Khu Phố Văn Hoá => Văn xuôi => Topic started by: Serenade24 on 06/03/07, 09:03 Return to Full Version
Title: Tiếng chim hót trong bụi mận gai - Colleen McCullough. Bestseller năm 1977
Post by: Serenade24 on 06/03/07, 09:03
Post by: Serenade24 on 06/03/07, 09:03
Tiếng chim hót trong bụi mận gai
Tác phẩm kinh điển của Colleen McCullough. Bestseller năm 1977. Chương 1
Ngày 8 tháng 12 năm 1915, Meggie Cleary bước vào năm thứ tư của tuổi đời. Dọn dẹp xong buổi ăn sáng, không nói một lời và hơi đột ngột, mẹ của Meggie đặt lên hai tay cô một cái hộp gói trong giấy màu hạt dẻ rồi bảo cô bé ra ngoài sân. Nghe lời mẹ, Meggie ra ngồi ngay trước cửa nhà, sau bụi cây đậu chổi, rồi vội vàng mở chiếc hộp. Mấy ngón tay cô bé vụng về, hơn nữa, giấy gói rất dày. Nhưng ngay lúc đó, một mùi thơm thoang thoảng làm Meggie nghĩ đến cửa hàng bách hóa Wahine. Cô bé đoán ngay rằng, dù bên trong chứa đựng thứ gì đi nữa, chắc chắn món quà ấy cũng được mua từ cửa hàng bách hóa chứ không phải do ở nhà làm hay do ai đó đã cho. Mở hết lớp giấy bên ngoài, Meggie nhận ra một cái gì đó thật mịn và óng ánh ở góc hộp - Cô bé xé toạc ra.
- Agnès! Ồ Agnès! - cô bé thì thầm một cách âu yếm, mắt sáng lên khi nhìn thấy một con búp bê nằm êm ái trong mớ giấy vụn.
Đúng là một phép mầu. Một phép mầu thật. Từ trước đến nay Meggie mới đến cửa hàng Wahine chỉ một lần thôi, hồi tháng 5 vừa rồi, cô bé được cha mẹ thưởng vì đã tỏ ra rất ngoan.
Lần đó trên chiếc xe bò có mui, cô bé phải hết sức cố gắng mới ngồi yên được bên cạnh mẹ. Vui quá, Meggie không kịp nhìn thấy gì và cũng không nhớ gì cả, ngoài Agnès, con búp bê tuyệt đẹp mắc chiếc váy xòe rộng bằng xa tanh hồng kết ren chung quanh, được đặt trên quầy của cửa hàng bách hóa. Ngay lúc ấy, Meggie kín đáo đặt tên Agnès cho con búp bê xinh đẹp, cái tên khá lịch sự mà cô bé biết. Vậy mà nhiều tháng sau, lòng thèm muốn ấy của Meggie cũng chỉ là mơ ước. Meggie chưa bao giờ có búp bê và không hề tưởng tượng rằng một bé gái như mình ngày nào đó sẽ có một con búp bê. Lâu nay cô bé thường vui thích với những thứ đồ chơi mà các anh trai của cô vứt bỏ, chẳng hạn như những cái còi, cái ná bắn thun và những hình lính xù xì. Làm sao cô dám mơ ước được chơi với Angès.
Tay vuốt nhẹ lên chiếc áo của búp bê, chiếc áo đẹp nhất trong số những áo mà cô béthấy phụ nữ thường mặc, Meggie bế nhẹ Angès lên. Tay và chân của búp bê đều cử động được, cổ và thân mình cũng thế. Màu tóc vàng óng ánh có điểm những hạt trai, khuôn mặt làm bằng sứ được vẽ rất khéo và đẹp. Mắt búp bê màu xanh, sinh động đến kinh ngạc. Đôi mắt ấy sáng lên qua hai hàng mi cong vút. Khi đặt Angès nằm xuống, Meggie khám phá ra rằng búp bê còn biết nhắm mắt lại. Phía trên gò má cao màu hồng có một nốt ruồi. Hai môi hơi hé ra cho thấy những chiếc răng màu trắng thật nhỏ. Meggie đặt búp bê trên đầu gối, tìm một chỗ ngồi êm ái rồi nhìn ngắm một cách say mệ
Trong khi Meggie vẫn ngồi như thế thì sau bụi cây đậu chổi, Jack và Hughie đang chơi đùa bên cạnh đám cỏ mọc cao sát hàng rào. Cả hai nhìn thấy mái tóc màu hung đặc biệt của Meggie, màu tóc đúng là của dòng họ Cleary, ngoại trừ Frank là có tóc màu khác.
Jack vừa thúc cùi chỏ vào anh mình vừa liến thoắng chỉ Meggiẹ Cả hai đang chơi trò quân lính truy lùng một thổ dân Maori phản bội. Meggie không để ý đến hai anh và vẫn đắm nhìn Agnès thân yêu, miệng huýt gió nho nhỏ những âm thanh quen thuộc.
- Meggie, mày đang cầm gì đó? Jack vừa la to vừa nhào tới - Đưa tao xem.
- Ừ, đưa xem.
Hughie nói thêm vào, vừa cười khúc khích vừa tìm cách chặn Meggie không cho chạy thoát.
Cô bé ôm chặc búp bê vào ngực và lắc đầu.
- Không, búp bê của em. Món quà sinh nhật của em.
- Cứ đưa bọn tao xem. Bọn tao chỉ muốn xem qua thôi.
Trong niềm vui và hãnh diện vừa được mẹ tặng quà, cô bé đưa búp bê ra khoe:
- Các anh xem này, nó đẹp quá. Nó tên Agnès đó.
- Agnès? Agnès? Giọng Jack chế diễu. Tên gì mà tồi thế. Tại sao không gọi nó là Margaret hay Betty
- Không thể gọi khác hơn vì nó là Agnès!
Hughie nhìn cánh tay con búp bê cử động, cậu ta huýt gió và nói:
- Jack nhìn xem, tay nó cử động được đấy.
- Cử động làm sao? Đưa tao xem.
- Không! Cô bé la lên và lại ôm búp bê sát vào ngực, nước mắt sắp trào ra. - Không, các anh làm hư búp bê của em... A, Jack, đừng đụng vào nó, anh sẽ làm gãy búp bê của em mất.
Hai bàn tay rám nắng, dơ bẩn của Jack chụp lên cổ tay Meggie, siết thật mạnh.
- Đừng mè nheo nữa, tao mách với anh Bob bây giờ.
Jack siết mạnh hai cổ tay của Meggie, trong khi Hughie túm lấy chiếc váy của búp bê kéo ra.
- Đưa đây - giọng Jack nhỏ nhẹ lại. Nếu không, tao sẽ siết mạnh đau lắm đó.
- Không, không, Jack! Em năn nỉ anh. Anh làm hỏng búp bê bây giờ. Em van anh để cho nó yên. Đừng lấy của em...
Dù hai tay bị siết càng lúc càng mạnh, cô bé vẫn không chịu buông con búp bê ra. Meggie khóc to lên, chân đá vào Jack.
- Đã lấy được rồi! Hughie reo lên đắc thắng khi búp bê vừa vuột khỏi tay Meggie. Chiếc áo ngoài và bên trong cả chiếc quần lót cũng đều tơi tả. Con búp bê hoàn toàn trần trụi. Chúng nắm hai chân búp bê kéo ngược ra phía sau, còn cái đầu chúng quay đủ hướng và không thèm chú ý đến Meggie khóc một mình. Trong gia đình họ Cleary vẫn thế, ai mà không có khả năng đối phó thì chịu chứ không có ai hổ trợ hay thương hại. Nguyên tắc ấy cũng áp dụng cho cả các cô gái. Từng chùm tóc vàng của con búp bê bị vứt ra rải đầy dưới đất, còn các hạt trai nhấp nhánh văng mất trong cỏ, một chiếc giày dơ bẩn vô tình dẫm lên chiếc váy nằm trên đất. Meggie quỳ gối xuống, hai tay run rẩy lượm lại những mảnh áo quần bé nhỏ của búp bê, rồi mò mẫn trong đám cỏ mong tìm lại những hạt trai. Nước mắt làm cho cô bé không còn nhìn thấy gì nữa, trái tim đau nhói một cách lạ lùng, vì rằng từ trước đến nay, chưa bao giờ cô bé lại cảm nhận một điều gì đó có thể gọi là đau đớn.
Title: Re: Tiếng chim hót trong bụi mận gai - Colleen McCullough. Bestseller năm 1977
Post by: Serenade24 on 06/03/07, 09:05
Post by: Serenade24 on 06/03/07, 09:05
Chương 2
Frank nhúng thanh sắt đỏ vào nước lạnh gây nên một tiếng xèo, rồi đứng thẳng người lên. Anh không còn đau lưng nữa. Có lẽ vì đã quen công việc ở lò rèn. Chỉ cần sáu tháng thôi - cha anh nói như thế. Nhưng Frank hiểu là biết bao nhiêu năm tháng trôi qua từ khi anh làm quen với nơi đây; anh đã đếm thời gian trong oán giận và hận thù. Quẳng chiếc búa vào thùng, bàn tay run run, Frank vuốt ngược mái tóc phủ kín vầng trán rồi cởi tấm tạp đề cũ mèm bằng da. Chiếc áo sơ mi nằm chờ Frank trên đống rơm, anh bước đi nặng nề, dừng lại một lúc và ánh mắt mất hút qua một khe hở của nhà kho. Mắt anh đen, mở trừng trừng nhìn về hướng ấy.
Dáng người hơi thấp nhỏ, khoảng một thước sáu mươi, Frank gầy như những đứa con trai đang lớn, nhưng vai và tay trần của anh đều gân guốc vì cầm búa lâu ngày. Nước da hơi xanh, mịn, bóng loáng mồ hôi. Tóc và cặp mắt đen lánh có cái gì đó xa lạ vì rằng đôi môi dày và cái mũi thô thẳng không phảng phất chút nào những nét chung nhất của gia đình này. Ở mẹ và Frank hình như có dòng máu Maori. Frank gần 16 tuổi, Bob 11, Jack 10, Hughie 9, Stuart 5 và cô bé Meggie... Frank nhớ ra hôm nay ngày 8 tháng 12 Meggie vừa tròn 4 tuổi. Anh mặc áo vào và rời nhà kho.
Căn nhà của gia đình Cleary nằm trên một ngọn đồi cao hơn nhà kho và chuồng ngựa chừng ba mươi mét. Hầu hết nhà cửa ở Tây Tây Lan được xây bằng gỗ, không có lầu, dài và rộng để khi có động đất thì không bị sập tất cả. Chung quanh nhà mọc đầy những cây đậu chổi, mùa này trĩu nặng những bông vàng; cỏ mọc bao la, xanh rì như phần nhiều các đồng cỏ nuôi súc vật. Ngay giữa mùa đông, có những mảng tuyết suốt cả ngày không tan vì rợp bóng mát, cỏ vẫn không vàng úa. Rồi mùa hè dài và dịu dàng mang trả lại cho thiên nhiên một màu xanh đậm. Mưa cũng không quá nặng hạt để có thể làm gã cả những loài cây mảnh khảnh nhất. Tai họa ở Tây Tây Lan gầm lên từ trong lòng đất chứ không bao giờ sa xuống từ trên trời. Bao giờ cũng thế, con người sống ở nơi đây như luôn ở trong một đợi chờ thấp thỏm trước sự chuyển động, tưởng chừng nghe thấy dưới chân mình những tiếng âm thanh không ngớt vang dội từ lòng đất. Vì rằng bên trong lòng đất ẩn chứa một sức mạnh kinh hoàng, một sức mạnh có biên độ dữ dội đến đỗi cách đấy ba mươi năm, một quả núi nguyên vẹn đã bị xóa mất hoàn toàn.
Dù thế, đất ở đây thật hiền hòa, hiếu khách. Từ nhà nhìn ra xa là một cánh đồng xanh như màu ngọc bích trên chiếc nhẫn đính hôn của Fiona Cleary. Đường viền của các ngọn đồi vẽ lên nền trời màu xanh nhạt; ngọn núi Egmont cao ba ngàn mét như muốn đâm thủng các tầng mây. Sườn núi hai bên khoác màu trắng của tuyết hết sức cân đối khiến cho Frank vội vã vì anh nhớ lời cha dặn không được rời bỏ lò rèn. Lệnh của cha anh lúc nào cũng nghiêm khắc. Đi vòng vào nhà, Frank bắt gặp mấy đứa em.
Chính Frank đã đưa mẹ đi Wahine để mua búp bê cho Meggie, tuy nhiên anh đã phải tự hỏi điều gì đã phải thúc đẩy mẹ anh chịu tiêu xài như thế. Với mẹ, một món quà sinh nhật phải là một thứ gì có ích lợi cho cuộc sống hiện tại; gia đình không dư dả tiền để phung phí. Không bao giờ mẹ anh mua đồ chơi cho bất cứ ai để làm quà sinh nhật. Các con của bà nhân ngày này đều nhận được quần áo. Ngày sinh nhật hoặc Noel là dịp để sắm thêm món gì đó cho tủ áo quần còn rất trống trải. Có lẽ mẹ đã bắt gặp cái nhìn thèm muốn của Meggie trong lần ra tỉnh. Khi Frank hỏi mẹ về quyết định bất thường này, bà chỉ nói đôi ba câu về niềm mong ước của mấy cô bé có được con búp bê, rồi bà chuyển sang đề tài khác.
Giữa lối đi, Jack và Hughie đang giằng co, cả hai đứa đang nắm tay chân con búp bê một cách thô bạo. Frank chỉ nhìn thấy Meggie từ phía sau lưng, cô bé đang đứng như trời trồng nhìn hai anh mình dằn vặt Agnès.
- Đồ qui? sứ, bẩn thỉu. Frank quát.
Jack và Hughie nhanh chân, biến ngay và bỏ lại con búp bệ Khi Frank nổi nóng thì khôn hồn bỏ đi nơi khác.
- Tao mà bắt gặp tụi bây rớ vào con búp bê lần nữa, thì tụi bây lảnh ngay một thanh sắt đỏ vào mông, đồ thối tha! Frank hét lên.
Frank khom người xuống, hai tay đặt lên vai Meggie lay nhẹ.
- Thôi! thôi! có gì đâu mà khóc! Đừng sợ. Tụi nó bỏ đi hết rồi và không bao giờ dám sờ vào con búp bê của em đâu. Anh hứa với em mà. Bây giờ em hãy tặng cho anh một nụ cười sinh nhật đi nào...
Mặt cô bé như sưng, mí mắt phồng lên. Cô nhìn Frank trân trân bằng đôi mắt nâu, mở to, chứa đầy bi kịch vừa xảy ra và cô bé không nói nên lời. Frank lấy từ trong túi quần một chiếc khăn bẩn, lau mặt em gái một cách vụng về, rồi đặt khăn lên mũi bảo:
- Hỉ mũi đi cưng.
Cô bé nghe lời, hết khóc nhưng tiếng nấc vẫn chưa dứt.
- Frank - Frank - Frank! Mấy ảnh... đã lấy... Agnès của em! Tóc của Agnès bị rứt ra hết rồi và bị mất cả những hạt trai xinh đẹp. Frank, mấy hạt trai đó rơi trong cỏ đây nè... nhưng em tìm không ra.
Rồi cô bé lại khóc. Giọt nước mắt rơi xuống tay Frank. Anh đưa tay lên nhìn và lấy lưỡi liếm.
- Bây giờ phải tìm lại mấy hạt trai. Nhưng em sẽ không tìm thấy nếu cứ khóc mãi. Còn chuyện này nữa, sao em vẫn ngọng nghịu như một em bé mới biết nói? Hỉ mũi nữa đi và nhặt Agnès tội nghiệp của em lên. Nếu em không mặc ngay quần áo vào cho nó, nó sẽ bị cảm nắng bây giờ.
Frank đặt Meggie ngồi xuống bên lối đi rồi dịu dàng trao cho cô bé cho búp bệ Xong cậu ta vẹt cỏ đi tìm hạt trai, không mấy chốc vừa reo lên một cách đắc thắng vừa giơ cao cho Meggie xem hạt trai mới tìm được.
- Đây mới chỉ là hạt thứ nhất. Em chờ xem hai anh em mình sẽ tìm lại đủ tất cả.
Meggie nhìn người anh cả của mình bằng đôi mắt ngưởng mộ trong khi Frank tiếp tục vẹt cỏ, thỉnh thoảng đưa lên cao khoe một hạt trai vừa tìm được. Bây giờ Meggie bỗng nhớ lại làn da của Agnès rất mỏnh dễ bị ánh mặt trời thiêu đốt, thế là cô bé chăm chú lo mặc quần áo lại cho búp bê. Thật ra búp bê cũng không mang một vết thương nào đáng kể, tóc chỉ rối lên, tay chân dơ bẩn nhưng vẫn cử động được bình thường. Trên mái tóc của Meggie ở mỗi bên có chiếc lược cài, cô bé lấy xuống một cái để chải tóc cho búp bê. Vụng về, cô bé làm một chiếc nơ lớn trên đầu của Agnès bung ra. Thảm kịch. Tất cả tóc tai Agnès đều sút hết và dính trên chiếc lược cài. Phía trên cái trán rộng của búp bê chẳng có gì khác. Không có đầu, không có xương sọ Chỉ có một lỗ trống tác hoác. Meggie run rẩy gần như hoảng hốt, nhưng mắt vẫn nhìn vào phía trong lỗ trống. Những đường nét lồi lõm của mắt, mũi, miệng nhìn từ bên trong thật khiếp đảm, nhất là hai con mắt của Agnès chỉ là hai lỗ sâu hoắm, có một sợi dây kẽm xuyên qua...
Tiếng hét chát chúa của Meggie không phải là tiếng hét của trẻ thơ. Meggie quăng Agnès xuống đất rồi tiếp tục la, hai tay ôm mặt, run rẩy. Frank đến gỡ các ngón tay của Meggie rồi bế em gái vào lòng, đặt đầu cô bé vào chỗ êm ả nhất giữa cổ và vai mình. Cô bé càng thu mình sát vào Frank, tìm kiếm nơi người an niềm an ủi, cho đến lúc cơn xúc động giảm xuống, cô bé mới ngửi thấy cái mùi dể chịu từ thân người của Frank, đó là mùi ngựa, mùi mồ hôi và sắt nung đỏ.
Khi Meggie yên lòng trở lại, Frank hỏi em gái của mình nguyên do của sự hoảng hốt. Anh ta nhặt búp bê lên và đau xót nhìn thấy cái đầu trống rỗng và cố nhớ xem trong cái thế giới tuổi thơ của mình có bao giờ xảy ra nổi khiếp sợ lạ lùng như thế không. Anh nhớ lại hình ảnh đáng ghét lởn vởn như những bóng ma, những tiếng nói xì xào và những cái nhìn ghét bỏ. Còn gương mặt của mẹ nhăn nhó, khắc khổ, bàn tay của mẹ run rẩy nắm chặt lấy tay mình, người căng thẳng.
Còn Meggie đã thấy gì mà hoảng sợ như thế? Anh biết rằng Meggie sẽ ít hoảng hốt hơn nếu Agnès đáng thương bị chảy máu khi tóc bị rứt ra. Dù cho máu có thật. Vì rằng trong gia đình họ Cleary không có tuần nào là tránh được chuyện người này hay người nọ bị đổ máu.
Meggie nói thật nhỏ:
- Em sợ hai con mắt của nó - Trong khi nói, Meggie không dám nhìn con búp bê.
- Không Meggie, đừng sợ, nó đẹp tuyệt, một kỳ quan.
Frank cúi mặt vào mái tóc của em gái - mái tóc đẹp, dày và sáng rực. Phải mất nửa tiếng đồng hồ vỗ về, Frank mới thuyết phục được Meggie chịu quay lưng lại nhìn Agnès và thêm một khoảng thời gian như thế để dám nhìn thẳng vào cái lỗ trống trên đầu búp bệ Frank chỉ cho em xem hai con mắt của búp bê động đậy như thế nào, bằng cách nào mà hai mắt mở ra và khép lại.
- Thôi bây giờ đã đến lúc anh em mình phải vào nhà.
Frank bế Meggie bằng một cánh tay, con búp bê đặt giữa ngực Frank và ngực Meggie. Mình sẽ nhờ mẹ chữa lại con búp bê. Mẹ sẽ giặt, ủi lại quần áo cho nó và tìm cách dán lại bộ tóc. Còn anh sẽ đính lại hạt trai bằng những cây kim găm, chắc chắn sẽ không bao giờ bị rơi ra nữa, mặc tình cho em muốn chải kiểu tóc nào cho nó cũng được.
Fiona Cleary đang ở trong bếp gọt khoai. Đó là một người đàn bà có nước da hơi nhợt nhạt, người thấp, nhưng gương mặt khá nghiêm và cứng rắn. Bà có một dáng đẹp, một thân hình mảnh khảnh dù đã sáu lần sinh. Chiếc áo dài vải trúc bâu gần chấm đất, thật sạch; một chiếc tạp dề lớn màu trắng, hồ cứng, phía trên được buộc quanh cổ, phía dưới ôm thân người và cột lại bằng một cái nơ thắt sau lưng thật gọn và đẹp. Từ sáng đến chiếu tối, bà ở trong bếp và ở khu vườn phía sau nhà; đôi giày ống ngắn màu đen rất bẩn của bà chỉ có một con đường quen thuộc lui tới bếp đến chỗ giặt quần áo, từ vườn ra đến sào phơi quần áo rồi quay trở lại bếp.
Bà đặt con dao lên bàn, nhìn Frank và Meggie; môi bà bỗng mím lại:
- Meggie, mẹ chỉ cho phép con mặc chiếc áo đẹp nhất vào ngày chủ nhật với một điều kiện: con không làm bẩn. Bây giờ con nhìn xem ra cái thứ gì. Đúng là một đứa trẻ dơ dáy.
- Mẹ ơi, không phải lỗi của Meggie đâu - Frank bào chữa. Chính Jack và Hughie đã giành lấy búp bê của Meggie để xem tay chân cử động như thế nào. Con có hứa với Meggie là mẹ và con sẽ chữa lại con búp bê. Làm được phải không mẹ?
- Con đưa mẹ xem - Fiona vừa nói vừa đưa tay ra. Bà là một người lặng lẽ, ít nói, và có vẻ như sống không được tự nhiên. Những gì trong đầu bà khó ai đoán biết, ngay cả chồng bà. Bà nhường quyền giáo dục các con cho chồng và tuân thủ các mệnh lệnh của chồng mà không có một phản ứng hay than phiền nào, ngoại trừ một vài trường hợp hết sức đặc biệt. Meggie nghe các anh mình nói nhỏ với nhau rằng mẹ cũng sợ ba như chúng và nếu thật thế thì mẹ đã giấu giếm cái sợ ấy dưới một lớp ngoài bình thản. Trên nét mặt ấy cũng tỏ ra một chút bướng bỉnh. Bà không bao giờ cười, cũng như không bao giờ nổi giận.
Fiona đặt con búp bê lên cái kệ gần bếp và nhìn Meggie:
- Sáng mai mẹ sẽ giặt quần áo cho Agnès và sẽ chải tóc lại. Sau buổi ăn chiều nay, anh con sẽ dán tóc và không chừng phải tắm cho nó sạch sẽ.
Meggie tỏ ra bằng lòng, nụ cười trên môi. Đôi lúc Meggie rất thèm được nghe tiếng cười của mẹ nhưng điều đó lại không bao giờ có được. Meggie cảm giác rằng mình đang chia xẻ với mẹ một điều gì đó rất đặc biệt mà cha cô và các anh không thể hiểu; thế mà cô bé vẫn không thể nào khám phá những gì chứa đựng bên trong con người mà Meggie hết lòng yêu thương.
Ngoài Frank, không một đứa con trong gia đình này hiểu được rằng Fiona luôn ở trong tâm trạng mệt mỏi, sự mệt mỏi không dễ gì vơi bớt. Có quá nhiều việc phải làm nhưng lại không có dư tiền và không đủ thìgiờ giải quyết. Bà chỉ trông cậy vào đôi taỵ Ngay bây giờ cô bé cũng đã giúp mẹ một số công việc vặt mãnh nhưng với bốn tuổi đầu, Meggie chưa đủ sức làm nhẹ bớt gánh nặng của bà. Sáu đứa con trai, chỉ có một đứa con gái, lại là con út. Những ai quen biết gia đình này đều thương hại bà nhưng điều ấy đâu có làm thay đổi được gì. Cái giỏ đựng đồ cần vá lại đầy những chiếc vớ chưa được mạng, có cả que đang dính vào một chiếc vớ khác đang dở dang. Hughie đã cao nhòng không còn mặc được những cái áo xănđai cũ; với Jack thì lại không đủ lớn để mặc áo của anh.
Frank nhúng thanh sắt đỏ vào nước lạnh gây nên một tiếng xèo, rồi đứng thẳng người lên. Anh không còn đau lưng nữa. Có lẽ vì đã quen công việc ở lò rèn. Chỉ cần sáu tháng thôi - cha anh nói như thế. Nhưng Frank hiểu là biết bao nhiêu năm tháng trôi qua từ khi anh làm quen với nơi đây; anh đã đếm thời gian trong oán giận và hận thù. Quẳng chiếc búa vào thùng, bàn tay run run, Frank vuốt ngược mái tóc phủ kín vầng trán rồi cởi tấm tạp đề cũ mèm bằng da. Chiếc áo sơ mi nằm chờ Frank trên đống rơm, anh bước đi nặng nề, dừng lại một lúc và ánh mắt mất hút qua một khe hở của nhà kho. Mắt anh đen, mở trừng trừng nhìn về hướng ấy.
Dáng người hơi thấp nhỏ, khoảng một thước sáu mươi, Frank gầy như những đứa con trai đang lớn, nhưng vai và tay trần của anh đều gân guốc vì cầm búa lâu ngày. Nước da hơi xanh, mịn, bóng loáng mồ hôi. Tóc và cặp mắt đen lánh có cái gì đó xa lạ vì rằng đôi môi dày và cái mũi thô thẳng không phảng phất chút nào những nét chung nhất của gia đình này. Ở mẹ và Frank hình như có dòng máu Maori. Frank gần 16 tuổi, Bob 11, Jack 10, Hughie 9, Stuart 5 và cô bé Meggie... Frank nhớ ra hôm nay ngày 8 tháng 12 Meggie vừa tròn 4 tuổi. Anh mặc áo vào và rời nhà kho.
Căn nhà của gia đình Cleary nằm trên một ngọn đồi cao hơn nhà kho và chuồng ngựa chừng ba mươi mét. Hầu hết nhà cửa ở Tây Tây Lan được xây bằng gỗ, không có lầu, dài và rộng để khi có động đất thì không bị sập tất cả. Chung quanh nhà mọc đầy những cây đậu chổi, mùa này trĩu nặng những bông vàng; cỏ mọc bao la, xanh rì như phần nhiều các đồng cỏ nuôi súc vật. Ngay giữa mùa đông, có những mảng tuyết suốt cả ngày không tan vì rợp bóng mát, cỏ vẫn không vàng úa. Rồi mùa hè dài và dịu dàng mang trả lại cho thiên nhiên một màu xanh đậm. Mưa cũng không quá nặng hạt để có thể làm gã cả những loài cây mảnh khảnh nhất. Tai họa ở Tây Tây Lan gầm lên từ trong lòng đất chứ không bao giờ sa xuống từ trên trời. Bao giờ cũng thế, con người sống ở nơi đây như luôn ở trong một đợi chờ thấp thỏm trước sự chuyển động, tưởng chừng nghe thấy dưới chân mình những tiếng âm thanh không ngớt vang dội từ lòng đất. Vì rằng bên trong lòng đất ẩn chứa một sức mạnh kinh hoàng, một sức mạnh có biên độ dữ dội đến đỗi cách đấy ba mươi năm, một quả núi nguyên vẹn đã bị xóa mất hoàn toàn.
Dù thế, đất ở đây thật hiền hòa, hiếu khách. Từ nhà nhìn ra xa là một cánh đồng xanh như màu ngọc bích trên chiếc nhẫn đính hôn của Fiona Cleary. Đường viền của các ngọn đồi vẽ lên nền trời màu xanh nhạt; ngọn núi Egmont cao ba ngàn mét như muốn đâm thủng các tầng mây. Sườn núi hai bên khoác màu trắng của tuyết hết sức cân đối khiến cho Frank vội vã vì anh nhớ lời cha dặn không được rời bỏ lò rèn. Lệnh của cha anh lúc nào cũng nghiêm khắc. Đi vòng vào nhà, Frank bắt gặp mấy đứa em.
