí.

Nàng còn trẻ và đời còn tươi đẹp đến độ việc đó ập tới với nàng như một điều không có thật khi nàng đọc đi đọc lại bức thư của vị linh mục. Ông nói rằng cái ngày thu ấy đã kết thúc với ráng vàng và đỏ tàn dần ở phía Tây và bóng đêm bao phủ gương mặt của người chết. Ôi, nàng không thể tin rằng một trong những xác thây nằm đó là người đàn ông của nàng. Với gương mặt ngửa lên bầu trời xám trong cơn hấp hối thống khổ. Cảm giác co thắt của cảm giác chống đối, không cam chịu xâm chiếm rồi lướt nhanh qua nàng. Tại sao mùa xuân còn về đây với hoa nở và hơi thở say đắm một khi anh đã chết? Tại sao nàng còn ở đây? Rồi đây trong cuộc đời mình nàng biết sống thế nào!

Octavie đã trải qua biết bao khoảnh khắc thất vọng, nhưng sự chịu đựng tê tái chưa bao giờ buông tha nàng. Nó rơi xuống như một chiếc áo choàng và bọc kín lấy nàng.

"Ta sẽ già đi, lặng lẽ và buồn thảm như dì Tavie tội nghiệp," nàng thì thầm một mình khi gấp lá thư và kẹp nó trở lại vào cuốn sổ. Nàng đã tạo cho mình một vẻ nghiêm trang như dì Tavie. Nàng bước đi, trong vô thức, nàng chậm rãi bắt chước bà cô Tavie, người chỉ còn sống trong ảo ảnh bởi nỗi đau từ thời son trẻ đã cướp đi mọi lạc thú trên đời của bà.

Khi nàng ngồi trong cỗ xe ngựa cũ kỹ bên cạnh cha của người yêu đã khuất, những cảm giác mất mát đã tấn công nàng khi trước lại trở về. Tâm hồn trẻ trung của nàng gào thét đòi quyền được hưởng sự tươi sáng và hân hoan của cuộc đời. Nàng tựa lưng và kéo chiếc mạng che mặt sát vào thêm chút nữa. Đó là chiếc mạng đen cũ của dì Tavie. Một luồng bụi từ đường cái thổi thốc và nàng đưa chiếc khăn tay trắng mềm lên lau má, lau mắt. Đó là một chiếc khăn tay tự may, từ một trong những chiếc váy lót cũ bằng vải mút-xơ-lin mịn màng.

"Con có thể làm cho ta việc này không, Octavie." - người thẩm phán cất lời đề nghị bằng một giọng nhã nhặn cố hữu, "Cho phép ta được bỏ chiếc mạng con đang che. Vì nó có vẻ không hài hoà lắm với vẻ đẹp hứa hẹn của hôm nay."

Cô gái trẻ ngoan ngoãn vâng theo sự mong muốn của người bạn già và tháo lớp vải u buồn vướng víu xuống khỏi chiếc mũ, gấp gọn lại và đặt nó trên chỗ ngồi trước mặt.

"Ŕ, đỡ hơn rồi, đỡ hơn nhiều rồi!" ông nói với giọng an ủi vô bờ. "Đừng bao giờ đeo nó nữa nhé, con gái." Octavie cảm thấy một chút đau lòng, như thể ông đang muốn ngăn cản không cho nàng san sẻ và chịu đỡ gánh ưu phiền đã đč nặng lên họ lâu nay. Nàng lại vùi mặt vào chiếc khăn tay mút-xơ-lin.

Họ rời con đường cái và rẽ vào một vùng đất bằng mà trước đây là đồng cỏ. Chỉ có những bụi gai lúp xúp khắp nơi, lộng lẫy trong ánh sáng huy hoàng của mùa xuân. Vài con gia súc đang gặm cỏ phía xa, nơi cỏ mọc cao và xanh non. Tít cuối cánh đồng là một hàng rào tử đinh hương cao ngất, men theo con đường dẫn vào nhà thẩm phán Pillier, hương hoa thơm nồng chạm vào họ như một cái ôm đón chào dịu nhẹ.

Khi họ tiến gần đến ngôi nhà, quý ông lớn tuổi quàng tay lên vai người con gái, quay mặt nàng về phía mình, ông nói: "Con có nghĩ một ngày nào đó như hôm nay, điều kỳ diệu sẽ đến? Dòng đời vẫn chảy, chẳng lẽ con không nhận ra sao, Octavie? Kìa thiên đường đã mở cửa một lần và trả lại cho chúng ta người đã khuất." Ông nói thật chậm rãi, thận trọng và hùng hồn. Trong giọng nói già nua của ông có âm điệu ngân rung thật lạ lùng và một nỗi xúc động hằn trên mọi nếp nhăn của gương mặt. Nàng nhìn chằm chằm vào ông với cặp mắt khẩn khoản và niềm hân hoan vô bờ.

Họ đánh xe qua con ngő với hàng rào cao ngất ở một bên và bên kia là đồng cỏ. Những con ngựa lười biếng dường như rảo bước nhanh hơn. Và khi họ rẽ vào lối đi giữa hàng cây dẫn vào ngôi nhà, một dàn đồng ca chim chóc cất tiếng hót chào véo von trong vòm lá.

Octavie cảm thấy như mình đang nhập vai trong một màn kịch của sự sống, nó như một giấc mơ, buốt nhói và thực hơn cả cuộc đời. Đó là một ngôi nhà cổ với mái hiên dốc. Và thấp thoáng trong màu xanh mờ của cây lá, nàng trông thấy một gương mặt quen thuộc. Nàng nghe thấy những giọng nói như thể chúng vọng đến từ ngoài đồng xa lắm, và Edmond đang ôm nàng. Edmond đã chết của nàng, Edmond đang sống của nàng! Nàng cảm thấy nhịp đập của tim anh. Niềm vui sướng đau đớn từ những nụ hôn của anh đang gắng thức tỉnh nàng. Đó là tinh thần của cuộc đời, mùa xuân đang trỗi dậy đã thổi hồn vào tuổi trẻ của nàng và truyền cho nàng niềm hân hoan.

Nhiều giờ sau, Octavie kéo chiếc mề đay từ trong ngực áo và nhìn Edmond với những dấu hỏi trong đáy mắt.

"Đó là đêm trước hiệp ước," anh nói. "Trong lúc vội vã vì đụng độ và rút lui sau đó, anh đã không phút nào nhớ tới nó cho đến khi trận đánh kết thúc. Dĩ nhiên anh nghĩ anh đã đánh mất nó trong lúc chiến đấu ác liệt, nhưng nó đã bị đánh cắp."

"Đánh cắp," nàng rùng mình, và nghĩ đến người lính đã chết với gương mặt ngửa lên trời trong cơn hấp hối quằn quại.

Edmond im lặng, nhưng anh nghĩ về người đồng đội của mình, người đã nằm lại trong bóng tối xa xăm, người đã chẳng nói gì.