Chính Frank đã đưa mẹ đi Wahine để mua búp bê cho Meggie, tuy nhiên anh đã phải tự hỏi điều gì đã phải thúc đẩy mẹ anh chịu tiêu xài như thế. Với mẹ, một món quà sinh nhật phải là một thứ gì có ích lợi cho cuộc sống hiện tại; gia đình không dư dả tiền để phung phí. Không bao giờ mẹ anh mua đồ chơi cho bất cứ ai để làm quà sinh nhật. Các con của bà nhân ngày này đều nhận được quần áo. Ngày sinh nhật hoặc Noel là dịp để sắm thêm món gì đó cho tủ áo quần còn rất trống trải. Có lẽ mẹ đã bắt gặp cái nhìn thèm muốn của Meggie trong lần ra tỉnh. Khi Frank hỏi mẹ về quyết định bất thường này, bà chỉ nói đôi ba câu về niềm mong ước của mấy cô bé có được con búp bê, rồi bà chuyển sang đề tài khác.
Giữa lối đi, Jack và Hughie đang giằng co, cả hai đứa đang nắm tay chân con búp bê một cách thô bạo. Frank chỉ nhìn thấy Meggie từ phía sau lưng, cô bé đang đứng như trời trồng nhìn hai anh mình dằn vặt Agnès.
- Đồ qui? sứ, bẩn thỉu. Frank quát.
Jack và Hughie nhanh chân, biến ngay và bỏ lại con búp bệ Khi Frank nổi nóng thì khôn hồn bỏ đi nơi khác.
- Tao mà bắt gặp tụi bây rớ vào con búp bê lần nữa, thì tụi bây lảnh ngay một thanh sắt đỏ vào mông, đồ thối tha! Frank hét lên.
Frank khom người xuống, hai tay đặt lên vai Meggie lay nhẹ.
- Thôi! thôi! có gì đâu mà khóc! Đừng sợ. Tụi nó bỏ đi hết rồi và không bao giờ dám sờ vào con búp bê của em đâu. Anh hứa với em mà. Bây giờ em hãy tặng cho anh một nụ cười sinh nhật đi nào...
Mặt cô bé như sưng, mí mắt phồng lên. Cô nhìn Frank trân trân bằng đôi mắt nâu, mở to, chứa đầy bi kịch vừa xảy ra và cô bé không nói nên lời. Frank lấy từ trong túi quần một chiếc khăn bẩn, lau mặt em gái một cách vụng về, rồi đặt khăn lên mũi bảo:
- Hỉ mũi đi cưng.
Cô bé nghe lời, hết khóc nhưng tiếng nấc vẫn chưa dứt.
- Frank - Frank - Frank! Mấy ảnh... đã lấy... Agnès của em! Tóc của Agnès bị rứt ra hết rồi và bị mất cả những hạt trai xinh đẹp. Frank, mấy hạt trai đó rơi trong cỏ đây nè... nhưng em tìm không ra.
Rồi cô bé lại khóc. Giọt nước mắt rơi xuống tay Frank. Anh đưa tay lên nhìn và lấy lưỡi liếm.
- Bây giờ phải tìm lại mấy hạt trai. Nhưng em sẽ không tìm thấy nếu cứ khóc mãi. Còn chuyện này nữa, sao em vẫn ngọng nghịu như một em bé mới biết nói? Hỉ mũi nữa đi và nhặt Agnès tội nghiệp của em lên. Nếu em không mặc ngay quần áo vào cho nó, nó sẽ bị cảm nắng bây giờ.
Frank đặt Meggie ngồi xuống bên lối đi rồi dịu dàng trao cho cô bé cho búp bệ Xong cậu ta vẹt cỏ đi tìm hạt trai, không mấy chốc vừa reo lên một cách đắc thắng vừa giơ cao cho Meggie xem hạt trai mới tìm được.
- Đây mới chỉ là hạt thứ nhất. Em chờ xem hai anh em mình sẽ tìm lại đủ tất cả.
Meggie nhìn người anh cả của mình bằng đôi mắt ngưởng mộ trong khi Frank tiếp tục vẹt cỏ, thỉnh thoảng đưa lên cao khoe một hạt trai vừa tìm được. Bây giờ Meggie bỗng nhớ lại làn da của Agnès rất mỏnh dễ bị ánh mặt trời thiêu đốt, thế là cô bé chăm chú lo mặc quần áo lại cho búp bê. Thật ra búp bê cũng không mang một vết thương nào đáng kể, tóc chỉ rối lên, tay chân dơ bẩn nhưng vẫn cử động được bình thường. Trên mái tóc của Meggie ở mỗi bên có chiếc lược cài, cô bé lấy xuống một cái để chải tóc cho búp bê. Vụng về, cô bé làm một chiếc nơ lớn trên đầu của Agnès bung ra. Thảm kịch. Tất cả tóc tai Agnès đều sút hết và dính trên chiếc lược cài. Phía trên cái trán rộng của búp bê chẳng có gì khác. Không có đầu, không có xương sọ Chỉ có một lỗ trống tác hoác. Meggie run rẩy gần như hoảng hốt, nhưng mắt vẫn nhìn vào phía trong lỗ trống. Những đường nét lồi lõm của mắt, mũi, miệng nhìn từ bên trong thật khiếp đảm, nhất là hai con mắt của Agnès chỉ là hai lỗ sâu hoắm, có một sợi dây kẽm xuyên qua...
Tiếng hét chát chúa của Meggie không phải là tiếng hét của trẻ thơ. Meggie quăng Agnès xuống đất rồi tiếp tục la, hai tay ôm mặt, run rẩy. Frank đến gỡ các ngón tay của Meggie rồi bế em gái vào lòng, đặt đầu cô bé vào chỗ êm ả nhất giữa cổ và vai mình. Cô bé càng thu mình sát vào Frank, tìm kiếm nơi người an niềm an ủi, cho đến lúc cơn xúc động giảm xuống, cô bé mới ngửi thấy cái mùi dể chịu từ thân người của Frank, đó là mùi ngựa, mùi mồ hôi và sắt nung đỏ.
Khi Meggie yên lòng trở lại, Frank hỏi em gái của mình nguyên do của sự hoảng hốt. Anh ta nhặt búp bê lên và đau xót nhìn thấy cái đầu trống rỗng và cố nhớ xem trong cái thế giới tuổi thơ của mình có bao giờ xảy ra nổi khiếp sợ lạ lùng như thế không. Anh nhớ lại hình ảnh đáng ghét lởn vởn như những bóng ma, những tiếng nói xì xào và những cái nhìn ghét bỏ. Còn gương mặt của mẹ nhăn nhó, khắc khổ, bàn tay của mẹ run rẩy nắm chặt lấy tay mình, người căng thẳng.
Còn Meggie đã thấy gì mà hoảng sợ như thế? Anh biết rằng Meggie sẽ ít hoảng hốt hơn nếu Agnès đáng thương bị chảy máu khi tóc bị rứt ra. Dù cho máu có thật. Vì rằng trong gia đình họ Cleary không có tuần nào là tránh được chuyện người này hay người nọ bị đổ máu.
Meggie nói thật nhỏ:
- Em sợ hai con mắt của nó - Trong khi nói, Meggie không dám nhìn con búp bê.
- Không Meggie, đừng sợ, nó đẹp tuyệt, một kỳ quan.
Frank cúi mặt vào mái tóc của em gái - mái tóc đẹp, dày và sáng rực. Phải mất nửa tiếng đồng hồ vỗ về, Frank mới thuyết phục được Meggie chịu quay lưng lại nhìn Agnès và thêm một khoảng thời gian như thế để dám nhìn thẳng vào cái lỗ trống trên đầu búp bệ Frank chỉ cho em xem hai con mắt của búp bê động đậy như thế nào, bằng cách nào mà hai mắt mở ra và khép lại.
- Thôi bây giờ đã đến lúc anh em mình phải vào nhà.
Frank bế Meggie bằng một cánh tay, con búp bê đặt giữa ngực Frank và ngực Meggie. Mình sẽ nhờ mẹ chữa lại con búp bê. Mẹ sẽ giặt, ủi lại quần áo cho nó và tìm cách dán lại bộ tóc. Còn anh sẽ đính lại hạt trai bằng những cây kim găm, chắc chắn sẽ không bao giờ bị rơi ra nữa, mặc tình cho em muốn chải kiểu tóc nào cho nó cũng được.
Fiona Cleary đang ở trong bếp gọt khoai. Đó là một người đàn bà có nước da hơi nhợt nhạt, người thấp, nhưng gương mặt khá nghiêm và cứng rắn. Bà có một dáng đẹp, một thân hình mảnh khảnh dù đã sáu lần sinh. Chiếc áo dài vải trúc bâu gần chấm đất, thật sạch; một chiếc tạp dề lớn màu trắng, hồ cứng, phía trên được buộc quanh cổ, phía dưới ôm thân người và cột lại bằng một cái nơ thắt sau lưng thật gọn và đẹp. Từ sáng đến chiếu tối, bà ở trong bếp và ở khu vườn phía sau nhà; đôi giày ống ngắn màu đen rất bẩn của bà chỉ có một con đường quen thuộc lui tới bếp đến chỗ giặt quần áo, từ vườn ra đến sào phơi quần áo rồi quay trở lại bếp.
Bà đặt con dao lên bàn, nhìn Frank và Meggie; môi bà bỗng mím lại:
- Meggie, mẹ chỉ cho phép con mặc chiếc áo đẹp nhất vào ngày chủ nhật với một điều kiện: con không làm bẩn. Bây giờ con nhìn xem ra cái thứ gì. Đúng là một đứa trẻ dơ dáy.
- Mẹ ơi, không phải lỗi của Meggie đâu - Frank bào chữa. Chính Jack và Hughie đã giành lấy búp bê của Meggie để xem tay chân cử động như thế nào. Con có hứa với Meggie là mẹ và con sẽ chữa lại con búp bê. Làm được phải không mẹ?
- Con đưa mẹ xem - Fiona vừa nói vừa đưa tay ra. Bà là một người lặng lẽ, ít nói, và có vẻ như sống không được tự nhiên. Những gì trong đầu bà khó ai đoán biết, ngay cả chồng bà. Bà nhường quyền giáo dục các con cho chồng và tuân thủ các mệnh lệnh của chồng mà không có một phản ứng hay than phiền nào, ngoại trừ một vài trường hợp hết sức đặc biệt. Meggie nghe các anh mình nói nhỏ với nhau rằng mẹ cũng sợ ba như chúng và nếu thật thế thì mẹ đã giấu giếm cái sợ ấy dưới một lớp ngoài bình thản. Trên nét mặt ấy cũng tỏ ra một chút bướng bỉnh. Bà không bao giờ cười, cũng như không bao giờ nổi giận.
Fiona đặt con búp bê lên cái kệ gần bếp và nhìn Meggie:
- Sáng mai mẹ sẽ giặt quần áo cho Agnès và sẽ chải tóc lại. Sau buổi ăn chiều nay, anh con sẽ dán tóc và không chừng phải tắm cho nó sạch sẽ.
Meggie tỏ ra bằng lòng, nụ cười trên môi. Đôi lúc Meggie rất thèm được nghe tiếng cười của mẹ nhưng điều đó lại không bao giờ có được. Meggie cảm giác rằng mình đang chia xẻ với mẹ một điều gì đó rất đặc biệt mà cha cô và các anh không thể hiểu; thế mà cô bé vẫn không thể nào khám phá những gì chứa đựng bên trong con người mà Meggie hết lòng yêu thương.
Ngoài Frank, không một đứa con trong gia đình này hiểu được rằng Fiona luôn ở trong tâm trạng mệt mỏi, sự mệt mỏi không dễ gì vơi bớt. Có quá nhiều việc phải làm nhưng lại không có dư tiền và không đủ thìgiờ giải quyết. Bà chỉ trông cậy vào đôi taỵ Ngay bây giờ cô bé cũng đã giúp mẹ một số công việc vặt mãnh nhưng với bốn tuổi đầu, Meggie chưa đủ sức làm nhẹ bớt gánh nặng của bà. Sáu đứa con trai, chỉ có một đứa con gái, lại là con út. Những ai quen biết gia đình này đều thương hại bà nhưng điều ấy đâu có làm thay đổi được gì. Cái giỏ đựng đồ cần vá lại đầy những chiếc vớ chưa được mạng, có cả que đang dính vào một chiếc vớ khác đang dở dang. Hughie đã cao nhòng không còn mặc được những cái áo xănđai cũ; với Jack thì lại không đủ lớn để mặc áo của anh.
Title: Re: Tiếng chim hót trong bụi mận gai - Colleen McCullough. Bestseller năm 1977
Post by: Serenade24 on 13/03/07, 09:00
Post by: Serenade24 on 13/03/07, 09:00
Chương 3
Padraic Cleary - tức Pađy - có mặt ở nhà trong tuần lễ sinh nhật của Meggie là chuyện hoàn toàn tình cờ. Mùa cắt long cừu chưa đến, ông tạm làm việc gần nhà, làm đất và trồng trọt. Pađy chuyên nghề cắt lông cừu, làm thời vụ từ giữa mùa hè đến hết mùa đông, sau đó là thời gian cừu đẻ. Thông thường Pađy tìm đủ việc làm để chịu đựng qua mùa xuân và những tháng đầu mùa hè; ông phụ lo cho cừu đẻ, cày đất, vắt sữa bò, hai lần mỗi ngày ở trang trại kế bên. ông sẵn sàng đi đến bất cứ đâu miễn có việc làm, để mặc gia đình sống trong căn nhà tuy lớn nhưng có vẻ cổ xưa, một mình vợ phải tự lo liệu các thứ. ông không thể làm khác hơn vì không có đất đai riêng.
Mỗi ngày Pađy về nhà lúc mặt trời khuất bóng, đèn đã đốt lên, in rõ những cái bóng đen nhảy múa trên trần. Tập hợp ở mái hiên nhà sau, mấy đứa con trai chơi đùa với một con ếch, ngoại trừ Frank. Padraic dư biết con trai lớn của ông hiện giờ ở đâu. ông nghe rõ tiếng bửa củi đều đặn. ông dừng lại ở hiên nhà, đá vào mông Jack một cái và đưa tay xoa đầu Bob một cách thương yêu:
- Ra phụ Frank chẻ củi, đồ làm biếng. Ráng làm xong trước khi mẹ đặt bàn, bằng không tao sẽ cho một trận nên thân.
Padraic ra hiệu bằng đầu hướng về Fiona đang bận rộn bên cái chảo; ông không bao giờ ôm hôn vợ trước mặt con cái. Những biểu hiện tình cảm ấy theo ông nên giới hạn trong phòng ngủ của hai vợ chồng. Ông cởi đôi ủng dính đầy bùn; Meggie mang đến cho cha một đôi dép. Ông nở nụ cười đón lấy. Trong lòng luôn tràn ngập một tình cảm rất lạ như bị chinh phục mỗi khi nhìn thấy Meggie con gái mình. Nó xinh quá, tóc đẹp làm sao; ông cầm một loạn tóc lay nhẹ rồi thả xuống, thích thú nhìn con. Ông nhấc bổng Meggie lên rồi hai cha con cùng ngả xuống chiếc ghế bành êm ái đặt ở trong nhà bếp, đó là chiếc ghế bành thời Windsor, có lót gối dựa. Meggie nằm gọn trong lòng cha, hai tay bá vào cổ, gương mặt tươi tắn ngước lên hy vọng được đùa giỡn với trò chơi buổi tối - nhìn ánh sáng xuyên qua những sợi râu ngắn màu vàng của chạ
- Em có thấy khỏe không Fiona? - Pađy hỏi thăm vợ.
- Bình thường thôi anh ạ. Còn anh đã làm xong cái hàng rào dưới kia chưa?
- Xong rồi. Anh có thể bắt tay làm hàng rào phía trên vào sáng mai. Nhưng lạy chúa, anh mệt quá.
- Em cũng thấy anh mệt... Roberson còn giao cho anh con ngựa cá tính bất thường nữa phải không?
- Vẫn thế - Chẳng lẽ em nghĩ rằng hắn sẽ làm việc với con ngựa tồi ấy và dành cho anh một con ngựa tốt hơn sao? Tay anh rã rời cả. Hình như con ngựa cái này thuộc loại cứng đầu nhất ở Tân Tây Lan.
- Không quan trọng. Mấy con ngựa của ông già Roberson đều thuần cả. Sắp tới anh sẽ làm với lão phải không?
- Chưa làm ngay đâu.
Ông nhồi thuốc loại rẻ tiền vào cái tẩu rồi lấy một que củi mồi lửa từ trong lò đang cháy đỏ. Sau đó ông lại ngả người lên ghế bành, rít mạnh một hơi.
- Con gái nói cho ba nghe con thấy thế nào khi được bốn tuổi - Pađy hỏi con.
- Con thấy thích lắm ba ơi.
- Mẹ có cho con quà không?
- Tại sao ba và mẹ biết được Agnès mà chọn cho con?
- Agnès? (ông liếc nhìn qua Fiona, vừa mỉm cười vừa nhíu mày dò vợ). Có phải tên của nó là Agnès?
- Dạ, Nó đẹp tuyệt ba ạ. Con muốn nhìn nó suốt ngày.
- Rất may là còn lại cái gì đó để nhìn - Fiona nói bằng giọng hơi cằn nhằn. Jack và Hughie đã đoạt con búp bê trước khi Meggie có thời giờ nhìn ngắm.
- Hừ! Lại chuyện khỉ của mấy thằng con trai, phải trị chúng. Con búp bê con có hỏng nhiều hông?
- Không đến nỗi. Frank đã bắt gặp hai đứa kịp lúc.
- Frank? Làm sao nó lại có mặt ở đó? Nó phải ở dưới lò rèn suốt ngày kia mà. Humter chờ nó làm xong cái cánh cửa nhỏ.
- Đúng là nó ở lò rèn suốt ngày - Fiona trả lời ngaỵ Nó chỉ lên nhà thoáng một cái để lấy cái gì đó cần cho công việc. Pađy quả rất khắc nghiệt với Frank.
- Ba ơi! Anh Frank dễ thương lắm. Không có anh ấy, Agnès đã chết rồi... Sau bữa cơm, anh Frank sẽ dán lại tóc trên đầu con búp bê cho con.
- Vậy thì tốt. Pađy nói lầm nhầm bằng một giọng mỏi mệt.
Mấy đứa con của ông đều có tóc màu hung dày và lượn sóng, tuy vậy không có đứa nào màu tóc lại rực sáng dữ dội như ông. Pađy thấp người, chắc như thép, chân vòng kiềng do cả đời ngồi trên lưng ngựa, hai cánh tay dài ra sau những năm làm công việc cắt lông cừu; ngực và hai cánh tay che phủ bởi một lớp lông màu vàng. Đôi mắt màu xanh và thường nheo lại như người thủy thủ hướng tầm nhìn ra xa. Gương mặt ông không có gì là kiểu cách lại dễ gây cảm tình. Mũi tuyệt đẹp, đúng là mũi rômanh, khiến cho những người đồng hương ái Nhĩ Lan của ông phải ghen tức. Ông vẫn còn giữ được giọng nói dịu dàng của vùng Galway, nhưng sau hai mươi năm sống ở miền đất xa xôi này ông không còn nói năng nhanh nhẩu như xưa, giống như một cái đồng hồ treo tường cũ kỹ cần được lên dây lại. Một người hạnh phúc vì đã thành công trong cuộc sống lao động gay go vẫn xứng đáng hơn nhiều người khác và mặc dù cai quản cằn nhà này bằng một thứ kỷ luật sắt, ông vẫn được con cái yêu thương, ngoại trừ một đứa. Nếu không đủ bánh mì cho mọi người, ông nhịn ăn; nếu phải chọn lựa giữa quần áo mới cho bản thân hay cho một đứa con nào đó, ông bằng lòng mặc quần áo cũ. Theo cách của ông, đó là một bằng chứng biểu thị tình thương dành cho con, cụ thể hơn hàng biết bao nhiều cái hôn dễ dàng ban phát. Ông dễ nóng giận và đã từng giết người. Nhưng sự may mắn đã nghiêng về phía ông hôm đó; nạn nhân là một người Anh chủ nhân chiếc tàu đậu ở cảng Dun Lacghaize.
Fiona xuất hiện ở ngưỡng cửa sau và nói lớn:
- Vào bàn ăn.
Mấy cậu con trai lần lượt bước vào; người cuối cùng là Frank, tay ôm bó củi đến đặt vào chiếc thùng bên cạnh lò sưởi. Pađy để Meggie đứng xuống rồi đến ngồi ở đầu bàn. Riêng Meggie ngồi trên một cái thùng gỗ đặt bên cạnh cha. Fiona chia thức ăn vào dĩa một cách nhanh và gọn như một người phục vụ chuyên nghiệp, rồi mang mỗi lượt hai dĩa cho gia đình, trước hết cho Pađy rồi đến Frank, người sau cùng là Meggie. Bà lo cho mình khi mọi người đã có phần.
- Lại cái món ragu chán chết! Stuart cằn nhằn; hai tay cầm dao và nĩa nhưng mặt mày nhăn nhó.
- Ăn đi! Pađy ra lệnh.
Fiona cũng ngồi vào bàn và nuốt nhanh phần ăn của mình. Rồi bà đứng lên đặt đầy bánh vào những cái dĩa mới. Đó là những bánh bích qui do bà làm, bên trên rưới đường, mứt và một loại kem. Cũng chính bà mang một lượt hai dĩa lên bàn. Khi xong đâu đấy rồi, Fiona mới ngồi thở và bắt đầu ăn phần tráng miệng không có gì vội vã.
- Ngon quá! Meggie la to lên. Bánh ngon quá!
Cô bé cắm sâu chiếc muỗng qua lớp kem.
- Bữa ăn này là mừng sinh nhật của con đó Meggie - Pađy vui vẻ nói - Do đó mẹ đã làm món tráng miệng mà con thích nhất.
Sau đó Fiona mang ra một chiếc ấm thật lớn rồi rót cho mỗi người một tách trà bốc hơi. Cả gia đình ngồi lại ở bàn nói chuyện, uống trà hoặc đọc sách khoảng một tiếng đồng hồ nữa. Pađy ngậm ống vố, đầu nghiêng xuống đọc quyển sách vừa mượn của thư viện lưu động. Fiona cứ lo châm đầy trà vào mấy chiếc tách trong khi Bob cũng đọc. Những đứa con khác nhỏ hơn chuẩn bị cho thời khóa biểu ngày mai.
Nhà trường đã trả học sinh về trong dịp nghỉ hè; các cậu con trai được tự do tỏ ra rất hăng hái đảm nhận công việc được giao. Bob sơn phết lại bên ngoài căn nhà, chỉ những nơi cần thiết; Jack và Hughie đi kiếm gỗ về để làm củi, chăm sóc những phần phụ thuộc của nhà và vắt sửa; Stuart trồng rau. Thỉnh thoảng Pađy ngưng đọc sách ngẩng đầu lên để bổ sung thêm cho ai đó một công việc. Phần Fiona thì chẳng nói một lời, còn Frank ngồi im trên ghế uống hết tách trà này sang tách trà khác.
Cuối cùng Fiona đưa mắt ra hiệu gọi Meggie đến ngồi trên một cái ghế cao, bà chải tóc cho con gái, rồi bảo Meggie đi ngủ, cùng lúc với Stuart và Hughiẹ Jack và Bob xin đi ra ngoài cho chó ăn; Frank đặt con búp bê trên tấm ván kê làm bàn viết và bắt đầu dán lại tóc cho nó. Pađy vươn vai, gấp sách lại rồi đặt cái ống vố trên chiếc ghế vỏ ốc lớn được dùng làm gạt tàn thuốc.
- Thôi, tôi đi ngủ nha mẹ chúng nó.
- Chúc anh ngủ ngon, Pađy.
Fiona dọn dẹp thật nhanh, chén dĩa mang ra sau bếp rồi bắt đầu ngồi rửa. Frank vùi đầu vào việc sửa con búp bê. Nhưng khi liếc nhìn chồng dĩa cao ngất, cậu ta bật dậy và không nói một lời đi lấy nùi giẻ phụ mẹ. Frank biết rằng nếu bị cha mình bắt gặp thì ông không tha đâu. Ông phân công rất dứt khoát: đàn ông con trai không được rớ vào công việc của đàn bà. Biết thế, nhưng Frank vẫn chờ cha mình vừa đi nghỉ là bắt tay vào phụ mẹ. Fiona trìu mến nhìn con trai lớn:
- Frank à, không có con mẹ không biết sẽ xoay sở ra sao. Nhưng đáng lý con không nên nhúng tay vào. Sáng mai con sẽ mệt...
- Mẹ đừng lo. Rửa vài cái dĩa chẳng hao tốn bao nhiêu sức. Giúp mẹ đỡ mệt một chút đâu phải là chuyện lớn.
- Công việc này là của mẹ, và chẳng có gì vất vả đâu Frank ạ.
- Con mong ngày nào đó nhà mình giàu có để có thể mướn thêm người phụ mẹ.
- Con đừng mơ chuyện hão huyền.
Với tay lấy miếng giẻ, bà lau hai bàn tay ửng đỏ đầy xà phòng. Khi nhìn Frank, trong đôi mắt của bà chứa đựng một nỗi âu lo mông lung. Bà đoán ra sự bất mãn của con và nỗi cay đắng vượt qua mức độ nổi loạn bình thường của một người lao động với số phận của mình.
- Frank, con không nên có những ước muốn điên rồ. Nó chỉ gây phiền lụy cho con. Chúng ta thuộc tầng lớp cùng cực có nghĩa là chẳng bao giờ giàu và cũng không có đầy tớ đâu con ạ. Con hãy bằng lòng với chính con và những gì con có. Khi con nói ra những chuyện như thế con đã làm nhục cha con đó. Ông không uống rượu, không chơi bời, ngượi lại làm việc rất cực nhọc vì chúng ta. Ông không giữ riêng một xu cho ông, tất cả cho chúng ta đấy thôi.
Đôi vai gân guốc của Frank nhúm lại, nét mặt sa sầm xuống:
- Mẹ ạ, nhưng tại sao muốn thoát khỏi số phần của mình lại bị trách cứ? Con không thấy điều gì xấu nếu con mong cho mẹ có được một người giúp việc để mẹ bớt cực.
- Điều đó chưa phải tốt đâu con, vì nó không xảy ra như thế! Con biết gia đình mình không đủ tiền để lo cho con học tiếp và khi con không tiếp tục đến trường thì làm thế nào con có thể tránh được cái số phận của một người lao động cực nhọc... Giọng nói, cách ăn mặc, hai bàn tay chai của con đã cho thấy con phải lao động mới nuôi sống được mình. Không có gì là nhục khi có hai bàn tay chai. Cũng như cha con thường nói: khi có một người có hai bàn tay như thế thì ai cũng biết ngay đó là một người lương thiện.
Frank nhún vai không nói.
Anh đứng dậy đặt con búp bê bằng sứ trên đầu tủ buýp phê, phía sau hộp bánh bích quỵ Anh không sợ mấy thằng em trai có những hành động phá hoại lần thứ hai; chúng ngán Frank nổi giận hơn là cha vì rằng bản chất của Frank có một chút hung dữ. Nhưng cái tính xấu ấy không bao giờ Frank lộ ra khi anh ở bên cạnh mẹ hay cô em gái Meggie.
Fiona nhìn Frank mà lòng đau nhói; dường như ở Frank có cái gì đó cô đơn và tuyệt vọng và biết bao nhiều điều băn khoăn vây hãm. Phải chi Pađy và Frank hòa thuận! Nhưng cả hai đều không nhìn mọi sự việc dưới con mắt giống nhau. Họ hục hặc nhau thường xuyên.
Ngoại trừ một lần được đi chơi ở Wahine cách đây tám tháng. Meggie chưa bao giờ đi xa hơn nhà kho và cái lò rèn ở dưới thung lũng. Cho nên sáng đầu tiên Meggie đi học ở trường, cô bị căng thẳng đến đỗi nôn ra ngoài những gì đã ăn sáng. Thế là Meggie được bế về phòng ngủ, tắm rửa sạch sẽ và thay một bộ đồ khác. Bộ quần áo mới màu xanh đậm với cổ màu trắng theo kiểu lính thủy, được thay bằng một cái áo choàng màu nâu xấu xí với hàng nút cài trên cổ rất cao, khiến Meggie có cảm giác như bị nghẹt thở.
Bob, Jack, Hughie và Stuart vừa chạy vừa nhảy cò cò đã ra tới ngoài cổng. Lúc đó Fiona mới lo xong cho Meggie, bà thúc hối con gái mang theo thức ăn sáng, bánh mì xăng-uých phết mứt, bỏ vào chiếc cặp cũ.
- Mau lên Meggie, mọi người trễ hết đấy. Bob ra đến đường quay đầu lại la lớn.
Meggie chạy theo mấy anh đang khuất dần xa xa.
Từ nhà của họ Cleary đến thị trến Wahine khoảng chừng tám cây số.
Meggie nhìn cột cây số chỉ đường mà chân tay rụng rời. Tai của Bob lắng nghe tiếng chuông trường đã đổ chưa, còn mắt thì liếc sang Meggie đầy băn khoăn; cô bé đi bước thấp bước cao, thỉnh thoảng lại thở ra mệt nhọc. Dưới mái tóc dày màu hung, gương mặt đỏ hồng của Meggie bỗng trở nên nhợt nhạt. Bob giao chiếc cặp của mình cho Jack rồi đến bên em gái:
- Meggie, em ngồi lên lưng anh, anh cõng em đi cho nhanh.
Bây giờ thì Meggie có thể khám phá Wahine trong tư thế thoải mái.
Wahine chẳng có gì nhiều để xem. Không rộn rịp bằng một thị trấn lớn, nhà cửa trải đều hai bên con đường chính tráng nhựa. Khách sạn là tòa nhà đáng chú ý nhất cũng chỉ có một tầng với một tấm lợp bằng vải chịu trên hai cây trụ nhô ra sát đường để che nắng. Cửa hàng bách hóa là nơi đáng chú ý kế đó. Thị trấn chưa có một nhà chứa xe, ô tô ở đây còn rất hiếm. Trường học và Nhà thờ Anh quốc giáo đang được xây kế bên nhau, đối diện với nhà thờ Thánh Tâm và trường của giáo xứ.
Khi anh em Cleary đi ngang cửa hàng bách hóa thì chuông trường của giáo xứ vừa đổ, sau đó là chuông trường của thị trấn. Họ bước nhanh hơn vào sân trường kịp lúc năm mươi học sinh khác bắt đầu xếp hàng trước một nữ tu thấp người, tay cầm một cây roi mây dài. Đó là xơ Agatha.
Không bị lôi cuốn bởi những tiếng cười đùa khúc khích của đám học sinh, Bob và các em mình đứng nghiêm trang rồi lần lượt đi theo hàng vào lớp trong tiếng hát Niềm tin của các Thánh Tổ phụ của chúng ta, xơ Catherine đệm dương cầm. Khi học sinh cuối cùng vào lớp, xơ Agatha mới rời khỏi vị trí của mình. Bà đi thẳng đến anh em Cleary.
Meggia chưa bao giờ được nhìn thấy một nữ tu, nên miệng há hốc ra.
- Này Robert Cleary, tại sao em đi trễ? Giọng nói của xơ Agatha khô khan như hét lên.
- Thưa dì, con xin lỗi - Bob trả lời vụng về, mắt dán chặt vào cây roi mây đung đưa sau lưng xơ Agatha.
- Tại sao các em đi trễ? Bà hỏi gặng lần nữa.
- Con xin lỗi xơ
- Hôm nay là ngày tựu trường, Robert Cleary; tôi nghĩ rằng vào một dịp như thế, các em phải ráng đi học đúng giờ chứ?
Meggie run sợ, tập trung can đảm rồi lên tiếng:
- Thưa xơ, đó là lỗi của con - Tiếng nói nhỏ như thì thầm và tắt nghẽn trong cổ.
Cặp mắt màu xanh đầy đe dọa rời khỏi Bob, chuyển sang hướng Meggie tưởng như xuyên thủng vào tận tim cô bé, trong khi đó Meggie vẫn hồn nhiên giương đôi mắt nhìn vị nữ tu, hoàn toàn không ý thức rằng mình vừa phạm một sơ hở.
- Tại sao lại lỗi của cô? - Vị nữ tu hỏi Meggie bằng một giọng lạnh lùng chưa bao giờ Meggie được nghe.
- Dạ thưa, con nôn ra đầy bàn, làm lấm cả quần áo. Mẹ con phải lau rửa và thay quần áo khác cho con, do đó chúng con bị trễ - Meggie giải thích một cách vụng về.
Nét mặt của xơ Agatha không hề thay đổi nhưng miệng mím chặt lại như một cái lò xo bị căng ra quá sức, còn đầu ngọn roi thì hạ thấp xuống vài centimét.
- Chuyện gì thế? Bà hỏi Bob như nói với một loại sâu bọ vô cùng kinh tởm như chưa từng có trong danh mục khoa hoc.
- Xin xơ tha lỗi cho. Đây là Meghann, em gái của con.
- Nghe đây nhé, phải cho cô em gái của cậu biết có những chuyện mà những người có lễ giáo không bao giờ nói đến. Trong mọi trường hợp, chúng ta không đề cập đến bất cứ một món quần áo lót nào. Không bao giờ và không bao giờ. Tất cả những đứa trẻ con nhà đàng hoàng đều phải hiểu điều ấy. Đưa tay ra, tất cả.
- Nhưng thưa xơ, lỗi của con mà! Meggie kêu lên.
- Im ngay! Agatha quay qua Meggie ra lệnh - Tôi không cần biết ai là thủ phạm. Tất cả đều đi trễ, vậy tất cả phải bị phạt. - Sáu roi.
Bà kết án bằng giọng đều đều, chứa đựng sự đắc ý.
Meggie hốt hoảng nhìn hai bàn tay không nhúc nhích của Bob, rồi nghe tiếng rít của cây roi dài quất xuống nhanh đến nỗi mắt Meggie không theo kịp. Tiếng voi vang lên khi đụng vào bàn tay, nơi da thịt mỏng và mềm. Những đường dàiđỏ ửng nổi lên ngay; lần đánh sau trúng gần ngón tay và lần chót trúng ngay các đầu ngón tay đau thốn tới óc. Xơ Agatha sử dụng cây roi một cách đặc biệt chính xác. Thêm ba roi nữa quất xuống dưới tay bên kia của Bob, rồi bà quay sang Jack. Mặt Bob tái nhợt nhưng không một tiếng rên. Và xơ Agatha đã dùng cách đánh ấy với các đứa em trai của Bob, kể cả Stuart hiền hậu và dịu dàng nhất. Tất cả không một tiếng rên. Đến Meggie, cô bé nhắm mắt lại khi ngọn roi giơ lên cao và không thấy nó sa xuống lúc nào. Nhưng sự đau đớn thật dữ dội, da thịt như bị xé ra và nhức thấu xương. Rồi ngọn roi thứ hai quất xuống; cơn đau lên đến vai thì ngọn roi thứ ba và thứ tư tiếp theo, trúng ngay những đầu ngón tay. Meggie cắn môi đến khi rướm máu, và cảm thấy xấu hổ khi bật ra tiếng khóc. Tức giận phẫn nộ trước một sự bất công như thế, Meggie mở lớn đôi mắt nhìn xơ Agatha. Đó là bài học đầu tiên của cô bé, bài học không chứa đựng những điều mà đáng ra vị nữ tu phải đưa vào.
Mãi cho đến giờ ăn trưa, hai bàn tay Meggie mới có thể hoạt động lại bình thường. Meggie đã trải qua một buổi sáng đầy sợ hãi sửng sốt về những gì đã xảy ra, đã nghe thấy. Ngồi trước chiếc bàn có hai ghế, ở tận cùng phòng học, Meggie cũng không chú ý người bạn cùng bàn mình là ai. Cô bé trải qua giờ cơm trưa buồn bã.
Khi tiếng chuông báo hiệu tiết học trưa bắt đầu, Meggie tìm một chỗ đứng vào hàng, lúc ấy cô bé mới nhận ra những gì chung quanh. Nỗi xấu hổ bị phạt chưa vơi nhưng cô bé vẫn ngẩng cao đầu và làm như không nghe những tiếng xì xào trong đám bạn nhỏ cùng lớp, cũng như không để ý đến những chiếc cùi chỏ thúc vào nhau.
Xơ Agatha đứng oai vệ trước học sinh với cây roi dài trong tay; xơ Declan đi đi lại lại ở cuối hàng. Xơ Catherine ngồi trước đàn dương cầm bắt đầu đánh bản: Hãy tiến lên, các con chiên của Chúa. Các cô cậu dễ thương này đi đều bước như những người lính nhỏ - xơ Catherine thầm nghĩ như thế với tất cả niềm kiêu hãnh.
Trong ba nữ tu, xơ Declan là mẫu chép nguyên bản của xơ Agatha với mười lăm tuổi nhỏ hơn, chỉ có xơ Catherine thì còn có chút gì nhân từ.
Ở hàng ghế cuối lớp, Meggie liều lĩnh liếc mắt nhìn sang cô bạn gái nhỏ ngồi chung bàn với mình. Một nụ cười sún răng đáp lại. Đôi mắt đen tròn làm gương mặt u buồn trở nên rực sáng. Cô bé thu hút Meggie có màu tóc đỏ hoe, gương mặt đầy những vết tàn nhang.
- Bạn tên gì? Cô bé có vẻ đẹp buồn hỏi Meggie, miệng cắn đầu cây bút chì.
- Meggie Cleary - tiếng trả lời của Meggie thật nhỏ.
- Hai em đằng kia! một giọng khô khan vang lên từ đầu lớp.
Meggie giật thót người, nhìn dáo dác xung quanh hoảng sợ, tim cô bé như va chạm vào lồng ngực. Meggie nhận ra là cả lớp đang nhìn mình. Xơ Agatha bước xuống đi thẳng đến Meggiẹ Sự sợ hãi khiến Meggie mong chờ một phép lạ nào giúp mình biến mất, hoặc phải co chân chạy ngay khỏi nơi này. Phía sau là bức tường, hai bên là những bàn học, còn trước mặt là xơ Agatha.
- Meghann Cleary, em đã nói chuyện.
- Thưa xơ, vâng.
- Em nói gì đấy?
- Tên con, thưa xợ
- Tên em? Xơ Agatha lặp lại bằng giọng chế diễu vừa đảo mắt nhìn khắp lớp, như muốn giải thích những lời lên án của mình.
- Này các em, hết chuyện rồi! Thêm một thành viên của gia đình Cleary mang lại vinh dự cho trường của chúng ta bằng sự hiện diện của họ. Do đó cô ta phải loan báo một cách ầm ĩ tên mình (rồi xơ quay lại phía Meggie). Đứng lên! Em phải đứng lên khi tôi đang nói với em, đồ con nhỏ rừng rú! Đưa hai tay ra.
Meggie bước nhanh ra khỏi hàng ghế, những lọn tóc dài tung lên rồi rơi xuống che khuất một phần gương mặt. Cô bé vặn chéo hai tay một cách tuyệt vọng nhưng xơ Agatha vẫn không nhúc nhích, bà ta cứ chờ, cứ chờ, cứ chờ... Sau cùng Meggie tìm được chút gan dạ chìa lòng bàn tay ra. Nhưng ngay lúc cây mây đập xuống, cô bé rút bàn tay lại thật nhanh vừa thở hổn hển, mặt xanh như cắt. Xơ Agatha chụp lấy và kéo chùm tóc hung về phía bà, gương mặt của Meggie áp sát vào cặp kính của bà.
- Đưa tay ra, Meghann Cleary - xơ Agatha ra lệnh, giọng lịch sự nhưng lạnh lùng và quyết liệt.
Meggie há miệng ra và nôn cả buổi ăn trưa lên chiếc áo dài của xơ Agatha. Tiếp đó là tiếng hét kinh hãi của học sinh trong lớp; trong khi đó xơ Agatha trố mắt nhìn những thứ gớm ghiếc vừa nôn ra chảy dài từ trên xuống theo những đường xếp của chiếc áo. Mặt bà đỏ gay vì tức giận điên người cùng với chút kinh hãi. Cây mây quất xuống không cần biết nhắm vào đâu, Meggie đưa hai tay lên che mặt rồi chạy trốn vào một góc lớp, miệng vẫn tiếp tục nôn mửa. Xơ Agatha đã mỏi mệt không thèm đánh nữa, bà chỉ ra cửa:
- Ra khỏi đây! Về nhà của mày đi, đồ thất học đáng ghê tởm.
Rồi bà quay phắt lại bước sang lớp học của xơ Declan.
Đôi mắt luống cuống của Meggie tìm thấy Stuart, người anh học chung lớp ra hiệu cô phải vâng lời. Cái nhìn hiền hòa của Stuart đầy thương hại và thông cảm với Meggiẹ Cô bé lấy khăn tay chùi miệng và khập khiễng bước ra khỏi lớp. Còn những hai tiếng đồng hồ nữa mới hết giờ học; Meggie rời sân trường như một cái máy đi xuống đường và biết rằng các anh mình sẽ không theo kịp. Vì quá sợ hãi, Meggie không biết phải đứng lại nơi nào để chờ các anh; Meggie muốn về trước một mình và chỉ một mình thôi để kể với mẹ tất cả những gì xảy ra.
Padraic Cleary - tức Pađy - có mặt ở nhà trong tuần lễ sinh nhật của Meggie là chuyện hoàn toàn tình cờ. Mùa cắt long cừu chưa đến, ông tạm làm việc gần nhà, làm đất và trồng trọt. Pađy chuyên nghề cắt lông cừu, làm thời vụ từ giữa mùa hè đến hết mùa đông, sau đó là thời gian cừu đẻ. Thông thường Pađy tìm đủ việc làm để chịu đựng qua mùa xuân và những tháng đầu mùa hè; ông phụ lo cho cừu đẻ, cày đất, vắt sữa bò, hai lần mỗi ngày ở trang trại kế bên. ông sẵn sàng đi đến bất cứ đâu miễn có việc làm, để mặc gia đình sống trong căn nhà tuy lớn nhưng có vẻ cổ xưa, một mình vợ phải tự lo liệu các thứ. ông không thể làm khác hơn vì không có đất đai riêng.
Mỗi ngày Pađy về nhà lúc mặt trời khuất bóng, đèn đã đốt lên, in rõ những cái bóng đen nhảy múa trên trần. Tập hợp ở mái hiên nhà sau, mấy đứa con trai chơi đùa với một con ếch, ngoại trừ Frank. Padraic dư biết con trai lớn của ông hiện giờ ở đâu. ông nghe rõ tiếng bửa củi đều đặn. ông dừng lại ở hiên nhà, đá vào mông Jack một cái và đưa tay xoa đầu Bob một cách thương yêu:
- Ra phụ Frank chẻ củi, đồ làm biếng. Ráng làm xong trước khi mẹ đặt bàn, bằng không tao sẽ cho một trận nên thân.
Padraic ra hiệu bằng đầu hướng về Fiona đang bận rộn bên cái chảo; ông không bao giờ ôm hôn vợ trước mặt con cái. Những biểu hiện tình cảm ấy theo ông nên giới hạn trong phòng ngủ của hai vợ chồng. Ông cởi đôi ủng dính đầy bùn; Meggie mang đến cho cha một đôi dép. Ông nở nụ cười đón lấy. Trong lòng luôn tràn ngập một tình cảm rất lạ như bị chinh phục mỗi khi nhìn thấy Meggie con gái mình. Nó xinh quá, tóc đẹp làm sao; ông cầm một loạn tóc lay nhẹ rồi thả xuống, thích thú nhìn con. Ông nhấc bổng Meggie lên rồi hai cha con cùng ngả xuống chiếc ghế bành êm ái đặt ở trong nhà bếp, đó là chiếc ghế bành thời Windsor, có lót gối dựa. Meggie nằm gọn trong lòng cha, hai tay bá vào cổ, gương mặt tươi tắn ngước lên hy vọng được đùa giỡn với trò chơi buổi tối - nhìn ánh sáng xuyên qua những sợi râu ngắn màu vàng của chạ
- Em có thấy khỏe không Fiona? - Pađy hỏi thăm vợ.
- Bình thường thôi anh ạ. Còn anh đã làm xong cái hàng rào dưới kia chưa?
- Xong rồi. Anh có thể bắt tay làm hàng rào phía trên vào sáng mai. Nhưng lạy chúa, anh mệt quá.
- Em cũng thấy anh mệt... Roberson còn giao cho anh con ngựa cá tính bất thường nữa phải không?
- Vẫn thế - Chẳng lẽ em nghĩ rằng hắn sẽ làm việc với con ngựa tồi ấy và dành cho anh một con ngựa tốt hơn sao? Tay anh rã rời cả. Hình như con ngựa cái này thuộc loại cứng đầu nhất ở Tân Tây Lan.
- Không quan trọng. Mấy con ngựa của ông già Roberson đều thuần cả. Sắp tới anh sẽ làm với lão phải không?
- Chưa làm ngay đâu.
Ông nhồi thuốc loại rẻ tiền vào cái tẩu rồi lấy một que củi mồi lửa từ trong lò đang cháy đỏ. Sau đó ông lại ngả người lên ghế bành, rít mạnh một hơi.
- Con gái nói cho ba nghe con thấy thế nào khi được bốn tuổi - Pađy hỏi con.
- Con thấy thích lắm ba ơi.
- Mẹ có cho con quà không?
- Tại sao ba và mẹ biết được Agnès mà chọn cho con?
- Agnès? (ông liếc nhìn qua Fiona, vừa mỉm cười vừa nhíu mày dò vợ). Có phải tên của nó là Agnès?
- Dạ, Nó đẹp tuyệt ba ạ. Con muốn nhìn nó suốt ngày.
- Rất may là còn lại cái gì đó để nhìn - Fiona nói bằng giọng hơi cằn nhằn. Jack và Hughie đã đoạt con búp bê trước khi Meggie có thời giờ nhìn ngắm.
- Hừ! Lại chuyện khỉ của mấy thằng con trai, phải trị chúng. Con búp bê con có hỏng nhiều hông?
- Không đến nỗi. Frank đã bắt gặp hai đứa kịp lúc.
- Frank? Làm sao nó lại có mặt ở đó? Nó phải ở dưới lò rèn suốt ngày kia mà. Humter chờ nó làm xong cái cánh cửa nhỏ.
- Đúng là nó ở lò rèn suốt ngày - Fiona trả lời ngaỵ Nó chỉ lên nhà thoáng một cái để lấy cái gì đó cần cho công việc. Pađy quả rất khắc nghiệt với Frank.
- Ba ơi! Anh Frank dễ thương lắm. Không có anh ấy, Agnès đã chết rồi... Sau bữa cơm, anh Frank sẽ dán lại tóc trên đầu con búp bê cho con.
- Vậy thì tốt. Pađy nói lầm nhầm bằng một giọng mỏi mệt.
Mấy đứa con của ông đều có tóc màu hung dày và lượn sóng, tuy vậy không có đứa nào màu tóc lại rực sáng dữ dội như ông. Pađy thấp người, chắc như thép, chân vòng kiềng do cả đời ngồi trên lưng ngựa, hai cánh tay dài ra sau những năm làm công việc cắt lông cừu; ngực và hai cánh tay che phủ bởi một lớp lông màu vàng. Đôi mắt màu xanh và thường nheo lại như người thủy thủ hướng tầm nhìn ra xa. Gương mặt ông không có gì là kiểu cách lại dễ gây cảm tình. Mũi tuyệt đẹp, đúng là mũi rômanh, khiến cho những người đồng hương ái Nhĩ Lan của ông phải ghen tức. Ông vẫn còn giữ được giọng nói dịu dàng của vùng Galway, nhưng sau hai mươi năm sống ở miền đất xa xôi này ông không còn nói năng nhanh nhẩu như xưa, giống như một cái đồng hồ treo tường cũ kỹ cần được lên dây lại. Một người hạnh phúc vì đã thành công trong cuộc sống lao động gay go vẫn xứng đáng hơn nhiều người khác và mặc dù cai quản cằn nhà này bằng một thứ kỷ luật sắt, ông vẫn được con cái yêu thương, ngoại trừ một đứa. Nếu không đủ bánh mì cho mọi người, ông nhịn ăn; nếu phải chọn lựa giữa quần áo mới cho bản thân hay cho một đứa con nào đó, ông bằng lòng mặc quần áo cũ. Theo cách của ông, đó là một bằng chứng biểu thị tình thương dành cho con, cụ thể hơn hàng biết bao nhiều cái hôn dễ dàng ban phát. Ông dễ nóng giận và đã từng giết người. Nhưng sự may mắn đã nghiêng về phía ông hôm đó; nạn nhân là một người Anh chủ nhân chiếc tàu đậu ở cảng Dun Lacghaize.
Fiona xuất hiện ở ngưỡng cửa sau và nói lớn:
- Vào bàn ăn.
Mấy cậu con trai lần lượt bước vào; người cuối cùng là Frank, tay ôm bó củi đến đặt vào chiếc thùng bên cạnh lò sưởi. Pađy để Meggie đứng xuống rồi đến ngồi ở đầu bàn. Riêng Meggie ngồi trên một cái thùng gỗ đặt bên cạnh cha. Fiona chia thức ăn vào dĩa một cách nhanh và gọn như một người phục vụ chuyên nghiệp, rồi mang mỗi lượt hai dĩa cho gia đình, trước hết cho Pađy rồi đến Frank, người sau cùng là Meggie. Bà lo cho mình khi mọi người đã có phần.
- Lại cái món ragu chán chết! Stuart cằn nhằn; hai tay cầm dao và nĩa nhưng mặt mày nhăn nhó.
- Ăn đi! Pađy ra lệnh.
Fiona cũng ngồi vào bàn và nuốt nhanh phần ăn của mình. Rồi bà đứng lên đặt đầy bánh vào những cái dĩa mới. Đó là những bánh bích qui do bà làm, bên trên rưới đường, mứt và một loại kem. Cũng chính bà mang một lượt hai dĩa lên bàn. Khi xong đâu đấy rồi, Fiona mới ngồi thở và bắt đầu ăn phần tráng miệng không có gì vội vã.
- Ngon quá! Meggie la to lên. Bánh ngon quá!
Cô bé cắm sâu chiếc muỗng qua lớp kem.
- Bữa ăn này là mừng sinh nhật của con đó Meggie - Pađy vui vẻ nói - Do đó mẹ đã làm món tráng miệng mà con thích nhất.
Sau đó Fiona mang ra một chiếc ấm thật lớn rồi rót cho mỗi người một tách trà bốc hơi. Cả gia đình ngồi lại ở bàn nói chuyện, uống trà hoặc đọc sách khoảng một tiếng đồng hồ nữa. Pađy ngậm ống vố, đầu nghiêng xuống đọc quyển sách vừa mượn của thư viện lưu động. Fiona cứ lo châm đầy trà vào mấy chiếc tách trong khi Bob cũng đọc. Những đứa con khác nhỏ hơn chuẩn bị cho thời khóa biểu ngày mai.
Nhà trường đã trả học sinh về trong dịp nghỉ hè; các cậu con trai được tự do tỏ ra rất hăng hái đảm nhận công việc được giao. Bob sơn phết lại bên ngoài căn nhà, chỉ những nơi cần thiết; Jack và Hughie đi kiếm gỗ về để làm củi, chăm sóc những phần phụ thuộc của nhà và vắt sửa; Stuart trồng rau. Thỉnh thoảng Pađy ngưng đọc sách ngẩng đầu lên để bổ sung thêm cho ai đó một công việc. Phần Fiona thì chẳng nói một lời, còn Frank ngồi im trên ghế uống hết tách trà này sang tách trà khác.
Cuối cùng Fiona đưa mắt ra hiệu gọi Meggie đến ngồi trên một cái ghế cao, bà chải tóc cho con gái, rồi bảo Meggie đi ngủ, cùng lúc với Stuart và Hughiẹ Jack và Bob xin đi ra ngoài cho chó ăn; Frank đặt con búp bê trên tấm ván kê làm bàn viết và bắt đầu dán lại tóc cho nó. Pađy vươn vai, gấp sách lại rồi đặt cái ống vố trên chiếc ghế vỏ ốc lớn được dùng làm gạt tàn thuốc.
- Thôi, tôi đi ngủ nha mẹ chúng nó.
- Chúc anh ngủ ngon, Pađy.
Fiona dọn dẹp thật nhanh, chén dĩa mang ra sau bếp rồi bắt đầu ngồi rửa. Frank vùi đầu vào việc sửa con búp bê. Nhưng khi liếc nhìn chồng dĩa cao ngất, cậu ta bật dậy và không nói một lời đi lấy nùi giẻ phụ mẹ. Frank biết rằng nếu bị cha mình bắt gặp thì ông không tha đâu. Ông phân công rất dứt khoát: đàn ông con trai không được rớ vào công việc của đàn bà. Biết thế, nhưng Frank vẫn chờ cha mình vừa đi nghỉ là bắt tay vào phụ mẹ. Fiona trìu mến nhìn con trai lớn:
- Frank à, không có con mẹ không biết sẽ xoay sở ra sao. Nhưng đáng lý con không nên nhúng tay vào. Sáng mai con sẽ mệt...
- Mẹ đừng lo. Rửa vài cái dĩa chẳng hao tốn bao nhiêu sức. Giúp mẹ đỡ mệt một chút đâu phải là chuyện lớn.
- Công việc này là của mẹ, và chẳng có gì vất vả đâu Frank ạ.
- Con mong ngày nào đó nhà mình giàu có để có thể mướn thêm người phụ mẹ.
- Con đừng mơ chuyện hão huyền.
Với tay lấy miếng giẻ, bà lau hai bàn tay ửng đỏ đầy xà phòng. Khi nhìn Frank, trong đôi mắt của bà chứa đựng một nỗi âu lo mông lung. Bà đoán ra sự bất mãn của con và nỗi cay đắng vượt qua mức độ nổi loạn bình thường của một người lao động với số phận của mình.
- Frank, con không nên có những ước muốn điên rồ. Nó chỉ gây phiền lụy cho con. Chúng ta thuộc tầng lớp cùng cực có nghĩa là chẳng bao giờ giàu và cũng không có đầy tớ đâu con ạ. Con hãy bằng lòng với chính con và những gì con có. Khi con nói ra những chuyện như thế con đã làm nhục cha con đó. Ông không uống rượu, không chơi bời, ngượi lại làm việc rất cực nhọc vì chúng ta. Ông không giữ riêng một xu cho ông, tất cả cho chúng ta đấy thôi.
Đôi vai gân guốc của Frank nhúm lại, nét mặt sa sầm xuống:
- Mẹ ạ, nhưng tại sao muốn thoát khỏi số phần của mình lại bị trách cứ? Con không thấy điều gì xấu nếu con mong cho mẹ có được một người giúp việc để mẹ bớt cực.
- Điều đó chưa phải tốt đâu con, vì nó không xảy ra như thế! Con biết gia đình mình không đủ tiền để lo cho con học tiếp và khi con không tiếp tục đến trường thì làm thế nào con có thể tránh được cái số phận của một người lao động cực nhọc... Giọng nói, cách ăn mặc, hai bàn tay chai của con đã cho thấy con phải lao động mới nuôi sống được mình. Không có gì là nhục khi có hai bàn tay chai. Cũng như cha con thường nói: khi có một người có hai bàn tay như thế thì ai cũng biết ngay đó là một người lương thiện.
Frank nhún vai không nói.
Anh đứng dậy đặt con búp bê bằng sứ trên đầu tủ buýp phê, phía sau hộp bánh bích quỵ Anh không sợ mấy thằng em trai có những hành động phá hoại lần thứ hai; chúng ngán Frank nổi giận hơn là cha vì rằng bản chất của Frank có một chút hung dữ. Nhưng cái tính xấu ấy không bao giờ Frank lộ ra khi anh ở bên cạnh mẹ hay cô em gái Meggie.
Fiona nhìn Frank mà lòng đau nhói; dường như ở Frank có cái gì đó cô đơn và tuyệt vọng và biết bao nhiều điều băn khoăn vây hãm. Phải chi Pađy và Frank hòa thuận! Nhưng cả hai đều không nhìn mọi sự việc dưới con mắt giống nhau. Họ hục hặc nhau thường xuyên.
Ngoại trừ một lần được đi chơi ở Wahine cách đây tám tháng. Meggie chưa bao giờ đi xa hơn nhà kho và cái lò rèn ở dưới thung lũng. Cho nên sáng đầu tiên Meggie đi học ở trường, cô bị căng thẳng đến đỗi nôn ra ngoài những gì đã ăn sáng. Thế là Meggie được bế về phòng ngủ, tắm rửa sạch sẽ và thay một bộ đồ khác. Bộ quần áo mới màu xanh đậm với cổ màu trắng theo kiểu lính thủy, được thay bằng một cái áo choàng màu nâu xấu xí với hàng nút cài trên cổ rất cao, khiến Meggie có cảm giác như bị nghẹt thở.
Bob, Jack, Hughie và Stuart vừa chạy vừa nhảy cò cò đã ra tới ngoài cổng. Lúc đó Fiona mới lo xong cho Meggie, bà thúc hối con gái mang theo thức ăn sáng, bánh mì xăng-uých phết mứt, bỏ vào chiếc cặp cũ.
- Mau lên Meggie, mọi người trễ hết đấy. Bob ra đến đường quay đầu lại la lớn.
Meggie chạy theo mấy anh đang khuất dần xa xa.
Từ nhà của họ Cleary đến thị trến Wahine khoảng chừng tám cây số.
Meggie nhìn cột cây số chỉ đường mà chân tay rụng rời. Tai của Bob lắng nghe tiếng chuông trường đã đổ chưa, còn mắt thì liếc sang Meggie đầy băn khoăn; cô bé đi bước thấp bước cao, thỉnh thoảng lại thở ra mệt nhọc. Dưới mái tóc dày màu hung, gương mặt đỏ hồng của Meggie bỗng trở nên nhợt nhạt. Bob giao chiếc cặp của mình cho Jack rồi đến bên em gái:
- Meggie, em ngồi lên lưng anh, anh cõng em đi cho nhanh.
Bây giờ thì Meggie có thể khám phá Wahine trong tư thế thoải mái.
Wahine chẳng có gì nhiều để xem. Không rộn rịp bằng một thị trấn lớn, nhà cửa trải đều hai bên con đường chính tráng nhựa. Khách sạn là tòa nhà đáng chú ý nhất cũng chỉ có một tầng với một tấm lợp bằng vải chịu trên hai cây trụ nhô ra sát đường để che nắng. Cửa hàng bách hóa là nơi đáng chú ý kế đó. Thị trấn chưa có một nhà chứa xe, ô tô ở đây còn rất hiếm. Trường học và Nhà thờ Anh quốc giáo đang được xây kế bên nhau, đối diện với nhà thờ Thánh Tâm và trường của giáo xứ.
Khi anh em Cleary đi ngang cửa hàng bách hóa thì chuông trường của giáo xứ vừa đổ, sau đó là chuông trường của thị trấn. Họ bước nhanh hơn vào sân trường kịp lúc năm mươi học sinh khác bắt đầu xếp hàng trước một nữ tu thấp người, tay cầm một cây roi mây dài. Đó là xơ Agatha.
Không bị lôi cuốn bởi những tiếng cười đùa khúc khích của đám học sinh, Bob và các em mình đứng nghiêm trang rồi lần lượt đi theo hàng vào lớp trong tiếng hát Niềm tin của các Thánh Tổ phụ của chúng ta, xơ Catherine đệm dương cầm. Khi học sinh cuối cùng vào lớp, xơ Agatha mới rời khỏi vị trí của mình. Bà đi thẳng đến anh em Cleary.
Meggia chưa bao giờ được nhìn thấy một nữ tu, nên miệng há hốc ra.
- Này Robert Cleary, tại sao em đi trễ? Giọng nói của xơ Agatha khô khan như hét lên.
- Thưa dì, con xin lỗi - Bob trả lời vụng về, mắt dán chặt vào cây roi mây đung đưa sau lưng xơ Agatha.
- Tại sao các em đi trễ? Bà hỏi gặng lần nữa.
- Con xin lỗi xơ
- Hôm nay là ngày tựu trường, Robert Cleary; tôi nghĩ rằng vào một dịp như thế, các em phải ráng đi học đúng giờ chứ?
Meggie run sợ, tập trung can đảm rồi lên tiếng:
- Thưa xơ, đó là lỗi của con - Tiếng nói nhỏ như thì thầm và tắt nghẽn trong cổ.
Cặp mắt màu xanh đầy đe dọa rời khỏi Bob, chuyển sang hướng Meggie tưởng như xuyên thủng vào tận tim cô bé, trong khi đó Meggie vẫn hồn nhiên giương đôi mắt nhìn vị nữ tu, hoàn toàn không ý thức rằng mình vừa phạm một sơ hở.
- Tại sao lại lỗi của cô? - Vị nữ tu hỏi Meggie bằng một giọng lạnh lùng chưa bao giờ Meggie được nghe.
- Dạ thưa, con nôn ra đầy bàn, làm lấm cả quần áo. Mẹ con phải lau rửa và thay quần áo khác cho con, do đó chúng con bị trễ - Meggie giải thích một cách vụng về.
Nét mặt của xơ Agatha không hề thay đổi nhưng miệng mím chặt lại như một cái lò xo bị căng ra quá sức, còn đầu ngọn roi thì hạ thấp xuống vài centimét.
- Chuyện gì thế? Bà hỏi Bob như nói với một loại sâu bọ vô cùng kinh tởm như chưa từng có trong danh mục khoa hoc.
- Xin xơ tha lỗi cho. Đây là Meghann, em gái của con.
- Nghe đây nhé, phải cho cô em gái của cậu biết có những chuyện mà những người có lễ giáo không bao giờ nói đến. Trong mọi trường hợp, chúng ta không đề cập đến bất cứ một món quần áo lót nào. Không bao giờ và không bao giờ. Tất cả những đứa trẻ con nhà đàng hoàng đều phải hiểu điều ấy. Đưa tay ra, tất cả.
- Nhưng thưa xơ, lỗi của con mà! Meggie kêu lên.
- Im ngay! Agatha quay qua Meggie ra lệnh - Tôi không cần biết ai là thủ phạm. Tất cả đều đi trễ, vậy tất cả phải bị phạt. - Sáu roi.
Bà kết án bằng giọng đều đều, chứa đựng sự đắc ý.
Meggie hốt hoảng nhìn hai bàn tay không nhúc nhích của Bob, rồi nghe tiếng rít của cây roi dài quất xuống nhanh đến nỗi mắt Meggie không theo kịp. Tiếng voi vang lên khi đụng vào bàn tay, nơi da thịt mỏng và mềm. Những đường dàiđỏ ửng nổi lên ngay; lần đánh sau trúng gần ngón tay và lần chót trúng ngay các đầu ngón tay đau thốn tới óc. Xơ Agatha sử dụng cây roi một cách đặc biệt chính xác. Thêm ba roi nữa quất xuống dưới tay bên kia của Bob, rồi bà quay sang Jack. Mặt Bob tái nhợt nhưng không một tiếng rên. Và xơ Agatha đã dùng cách đánh ấy với các đứa em trai của Bob, kể cả Stuart hiền hậu và dịu dàng nhất. Tất cả không một tiếng rên. Đến Meggie, cô bé nhắm mắt lại khi ngọn roi giơ lên cao và không thấy nó sa xuống lúc nào. Nhưng sự đau đớn thật dữ dội, da thịt như bị xé ra và nhức thấu xương. Rồi ngọn roi thứ hai quất xuống; cơn đau lên đến vai thì ngọn roi thứ ba và thứ tư tiếp theo, trúng ngay những đầu ngón tay. Meggie cắn môi đến khi rướm máu, và cảm thấy xấu hổ khi bật ra tiếng khóc. Tức giận phẫn nộ trước một sự bất công như thế, Meggie mở lớn đôi mắt nhìn xơ Agatha. Đó là bài học đầu tiên của cô bé, bài học không chứa đựng những điều mà đáng ra vị nữ tu phải đưa vào.
Mãi cho đến giờ ăn trưa, hai bàn tay Meggie mới có thể hoạt động lại bình thường. Meggie đã trải qua một buổi sáng đầy sợ hãi sửng sốt về những gì đã xảy ra, đã nghe thấy. Ngồi trước chiếc bàn có hai ghế, ở tận cùng phòng học, Meggie cũng không chú ý người bạn cùng bàn mình là ai. Cô bé trải qua giờ cơm trưa buồn bã.
Khi tiếng chuông báo hiệu tiết học trưa bắt đầu, Meggie tìm một chỗ đứng vào hàng, lúc ấy cô bé mới nhận ra những gì chung quanh. Nỗi xấu hổ bị phạt chưa vơi nhưng cô bé vẫn ngẩng cao đầu và làm như không nghe những tiếng xì xào trong đám bạn nhỏ cùng lớp, cũng như không để ý đến những chiếc cùi chỏ thúc vào nhau.
Xơ Agatha đứng oai vệ trước học sinh với cây roi dài trong tay; xơ Declan đi đi lại lại ở cuối hàng. Xơ Catherine ngồi trước đàn dương cầm bắt đầu đánh bản: Hãy tiến lên, các con chiên của Chúa. Các cô cậu dễ thương này đi đều bước như những người lính nhỏ - xơ Catherine thầm nghĩ như thế với tất cả niềm kiêu hãnh.
Trong ba nữ tu, xơ Declan là mẫu chép nguyên bản của xơ Agatha với mười lăm tuổi nhỏ hơn, chỉ có xơ Catherine thì còn có chút gì nhân từ.
Ở hàng ghế cuối lớp, Meggie liều lĩnh liếc mắt nhìn sang cô bạn gái nhỏ ngồi chung bàn với mình. Một nụ cười sún răng đáp lại. Đôi mắt đen tròn làm gương mặt u buồn trở nên rực sáng. Cô bé thu hút Meggie có màu tóc đỏ hoe, gương mặt đầy những vết tàn nhang.
- Bạn tên gì? Cô bé có vẻ đẹp buồn hỏi Meggie, miệng cắn đầu cây bút chì.
- Meggie Cleary - tiếng trả lời của Meggie thật nhỏ.
- Hai em đằng kia! một giọng khô khan vang lên từ đầu lớp.
Meggie giật thót người, nhìn dáo dác xung quanh hoảng sợ, tim cô bé như va chạm vào lồng ngực. Meggie nhận ra là cả lớp đang nhìn mình. Xơ Agatha bước xuống đi thẳng đến Meggiẹ Sự sợ hãi khiến Meggie mong chờ một phép lạ nào giúp mình biến mất, hoặc phải co chân chạy ngay khỏi nơi này. Phía sau là bức tường, hai bên là những bàn học, còn trước mặt là xơ Agatha.
- Meghann Cleary, em đã nói chuyện.
- Thưa xơ, vâng.
- Em nói gì đấy?
- Tên con, thưa xợ
- Tên em? Xơ Agatha lặp lại bằng giọng chế diễu vừa đảo mắt nhìn khắp lớp, như muốn giải thích những lời lên án của mình.
- Này các em, hết chuyện rồi! Thêm một thành viên của gia đình Cleary mang lại vinh dự cho trường của chúng ta bằng sự hiện diện của họ. Do đó cô ta phải loan báo một cách ầm ĩ tên mình (rồi xơ quay lại phía Meggie). Đứng lên! Em phải đứng lên khi tôi đang nói với em, đồ con nhỏ rừng rú! Đưa hai tay ra.
Meggie bước nhanh ra khỏi hàng ghế, những lọn tóc dài tung lên rồi rơi xuống che khuất một phần gương mặt. Cô bé vặn chéo hai tay một cách tuyệt vọng nhưng xơ Agatha vẫn không nhúc nhích, bà ta cứ chờ, cứ chờ, cứ chờ... Sau cùng Meggie tìm được chút gan dạ chìa lòng bàn tay ra. Nhưng ngay lúc cây mây đập xuống, cô bé rút bàn tay lại thật nhanh vừa thở hổn hển, mặt xanh như cắt. Xơ Agatha chụp lấy và kéo chùm tóc hung về phía bà, gương mặt của Meggie áp sát vào cặp kính của bà.
- Đưa tay ra, Meghann Cleary - xơ Agatha ra lệnh, giọng lịch sự nhưng lạnh lùng và quyết liệt.
Meggie há miệng ra và nôn cả buổi ăn trưa lên chiếc áo dài của xơ Agatha. Tiếp đó là tiếng hét kinh hãi của học sinh trong lớp; trong khi đó xơ Agatha trố mắt nhìn những thứ gớm ghiếc vừa nôn ra chảy dài từ trên xuống theo những đường xếp của chiếc áo. Mặt bà đỏ gay vì tức giận điên người cùng với chút kinh hãi. Cây mây quất xuống không cần biết nhắm vào đâu, Meggie đưa hai tay lên che mặt rồi chạy trốn vào một góc lớp, miệng vẫn tiếp tục nôn mửa. Xơ Agatha đã mỏi mệt không thèm đánh nữa, bà chỉ ra cửa:
- Ra khỏi đây! Về nhà của mày đi, đồ thất học đáng ghê tởm.
Rồi bà quay phắt lại bước sang lớp học của xơ Declan.
Đôi mắt luống cuống của Meggie tìm thấy Stuart, người anh học chung lớp ra hiệu cô phải vâng lời. Cái nhìn hiền hòa của Stuart đầy thương hại và thông cảm với Meggiẹ Cô bé lấy khăn tay chùi miệng và khập khiễng bước ra khỏi lớp. Còn những hai tiếng đồng hồ nữa mới hết giờ học; Meggie rời sân trường như một cái máy đi xuống đường và biết rằng các anh mình sẽ không theo kịp. Vì quá sợ hãi, Meggie không biết phải đứng lại nơi nào để chờ các anh; Meggie muốn về trước một mình và chỉ một mình thôi để kể với mẹ tất cả những gì xảy ra.
Title: Re: Tiếng chim hót trong bụi mận gai - Colleen McCullough. Bestseller năm 1977
Post by: Serenade24 on 13/03/07, 09:03
Post by: Serenade24 on 13/03/07, 09:03
Chương 4
Fiona suýt nữa ngã vào con gái khi bước qua ngưỡng cửa sau nhà, tay xách một giỏ quần áo sắp sửa đem phơi. Meggie đang ngồi trên bậc cao nhất ở ngoài hàng hiên, đầu gục xuống, tóc rũ rượi, dơ bẩn. Fiona đặt chiếc giỏ nặng xuống, thở ra, đưa tay vẹt qua một bên phần tóc che khuất mặt Meggie.
- Nói cho mẹ nghe chuyện gì đã xảy ra?
Bà hỏi bằng giọng mệt mỏi.
- Con nôn ra đầy áo của xơ Agathạ
- Chúa ơi!
Fiona kêu lên, hai tay chống vào hông.
- Bà cũng đã quất cho con nhiều roi - Meggie nói không ra tiếng, nước mắt ràn rụa.
- Thật sạch sẽ quá - Fiona đứng lên khó nhọc xách chiếc giỏ quần áo đầy nắp - Meggie, mẹ không biết phải làm gì đây, rồi ba về sẽ cho một trận.
Nói xong bà băng qua sân đi về phía hàng dây phơi quần áo.
Meggie lấy tay quệt nước mắt; nhìn theo mẹ một lúc rồi đứng lên và đi xuống con đường dẫn đến lò rèn.
Frank vừa đóng móng xong cho con ngựa cái của ông Roberson thì Meggie xuất hiện. Anh ta quay lại và thấy Meggie. Những kỷ niệm không lấy gì tốt đẹp mà cậu ta từng trải qua ở nhà trường lại ập đến. Meggie quá nhỏ bé, mũm mĩm thơ ngây biết bao, và những gì Frank nhìn thấy trước mắt khiến anh không thể không nghĩ đến việc giết ngay xơ Agatha. Giết bà ta, giết bà ta thật sự. Anh ta buông mấy thứ đang cầm trong tay, tháo cái tạp dề bằng da ra và đến nhanh bên Meggie.
- Chuyện gì đã xảy ra em gái cưng của anh? - Frank vừa hỏi vừa quì xuống trước mặt em gái.
Mùi nôn mửa xông ra từ em gái làm cho Frank cũng khó chịu nhưng cậu ta cố chịu đựng.
- Anh Frank - Frank - Frank!
Cô bé nói như rên siết, gương mặt nhăn nhó đau đớn, và bây giờ nước mắt mới tuôn trào. Meggie nhào tới ôm ghì lấy Frank, và khóc không ra tiếng, nhưng lại rất đau khổ.
Khi Meggie dịu bớt cơn xúc động, Frank bế em gái đặt trên đống cỏ khô mùi dễ chịu, bên cạnh con ngựa cái của ông Roberson. Cả hai ngồi yên lặng nhìn con vật nhấm ở rơm. Đầu của Meggie ngả vào phần ngực trần êm ái của Frank.
- Tại sao bà ta phạt tất cả anh em mình hở anh Frank? - Meggie hỏi. - Em đã nói là lỗi riêng của em mà.
Bây giờ thì Frank đã quen cái mùi toát ra từ chiếc áo của em và anh ta không còn chú ý nữa. Bất chợt, Frank đưa tay ra, lơ đãng vuốt mũi của con ngựa cái, đẩy nó ra khi nó có vẻ quá thân mật.
- Chúng ta nghèo, Meggie, đó là lý do chính. Các dì phước luôn luôn ghét học sinh nghèo. Nếu em còn đi học ở cái trường hắc ám đó của xơ Agatha vài ngày nữa, em sẽ thấy bà ta không chỉ nhắm vào anh em Cleary, mà cả anh em Marshall Mac Donald. Tất cả đều nghèo. Ngược lại, nếu chúng ta giàu, đi học bằng xe ngựa có mui sập sang trọng như dòng họ O'' Brien, các bà xơ sẽ nhảy tới ôm cổ chúng ta. Nhưng chúng ta không có điều kiện để tặng một cây đàn ócgơ cho nhà thờ, cũng không có những áo choàng lễ nạm vàng, hay một con ngựa, một chiếc xe cũ tặng cho các bà nữ tu dùng việc riêng, nên chúng ta chẳng là gì. Các bà muốn đối xử với chúng ta như thế nào tùy ý.
Cô bé ngái ngủ, hai mí mắt trì nặng xuống. Frank đặt em nằm trên đống cỏ khô và trở lại công việc của mình, trên môi điểm một nụ cười và cất tiếng hát nho nhỏ.
Meggie đang ngủ thì Pađy bước vào, tay lấm đầy phân vì ông ta vừa chùi rửa chuồng ngựa của ông Jarman.
- Mẹ con mới cho ba hay la Meggie bị phạt ở trường và bị đuổi về nhà. Con có biết lý do hay không?
Frank để cái trục xe qua một bên.
- Tội nghiệp nó đã nôn vào áo của xơ Agathạ
Pađy đổi sắc mặt, mắt nhìn thẳng về phía bức tường xa nhất như đang tìm một thái độ. Rồi ông lại hướng mắt về phía Meggiẹ
- Con bé bị xúc động quá mức ngay buổi học đầu tiên chứ gì?
- Con không rõ. Nó đã nôn ở nhà trước khi đi và do đó làm cho cả bốn đứa phải trễ giờ. Chúng đến trường sau khi kiểng đổ. Mỗi đứa đều bị ăn sáu roi, riêng Meggie bấn loạn vì cho rằng nó là người có lỗi duy nhất đáng bị phạt. Sau buổi ăn trưa, Meggie lại bị xơ Agatha đánh một lần nữa, thế là Meggie của chúng ta đã trút toàn bộ bánh mì và mứt lên trên chiếc áo dài màu đen của xơ Agathạ
- Rồi chuyện gì xảy ra tiếp đó?
- Xơ Agatha đã tặng thêm một trận đòn cho Meggie và đuổi nó về nhà.
- Như vậy, Meggie đã bị phạt là đúng. Ba rất kính trọng các dì phước và ba cũng ý thức rằng chúng ta không có quyền chỉ trích hành động của các dì. Nhưng ba mong rằng các dì sẽ sử dụng roi thước bớt đi. Ba biết các dì phải khổ tâm lắm mới nhét được vào những cái đầu khó bảo của người Ái Nhĩ Lan chúng ta một chút văn hóa. Dù sao đó là ngày đi học đầu tiên của Meggie.
Frank nhìn cha sửng sốt. Lâu nay chưa bao giờ Pađy nói chuyện với con trai lớn trong tư thế giữa hai người đàn ông. Lần đầu tiên được lôi ra khỏi những oán giận thường xuyên đầy ắp, Frank hiểu ra rằng dù với bề ngoài cứng rắn, cha mình vẫn tỏ ra âu yếm Meggie hơn cả bọn con trai. Frank cảm thấy gần với cha hơn. Anh mỉm cười không có chút ẩn ý.
- Meggie là một đứa trẻ tuyệt vời phải không ba?
Pađy tán đồng một cách lơ đãng câu hỏi của Frank vì ông đang nhìn Meggiẹ Con ngựa cái nhe răng, hỉnh mũi thở phì phì; Meggie trở mình, lăn qua một bên rồi mở mắt. Khi nhìn thấy cha đứng kế bên Frank, cô bé bật ngồi dậy, mặt tái nhợt vì sợ sệt.
- Sao cô gái bé nhỏ, con đã trải qua một ngày rất mệt nhọc phải không?
Pađy bước tới, bế Meggie lên và không khỏi giựt mình vì mùi tanh xông lên mũi. Nhưng ông nhún vai và ôm con gái vào lòng.
- Con bị đánh đòn bằng gậy... - Meggie nói với chạ
- Này nhé, xơ Agatha cho ba biết đây chưa phải là lần cuối cùng đâu (ông đặt Meggie lên vai) - Bây giờ tốt hơn hết con xem mẹ có sẵn nước nóng để tắm không. Con gái ba mà hôi hám hơn cả chuồng ngựa của Jarman.
Những lần nôn mửa của Meggie đã mang lại một kết quả khá tốt. Xơ Agatha vẫn dùng roi đánh cô bé nhưng bây giờ bà luôn luôn giữ một khoảng cách đủ để tránh những hậu quả bất ngờ. Do đó mà sực mạnh của làn roi và sự chính xác đã không còn như trước.
Khi Meggie chưa đến trường thì Stuart là mục tiêu chính của ngọn roi trong tay xơ Agatha. Nhưng thật ra, Meggie lại là đối tượng hành hạ thích thú hơn, vì tánh hay mơ mộng và kín đáo của Stuart ít có chỗ sơ hở cho xơ Agatha khai thác.
Meggie quen tay trái. Đó là cái tội đáng trị nhất. Ngày tập viết đầu, khi cô bé cầm cục phấn lên, xơ Agatha đã lao vào cô bé như César lao vào lính Gaulois:
- Meghann Cleary, bỏ cục phấn xuống ngay! - bà ta hét lên.
Thế là một trận chiến dằng lại diễn ra. Meggie quen tay trái, bất trị, không khoan nhượng. Khi xơ Agatha bẻ cụp bàn tay mặt của Meggie trên tấm bảng, Meggie thấy đầu óc đảo lộn, khổng biết cách nào điều khiển bàn tay bất lực của mình làm theo đòi hỏi của xơ Agatha. Bà ta có làm gì đi nữa, bàn tay mặt của Meggie vẫn không thể kẻ được chữ A. Thừa lúc xơ Agatha vừa quay sang chỗ khác, Meggie nhanh hơn dùng tay trái viết một chữ A thật đẹp.
Nhưng cuối cùng xơ Agatha đã thắng. Một buổi sáng trong lúc các học sinh đang xếp hàng, xơ Agatha đến lắm lấy tay của Meggie kéo ra sau lưng rồi dùng một sợi dây thừng cột chặt lại. Xơ Agatha chỉ tháo dây khi chuông báo tan học vào lúc ba giờ chiều. Ngay giờ nghỉ buổi trưa, Meggie cũng phải ăn, đi dạo và chơi với một bên tay trái hoàn toàn bất động. Ba tháng sau, Meggie tập được viết bằng tay mặt khá ngay ngắn, theo những qui định do xơ Agatha đề ra. Để đảm bảo chắc chắn cô bé không sử dụng trở lại tay trái, bà ta tiếp tục cột như thế thêm hai tháng. Sau đó xơ Agatha tập hợp tất cả học sinh để đọc một tràng kinh, cảm ơn Đức Chúa Trời với lòng nhân từ của Ngài, đã chứng minh sai lầm của Meggie - Những đứa con của Đức Chúa Trời nhân từ đều sử dụng tay mặt; những người sử dụng tay trái là do quỷ sứ sinh ra, nhất là khi chúng có tóc màu hung. Năm học sắp hết, tháng 12 đến và ngày sinh nhật của Meggie cũng gần rồi. Như một thông lệ của gia đình khi sinh nhật của các con rơi vào một ngày đi học thì buổi lễ được dời qua ngày thứ bảy.
Quà sinh nhật của Meggie năm nay là một bộ tách dĩa với những hình vẽ đề tài Trung Quốc mà cô bé mong muốn từ lâu. Bộ tách dĩa ấy được đặt trên một chiếc bàn nhỏ xinh sắn màu xanh dương chung quanh có những chiếc ghế nhỏ. Tất cả do Frank làm cho em trong những lúc rỗi rảnh. Thế là Agnès mặc chiếc váy màu xanh mới, do chính mẹ Meggie cắt và may, được đặt trên một trong những chiếc ghế ấy.
Hai ngày trước Noel năm 1917, Pađy trở về nhà đặt lên bàn tờ tuần báo và một chồng sách mượn của thư viện lưu động. Lần thứ nhất, việc đọc báo được chọn trước việc đọc sách. Tổng biên tập vừa áp dụng một công thức mới cho tờ tuần báo phỏng theo các tạp chí Mỹ. Ở phần giữa tờ báo được dành trọn để phản ánh tình hình chiến cuộc đang diễn ra.
Frank chụp lấy tờ báo và đọc ngấu nghiến các bài tường thuật.
- Thưa ba, con muốn ghi tên vào quân đội. - Frank vừa nói vừa đặt tờ báo xuống bàn một cách lễ phép.
Fiona quay phắt đầu lại, làm đổ món ragu xuống bếp; Pađy giật nẩy mình trong ghế bành Windsor, ngưng đọc sách.
- Con còn quá trẻ, Frank. - Ông đáp lại.
- Thưa ba, con đã 17 tuổi. Con là một người lớn! Tại sao bọn Đức và bọn Thổ có quyền tàn sát quân lính của chúng ta như những con heo, trong khi đó con lại ở nhà ngồi bình yên? Đã đến lúc một thanh niên của dòng họ Cleary phải phục vụ Tổ quốc.
- Nhưng con chưa tới tuổi, Frank - người ta không nhận con đâu.
- Nhận. Nếu ba không ngăn trở - Frank nói ngược lại một cách quyết liệt, mắt vẫn nhìn chạ
- Nhưng ba không đồng ý. Con là lao động duy nhất trong gia đình hiện naỵ Gia đình cần tiền do con làm ra. Con biết điều đó.
- Nhưng trong quân đội con cũng được trả lương.
- Lương lính hả? - Pađy vừa hỏi vừa cười. - Một thợ rèn ở Wahine có thu nhập nhiều hơn một người đi lính ở châu âu.
- Nhưng khi con ở đó, con có hy vọng đổi thay số phận thợ rèn của con! Đây là lối thoát duy nhất của con.
- Tất cả điều đó đều là chuyện tầm phào! Trời ơi, con không hiểu chút nào về những điều con đang nói. Ba sinh ra từ một đất nước trải qua một ngàn năm chiến tranh, do đó ba biết ba đang nói gì. Con có bao giờ nghe, các cựu chiến binh kể lại cuộc chiến của những người nông dân gốc Hà Lan ở Nam Phi chống lại quân Anh? Con thường ra thị trấn Wahine; vậy lần tới con hãy tìm hiểu. Ba nghĩ điều đó sẽ rất bổ ích cho con. Ngoài ra ba có cảm tưởng bọn Anh không thích dùng người Tây Tây Lan; bọn chúng luôn bố trí lính Tây Tây Lan ở những nơi dễ chết nhất để tránh nguy hiểm cho mạng sống quí giá của họ. Cứ xem cái cách mà viên tướng Chwichell đã đưa quân lính của chúng ta đến một khu vực hoàn toàn không cần thiết như ở Gallipili thì cũng biết. Mười ngàn người bị thiệt mạng trong số năm mươi ngàn. Tại sao lại phải đi chiến đấu cho cuộc chiến của Anh? Nước Anh đã giúp ích gì cho con, cái xứ gọi là Mẹ Tổ Quốc ấy, ngoại trừ việc hút các thuộc địa đến giọt máu cuối cùng. Nếu con đến nước Anh, con sẽ gặp ngay sự khinh bỉ vì con đến từ một xứ thuộc địa. Tây Tây Lan không hề bị đe dọa, kể cả Úc.
- Nhưng con vẫn muốn vào quân đội.
- Con có thể muốn bất cứ điều gì nhưng con sẽ không rời khỏi nơi đây. Hay nhất là con quên đi tất cả những chuyện ấy. Hơn nữa con còn quá nhỏ để trở thành người lính.
Gương mặt của Frank đỏ gay, hai môi mím chặt lại, cậu ta cảm thấy đau khổ về chiều cao dưới trung bình của mình. Mới đây, một nỗi nghi ngờ đáng sợ lại xâm chiếm Frank. Mười bảy tuổi rồi mà Frank vẫn cao đúng một thước năm mươi chín, đó là chiều cao khi Frank được 14 tuổi; phải chăng mình không còn cao lên nữa.
Thế nhưng, công việc ở lò rèn đã mang lại cho anh một thể lực hơn hẳn vóc dáng của anh. Tuy nhỏ con nhưng Frank có một sức mạnh vô địch. Ở tuổi 17; anh chưa bao giờ bị đánh bại trong bất cứ một cuộc thi đấu quyền Anh nào. Frank được nhiều người khắp bán đảo Taranaki biết đến.
Pađy nhìn chăm chú Frank, cố tìm hiểu đứa con trai lớn của mình nhưng ông cảm thấy bất lực, Frank là đứa con "xa con tim" của ông nhất dù cho ông đã cố gắng không thiên vị bất cứ đứa con nào.
Cuộc tranh luận trên bàn ăn bỗng tắt ngang khi Pađy nhận xét về chiều cao của Frank; cả gia đình cúi đầu và im lặng khác thường, họ ăn món ragu thỏ. Meggie không ăn, mắt cứ nhìn Frank như lo sợ lúc nào đó anh mình có thể biến đi mất. Còn Frank, sau khi ăn sạch, ngồi nán lại một lúc cho đủ lễ, rồi đứng lên đi ra ngoài. Một phút sau tiếng rìu bửa củi vang vào tận trong nhà. Frank tấn công những khúc gỗ cứng nhất mà Pađy đã dự trữ để chuẩn bị đốt vào mùa đông, củi loại này cháy chậm.
Trong khi mọi người nghĩ rằng Meggie đã ngủ, cô bé lẻn ra khỏi phòng bằng ngã cửa sổ và đi đến vựa củi, nơi đây được coi là đáng kể nhất trong đời sống của cả nhà. Vựa củi chiếm khoảng đất rộng một trăm mét vuông, Frank đang đứng giữa bãi, chiếc rìu sáng loáng giơ cao hạ xuống nghe rít trong gió, những mảnh gỗ nhỏ văng tứ tung, lưng trần của Frank như thoa mỡ, mồ hôi chảy xuống từng giọt.
Meggie rón rén đến im lặng bên chiếc áo sơ mi và áo lót của Frank vứt ở một góc, nhìn anh mình với chiếc rìu, Meggie không khỏi ngạc nhiên. Có đến ba cái rìu như thế sẵn sàng để thay vì vỏ cây bạch đàn có thể làm lụt đi nhanh chóng những cái bén nhất.
Frank tiếp tục làm việc gần như theo bản năng dưới ánh sáng hoàng hôn đang tắt lịm. Meggie né tránh nhanh nhẹn những mảnh gỗ nhỏ và chờ cho Frank khám phá sự hiện diện của mình.
Khi Frank quay lại để lấy một cái rìu khác thi anh ta bắt gặp cô em gái, ngồi đó im lặng trong chiếc áo sơ mi của Frank cài nút thật kỹ từ trên xuống dưới. Frank bước đến gần Meggie ngồi xổm xuống, chiếc rìu vẫn để giữa hai đầu gối.
- Em ra đây bằng cách nào hỡi cô bé lém lỉnh?
- Ngã cửa sổ. Em chờ cho Stuart ngủ mệ
- Coi chừng đấy, em sẽ trở thành một thằng con trai hư hỏng mất.
- Mặc kệ. Em vẫn thích chơi với bọn con trai hơn là buồn hiu một mình.
- Dĩ nhiên là thế.
- Có chuyện gì không Meggie?
- Frank, anh không đi thật chớ?
Meggie đặt hai bàn tay lên đùi anh mình và ngước nhìn bằng mắt âu lo, miệng mở lớn, còn nước mắt đã chảy xuống đầy lỗ mũi làm cho cô bé cảm thấy khó thở.
- Vâng có lẽ anh sẽ đi Meggie ạ - Frank trả lời dịu dàng.
- Anh Frank ơi, không nên! Mẹ và em rất cần anh! Nhà này không thể thiếu vắng anh được.
Frank mỉm cười dù biết khi nghe Meggie hồn nhiên lặp lại những lời nói giống hệt mẹ.
- Meggie, có những việc xảy ra không như mong muốn của chúng tạ Em phải biết điều đó. Trong nhà này các thành viên của gia đình Cleary đã được dạy phải làm việc chung nhau vì lợi ích của mọi người mà không bao giờ nghĩ đến bản thân mình. Anh muốn ra đi vì anh đã 17 tuổi, đã đến lúc phải tự lập. Nhưng cha không đồng ý. Người ta cần anh ở nhà vì lợi ích chung. Vì anh chưa đủ 21 tuổi nên anh phải nghe lời chạ
Meggie gật đầu thật nhanh, cố gắng hiểu cho được những điều mà Frank giải thích.
- Thế đấy Meggie. Anh đã suy nghĩ rất kỹ và anh sẽ ra đi, anh không thay đổi quyết định. Anh biết mẹ và em không muốn thiếu anh, nhưng Bob lớn rất nhanh. Rồi ba và các em sẽ không nhận ra sự vắng mặt của anh đâu. Chỉ có đồng tiền của anh kiếm đuợc là đáng kể đối với ba thôi.
- Thế là anh không thương ba mẹ và tụi em nữa sao hở anh Frank?
Frank quay lại ôm Meggie trong vòng tay, siết mạnh vào lòng, vuốt ve cô em gái với nỗi sung sướng. Hình như có gì quyện chặt vào như là sự tra tấn, pha lẫn đau buồn, cùng xót xa và cả đói.
- Không đâu Meggie! Anh thương em vô cùng, thương mẹ và em hơn tất cả mọi người cộng lại. Chúa ơi, phải chi em lớn hơn thì anh có thể giải thích cho em nghe. Nhưng có lẽ cũng may khi em còn bé bỏng như thế này... Đúng thế, như thế này vẫn tốt hơn...
- Em van anh, anh đừng đi Frank ạ.
- Meggie của anh, em không hiểu những gì anh đã nói à? Nhưng thôi, điều đó không quan trọng. Cái chính là em đừng nói cho ai biết em đã gặp anh. Em có nghe không? Anh không muốn nguời khác biết em đã rõ chuyện này.
Meggie đứng lên, ráng nở nụ cười:
- Anh thấy cần phải đi thì cứ đi, anh Frank.
- Meggie, em nên trở về phòng và lên giường trước khi mẹ biết được em không có ở đó. Đi đi, chạy nhanh lên...!
Sáng hôm sau, Frank đã đi khỏi nhà. Khi Fiona vào đánh thức Meggie, nét mặt của bà căng thẳng, nghiêm nghị hơn lúc nào hết. Meggie nhảy ra khỏi giường như con mèo bị phỏng nước sôi và tự mặc quần áo vào không cần nhờ mẹ cài những chiếc nút nhỏ.
Ở bếp, mấy cậu con trai đã ngồi chung quanh bàn, buồn bã. Ghế của Pađy trống. Ghế của Frank cũng trống. Meggie im lặng rón rén ngồi vào chỗ của mình, răng cắn chặt vào nhau lo sợ. Sau buổi ăn sáng, Fiona ra lệnh cho các con dọn dẹp nhà. Ra phía sau nhà kho, Bob báo tin với Meggiẹ
- Frank đã đi rồi - Bob nói thật nhỏ.
- Có lẽ anh ấy chỉ đi Wahine - Meggie đặt giả thiết.
- Không đâu. Đồ ngu như bò. Anh ấy bỏ nhà ra đi để đăng vào lính. Anh cũng muốn lớn nhanh lên để có thể làm như Frank! Anh ấy may mắn lắm.
- Còn em thì thích anh ấy ở lại nhà hơn.
- Đúng quá, em chỉ là một đứa con gái.
Khi Meggie trở vào nhà, cô bé hỏi mẹ.
- Ba đâu rồi?
- Ba đi Wahinẹ
- Có phải ba đi để đem Frank về?
- Thật không có cách nào giấu chuyện bí mật trong gia đình này - Fiona cằn nhằn. - Không, ba không đi tìm Frank ở Wahine. Ba biết Frank đi đâu. Ba đi đánh điện tín cho cảnh sát và cho quân đội ở Wanganui. Lính quân cảnh sẽ mang anh con về đây.
- Mẹ ơi, con hy vọng rằng họ sẽ tìm ra Frank. Con không muốn Frank đi luôn.
- Không một ai trong chúng ta muốn Frank ra đi. Chính vì thế mà ba sẽ lo liệu những điều cần thiết... để người ta đưa Frank trở về đây. Tội nghiệp thằng Frank con tôi! Tội nghiệp Frank! - Bà không nói với Meggie mà than vãn một mình. - Tôi không hiểu tại sao trẻ con phải gánh chịu mọi tội lỗi của người lớn. Thằng Frank tội nghiệp của tôi, nó khác tất cả...
Ba hôm sau, cảnh sát mang Frank trở về! Cậu ta chống lại dữ dội như một con sư tử - theo lời của viên trung sĩ ở Wanganui kể lại cho Pađy.
- Hắn ta đúng là một tên võ sĩ. Khi anh chàng biết được rằng Văn phòng tuyển binh đã được thông báo về trường hợp của hắn, hắn vọt chạy nhanh như một ngọn lao. Nếu hắn không xui rủi đụng đầu một toán lính tuần thì có lẽ đã thoát thân. Hắn chống lại dữ dội như một kẻ bị ma ám. Phải cần tới năm người mới còng hắn được. Anh ta quậy như làm xiếc.
Vừa kể lể một cách hấp dẫn, viên cảnh sát vừa tháo những dây xích nặng nề trả lại tự do cho Frank rồi đẩy Frank qua ngưỡng cửa. Frank bị loạng choạng và khi lấy lại thăng bằng anh đã đứng ngay trước mặt Pađy. Cậu ta co rúm người lại như thể sợ bị phỏng nếu chạm phải thân thể của chạ
Các em của Frank đứng chung quanh nhà nhìn lại. Meggie âu lo không biết người ta có làm gì hại Frank không.
Frank quay sang nhìn mẹ trước hết, hai mắt màu đen và màu nâu pha trộn nhau trong một sự kết hợp chưa bao giờ được nói ra và cũng không bao giờ nên nói ra. Ánh mắt khắt khe màu xanh của Pađy nhìn thẳng Frank vừa khinh miệt, vừa chua cay, như ngầm nói không thể chờ đợi gì khác hơn ở một đứa con như thế. Mắt Frank nhìn xuống đất, chấp nhận cái quyền nổi giận của cha mình. Từ hôm đó, Pađy không nói chuyện với con trai ngoại trừ những câu cần nói.
Gặp lại các em mình, đó là điều hết sức khổ tâm với Frank vừa hổ thẹn, vừa khó chịu, như con chim lộng lẫy bay lên cao từ phương trời xa thẳm nào đó, rồi bỗng bị bắt phải quay về bị gẫy cánh, tiếng hót trở nên lặng lẽ.
Buổi tối như thường lệ, Meggie chờ mẹ kiểm soát xong các con đi ngủ, cô bé mới chuồn ra cửa sổ và băng qua sân sau; Meggie biết rõ Frank ở đâu giờ này. Ở một góc nhà kho, tránh mọi cái nhìn soi nhói, nhất là của cha.
- Frank, Frank, anh ở đâu?
Cô bé hạ thấp giọng hỏi. Meggie bước vào nhà kho tối mịt, chân dò dẫm mặt đất với nỗi lo sợ chạm phải một con vật nào đó.
- Lại đây, Meggie.
Cô bé rất khó khăn mới nhận ra được giọng nói của Frank. Giọng nói ấy trước đây rất quen thuộc với Meggie bây giờ lại nghe đều đều, không còn sự nồng ấm trong đó.
Theo hướng gọi, Meggie đi lần đến chỗ Frank nằm rồi ngã vào lòng anh, hai tay ôm Frank, tay dài được bao nhiêu cô bé ôm hết bấy nhiêu.
- Frank ơi, em sung sướng quá vì anh đã trở về đây.
Frank tìm cách nằm sát hơn nữa dưới đống cỏ khô để có thể nhìn ngang mặt Meggie. Tay cô bé luồn vào tóc của Frank miệng kêu lên gừ gừ như con mèo con. Bóng đen dày đặc không cho Frank nhìn rõ mặt em, thế nhưng tình cảm của Meggie bỗng chốc phá tung những gút mắc trong lòng anh. Frank bắt đầu khóc, run rẩy toàn thân một cách đau đớn, nước mắt làm ướt áo cô bé. Meggie thì không khóc. Cái gì đó trong tâm hồn nhỏ bé của Meggie đã sớm chín muồi và cô bé trở thành một người khác có thể cảm nhận được niềm vui tràn ngập, dữ dội, ý thức rõ về sự cần thiết của mình. Meggie ngồi, tay lay nhẹ đầu tóc nâu thân yêu, cứ thế cho đến khi nỗi đau ở Frank dịu bớt và tan vào khoảng trống.
Fiona suýt nữa ngã vào con gái khi bước qua ngưỡng cửa sau nhà, tay xách một giỏ quần áo sắp sửa đem phơi. Meggie đang ngồi trên bậc cao nhất ở ngoài hàng hiên, đầu gục xuống, tóc rũ rượi, dơ bẩn. Fiona đặt chiếc giỏ nặng xuống, thở ra, đưa tay vẹt qua một bên phần tóc che khuất mặt Meggie.
- Nói cho mẹ nghe chuyện gì đã xảy ra?
Bà hỏi bằng giọng mệt mỏi.
- Con nôn ra đầy áo của xơ Agathạ
- Chúa ơi!
Fiona kêu lên, hai tay chống vào hông.
- Bà cũng đã quất cho con nhiều roi - Meggie nói không ra tiếng, nước mắt ràn rụa.
- Thật sạch sẽ quá - Fiona đứng lên khó nhọc xách chiếc giỏ quần áo đầy nắp - Meggie, mẹ không biết phải làm gì đây, rồi ba về sẽ cho một trận.
Nói xong bà băng qua sân đi về phía hàng dây phơi quần áo.
Meggie lấy tay quệt nước mắt; nhìn theo mẹ một lúc rồi đứng lên và đi xuống con đường dẫn đến lò rèn.
Frank vừa đóng móng xong cho con ngựa cái của ông Roberson thì Meggie xuất hiện. Anh ta quay lại và thấy Meggie. Những kỷ niệm không lấy gì tốt đẹp mà cậu ta từng trải qua ở nhà trường lại ập đến. Meggie quá nhỏ bé, mũm mĩm thơ ngây biết bao, và những gì Frank nhìn thấy trước mắt khiến anh không thể không nghĩ đến việc giết ngay xơ Agatha. Giết bà ta, giết bà ta thật sự. Anh ta buông mấy thứ đang cầm trong tay, tháo cái tạp dề bằng da ra và đến nhanh bên Meggie.
- Chuyện gì đã xảy ra em gái cưng của anh? - Frank vừa hỏi vừa quì xuống trước mặt em gái.
Mùi nôn mửa xông ra từ em gái làm cho Frank cũng khó chịu nhưng cậu ta cố chịu đựng.
- Anh Frank - Frank - Frank!
Cô bé nói như rên siết, gương mặt nhăn nhó đau đớn, và bây giờ nước mắt mới tuôn trào. Meggie nhào tới ôm ghì lấy Frank, và khóc không ra tiếng, nhưng lại rất đau khổ.
Khi Meggie dịu bớt cơn xúc động, Frank bế em gái đặt trên đống cỏ khô mùi dễ chịu, bên cạnh con ngựa cái của ông Roberson. Cả hai ngồi yên lặng nhìn con vật nhấm ở rơm. Đầu của Meggie ngả vào phần ngực trần êm ái của Frank.
- Tại sao bà ta phạt tất cả anh em mình hở anh Frank? - Meggie hỏi. - Em đã nói là lỗi riêng của em mà.
Bây giờ thì Frank đã quen cái mùi toát ra từ chiếc áo của em và anh ta không còn chú ý nữa. Bất chợt, Frank đưa tay ra, lơ đãng vuốt mũi của con ngựa cái, đẩy nó ra khi nó có vẻ quá thân mật.
- Chúng ta nghèo, Meggie, đó là lý do chính. Các dì phước luôn luôn ghét học sinh nghèo. Nếu em còn đi học ở cái trường hắc ám đó của xơ Agatha vài ngày nữa, em sẽ thấy bà ta không chỉ nhắm vào anh em Cleary, mà cả anh em Marshall Mac Donald. Tất cả đều nghèo. Ngược lại, nếu chúng ta giàu, đi học bằng xe ngựa có mui sập sang trọng như dòng họ O'' Brien, các bà xơ sẽ nhảy tới ôm cổ chúng ta. Nhưng chúng ta không có điều kiện để tặng một cây đàn ócgơ cho nhà thờ, cũng không có những áo choàng lễ nạm vàng, hay một con ngựa, một chiếc xe cũ tặng cho các bà nữ tu dùng việc riêng, nên chúng ta chẳng là gì. Các bà muốn đối xử với chúng ta như thế nào tùy ý.
Cô bé ngái ngủ, hai mí mắt trì nặng xuống. Frank đặt em nằm trên đống cỏ khô và trở lại công việc của mình, trên môi điểm một nụ cười và cất tiếng hát nho nhỏ.
Meggie đang ngủ thì Pađy bước vào, tay lấm đầy phân vì ông ta vừa chùi rửa chuồng ngựa của ông Jarman.
- Mẹ con mới cho ba hay la Meggie bị phạt ở trường và bị đuổi về nhà. Con có biết lý do hay không?
Frank để cái trục xe qua một bên.
- Tội nghiệp nó đã nôn vào áo của xơ Agathạ
Pađy đổi sắc mặt, mắt nhìn thẳng về phía bức tường xa nhất như đang tìm một thái độ. Rồi ông lại hướng mắt về phía Meggiẹ
- Con bé bị xúc động quá mức ngay buổi học đầu tiên chứ gì?
- Con không rõ. Nó đã nôn ở nhà trước khi đi và do đó làm cho cả bốn đứa phải trễ giờ. Chúng đến trường sau khi kiểng đổ. Mỗi đứa đều bị ăn sáu roi, riêng Meggie bấn loạn vì cho rằng nó là người có lỗi duy nhất đáng bị phạt. Sau buổi ăn trưa, Meggie lại bị xơ Agatha đánh một lần nữa, thế là Meggie của chúng ta đã trút toàn bộ bánh mì và mứt lên trên chiếc áo dài màu đen của xơ Agathạ
- Rồi chuyện gì xảy ra tiếp đó?
- Xơ Agatha đã tặng thêm một trận đòn cho Meggie và đuổi nó về nhà.
- Như vậy, Meggie đã bị phạt là đúng. Ba rất kính trọng các dì phước và ba cũng ý thức rằng chúng ta không có quyền chỉ trích hành động của các dì. Nhưng ba mong rằng các dì sẽ sử dụng roi thước bớt đi. Ba biết các dì phải khổ tâm lắm mới nhét được vào những cái đầu khó bảo của người Ái Nhĩ Lan chúng ta một chút văn hóa. Dù sao đó là ngày đi học đầu tiên của Meggie.
Frank nhìn cha sửng sốt. Lâu nay chưa bao giờ Pađy nói chuyện với con trai lớn trong tư thế giữa hai người đàn ông. Lần đầu tiên được lôi ra khỏi những oán giận thường xuyên đầy ắp, Frank hiểu ra rằng dù với bề ngoài cứng rắn, cha mình vẫn tỏ ra âu yếm Meggie hơn cả bọn con trai. Frank cảm thấy gần với cha hơn. Anh mỉm cười không có chút ẩn ý.
- Meggie là một đứa trẻ tuyệt vời phải không ba?
Pađy tán đồng một cách lơ đãng câu hỏi của Frank vì ông đang nhìn Meggiẹ Con ngựa cái nhe răng, hỉnh mũi thở phì phì; Meggie trở mình, lăn qua một bên rồi mở mắt. Khi nhìn thấy cha đứng kế bên Frank, cô bé bật ngồi dậy, mặt tái nhợt vì sợ sệt.
- Sao cô gái bé nhỏ, con đã trải qua một ngày rất mệt nhọc phải không?
Pađy bước tới, bế Meggie lên và không khỏi giựt mình vì mùi tanh xông lên mũi. Nhưng ông nhún vai và ôm con gái vào lòng.
- Con bị đánh đòn bằng gậy... - Meggie nói với chạ
- Này nhé, xơ Agatha cho ba biết đây chưa phải là lần cuối cùng đâu (ông đặt Meggie lên vai) - Bây giờ tốt hơn hết con xem mẹ có sẵn nước nóng để tắm không. Con gái ba mà hôi hám hơn cả chuồng ngựa của Jarman.
Những lần nôn mửa của Meggie đã mang lại một kết quả khá tốt. Xơ Agatha vẫn dùng roi đánh cô bé nhưng bây giờ bà luôn luôn giữ một khoảng cách đủ để tránh những hậu quả bất ngờ. Do đó mà sực mạnh của làn roi và sự chính xác đã không còn như trước.
Khi Meggie chưa đến trường thì Stuart là mục tiêu chính của ngọn roi trong tay xơ Agatha. Nhưng thật ra, Meggie lại là đối tượng hành hạ thích thú hơn, vì tánh hay mơ mộng và kín đáo của Stuart ít có chỗ sơ hở cho xơ Agatha khai thác.
Meggie quen tay trái. Đó là cái tội đáng trị nhất. Ngày tập viết đầu, khi cô bé cầm cục phấn lên, xơ Agatha đã lao vào cô bé như César lao vào lính Gaulois:
- Meghann Cleary, bỏ cục phấn xuống ngay! - bà ta hét lên.
Thế là một trận chiến dằng lại diễn ra. Meggie quen tay trái, bất trị, không khoan nhượng. Khi xơ Agatha bẻ cụp bàn tay mặt của Meggie trên tấm bảng, Meggie thấy đầu óc đảo lộn, khổng biết cách nào điều khiển bàn tay bất lực của mình làm theo đòi hỏi của xơ Agatha. Bà ta có làm gì đi nữa, bàn tay mặt của Meggie vẫn không thể kẻ được chữ A. Thừa lúc xơ Agatha vừa quay sang chỗ khác, Meggie nhanh hơn dùng tay trái viết một chữ A thật đẹp.
Nhưng cuối cùng xơ Agatha đã thắng. Một buổi sáng trong lúc các học sinh đang xếp hàng, xơ Agatha đến lắm lấy tay của Meggie kéo ra sau lưng rồi dùng một sợi dây thừng cột chặt lại. Xơ Agatha chỉ tháo dây khi chuông báo tan học vào lúc ba giờ chiều. Ngay giờ nghỉ buổi trưa, Meggie cũng phải ăn, đi dạo và chơi với một bên tay trái hoàn toàn bất động. Ba tháng sau, Meggie tập được viết bằng tay mặt khá ngay ngắn, theo những qui định do xơ Agatha đề ra. Để đảm bảo chắc chắn cô bé không sử dụng trở lại tay trái, bà ta tiếp tục cột như thế thêm hai tháng. Sau đó xơ Agatha tập hợp tất cả học sinh để đọc một tràng kinh, cảm ơn Đức Chúa Trời với lòng nhân từ của Ngài, đã chứng minh sai lầm của Meggie - Những đứa con của Đức Chúa Trời nhân từ đều sử dụng tay mặt; những người sử dụng tay trái là do quỷ sứ sinh ra, nhất là khi chúng có tóc màu hung. Năm học sắp hết, tháng 12 đến và ngày sinh nhật của Meggie cũng gần rồi. Như một thông lệ của gia đình khi sinh nhật của các con rơi vào một ngày đi học thì buổi lễ được dời qua ngày thứ bảy.
Quà sinh nhật của Meggie năm nay là một bộ tách dĩa với những hình vẽ đề tài Trung Quốc mà cô bé mong muốn từ lâu. Bộ tách dĩa ấy được đặt trên một chiếc bàn nhỏ xinh sắn màu xanh dương chung quanh có những chiếc ghế nhỏ. Tất cả do Frank làm cho em trong những lúc rỗi rảnh. Thế là Agnès mặc chiếc váy màu xanh mới, do chính mẹ Meggie cắt và may, được đặt trên một trong những chiếc ghế ấy.
Hai ngày trước Noel năm 1917, Pađy trở về nhà đặt lên bàn tờ tuần báo và một chồng sách mượn của thư viện lưu động. Lần thứ nhất, việc đọc báo được chọn trước việc đọc sách. Tổng biên tập vừa áp dụng một công thức mới cho tờ tuần báo phỏng theo các tạp chí Mỹ. Ở phần giữa tờ báo được dành trọn để phản ánh tình hình chiến cuộc đang diễn ra.
Frank chụp lấy tờ báo và đọc ngấu nghiến các bài tường thuật.
- Thưa ba, con muốn ghi tên vào quân đội. - Frank vừa nói vừa đặt tờ báo xuống bàn một cách lễ phép.
Fiona quay phắt đầu lại, làm đổ món ragu xuống bếp; Pađy giật nẩy mình trong ghế bành Windsor, ngưng đọc sách.
- Con còn quá trẻ, Frank. - Ông đáp lại.
- Thưa ba, con đã 17 tuổi. Con là một người lớn! Tại sao bọn Đức và bọn Thổ có quyền tàn sát quân lính của chúng ta như những con heo, trong khi đó con lại ở nhà ngồi bình yên? Đã đến lúc một thanh niên của dòng họ Cleary phải phục vụ Tổ quốc.
- Nhưng con chưa tới tuổi, Frank - người ta không nhận con đâu.
- Nhận. Nếu ba không ngăn trở - Frank nói ngược lại một cách quyết liệt, mắt vẫn nhìn chạ
- Nhưng ba không đồng ý. Con là lao động duy nhất trong gia đình hiện naỵ Gia đình cần tiền do con làm ra. Con biết điều đó.
- Nhưng trong quân đội con cũng được trả lương.
- Lương lính hả? - Pađy vừa hỏi vừa cười. - Một thợ rèn ở Wahine có thu nhập nhiều hơn một người đi lính ở châu âu.
- Nhưng khi con ở đó, con có hy vọng đổi thay số phận thợ rèn của con! Đây là lối thoát duy nhất của con.
- Tất cả điều đó đều là chuyện tầm phào! Trời ơi, con không hiểu chút nào về những điều con đang nói. Ba sinh ra từ một đất nước trải qua một ngàn năm chiến tranh, do đó ba biết ba đang nói gì. Con có bao giờ nghe, các cựu chiến binh kể lại cuộc chiến của những người nông dân gốc Hà Lan ở Nam Phi chống lại quân Anh? Con thường ra thị trấn Wahine; vậy lần tới con hãy tìm hiểu. Ba nghĩ điều đó sẽ rất bổ ích cho con. Ngoài ra ba có cảm tưởng bọn Anh không thích dùng người Tây Tây Lan; bọn chúng luôn bố trí lính Tây Tây Lan ở những nơi dễ chết nhất để tránh nguy hiểm cho mạng sống quí giá của họ. Cứ xem cái cách mà viên tướng Chwichell đã đưa quân lính của chúng ta đến một khu vực hoàn toàn không cần thiết như ở Gallipili thì cũng biết. Mười ngàn người bị thiệt mạng trong số năm mươi ngàn. Tại sao lại phải đi chiến đấu cho cuộc chiến của Anh? Nước Anh đã giúp ích gì cho con, cái xứ gọi là Mẹ Tổ Quốc ấy, ngoại trừ việc hút các thuộc địa đến giọt máu cuối cùng. Nếu con đến nước Anh, con sẽ gặp ngay sự khinh bỉ vì con đến từ một xứ thuộc địa. Tây Tây Lan không hề bị đe dọa, kể cả Úc.
- Nhưng con vẫn muốn vào quân đội.
- Con có thể muốn bất cứ điều gì nhưng con sẽ không rời khỏi nơi đây. Hay nhất là con quên đi tất cả những chuyện ấy. Hơn nữa con còn quá nhỏ để trở thành người lính.
Gương mặt của Frank đỏ gay, hai môi mím chặt lại, cậu ta cảm thấy đau khổ về chiều cao dưới trung bình của mình. Mới đây, một nỗi nghi ngờ đáng sợ lại xâm chiếm Frank. Mười bảy tuổi rồi mà Frank vẫn cao đúng một thước năm mươi chín, đó là chiều cao khi Frank được 14 tuổi; phải chăng mình không còn cao lên nữa.
Thế nhưng, công việc ở lò rèn đã mang lại cho anh một thể lực hơn hẳn vóc dáng của anh. Tuy nhỏ con nhưng Frank có một sức mạnh vô địch. Ở tuổi 17; anh chưa bao giờ bị đánh bại trong bất cứ một cuộc thi đấu quyền Anh nào. Frank được nhiều người khắp bán đảo Taranaki biết đến.
Pađy nhìn chăm chú Frank, cố tìm hiểu đứa con trai lớn của mình nhưng ông cảm thấy bất lực, Frank là đứa con "xa con tim" của ông nhất dù cho ông đã cố gắng không thiên vị bất cứ đứa con nào.
Cuộc tranh luận trên bàn ăn bỗng tắt ngang khi Pađy nhận xét về chiều cao của Frank; cả gia đình cúi đầu và im lặng khác thường, họ ăn món ragu thỏ. Meggie không ăn, mắt cứ nhìn Frank như lo sợ lúc nào đó anh mình có thể biến đi mất. Còn Frank, sau khi ăn sạch, ngồi nán lại một lúc cho đủ lễ, rồi đứng lên đi ra ngoài. Một phút sau tiếng rìu bửa củi vang vào tận trong nhà. Frank tấn công những khúc gỗ cứng nhất mà Pađy đã dự trữ để chuẩn bị đốt vào mùa đông, củi loại này cháy chậm.
Trong khi mọi người nghĩ rằng Meggie đã ngủ, cô bé lẻn ra khỏi phòng bằng ngã cửa sổ và đi đến vựa củi, nơi đây được coi là đáng kể nhất trong đời sống của cả nhà. Vựa củi chiếm khoảng đất rộng một trăm mét vuông, Frank đang đứng giữa bãi, chiếc rìu sáng loáng giơ cao hạ xuống nghe rít trong gió, những mảnh gỗ nhỏ văng tứ tung, lưng trần của Frank như thoa mỡ, mồ hôi chảy xuống từng giọt.
Meggie rón rén đến im lặng bên chiếc áo sơ mi và áo lót của Frank vứt ở một góc, nhìn anh mình với chiếc rìu, Meggie không khỏi ngạc nhiên. Có đến ba cái rìu như thế sẵn sàng để thay vì vỏ cây bạch đàn có thể làm lụt đi nhanh chóng những cái bén nhất.
Frank tiếp tục làm việc gần như theo bản năng dưới ánh sáng hoàng hôn đang tắt lịm. Meggie né tránh nhanh nhẹn những mảnh gỗ nhỏ và chờ cho Frank khám phá sự hiện diện của mình.
Khi Frank quay lại để lấy một cái rìu khác thi anh ta bắt gặp cô em gái, ngồi đó im lặng trong chiếc áo sơ mi của Frank cài nút thật kỹ từ trên xuống dưới. Frank bước đến gần Meggie ngồi xổm xuống, chiếc rìu vẫn để giữa hai đầu gối.
- Em ra đây bằng cách nào hỡi cô bé lém lỉnh?
- Ngã cửa sổ. Em chờ cho Stuart ngủ mệ
- Coi chừng đấy, em sẽ trở thành một thằng con trai hư hỏng mất.
- Mặc kệ. Em vẫn thích chơi với bọn con trai hơn là buồn hiu một mình.
- Dĩ nhiên là thế.
- Có chuyện gì không Meggie?
- Frank, anh không đi thật chớ?
Meggie đặt hai bàn tay lên đùi anh mình và ngước nhìn bằng mắt âu lo, miệng mở lớn, còn nước mắt đã chảy xuống đầy lỗ mũi làm cho cô bé cảm thấy khó thở.
- Vâng có lẽ anh sẽ đi Meggie ạ - Frank trả lời dịu dàng.
- Anh Frank ơi, không nên! Mẹ và em rất cần anh! Nhà này không thể thiếu vắng anh được.
Frank mỉm cười dù biết khi nghe Meggie hồn nhiên lặp lại những lời nói giống hệt mẹ.
- Meggie, có những việc xảy ra không như mong muốn của chúng tạ Em phải biết điều đó. Trong nhà này các thành viên của gia đình Cleary đã được dạy phải làm việc chung nhau vì lợi ích của mọi người mà không bao giờ nghĩ đến bản thân mình. Anh muốn ra đi vì anh đã 17 tuổi, đã đến lúc phải tự lập. Nhưng cha không đồng ý. Người ta cần anh ở nhà vì lợi ích chung. Vì anh chưa đủ 21 tuổi nên anh phải nghe lời chạ
Meggie gật đầu thật nhanh, cố gắng hiểu cho được những điều mà Frank giải thích.
- Thế đấy Meggie. Anh đã suy nghĩ rất kỹ và anh sẽ ra đi, anh không thay đổi quyết định. Anh biết mẹ và em không muốn thiếu anh, nhưng Bob lớn rất nhanh. Rồi ba và các em sẽ không nhận ra sự vắng mặt của anh đâu. Chỉ có đồng tiền của anh kiếm đuợc là đáng kể đối với ba thôi.
- Thế là anh không thương ba mẹ và tụi em nữa sao hở anh Frank?
Frank quay lại ôm Meggie trong vòng tay, siết mạnh vào lòng, vuốt ve cô em gái với nỗi sung sướng. Hình như có gì quyện chặt vào như là sự tra tấn, pha lẫn đau buồn, cùng xót xa và cả đói.
- Không đâu Meggie! Anh thương em vô cùng, thương mẹ và em hơn tất cả mọi người cộng lại. Chúa ơi, phải chi em lớn hơn thì anh có thể giải thích cho em nghe. Nhưng có lẽ cũng may khi em còn bé bỏng như thế này... Đúng thế, như thế này vẫn tốt hơn...
- Em van anh, anh đừng đi Frank ạ.
- Meggie của anh, em không hiểu những gì anh đã nói à? Nhưng thôi, điều đó không quan trọng. Cái chính là em đừng nói cho ai biết em đã gặp anh. Em có nghe không? Anh không muốn nguời khác biết em đã rõ chuyện này.
Meggie đứng lên, ráng nở nụ cười:
- Anh thấy cần phải đi thì cứ đi, anh Frank.
- Meggie, em nên trở về phòng và lên giường trước khi mẹ biết được em không có ở đó. Đi đi, chạy nhanh lên...!
Sáng hôm sau, Frank đã đi khỏi nhà. Khi Fiona vào đánh thức Meggie, nét mặt của bà căng thẳng, nghiêm nghị hơn lúc nào hết. Meggie nhảy ra khỏi giường như con mèo bị phỏng nước sôi và tự mặc quần áo vào không cần nhờ mẹ cài những chiếc nút nhỏ.
Ở bếp, mấy cậu con trai đã ngồi chung quanh bàn, buồn bã. Ghế của Pađy trống. Ghế của Frank cũng trống. Meggie im lặng rón rén ngồi vào chỗ của mình, răng cắn chặt vào nhau lo sợ. Sau buổi ăn sáng, Fiona ra lệnh cho các con dọn dẹp nhà. Ra phía sau nhà kho, Bob báo tin với Meggiẹ
- Frank đã đi rồi - Bob nói thật nhỏ.
- Có lẽ anh ấy chỉ đi Wahine - Meggie đặt giả thiết.
- Không đâu. Đồ ngu như bò. Anh ấy bỏ nhà ra đi để đăng vào lính. Anh cũng muốn lớn nhanh lên để có thể làm như Frank! Anh ấy may mắn lắm.
- Còn em thì thích anh ấy ở lại nhà hơn.
- Đúng quá, em chỉ là một đứa con gái.
Khi Meggie trở vào nhà, cô bé hỏi mẹ.
- Ba đâu rồi?
- Ba đi Wahinẹ
- Có phải ba đi để đem Frank về?
- Thật không có cách nào giấu chuyện bí mật trong gia đình này - Fiona cằn nhằn. - Không, ba không đi tìm Frank ở Wahine. Ba biết Frank đi đâu. Ba đi đánh điện tín cho cảnh sát và cho quân đội ở Wanganui. Lính quân cảnh sẽ mang anh con về đây.
- Mẹ ơi, con hy vọng rằng họ sẽ tìm ra Frank. Con không muốn Frank đi luôn.
- Không một ai trong chúng ta muốn Frank ra đi. Chính vì thế mà ba sẽ lo liệu những điều cần thiết... để người ta đưa Frank trở về đây. Tội nghiệp thằng Frank con tôi! Tội nghiệp Frank! - Bà không nói với Meggie mà than vãn một mình. - Tôi không hiểu tại sao trẻ con phải gánh chịu mọi tội lỗi của người lớn. Thằng Frank tội nghiệp của tôi, nó khác tất cả...
Ba hôm sau, cảnh sát mang Frank trở về! Cậu ta chống lại dữ dội như một con sư tử - theo lời của viên trung sĩ ở Wanganui kể lại cho Pađy.
- Hắn ta đúng là một tên võ sĩ. Khi anh chàng biết được rằng Văn phòng tuyển binh đã được thông báo về trường hợp của hắn, hắn vọt chạy nhanh như một ngọn lao. Nếu hắn không xui rủi đụng đầu một toán lính tuần thì có lẽ đã thoát thân. Hắn chống lại dữ dội như một kẻ bị ma ám. Phải cần tới năm người mới còng hắn được. Anh ta quậy như làm xiếc.
Vừa kể lể một cách hấp dẫn, viên cảnh sát vừa tháo những dây xích nặng nề trả lại tự do cho Frank rồi đẩy Frank qua ngưỡng cửa. Frank bị loạng choạng và khi lấy lại thăng bằng anh đã đứng ngay trước mặt Pađy. Cậu ta co rúm người lại như thể sợ bị phỏng nếu chạm phải thân thể của chạ
Các em của Frank đứng chung quanh nhà nhìn lại. Meggie âu lo không biết người ta có làm gì hại Frank không.
Frank quay sang nhìn mẹ trước hết, hai mắt màu đen và màu nâu pha trộn nhau trong một sự kết hợp chưa bao giờ được nói ra và cũng không bao giờ nên nói ra. Ánh mắt khắt khe màu xanh của Pađy nhìn thẳng Frank vừa khinh miệt, vừa chua cay, như ngầm nói không thể chờ đợi gì khác hơn ở một đứa con như thế. Mắt Frank nhìn xuống đất, chấp nhận cái quyền nổi giận của cha mình. Từ hôm đó, Pađy không nói chuyện với con trai ngoại trừ những câu cần nói.
Gặp lại các em mình, đó là điều hết sức khổ tâm với Frank vừa hổ thẹn, vừa khó chịu, như con chim lộng lẫy bay lên cao từ phương trời xa thẳm nào đó, rồi bỗng bị bắt phải quay về bị gẫy cánh, tiếng hót trở nên lặng lẽ.
Buổi tối như thường lệ, Meggie chờ mẹ kiểm soát xong các con đi ngủ, cô bé mới chuồn ra cửa sổ và băng qua sân sau; Meggie biết rõ Frank ở đâu giờ này. Ở một góc nhà kho, tránh mọi cái nhìn soi nhói, nhất là của cha.
- Frank, Frank, anh ở đâu?
Cô bé hạ thấp giọng hỏi. Meggie bước vào nhà kho tối mịt, chân dò dẫm mặt đất với nỗi lo sợ chạm phải một con vật nào đó.
- Lại đây, Meggie.
Cô bé rất khó khăn mới nhận ra được giọng nói của Frank. Giọng nói ấy trước đây rất quen thuộc với Meggie bây giờ lại nghe đều đều, không còn sự nồng ấm trong đó.
Theo hướng gọi, Meggie đi lần đến chỗ Frank nằm rồi ngã vào lòng anh, hai tay ôm Frank, tay dài được bao nhiêu cô bé ôm hết bấy nhiêu.
- Frank ơi, em sung sướng quá vì anh đã trở về đây.
Frank tìm cách nằm sát hơn nữa dưới đống cỏ khô để có thể nhìn ngang mặt Meggie. Tay cô bé luồn vào tóc của Frank miệng kêu lên gừ gừ như con mèo con. Bóng đen dày đặc không cho Frank nhìn rõ mặt em, thế nhưng tình cảm của Meggie bỗng chốc phá tung những gút mắc trong lòng anh. Frank bắt đầu khóc, run rẩy toàn thân một cách đau đớn, nước mắt làm ướt áo cô bé. Meggie thì không khóc. Cái gì đó trong tâm hồn nhỏ bé của Meggie đã sớm chín muồi và cô bé trở thành một người khác có thể cảm nhận được niềm vui tràn ngập, dữ dội, ý thức rõ về sự cần thiết của mình. Meggie ngồi, tay lay nhẹ đầu tóc nâu thân yêu, cứ thế cho đến khi nỗi đau ở Frank dịu bớt và tan vào khoảng trống.
Title: Re: Tiếng chim hót trong bụi mận gai - Colleen McCullough. Bestseller năm 1977
Post by: Serenade24 on 13/03/07, 09:09
Post by: Serenade24 on 13/03/07, 09:09
Chương 5
"Con đường đi Drogheda chẳng gợi một chút kỷ niệm thời thơ ấu của mình" - cha Ralph de Bricassart thầm nghĩ như thế. Mắt chỉ mở phân nửa đủ để chống chỏi lại ánh sáng quá chói chang giữa lúc chiếc ô tô mới hiệu Daimler đang lăn bánh trên con đường đất gồ ghề bị đào xới bởi những chiếc xe bò qua lại. Không có chút gì êm ả, xanh tươi và mờ ảo của Ailen ở cái xứ này. Drogheda! chẳng phải chiến trường mà cũng chẳng có cuộc vây hãm của cường quốc nào trong lịch sử. Nói thế có quá lố không? Trong con người cha Ralph tính hài hước vẫn rất nhạy, nó đã vẽ ra trong ông hình ảnh một Mary Carson ác cảm và đầy quyền lực theo kiểu nhân vật Cromwell.
Cổng rào cuối cùng hiện lên đàng sau một cụm cây. Chiếc xe đỗ lại, tiếng máy nghe khá to. Cha Ralph bước xuống, đầu đội chiếc nón rộng vành màu ghi đã bạc. Ông kéo cái chốt ra rồi đẩy cánh cổng bực bội. Có ít nhất hai mươi bảy chiếc cổng rào như thế từ nhà của cha Ralph ở Gillanbone đến lãnh địa Drogheda; cứ đến mỗi cổng rào cha Ralph phải dừng xe lại bước xuống, mở cổng rồi trở lên xe, cho xe chạy vào bên kia cổng rồi lại dừng xe lại, bước xuống đóng cổng lại, rồi lại trở lên xe cho đến cổng kế tiếp. Nhiều lúc ông có ý định giảm bớt phân nửa cái công việc đều đặn mất công ấy bằng cách bỏ lại phía sau những cái cổng không được đóng lại. Nhưng dù với cương vị thầy tu khiến cho nhiều người nể trọng, ông cũng biết rằng điều đó vẫn không ngăn cản các vị chủ của những cổng rào sẽ buộc ông trả một giá đắt cho sự cẩu thả của mình. Cưỡi ngựa thì không đi nhanh và tiện lợi bằng xe ô tô nhưng đi ngựa lại có thể mở và đóng các cổng lại mà không cần đặt chân xuống đất. "Tấm huy chương nào cũng có bề trái của nó" vừa nói, tay cha Ralph vừa mân mê cái bảng chỉ dẫn tốc độ. Cái cổng ở phía sau đã được cài chặt lại, cha cho ô tô chạy nốt cây số cuối cùng, tiến vào chính điện của khu vực Droghedạ
Trang trại này ở Úc khiến cho bất cứ ai cũng phải kính nể kể cả một người Ái Nhĩ Lan quen thấy những lâu đài và dinh thự quí tộc. Drogheda là trang trại xưa nhất và rộng nhất trong vùng. Ông chủ của nó, lão Michael Carson, - đã qua đời - xây một tòa nhà rất hài hòa với khung cảnh thiên nhiên, vật liệu xây dựng là sa thạch màu vàng lấy cách đây tám cây số; kiểu kiến trúc của tòa nhà nghiêm trang theo thế kỷ thứ 18 đời vua George đệ nhất ở Anh với một tầng và những cửa sổ rộng chia thành ô vuông nhỏ; một hành lang được chịu trên những cột sắt chạy dài theo tầng trệt. Những cánh cửa sổ bằng gỗ màu đen trang điểm cho chính diện của tòa nhà cũng có công dụng của nó: giữa cái nóng oi bức mùa hè, các cánh cửa đóng chặt để giữ cái mát mẻ bên trong.
Hôm nay, trời vào thu, các gốc nho mọc lên cao những tua xoắn và lá rất xanh. Nhưng vào mùa xuân, những dây đậu tía trồng vào lúc tòa nhà vừa xây - năm mươi năm trước - kết thành một khối chắc nịch với những chùm cây tử đinh hương, cành túa ra rậm rạp, đầy hoa bám dài theo tường và trên mái hiên. Quanh ngôi nhà, nhiều hecta cỏ trải rộng như một tấm thảm, được chăm sóc rất kỹ lưỡng, rải rác đây đó là những hình khối đối xứng, dù ở mùa nào, cũng rực rỡ màu sắc; hoa hồng, thược dược, đinh tử v. v... chen nhau. Một cụm cây bạch đàn đẹp tuyệt màu trắng xám, với những chiếc lá thon dài đong đưa cách mặt đất hai mươi thước, làm cho ngôi nhà tránh được sức nóng dữ dội của mặt trời.
Ngay cả những tháp chứa nước xấu xí cũng được cái loại cây có hoa mọc đan len nhau che kín. Nhờ say mê trang trại, Michael Carson còn sống đã xây không biết bao nhiêu là tháp và bồn nước. Người ta đồn rằng Drogheda có thể giữ cho các thảm cỏ và các vườn hoa tiếp tục xanh tươi dù cho trời không mưa trong mười năm.
Cha Ralph rời ô tô, đang băng qua bãi cỏ thì một đầy tớ gái xuất hiện ở hiên trước nhà. Gương mặt cô ta đầy tàn nhang, cười hết miệng.
- Chào chị Minnie - cha Ralph lên tiếng trước.
- Thưa cha, thật hoan hỉ được gặp cha vào buổi sáng đẹp này - Tiếng của chị ta vang lên vui vẻ, pha giọng Ailen.
Một tay chị giữ cánh cửa bật mở rộng, tay kia chị đưa ra đón lấy chiến nón cũ hình dáng không có vẻ gì là đồ dùng của một tu sĩ.
Mary Carson ngồi trên chiếc ghế bành gần cửa sổ lớn mở rộng, dường như bà không chú ý đến cái lạnh đang tràn vào căn phòng này. Mái tóc màu vàng hung của bà vẫn rực rỡ không kém thời trẻ trung. Trên mặt điểm những nốt tàn nhang màu nâu vì tuổi tác, nhưng không thể che giấu được dưới những nét nhăn. Dấu hiệu duy nhất về bản tính bướng bỉnh của người đàn bà này ẩn chứa trong hai đường khắc sâu hai bên mũi chạy dài xuống mép môi và trong đôi mắt màu xanh nhợt lạnh lùng.
Cha Ralph lặng lẽ đi ngang qua tấm thảm Aubusson và hôn tay lên bà chủ trang trại. Cử chỉ đó hoàn toàn phù hợp với tầm vóc cao lớn, dáng dấp quí phái của vị linh mục. Hơn nữa chiếc áo dòng màu đen giản dị còn mang lại ông cái vẻ lịch thiệp của một nhà tu. Đôi mắt thản nhiên của bà Mary Carson bỗng sáng lên và hình như bà cố làm duyên khi lên tiếng:
- Cha dùng chút trà nhé?
- Rất sẵn sàng, thưa bà Carson nếu trước hết bà yêu cầu được xem lễ, ông đáp.
Ông buông mình xuống chiếc ghế bành; chiếc áo dòng bị giật lên để lộ ra ở bên trong chiếc quần cỡi ngựa mà hai ống nhét vào đôi ủng cao đến gần đầu gối.
- Tôi có mang theo bánh thánh cho bà. Nhưng nếu bà muốn xem lễ, tôi sẵn sàng làm lễ trong vài phút. Có lẽ tôi không cần phải nhịn ăn lâu hơn.
- Cha đã đối xử quá tối với chúng tôi, thưa cha. Bà nói với một thái độ khá kiêu kỳ. Bà biết chính xác là linh mục này, cũng như bao nhiêu linh mục khác đến với bà, không phải do lòng kính trọng mà vì đồng tiền của bà.
- Xin mời cha dùng trà - bà nói tiếp - Tôi thấy cha làm lễ đã đủ.
Cha Ralph cố che giấu những ác cảm của ông về người phụ nữ lớn tuổi này. Rõ ràng, giáo khu này lý tưởng để cho ông rèn luyện lại. Nếu có dịp thoát khỏi thời kỳ thất sủng mà ông đã rơi vào do tánh tình kỳ khôi của mình, thì ông sẽ không bao giờ lặp lại sai lầm cũ. Và nếu ông biết giữ gìn các lợi thế sẵn có, bà già này có thể thỏa mãn những ước nguyện của ông.
- Tôi phải thú thật, thưa cha, năm vừa qua là một năm đặc biệt dễ chịu - bà ta nói. Cha là người chăn dắt được hơn cha Kelly già rất nhiều, mong Chúa trừng phạt tâm hồn mục nát của ông ấy.
Bà nói những tiếng sau cùng giọng đanh lại, thù hằn.
- Bà Carson thân mến! Đó là một tình cảm không được nhân từ lắm.
- Có thể đúng, nhưng nó là sự thật. Ông ta chỉ là một lão già say rượu và tôi tin chắc rằng Chúa sẽ khiến cho tâm hồn lão ta bị thối rữa y như sự thối rữa thân xác của lão ta. Bây giờ tôi bắt đầu hiểu cha khá nhiều. Tôi nghĩ tôi có quyền đặt ra với cha vài câu hỏi chứ? Nói cho cùng, cha coi Drogheda như nơi nghỉ ngơi của chạ Trang trại này sẽ tạo điều kiền cho cha làm quen với chăn nuôi và hoàn chỉnh kỹ thuật cỡi ngựa của cha, tránh những thăng trầm của đời sống ở Gillỵ Dĩ nhiên tất cả những chuyện đó là do sự mời mọc của tôi, nhưng ngược lại tôi có quyền đặt ra một số yêu cầu.
Cha Ralph không thể nào chấp nhận được cái cách mà bà ta nhắc nhở ông là người chịu ơn bà. Nhưng ông đoán biết sẽ có ngày bà ta đánh giá, gây ảnh hưởng, chi phối mình, đủ để có thể đưa ra một số đòi hỏi.
- Đúng thế, bà Carson. Tôi có cảm ơn bà thế nào cũng không đáp lại được sự đón tiếp ở Drogheda và tất cả những ân huệ ... nào là ngựa, xe ô tô...
- Cha bao nhiêu tuổi? - bà ta cắt ngang.
- Hai mươi tám.
- Cha trẻ hơn tôi nghĩ. Dù sao người ta không gởi một linh mục như cha vào một nơi như Gilly. Cha đã làm gì để bị người ta tống về đây, ở tận cùng thế giới?
- Tôi đã nhục mạ giám mục - ông trả lời một cách bình thản, nụ cười trên môi.
- Ồ! Nhưng tôi không thể tưởng tượng một linh mục có tài năng như cha lại có thể vui thích ở cái hóc xó như Gillanbonẹ
- Đó là ý muốn của Chúa.
- Không đúng. Cha đến đây do những sai lầm của con người..., của bản thân cha, và của vị giám mục của cha. Chỉ có Đức Giáo Hoàng là không thể sai lầm mà thôi. Cha hoàn toàn bị tách khỏi môi trường tự nhiên của mình ở Gilly; - mọi người đều nhận thấy điều đó, mặc dù tất cả chúng tôi rất sung sướng có được một người như cha; sự kiện này đã mang lại cho chúng tôi một sự thay đổi dễ chịu vì cho đến nay người ta đã gửi đến đây những tên không ra gì lại mặc áo dòng - Cũng không cấm cản cái môi trường tự nhiên của cha ở trong một phòng chờ nào đó đầy quyền lực giáo hội; chớ không phải ở đây giữa ngựa và cừu. Màu đỏ tía Hồng y thật hạp với cha.
- Tôi e rằng đó không phải là vấn đề. Tôi không coi Gillanbone ở đúng ngay trung tâm lãnh thổ dành cho người đại diện của Giáo Hoàng. Tôi may mắn gặp được bà ở tại Drogheda này.
Bà Carson đón nhận lời nịnh hót được tô đậm không khác lắm với sự dự tính của người đã thốt ra. Bà thích thú về vẻ đẹp trai, sự ân cần của vị linh mục có đầu óc sắc bén và tế nhị. Thật ra ông có thể là một Hồng y tuyệt vời. Trong cả đời, bà không nhớ được khi nào đã gặp được một người đàn ông đẹp đến thế hoặc sử dụng cái đẹp của mình một cách tài tình như cha Ralph. Ông ta biết rõ sức lôi cuốn của mình: dáng dấp cao, thân mình cân đối, nét thanh và quý phái. Có thể nói mỗi yếu tố của cái đẹp thể xác ấy đều kèm theo sự chăm chút cực kỳ cái bề ngoài mà Chúa chỉ trao cho một số rất ít người. Từ mái tóc đen và mịn, đến màu xanh đáng kinh ngạc của đôi mắt, bàn tay, bàn chân thanh nhã và cân đối, ông ta thật hoàn toàn. Đúng thế, ông ta ý thức rất rõ về vẻ đẹp của mình. Thế nhưng ông ta làm ra vẻ dè dặt như muốn chứng tỏ không bao giờ ông để mình nô lệ với cái bề ngoài đẹp trai ấy. Cũng có thể ông ta sẵn sàng sử dụng sức lôi cuốn của mình để đạt được điều mong muốn không chút ngại ngùng nếu ông xét thấy cần thiết nhưng không hề tự mê hoặc. Bà Mary Carson thiết tha muốn biết điều gì đã đưa đẩy vị linh mục cư xử theo cách đó.
Thật lạ lùng. Có lắm linh mục đẹp như những chàng Adonis trong huyền thoại, cộng thêm sức quyến rũ nhục dục của một Don Juan. Có phải chăng họ chọn sự độc thân để lánh mình trốn tránh các hậu quả.
- Tại sao cha lại chấp nhận cuộc sống ở Gillanbone? Tại sao cha không cởi bỏ áo dòng mà phải theo đuổi một cuộc sống như thế này? Những năng lực trời phú cho phép cha trở nên giàu có và uy quyền... Trước hết, cha đừng nói là cha dửng dưng với ý niệm về quyền lực.
- Bà Carson thân mến, bà là một tín đồ công giáo - ông nói, mày nhíu lại - Bà biết rằng ước nguyện của tôi là thiêng liêng; tôi không thể từ bỏ. Tôi sẽ mãi mãi là linh mục cho đến chết.
Bà ta hít mạnh vào rồi cười ngặt nghẽo.
- Thôi đi, thôi đi! Bộ cha thật sự tưởng rằng nếu cha từ bỏ ước nguyện của mình, cha sẽ bị một cơn sấm chớp, chó và súng đạn rượt đuổi?
- Dĩ nhiên là không. Cũng như tôi không tin bà có thể nghĩ rằng sự sợ hãi bị trừng phạt sẽ giữ tôi lại con đường ngaỵ
- Ồ! Cha đừng dùng những lời lẽ trịnh trọng như thế. Thế thì cái gì ràng buộc cha? Cái gì đã buộc cha phải chịu đựng ở nơi bụi bặm, nóng bức và đầy muỗi mòng như cái xứ Gilly này? Và nhất là cha có thể ở lại đây vĩnh viễn.
Một thoáng suy nghĩ xuất hiện trong đôi mắt màu xanh của vị linh mục nhưng ông lại mỉm cười, nhìn bà Carson thương hại.
- Quả thật bà còn sức sống lắm - ông nói như thì thầm. Tôi đã chọn lựa trở thành linh mục khi còn ở trong nôi. Làm sao tôi có thể giải thích điều đó với một phụ nữ? Phần nào đó tôi là nơi thu nhận, thưa bà Carson, và nhiều lúc, tôi cảm thấy chúng tràn ngập trong tôi. Nếu tôi là một linh mục xứng đáng hơn, sẽ không cần một thời kỳ chuyển tiếp nào. Và cái trạng thái trọn vẹn, sự đồng nhất với Chúa không lệ thuộc ở một nơi nào nhất định, dù tôi ở Gillabone hay giữa các bức tường trong một tòa giám mục, ơn Chúa vẫn đến như nhau. Dĩ nhiên rất khó giải thích vì nó vẫn là điều huyền bí, ngay cả với các linh mục. Có phải chăng chính là thế. Từ bỏ sự thiêng liêng ấy? Tôi không thể từ bỏ được.
- Như vậy, cha giải thích có thể giống như một thứ quyền lực, phải không? Tại sao nó chỉ ban cho các linh mục? Điều gì làm cho cha tin rằng chỉ cần một lần xức dầu thánh trong một buổi lễ dài và mệt mỏi là đủ mang đến điều thiêng liêng ấy cho mọi người?
Ông lắc đầu.
- Phải nhiều năm suy nghĩ trước khi được thụ phong, thưa bà Carson. Một tiến triển chậm đưa đến một trạng thái tâm hồn mở ra cho Chúa ngự. Việc thụ phong tự nó xứng đáng và mỗi ngày, chúng ta tỏ ra xứng đáng; đó là mục đích của khánh nguyện, bà thấy không? Không một yếu tố thế tục nào, xen vào giữa người giáo sĩ và thiên hướng của ông ta... kể cả tình yêu của người phụ nữ hay tiền bạc, hoặc sự ghê tởm phải khuất phục trước những mệnh lệnh của những người khác. Sự nghèo khó không phải mới lạ đối với tôi, tôi không xuất thân từ một gia đình giàu có. Tôi chấp nhận sự thanh khiết mà không thấy khó khăn lắm. Còn sự phục tùng? Đối với riêng tôi, đó là điều khó nhất. Nhưng tôi tùng phục vì rằng nếu tôi tự coi mình quan trọng hơn chức năng thừa sai của Chúa thì tôi đã lạc hướng. Tôi phục tùng. Và nếu cần, tôi sẵn sàng chấp nhận Gillanbone suốt đời.
- Như thế thì cha là thằng ngốc - bà Carson vặn lại. Tôi cũng thế, tôi cho rằng có nhiều điều quan trọng hơn là tìm cho mình một nhân tình. Nhưng tự cho mình là nơi Chúa ngự, tôi không coi đó là một trong những điều quan trọng. Tôi không bao giờ nhận ra được rằng cha lại tin ở Chúa với một nhiệt tâm như thế. Tôi nghĩ ở cha cũng có sự hoài nghị
- Ồ, tôi cũng thế thôi! Có con người lý trí nào lại không hoài nghi! Chính vì thế mà có những lúc tôi trở nên trống rỗng. Bà biết không, tôi nghĩ rằng tôi có thể từ bỏ mọi tham vọng, và bóp chết mọi ham muốn để có hy vọng trở thành một linh mục hoàn toàn.
- Sự hoàn toàn dù ở bất cứ lĩnh vực nào cũng không thể chịu được, một thứ buồn chán thảm hại - Bà Carson nhận xét - Riêng tôi, tôi thích và thích hơn nhiều một nét nào đó không hoàn toàn.
Cha Ralph cười, nhìn bà Carson với sự ngưỡng mộ lẫn sự đố kỵ. Một người đàn bà đặc biệt.
Sự góa bụa đến với bà cách đây 30 năm và đứa con duy nhất, đứa con trai, đã chết lúc tuổi còn nhỏ. Do hoàn cảnh đặc biệt của bà ở giữa Gillanbone, bà đã không nhận lời bất cứ một người đàn ông nào hỏi cưới bà trong số những người nhiều cao vọng nhất mà bà có quan hệ. Với tư cách vợ góa của Michael Carson, bà là một bà hoàng không thể chối cãi. Nhưng với tư cách vợ của một gã nào đó bà đành chuyển cả quyền lực của mình cho người mình chọn. Chính vì thế mà bà từbỏ các khoái lạc xác thịt, thích cầm lấy cây gậy quyền hành hơn. Thật khó tưởng tượng được bà ta lấy chồng ở cái xứ Gillanbone này vốn rất thích cái món ngồi lê đôi mách, nói xấu. Thì đã ra sao. Biết đâu bà lại không đi ngược lại cách xử thế lâu nay và trở nên nhân hậu, yếu đuối.
Nhưng bây giờ bà đã khá lớn tuổi và người ta biết rằng bà ở ngoài vòng cám dỗ xác thịt. Khi vị linh mục trẻ tỏ ra cần mẫn trong các nhiệm vụ, bà có thể trả ơn ông bằng những món quà nhỏ, như chiếc ô tô. Cử chỉ đó không hề bị coi là khiếm nhã. Là cột trụ không hề lay chuyển của nhà thờ trong suốt cuộc đời, bà đã giúp cho xứ đạo và người dìu dắt tinh thần đúng như điều nên làm, ngay cả khi cha Kelly say mèm lảo đảo trong khi làm lễ. Bà không phải là người duy nhất quan tâm một cách đặc biệt người thay thế cha Kelly; cha Ralph de Bricassart xứng đáng được lòng tất cả các con chiên nghèo cũng như giàu. Nếu giáo dân ở xa nhất không có khả năng đến gặp ông ở Gillanbone thì ông đến với họ và cho tới khi Mary Carson tặng cho ông chiếc ô tô Daimler, ông di chuyển bằng ngựa. Sự kiên nhẫn và lòng tốt của ông khiến cho mọi người đều biết ơn. Một số người yêu mến ông một cách chân thành; chẳng hạn như Martin King ở Bugela đã trang hoàng lại rất tốn kém nhà xứ; Dominique O'' Rourke ở Dibbanđibban trả tiền lương hàng tháng cho người quản gia giỏi giang.
Do đó, đứng trên đài cao của tuổi tác và đơn vị, Mary Carson tự cho phép mình được hưởng mối quan hệ thân mật với cha Ralph mà không hề sợ tai tiếng. Bà thích tấn công ông bằng trí tuệ, con người mà bà đánh giá ngang mình về mặt này. Bà lấy làm thích thú khi tìm cách xuyên thủng các ý nghĩ thầm kín của cha Ralph bởi vì bà chưa bao giờ tin rằng mình đã hiểu rõ con người này.
Minnie đẩy chiếc bàn có bốn bánh xe nhỏ vào phòng, trên đó đặt trà và bánh ngọt.
Mary Carson trao cho khách bánh galét và lát bánh mì nướng.
- Cha thân mến - bà nói sau một tiếng thở ra - tôi mong cha sẽ cầu nguyện cho tôi với một sự nhiệt tình đặc biệt như sáng naỵ
- Bà hãy gọi tôi là Ralph. Tôi nghi ngờ về khả năng tôi cầu nguyện cho bà với một nhiệt tình cao hơn mọi khi. Tuy nhiên tôi sẽ cố gắng.
- Ồ, cha quả là người quyến rũ! Nhưng nhận xét của cha không hồn nhiên như người ta tưởng. Nói chung, tôi không quan tâm đến cái gì đương nhiên có, nhưng ở cha tôi không dám tin chắc rằng điều đập vào mắt thật ra chỉ là cái phần chìm dưới nước của tảng băng; phần nào đó giống như củ cà rốt mà người ta nhử trước con lừa. Thật sự cha nghĩ thế nào về tôi, cha De Bricassart? Tôi sẽ không bao giờ biết được điều đó vì rằng cha là người quá tế nhị phải không? Thật quyến rũ, quyến rũ... Nhưng cha nhớ hãy cầu nguyện cho tôi. Tôi già rồi và phạm nhiều tội lỗi.
Rồi bà Carson cười khúc khích.
- Tôi rất muốn biết được cha đã phạm tội như thế nào? Đúng thế, tôi rất muốn biết. Trong lúc này, tôi đang thiếu một người quản lý.
- Lại thiếu nữa?
- Có tất cả năm người lần lượt làm công việc ấy trong năm qua. Thật khó mà tìm được một người tin cậy.
- Nếu dư luận đồn đãi mà đúng thì rõ ràng bà không phải là một người chủ quảng đại và tốt bụng đối với những người làm công.
- Ồ sao lại ăn nói trâng tráo thế - Mary Carson vừa nói vừa cười - Ai đã tặng cho cha chiếc Daimler mới toanh để cho cha khỏi phải đi ngựa.
- Ồ! Nhưng bà cũng thấy với nhiệt tình của tôi như thế nào khi cầu nguyện cho bà.
- Nếu Michael có được một chút trí tuệ và cá tính của cha, tôi tin rằng tôi đã yêu anh ấy - Bà ta buông câu nói đột ngột (sắc mặt của bà đổi ngay và trở nên cau có) có lẽ cha nghĩ rằng tôi không còn một người bà con nào ở trên cõi đời này và tôi buộc phải để lại tiền bạc, đất đai cho Mẹ của giáo hội chúng ta?
- Tôi hoàn toàn không biết một tí gì - cha Ralph đáp lại một cách thản nhiên, tay vừa châm trà vào tách.
- Đây nhé, tôi vẫn còn một người em gia đình đông con phần nhiều là con trai.
- Bà quả thật rất may mắn - giọng cha Ralph nghiêm nghị.
- Khi tôi lấy chồng, tôi hoàn toàn không có một tài sản đất đai nào. Lúc đó tôi biết rằng tôi không thể kiếm một tấm chồng khá giả ở Ailen nơi mà một cô gái muốn câu được một ông chồng giàu phải có học và thuộc dòng dõi tiếng tăm. Cho nên tôi đã làm ăn vất vả để dành dụm một số tiền đủ để đi đến một nước khác, ở đó đàn ông giàu có và ít đòi hỏi hơn. Khi đặt chân lên đất này, tôi chỉ biết dựa vào gương mặt dễ coi, vóc dáng và một bộ óc trên trung bình của mình. Như thế tôi đã đóng đinh Michael Carson, một thằng giàu ngu độn. ông ta yêu tôi cho đến hơi thở cuối cùng.
- Còn người em của bà? - Cha Ralph vội vàng hỏi với hy vọng kéo bà ta trở lại đề tài chính.
- Em trai tôi Padraic nhỏ hơn tôi 11 tuổi. Vậy là hắn đã 54 rồi. Chúng tôi là hai kẻ duy nhất của gia đình còn sống sót lại. Tôi biết rất ít về em tôi vì khi tôi rời Galway nó vẫn còn quá nhỏ. Hiện nay em tôi sống ở Tây Tây Lan. Nó đã bỏ xứ ra đi mưu tìm sự nghiệp nhưng lại không thành công. Tối hôm kia lúc một trong những công nhân của tôi đến cho hay tên quản gia Arthur Teviot đã chuồn với bọc quần áo của hắn, tôi chợt nghĩ đến Padraic, một người sống chết với đất đai, nhiều kinh nghiệm nhưng không có điều kiện để trở thành ông chủ. Thế thì tại sao tôi không viết thư cho em tôi và yêu cầu Padraic đưa con cái đến đây làm ăn sinh sống - Tôi đã tự nói với mình, khi tôi chết, sẽ cho nó thừa kế Drogheda và công ty Michael Limited vì nó là bà con gần nhất của tôi, không kể vài người anh em bà con xa xôi còn ở lại Ailen.
Bà cười và nói tiếp:
- Tại sao lại phải chờ đợi? Nó đến ngay bây giờ vẫn tốt hơn là khi tôi đã chết. Ngay bây giờ nó có thể làm quen với công việc nuôi cừu trên những cánh đồng đất đen mà theo tôi rất khác xa với các điều kiện ở Tây Tây Lan. Sau đó, khi tôi không còn nữa, nó đã có thể mang đôi ủng của tôi một cách thoải mái
Đầu hơi nghiêng, bà quan sát rất kỹ cha Ralph.
- Tôi tự hỏi tại sao bà không nghĩ đến chuyện này sớm hơn - Ralph chỉ nói thế.
- Ồ, tôi có nghĩ chứ! Tuy nhiên gần đây, tôi muốn tránh bằng mọi giá cái đám kên kên chờ đợi một cách sốt ruột ngày tàn của tôi. Tôi có cảm giác là cái ngày của số mệnh gần kề và tôi tin rằng... Ồ! Tôi không biết. Giá mà cái ngày ấy quanh tôi là những người ruột thịt chắc là những người ruột thịt chắc là tôi sẽ dễ chịu hơn.
- Chuyện gì đã xảy ra, bà đang bệnh? Cha Ralph hỏi dồn đầy lo âu.
- Tôi hoàn toàn khỏe mạnh - Bà Mary Carson nhún vai - Tuy nhiên, vượt qua cái tuổi 65 cũng có cái gì đáng lo ngại.
- Tôi hiểu, và bà rất có lý. Chắc hẳn bà muốn được nghe những giọng nói trẻ trung trong ngôi nhà này.
- Ồ, họ không ở đây đâu - Bà Carson kêu lên - Họ sẽ ở tại nhà dành cho quản lý, nằm bên con suối cách đây không xa. Đặc biệt tôi không thích trẻ con, kể cả tiếng nói của chúng.
- Phải chăng làm như thế là keo kiệt với em trai duy nhất của bà?
- Nó sẽ có gia tài... vậy nó phải xứng đáng để được nhận cái gia tài đó! Bà Carson nói một cách sòng phẳng.
Fiona lại sinh thêm một đứa bé trai sáu ngày trước khi Meggie kỷ niệm sinh nhật lần thứ chín. Bà coi đó là điều may mắn sau hai lần sẩy thai. Chín tuổi, Meggie có thể giúp đỡ cho mẹ. Fiona đã bốn mươi - cái tuổi không còn trẻ để sinh con mà không thấy cực nhọc và mất sức. Đứa con trai kém sức khỏe được đặt tên là Harold, và đây là lần đầu tiên bà phải nhờ bác sĩ đến nhà chăm sóc thường xuyên.
Đúng là họa vô đơn chí, biết bao nhiêu khó khăn lại chồng chất lên gia đình Cleary. Sau chiến tranh, thời kỳ phát triển vẫn còn là chuyện xa vời, tệ hơn nữa các miền quê đang bước vào cơn khủng hoảng nên việc làm càng ngày càng khó hơn.
Lão Angus Mac Whirter một hôm mang đến cho gia đình bức điện lúc buổi cơm trưa vừa xong. Hay tay run run. Pađy mở phong thư ra: một bức thư gởi như thế thường không phải là những tin vui. Mấy đứa con trai tụ tập lại quanh ông, chỉ trừ Frank cầm tách trà và rời khỏi bàn ăn. Fiona nhìn theo Frank rồi quay nhìn ông chồng. Pađy lẩm bẩm gì đó.
- Chuyện gì đó hở anh? Bà hỏi chồng đang nhìn tờ giấy và ông trả lời như một tin báo tử.
- Archibald không cần cha con chúng ta - Bob đấm mạnh một cách tức giận xuống bàn. Anh đã quá hy vọng về việc theo tập sự làm thợ cắt lông cừu mà khởi đầu là đàn cừu của Archibald.
- Tại sao hắn lại chơi mình một vố đau như vậy hở bả Đáng lẽ ngày mai chúng ta đã bắt đầu.
- Hắn không nêu ra lý do nào cả. Ba đoán chắc một tên vô loại nào đó đã hạ giá thấp để "chặt co" dưới chân chúng tạ
- Ồ, Pađy! Bà vợ thở ra.
Đứa bé mà cả nhà gọi là Hal bắt đầu khóc trong chiếc nôi đặt gần nhà bếp. Fiona chưa kịp quay lại thì Meggie đã nhanh chân đến bên em. Frank vừa trở lại đứng gần cửa, vẫn tách trà trên tay, anh nhìn cha một cách chăm chú.
- Vậy thì bắt buộc tôi phải đi gặp Archibald - Cuối cùng Pađy đã nói như thế - Bây giờ đã quá trễ để đi tìm một chỗ có người thuê cắt lông cừu. Tôi cho rằng hắn phải giải thích với tôi rõ ràng. Chúng ta chỉ còn hy vọng kiếm được công việc vắt sữa cho đến khi đến Willoughly vào tháng bảy.
Trong khi nhìn Meggie thay tã cho em, Frank trêu chọc:
- Một người mẹ nhỏ...
- Ồ, đừng nói thế - Meggie bẻ lại, giận dỗi - Em chỉ giúp mẹ thôi mà...
- Anh biết - Frank gật đầu dễ thương - Em là một cô gái rất tốt, Meggie bé nhỏ của anh.
Nếu không vì Meggie và mẹ, Frank đã dứt khoát rời khỏi ngôi nhà này. Anh nhìn cay độc về phía cha, người trách nhiệm chính về cuộc sống mới có lắm xáo trộn trong gia đình.
Vì đã lớn Frank không bị đuổi ra khỏi nhà lúc mẹ sinh bé Hal, cho nên anh nghe tất cả những tiếng rên la khủng khiếp từ phòng mẹ hôm Hal ra đời. Chưa có một người phụ nữ nào lại chịu một thử thách ghê gớm như thế - anh đã lặp lại câu này cả ngàn lần. Một người đàn ông ích kỷ, không chịu để cho vợ được yên.
Meggie đặt Hal trở vào nôi và đến đứng bên cạnh mẹ. Lại một cô gái mà cuộc đời sau này sẽ vứt đi - Frank chua xót thầm nghĩ. Cũng gương mặt nghiêng nghiêng, sự nhạy cảm có cái gì đó của mẹ trong đôi tay, trong thân hình nhỏ bé của Meggiẹ Cô bé sẽ giống mẹ rất nhiều khi trở thành một phụ nữ. Meggie sẽ lấy ai làm chồng? Một thằng bặm trợn nào khác làm nghề cắt lông cừu người Ailen hay một tên nào đó thô lỗ, dơ dáy, làm mướn tại một hãng sữa ở Wahine? Con bé xứng đáng có một người chồng hơn thế nhưng gốc gác gia đình không cho phép Meggie đòi hỏi cao hơn. Tình thế bế tắc, đó là điều mà ai cũng nói đến và mỗi năm như khẳng định thêm lời tuyên án này.
Đoán biết cái nhìn chăm chú của Frank; Fiona và Meggie quay lại, cùng một lúc cả hai cười thật trìu mến, nụ cười mà phụ nữ thường chỉ dành cho người mình yêu thương nhất. Frank đặt tách trà xuống rồi đi ra sân cho chó ăn, anh thèm được khóc hay giết người miễn là làm sao vơi đi sự đau khổ.
Ba ngày sau Pađy nhận được tin buồn từ Archibald thì thư của Mary Carson đến. Ông mở thư ngay tại trạm bưu điện Wahine và trở về nhà vui mừng nhảy nhót như một đứa trẻ con.
- Chúng ta sẽ đi Úc! ông hét lên, tay giơ cao những tờ giấy trắng mịn đắt tiền trước sự ngơ ngác của gia đình.
Im lặng. Mọi người nhìn ông. Sắc mặt của Fiona lộ nét băn khoăn, Meggie cũng thế, nhưng ánh mắt của mấy đứa con trai thì đầy niềm vui. Mắt Frank sáng chói.
- Nhưng này Pađy, tại sao chị ấy bỗng nhiên nhớ đến anh sau bao nhiêu năm xa cách? - Fiona hỏi chồng sau khi đọc lá thư. Từ lâu nay chị ấy vẫn giàu có và vẫn sống cô độc. Thế nhưng có lúc nào bà ấy ngỏ lời giúp đỡ chúng ta đâu.
- Hình như chị ấy sợ chết một mình - Pađy nói để vừa xua đuổi nỗi lo sợ của mình vừa làm yên lòng Fiona. Em có thấy chị ấy nói: chị không còn trẻ và gia đình các em là những người thừa kế của chị. Chị nghĩ rằng chúng ta nên gặp nhau trước khi chị chết và đã đến lúc em tập làm người quản lý của chị, đó là một cách đào tạo tốt. Các con của em đã đến tuổi làm việc, cũng có thể tham gia có hiệu quả vào việc chăn nuôi. Drogheda sẽ trở thành một kiểu làm ăn gia đình, điều khiển bởi gia đình, không cần sự tiếp tay từ bên ngoài.
- Chị ấy không nói gì đến chuyện gởi tiền cho chúng ta đi à?
Pađy ưỡn người lên vàdứt khoát:
- Không bao giờ tôi chịu hạ mình xuống xin xỏ chị ấy! Chúng ta có thể đến Úc mà không cần ăn mày tiền của chị ấy. Tôi có một số tiền dành dụm lâu naỵ
- Tôi nghĩ đúng ra chị ấy phải chịu cái khoản chi phí này chứ - Fiona vặn lại không chịu bỏ quạ
Sự bướng bỉnh của Fiona làm ai cũng ngạc nhiên bở lâu nay ít khi Fiona nói năng như vậy.
- Tại sao anh lại từ bỏ cuộc sống của anh tại đây và đi làm việc cho chị ấy chỉ vì tin vào một lời hứa trong thư? Chị ấy chưa bao giờ nhúc nhích một ngón tay để giúp chúng ta, tôi không tin ở chị ấy. Tôi nhớ đã nghe chính anh nói về chị ấy. Tựu chung chị ấy có những ngón tay cong quắp đáng tởm hơn cả bọn người bòn rút từng xu. Anh Pađy à, dù sao thì anh cũng không biết rõ chị ấy; anh và chị ấy cách xa nhau về tuổi, chị ấy đi lúc trước khi anh bắt đầu đi học kia mà.
- Anh thấy điều đó chẳng ăn thua gì. Và nếu chị ấy thuộc loại người bòn rút từng xu, lại càng tốt, vì như thế chẳng qua là chúng ta sẽ được nhiều tiền hơn. Đừng kèo nài nữa Fiona à. Chúng ta sẽ điúUc và chúng ta sẽ tự lo cho chuyến đi ấy.
Fiona không nói thêm một lời. Trên sắc mặt bà không để lộ một nét nào để có thể biết bà bị tổn thương hay không.
- Hoan hô, chúng ta sẽ đi Úc! Bob ôm lấy vai cha nói lớn.
Jack, Hughie và Stuart nhảy múa lung tung còn Frank chỉ mỉm cười, mắt nhìn xa xăm.
Chỉ có Fiona và Meggie là buồn và lo ngại. Cả hai hy vọng rằng mọi chuyện sẽ không đến đâu vì cuộc sống ở Úc chưa chắc sẽ dễ dàng hơn, bên ấy cũng sẽ y hệt như ở đây mà lại thêm sự lạc lõng vì lạ xứ lạ người.
- Gillanbone ở đâu ba? - Stuart hỏi.
Một tấm bản đồ thế giới cũ kỹ được đem ra. Mấy đứa con trai mở to mắt nhìn những tờ giấy ngả màu vàng ố cho đến khi phát hiện ra New South Wales, diện tích tương đương với Bắc đảo của Tây Tây Lan. Và kìa Gillabone ở phía trên góc.
- Đây là tấm bản đồ rất cũ, Pađy giải thích. Úc châu giống như châu Mỹ, phát triển với những bước vĩ đại. Tôi tin chắc rằng cho tới nay đã có nhiều thành phố được xây dựng.
Pađy đi Wanganni để giữ tám chỗ nằm trên tàu thủy Wahine. Phải mang mấy con chó cho hàng xóm, bán rẻ một số bàn ghế, chỉ giữ lại một vài món mà Fiona cần thiết. Chén, dĩa, quần áo, sách vở và dụng cụ nhà bếp đều được đóng thùng mang xuống tàu.
Cuộc hành trình đúng là cơn ác mộng. Trước khi tàu Wahine rời cảng Wellington, tất cả đã say sóng và cứ trong tình trạng đó chịu đựng suốt một ngàn hai trăm hải lý trên mặt biển động với những cơn gió mùa đông.
Bốn tiếng đồng hồ sau khi rời Wellington, Frank và Meggie vẫn luôn ở bên mẹ và em bé, tưởng đâu mẹ mình sắp chết. Người phục vụ trên tàu mời một y sĩ từ những buồng hạng nhất xuống khám Fionạ ông ta đã lắc đầu bi quan.
- Mong sao cho cuộc hành trình sớm kết thúc - ông ta chỉ nói thế.
Liền đó, ông ra lệnh cho y tá tìm sữa cho đứa bé.
Frank và Meggie vẫn cố gắng cho bé Hal bú nhưng Hal không thiết tha lắm khi bình sữa được đưa vào miệng.
Còn ba tiếng đồng hồ nữa đến Sydney, biển đột ngột phẳng lặng như mặt gương. Meggie bắt đầu tỉnh lại, tưởng tượng rằng chiếc tàu đang rên siết sau những đòn nhừ tử chịu đựng sóng gió.
Meggie không bao giờ quên những tiếng còi buồn bã rú lên trong sương mù, ấn tượng đầu tiên khi đến Úc.
Pađy đã bồng Fiona trên tay khi rời tàu Wahine, tiếp theo là Frank với em bé, Meggie với một vali và mỗi đứa con trai bước đi chệnh choạng, lưng còng dước sức nặng của một thứ nào đó. Họ đến Pyrmont - cái tên hoàn toàn vô nghĩa đối với họ - vào một buổi sáng mùa đông đầy sương mù, cuối tháng tám 1921. Một hàng xe tắc-xi nối đuôi nhau đậu trước bến tàu. Mắt Meggie mở to ra, miệng há hốc, đứng nhìn; chưa bao giờ cô bé lại thấy lắm ô tô tập trung lại một nơi như thế. Pađy dồn được cả nhà lên một chiếc tắc-xi. Tài xế gợi ý đưa họ đến khách sạn Cung nhân nhân.
- Nơi này thích hợp nhất cho gia đình ông bạn - hắn giải thích với Pađy. Đây là một khách sạn dành cho công nhân do những người thuộc Đạo quân cứu thế quản lý.
Các con đường rộng đầy xe, chạy đủ hướng. Có rất ít ngựa. Chóa mắt, họ nhìn ngắm những tòa nhà cao bằng gạch, ngạc nhiên về những bước đi tất bật của khách bộ hành ở Wellington. Thủ đô Tây Tây Lan đã để lại dấu ấn đối với họ nhưng so với Sydney thì nó chỉ như một thị trấn.
Trong khi Fiona nghỉ ngơi ở một trong vô số những phòng của khách sạn được gọi một cách trìu mến Cung nhân dân, Pađy đi đến nhà ga trung tâm để hỏi giờ tàu lửa đi Gillanbone.
Ngay tối hôm đó họ lại lên tàu. Nếu không đi ngay chuyến này họ phải nằm khách sạn thêm một tuần nữa mới có tàu đi Gillanbone. Trước khi lên tàu, Pađy đã đánh điện cho Mary Carson báo trước tin họ sẽ đến vào chiều mai.
Pađy tìm được một ngăn trống trên toa tàu hạng ba cho cả gia đình. Những người lên sau ghé đầu vào tìm chỗ đều kinh hãi bỏ đi khi thấy lúc nhúc trẻ con.
Sáng hôm sau, mở choàng mắt ra, họ kinh ngạc và lo âu trước cảnh vật hết sức lạ lùng ngoài sự tưởng tượng. Hóa ra có một nơi như thế này trên trái đất hay sao? Vẫn là những thung lũng nhỏ có vẻ dịu dàng như ở Tây Tây Lan nhưng không có chút gì gợi đến miền đất vừa bỏ đi. Chỉ có màu nâu và màu xám, kẻ cả cây lá! Lúa mì mùa đông đã ngả sang màu bạc pha vàng hung dưới ánh nắng dữ dội của mặt trời. Fiona nhìn cảnh vật không để lộ xúc động còn Meggie thì nước mắt ràn rụa. Thật ghê tởm, mênh mông và không có một dấu vết của màu.
Gillanbone xuất hiện lúc ánh mặt trời sắp tắt. Một sự tập hợp đẹp mắt những căn nhà gỗ với tôn dợn sóng đã cũ. Hai bên con đường chính đầy bụi bặm, không có cây và buồn tẻ. Những tia sáng cuối cùng của mặt trời phủ lên một màu vàng hào nháng, đem lại cho thị trấn cái uy thế ngắn ngủi mờ dần. Gia đình Cleary đứng tại nhà ga mở to mắt nhìn. Nơi đây là một tập hợp dân cư trưng ở ngoài rìa cũng những vùng đất đai khô cằn. Nơi cuối cùng của một vùng còn nhận được những trận mưa không xa lắm về hướng Tây, bắt đầu ba ngàn cây số đất sa mạc.
Một chiếc ô tô lộng lẫy đậu ở sân ga, một linh mục tiến đến gần họ bằng những bước dài mà không cần chú ý đến lớp bụi dày. Chiếc áo dòng dài gợi nhớ hình ảnh của quá khứ; hình như ông không đi trên hai chân như một người bình thường, mà lướt nhẹ như trong một giấc mơ; xung quanh ông bụi tung lên từng đợt.
- Xin mừng tất cả đã đến bình yên, tôi là cha De Bricassart, vừa nói ông vừa đưa tay ra bắt tay Pađy. Tôi không thể nào lầm, ông đúng là em trai của bà Mary, ông giống bà ấy như hai giọt nước (ông quay sang nắm tay Fiona đưa lên môi với một nụ cước hết sức chân thành. Hơn ai hết, cha Ralph nhận ra ngay, đó là một người phụ nữ đáng kính). Bà rất đẹp - ông nói câu ấy như thể nhận xét vừa rồi của ông là chuyện tự nhiên đối với một linh mục, rồi ông đưa mắt về phía anh em gia đình Cleary đang tập trung ở một góc.
Mắt ông dừng một lúc, ngạc nhiên nhìn Frank bế Hal trên tay. Phía sau đám con trai, Meggie đứng nhìn cha Ralph, miệng hé mở, tần ngần một chút như vừa chứng kiến sự xuất hiện của Chúa. Không quan tâm đến chiếc áo dòng bằng vải mịn phết xuống đất, ông vượt qua đám con trai đến ngồi trước mặt Meggie đặt hai bàn tay chắc rắn lên tay cô bé như dịu dàng che chở:
- Thế nào! Con tên gì? Cha Ralph hỏi với nụ cười.
- Meggie - cô bé trả lời.
- Em tôi, tên Meghann - Frank xen vào hai mày nhíu lại tỏ vẻ bực mình con người dẹp trai và cao lớn ấy.
- Meghann là cái tên tôi ưa thích (ông đứng dậy nhưng vẫn giữ tay Meggie trong tay mình). Tốt nhất là các bạn đến nghỉ đêm tại nhà xứ, ông vừa nói vừa dẫn Meggie đến xe ô tô. Tôi sẽ đưa các bạn đến Droghela sáng mai; trang trại quá xa nên sau một cuộc hành trình dài bằng tàu hỏa thế này, chúng ta chưa thể đi ngay được chiều nay.
Khách sạn Hoàng Gia, nhà thờ công giáo, trường học của nhà thờ, tu viện và nhà xứ là những ngôi nhà bằng gạch hiếm hoi ở Gillanbone; tất cả các nhà khác, kể cả trường lớn của thị xã, đều bằng gỗ.
Bây giờ bóng tối đã phủ trùm, trời trở lạnh không thể tưởng tượng; nhưng phòng khách nhà xứ, ngọn lửa của lò sưởi đang cháy và từ một gian kế đó một mùi thơm dịu dàng hấp dẫn thoang thoảng bay qua. Bà quản gia người Scotland da nhăn nheo, miệng luôn nói. Đã quen với sự lạnh nhạt của các linh mục ở Wahine, gia đình Cleary vẫn xa lạ trước vẻ hiền lành chất phác nổi bật ở cha Ralph. Chỉ có Pađy là chậm, không có gì ngạc nhiên vì ông liên tưởng đến lòng nhân hậu của các tu sĩ vùng Galway quê hương của ông vẫn thường có cách đối xử tốt với người nghèo khó. Với ông, tôn giáo là hơi ấm và niềm an ủi; còn với những người khác trong gia đình ông thì tôn giáo là một khái niệm ăn sâu đầy sợ hãi, là sự khép mình vào một cách xử thế chệch ra ngoài nếu muốn tránh bị đày xuống địa ngục.
Khi mọi người đã về phòng, cha Ralph ngả người thoải mái trong chiếc ghế bành, mải mê nhìn ngọn lửa, đốt một điếu thuốc và mỉm cười. Trong đầu ông hiện lại đầy đủ hình ảnh gia đình Cleary, đúng như lần đầu ông đã gặp ở sân ga. Người đàn ông thật giống Mary Carson, nhưng lưng còng vì làm lụng vất vả và rõ ràng không hề có nét thâm hiểm của người chị. Vợ ông ta, đẹp, mỏi mệt, tưởng như vừa bước xuống từ trên chiếc xe sang trọng được kéo bởi những con ngựa trắng. Frank, cau có, mắt đen, thật đen; các đứa con trai khác giống cha, ngoại trừ đứa nhỏ nhất giống mẹ. Stuart, thằng này lớn lên sẽ rất đẹp. Đứa bé còn bồng không thể biết nó sẽ ra sao, và cuối cùng là Meggie.
Đây là đứa con gái đẹp và đáng yêu nhất mà ông chưa từng gặp. Màu tóc không thể nào mô tả được, không nâu mà cũng không vàng một sự hòa hợp tuyệt vời của hai màu. Cô bé đã nhìn ông bằng đôi mắt xám ánh lên màu bạc, con người trong suốt óng ánh như những viên ngọc. Nhún vai, ông ném điếu thuốc vào lò sưởi và đứng dậy.
Sáng hôm sau, ông đưa những người khách đi Drogheda. Quen thuộc với cảnh vật dọc đường, bằng những nhận xét của mình, ông gây thích thú cho những người ngồi trên xe. Hôm nay trời nóng bức, như hôm qua.
Tất cả ngồi chiếc Daimler tiện nghi gấp bội tàu hỏa.
- Các con cừu ở đây sẫm quá! Meggie nhận xét buồn bã; ánh mắt mất hút theo những chấm đỏ li ti mà người ta có thể đoán là những cái mũi đang chúi xuống cỏ.
- Ồ, tôi thấy đúng ra nên chọn Tây Tây Lan, linh mục nói. Đó là một xứ giống như Ái Nhĩ Lan và nơi các con cừu đều có một màu trắng sữa đẹp.
- Vâng, ở đây giống Tây Tây Lan nhiều thứ - Pađy tiếp lời - Ở đó cũng có một thứ cỏ xanh mướt, nhưng hoang dã hơn.
Pađy có vẻ cảm tình sâu đậm đối với cha Ralph. Đúng lúc đó, những con đà điểu tập hợp thành một đàn đứng phắt chệnh choạng rồi bắt đầu chạy nhanh như gió, chân cao lỏng khỏng rất khó nhìn rõ, cổ dài thẳng lên. Bọn trẻ con nín thở rồi cười rộ lên, thích thú được xem những con chim to lớn chỉ chạy chớ không baỵ
Sau những xúc động mà Úc châu nhanh chóng mang đến, trang trại Drogheda xuất hiện, gợi cho họ nhớ đến một phần Tây Tây Lan với tiền sảnh của tòa nhà theo kiểu thời vua George, những cây đậu chổi um tùm và hàng ngàn cây hồng.
- Mình sẽ ở đây à? Meggie hỏi.
- Không hoàn toàn đúng như thế - Linh mục lên tiếng rất mau - Ngôi nhà mà các bạn đến ở cách đây một kilomet rưỡi, phía dưới thấp một chút, cạnh bên con suối.
Mary Carson chờ họ trong phòng khách rộng thênh thang. Bà không có một động tác nào để đón em trai mình; Pađy phải đến chỗ bà đang ngồi.
- Thế nào, Pađy? Bà hỏi nhỏ nhẹ nhưng mắt bà liếc nhìn qua phía cha Ralph đang bế Meggie trên tay, hai cánh tay cô bé choàng lấy cổ chạ Mary Carson đứng dậy một cách nặng nề, không chào Fiona hoặc bất cứ ai.
- Chúng ta sẽ xem lễ tức thời, bà nói. Tôi biết chắc cha Ralph rất nóng lòng đi ngaỵ
- Không đâu bà Mary thân mến (ông cười, mắt long lanh). Tôi sẽ làm lễ, rồi tất cả chúng ta sẽ dùng chung một buổi cơm trưa ngon miệng và sau đó tôi sẽ chỉ cho Meggie cái nhà sẽ ở như tôi đã hứa với cô bé.
- Meggie? Mary Carson ngạc nhiên.
- Vâng, đây là Meggie. Nhưng chúng ta đã làm quen không đúng trình tự của nó, tôi xin giới thiệu cho đúng. Bà Mary, tôi xin giới thiệu Fionạ
Mary Carson bày tỏ sự đồng ý bằng một cái gật đầu gọn lỏn và sau đó không chú ý đến mấy cậu con trai mà cha Ralph lần lượt gọi tên. Bà quá chăm chú quan sát linh mục và Meggie.
Nơi ở dành cho người quản lý được xây theo kiểu nhà sàn bên cạnh con suối hẹp khoảng mười mét với hàng bạch đàn hai bên bờ. So với sự nguy nga của tòa nhà bà Mary Carson, ngôi nhà có vẻ trơ trọi nhưng nó cũng đủ những tiện nghi như căn nhà ở Tây Tây Lan. Đồ đạc bày biện trong nhà theo kiểu thời Victoria, bên trên phủ một lớp bụi mỏng.
- Các bạn rất may mắn, có một phòng tắm trong nhà, linh mục dẫn đường phía trước vừa đi vừa giải thích. Nhà xây trên các cọc khá cao vì vào mùa con suối lớn ra đột ngột, mực nước lên rất cao, tôi nghe nói, có lần lên cao đến 17 mét trong một đêm.
- Người ở nhà này trước đây không được sạch sẽ lắm - Fiona nhận xét mấy ngón tay chạm vào lớp bụi phủ trên tủ buýt-phê.
Cha Ralph cười to lên.
- Đừng có mong tẩy sạch lớp bụi này - ông giải thích - Nơi chúng ta ở thuộc vùng bên trong và có ba thứ mà bà sẽ phải chịu: sự nóng bức, bụi và ruồi. Dù bà có làm gì đi nữa cũng không đổi khác được.
- Cha rất tốt đối với chúng tôi - Fiona nhìn linh mục nói.
- Cũng là chuyện bình thường thôi, hai ông bà là những bà con duy nhất của người bạn tốt của tôi, bà Mary Carson.
Không để xúc động, Fiona nhún vai.
- Tôi không quen duy trì những quan hệ thân thuộc với các linh mục. Các linh mục ở Tây Tây Lan không can dự vào việc riêng của các con chiên.
- Bà không phải là người theo đạo công giáo?
- Pađy theo đạo công giáo - Dĩ nhiên, con cái cũng được dạy dỗ theo tôn giáo của anh ấy. Tất cả, cho đến đứa cuối cùng...
- Có phải vì thế mà bà không vừa lòng?
- Với tôi hoàn toàn không thành vấn đề.
- Bà đã được...
- Tôi không phải là kẻ đạo đức giả, thưa cha De Bricassart. Tôi đã mất đức tin đối với chính tôn giáo của tôi và tôi không mong muốn theo một tôn giáo khác cũng hoàn toàn vô nghĩa đối với tôi.
- Tôi hiểu.
Cha Ralph quan sát Meggie đang đứng ngoài hiên trước nhà và nhìn ra con đường dẫn đến tòa nhà lớn Droghelạ
- Con gái của bà đẹp quá. ông lại nói. Tôi vẫn đặc biệt thích mái tóc màu vàng vơnidơ. Màu tóc ấy của cô bé sẽ khiến ngay cả danh họa Le Titien cũng chạy tìm bút vẽ. Tôi chưa từng thấy màu tóc như thế bao giờ, có phải đó là con gái duy nhất của bà?
- Vâng. Cứ toàn là con trai, trong gia đình của Pađy và của tôi cũng thế. Con gái rất hiếm.
- Tội nghiệp cô bé, ông nói thầm, nhưng chẳng hiểu tại sao.
"Con đường đi Drogheda chẳng gợi một chút kỷ niệm thời thơ ấu của mình" - cha Ralph de Bricassart thầm nghĩ như thế. Mắt chỉ mở phân nửa đủ để chống chỏi lại ánh sáng quá chói chang giữa lúc chiếc ô tô mới hiệu Daimler đang lăn bánh trên con đường đất gồ ghề bị đào xới bởi những chiếc xe bò qua lại. Không có chút gì êm ả, xanh tươi và mờ ảo của Ailen ở cái xứ này. Drogheda! chẳng phải chiến trường mà cũng chẳng có cuộc vây hãm của cường quốc nào trong lịch sử. Nói thế có quá lố không? Trong con người cha Ralph tính hài hước vẫn rất nhạy, nó đã vẽ ra trong ông hình ảnh một Mary Carson ác cảm và đầy quyền lực theo kiểu nhân vật Cromwell.
Cổng rào cuối cùng hiện lên đàng sau một cụm cây. Chiếc xe đỗ lại, tiếng máy nghe khá to. Cha Ralph bước xuống, đầu đội chiếc nón rộng vành màu ghi đã bạc. Ông kéo cái chốt ra rồi đẩy cánh cổng bực bội. Có ít nhất hai mươi bảy chiếc cổng rào như thế từ nhà của cha Ralph ở Gillanbone đến lãnh địa Drogheda; cứ đến mỗi cổng rào cha Ralph phải dừng xe lại bước xuống, mở cổng rồi trở lên xe, cho xe chạy vào bên kia cổng rồi lại dừng xe lại, bước xuống đóng cổng lại, rồi lại trở lên xe cho đến cổng kế tiếp. Nhiều lúc ông có ý định giảm bớt phân nửa cái công việc đều đặn mất công ấy bằng cách bỏ lại phía sau những cái cổng không được đóng lại. Nhưng dù với cương vị thầy tu khiến cho nhiều người nể trọng, ông cũng biết rằng điều đó vẫn không ngăn cản các vị chủ của những cổng rào sẽ buộc ông trả một giá đắt cho sự cẩu thả của mình. Cưỡi ngựa thì không đi nhanh và tiện lợi bằng xe ô tô nhưng đi ngựa lại có thể mở và đóng các cổng lại mà không cần đặt chân xuống đất. "Tấm huy chương nào cũng có bề trái của nó" vừa nói, tay cha Ralph vừa mân mê cái bảng chỉ dẫn tốc độ. Cái cổng ở phía sau đã được cài chặt lại, cha cho ô tô chạy nốt cây số cuối cùng, tiến vào chính điện của khu vực Droghedạ
Trang trại này ở Úc khiến cho bất cứ ai cũng phải kính nể kể cả một người Ái Nhĩ Lan quen thấy những lâu đài và dinh thự quí tộc. Drogheda là trang trại xưa nhất và rộng nhất trong vùng. Ông chủ của nó, lão Michael Carson, - đã qua đời - xây một tòa nhà rất hài hòa với khung cảnh thiên nhiên, vật liệu xây dựng là sa thạch màu vàng lấy cách đây tám cây số; kiểu kiến trúc của tòa nhà nghiêm trang theo thế kỷ thứ 18 đời vua George đệ nhất ở Anh với một tầng và những cửa sổ rộng chia thành ô vuông nhỏ; một hành lang được chịu trên những cột sắt chạy dài theo tầng trệt. Những cánh cửa sổ bằng gỗ màu đen trang điểm cho chính diện của tòa nhà cũng có công dụng của nó: giữa cái nóng oi bức mùa hè, các cánh cửa đóng chặt để giữ cái mát mẻ bên trong.
Hôm nay, trời vào thu, các gốc nho mọc lên cao những tua xoắn và lá rất xanh. Nhưng vào mùa xuân, những dây đậu tía trồng vào lúc tòa nhà vừa xây - năm mươi năm trước - kết thành một khối chắc nịch với những chùm cây tử đinh hương, cành túa ra rậm rạp, đầy hoa bám dài theo tường và trên mái hiên. Quanh ngôi nhà, nhiều hecta cỏ trải rộng như một tấm thảm, được chăm sóc rất kỹ lưỡng, rải rác đây đó là những hình khối đối xứng, dù ở mùa nào, cũng rực rỡ màu sắc; hoa hồng, thược dược, đinh tử v. v... chen nhau. Một cụm cây bạch đàn đẹp tuyệt màu trắng xám, với những chiếc lá thon dài đong đưa cách mặt đất hai mươi thước, làm cho ngôi nhà tránh được sức nóng dữ dội của mặt trời.
Ngay cả những tháp chứa nước xấu xí cũng được cái loại cây có hoa mọc đan len nhau che kín. Nhờ say mê trang trại, Michael Carson còn sống đã xây không biết bao nhiêu là tháp và bồn nước. Người ta đồn rằng Drogheda có thể giữ cho các thảm cỏ và các vườn hoa tiếp tục xanh tươi dù cho trời không mưa trong mười năm.
Cha Ralph rời ô tô, đang băng qua bãi cỏ thì một đầy tớ gái xuất hiện ở hiên trước nhà. Gương mặt cô ta đầy tàn nhang, cười hết miệng.
- Chào chị Minnie - cha Ralph lên tiếng trước.
- Thưa cha, thật hoan hỉ được gặp cha vào buổi sáng đẹp này - Tiếng của chị ta vang lên vui vẻ, pha giọng Ailen.
Một tay chị giữ cánh cửa bật mở rộng, tay kia chị đưa ra đón lấy chiến nón cũ hình dáng không có vẻ gì là đồ dùng của một tu sĩ.
Mary Carson ngồi trên chiếc ghế bành gần cửa sổ lớn mở rộng, dường như bà không chú ý đến cái lạnh đang tràn vào căn phòng này. Mái tóc màu vàng hung của bà vẫn rực rỡ không kém thời trẻ trung. Trên mặt điểm những nốt tàn nhang màu nâu vì tuổi tác, nhưng không thể che giấu được dưới những nét nhăn. Dấu hiệu duy nhất về bản tính bướng bỉnh của người đàn bà này ẩn chứa trong hai đường khắc sâu hai bên mũi chạy dài xuống mép môi và trong đôi mắt màu xanh nhợt lạnh lùng.
Cha Ralph lặng lẽ đi ngang qua tấm thảm Aubusson và hôn tay lên bà chủ trang trại. Cử chỉ đó hoàn toàn phù hợp với tầm vóc cao lớn, dáng dấp quí phái của vị linh mục. Hơn nữa chiếc áo dòng màu đen giản dị còn mang lại ông cái vẻ lịch thiệp của một nhà tu. Đôi mắt thản nhiên của bà Mary Carson bỗng sáng lên và hình như bà cố làm duyên khi lên tiếng:
- Cha dùng chút trà nhé?
- Rất sẵn sàng, thưa bà Carson nếu trước hết bà yêu cầu được xem lễ, ông đáp.
Ông buông mình xuống chiếc ghế bành; chiếc áo dòng bị giật lên để lộ ra ở bên trong chiếc quần cỡi ngựa mà hai ống nhét vào đôi ủng cao đến gần đầu gối.
- Tôi có mang theo bánh thánh cho bà. Nhưng nếu bà muốn xem lễ, tôi sẵn sàng làm lễ trong vài phút. Có lẽ tôi không cần phải nhịn ăn lâu hơn.
- Cha đã đối xử quá tối với chúng tôi, thưa cha. Bà nói với một thái độ khá kiêu kỳ. Bà biết chính xác là linh mục này, cũng như bao nhiêu linh mục khác đến với bà, không phải do lòng kính trọng mà vì đồng tiền của bà.
- Xin mời cha dùng trà - bà nói tiếp - Tôi thấy cha làm lễ đã đủ.
Cha Ralph cố che giấu những ác cảm của ông về người phụ nữ lớn tuổi này. Rõ ràng, giáo khu này lý tưởng để cho ông rèn luyện lại. Nếu có dịp thoát khỏi thời kỳ thất sủng mà ông đã rơi vào do tánh tình kỳ khôi của mình, thì ông sẽ không bao giờ lặp lại sai lầm cũ. Và nếu ông biết giữ gìn các lợi thế sẵn có, bà già này có thể thỏa mãn những ước nguyện của ông.
- Tôi phải thú thật, thưa cha, năm vừa qua là một năm đặc biệt dễ chịu - bà ta nói. Cha là người chăn dắt được hơn cha Kelly già rất nhiều, mong Chúa trừng phạt tâm hồn mục nát của ông ấy.
Bà nói những tiếng sau cùng giọng đanh lại, thù hằn.
- Bà Carson thân mến! Đó là một tình cảm không được nhân từ lắm.
- Có thể đúng, nhưng nó là sự thật. Ông ta chỉ là một lão già say rượu và tôi tin chắc rằng Chúa sẽ khiến cho tâm hồn lão ta bị thối rữa y như sự thối rữa thân xác của lão ta. Bây giờ tôi bắt đầu hiểu cha khá nhiều. Tôi nghĩ tôi có quyền đặt ra với cha vài câu hỏi chứ? Nói cho cùng, cha coi Drogheda như nơi nghỉ ngơi của chạ Trang trại này sẽ tạo điều kiền cho cha làm quen với chăn nuôi và hoàn chỉnh kỹ thuật cỡi ngựa của cha, tránh những thăng trầm của đời sống ở Gillỵ Dĩ nhiên tất cả những chuyện đó là do sự mời mọc của tôi, nhưng ngược lại tôi có quyền đặt ra một số yêu cầu.
Cha Ralph không thể nào chấp nhận được cái cách mà bà ta nhắc nhở ông là người chịu ơn bà. Nhưng ông đoán biết sẽ có ngày bà ta đánh giá, gây ảnh hưởng, chi phối mình, đủ để có thể đưa ra một số đòi hỏi.
- Đúng thế, bà Carson. Tôi có cảm ơn bà thế nào cũng không đáp lại được sự đón tiếp ở Drogheda và tất cả những ân huệ ... nào là ngựa, xe ô tô...
- Cha bao nhiêu tuổi? - bà ta cắt ngang.
- Hai mươi tám.
- Cha trẻ hơn tôi nghĩ. Dù sao người ta không gởi một linh mục như cha vào một nơi như Gilly. Cha đã làm gì để bị người ta tống về đây, ở tận cùng thế giới?
- Tôi đã nhục mạ giám mục - ông trả lời một cách bình thản, nụ cười trên môi.
- Ồ! Nhưng tôi không thể tưởng tượng một linh mục có tài năng như cha lại có thể vui thích ở cái hóc xó như Gillanbonẹ
- Đó là ý muốn của Chúa.
- Không đúng. Cha đến đây do những sai lầm của con người..., của bản thân cha, và của vị giám mục của cha. Chỉ có Đức Giáo Hoàng là không thể sai lầm mà thôi. Cha hoàn toàn bị tách khỏi môi trường tự nhiên của mình ở Gilly; - mọi người đều nhận thấy điều đó, mặc dù tất cả chúng tôi rất sung sướng có được một người như cha; sự kiện này đã mang lại cho chúng tôi một sự thay đổi dễ chịu vì cho đến nay người ta đã gửi đến đây những tên không ra gì lại mặc áo dòng - Cũng không cấm cản cái môi trường tự nhiên của cha ở trong một phòng chờ nào đó đầy quyền lực giáo hội; chớ không phải ở đây giữa ngựa và cừu. Màu đỏ tía Hồng y thật hạp với cha.
- Tôi e rằng đó không phải là vấn đề. Tôi không coi Gillanbone ở đúng ngay trung tâm lãnh thổ dành cho người đại diện của Giáo Hoàng. Tôi may mắn gặp được bà ở tại Drogheda này.
Bà Carson đón nhận lời nịnh hót được tô đậm không khác lắm với sự dự tính của người đã thốt ra. Bà thích thú về vẻ đẹp trai, sự ân cần của vị linh mục có đầu óc sắc bén và tế nhị. Thật ra ông có thể là một Hồng y tuyệt vời. Trong cả đời, bà không nhớ được khi nào đã gặp được một người đàn ông đẹp đến thế hoặc sử dụng cái đẹp của mình một cách tài tình như cha Ralph. Ông ta biết rõ sức lôi cuốn của mình: dáng dấp cao, thân mình cân đối, nét thanh và quý phái. Có thể nói mỗi yếu tố của cái đẹp thể xác ấy đều kèm theo sự chăm chút cực kỳ cái bề ngoài mà Chúa chỉ trao cho một số rất ít người. Từ mái tóc đen và mịn, đến màu xanh đáng kinh ngạc của đôi mắt, bàn tay, bàn chân thanh nhã và cân đối, ông ta thật hoàn toàn. Đúng thế, ông ta ý thức rất rõ về vẻ đẹp của mình. Thế nhưng ông ta làm ra vẻ dè dặt như muốn chứng tỏ không bao giờ ông để mình nô lệ với cái bề ngoài đẹp trai ấy. Cũng có thể ông ta sẵn sàng sử dụng sức lôi cuốn của mình để đạt được điều mong muốn không chút ngại ngùng nếu ông xét thấy cần thiết nhưng không hề tự mê hoặc. Bà Mary Carson thiết tha muốn biết điều gì đã đưa đẩy vị linh mục cư xử theo cách đó.
Thật lạ lùng. Có lắm linh mục đẹp như những chàng Adonis trong huyền thoại, cộng thêm sức quyến rũ nhục dục của một Don Juan. Có phải chăng họ chọn sự độc thân để lánh mình trốn tránh các hậu quả.
- Tại sao cha lại chấp nhận cuộc sống ở Gillanbone? Tại sao cha không cởi bỏ áo dòng mà phải theo đuổi một cuộc sống như thế này? Những năng lực trời phú cho phép cha trở nên giàu có và uy quyền... Trước hết, cha đừng nói là cha dửng dưng với ý niệm về quyền lực.
- Bà Carson thân mến, bà là một tín đồ công giáo - ông nói, mày nhíu lại - Bà biết rằng ước nguyện của tôi là thiêng liêng; tôi không thể từ bỏ. Tôi sẽ mãi mãi là linh mục cho đến chết.
Bà ta hít mạnh vào rồi cười ngặt nghẽo.
- Thôi đi, thôi đi! Bộ cha thật sự tưởng rằng nếu cha từ bỏ ước nguyện của mình, cha sẽ bị một cơn sấm chớp, chó và súng đạn rượt đuổi?
- Dĩ nhiên là không. Cũng như tôi không tin bà có thể nghĩ rằng sự sợ hãi bị trừng phạt sẽ giữ tôi lại con đường ngaỵ
- Ồ! Cha đừng dùng những lời lẽ trịnh trọng như thế. Thế thì cái gì ràng buộc cha? Cái gì đã buộc cha phải chịu đựng ở nơi bụi bặm, nóng bức và đầy muỗi mòng như cái xứ Gilly này? Và nhất là cha có thể ở lại đây vĩnh viễn.
Một thoáng suy nghĩ xuất hiện trong đôi mắt màu xanh của vị linh mục nhưng ông lại mỉm cười, nhìn bà Carson thương hại.
- Quả thật bà còn sức sống lắm - ông nói như thì thầm. Tôi đã chọn lựa trở thành linh mục khi còn ở trong nôi. Làm sao tôi có thể giải thích điều đó với một phụ nữ? Phần nào đó tôi là nơi thu nhận, thưa bà Carson, và nhiều lúc, tôi cảm thấy chúng tràn ngập trong tôi. Nếu tôi là một linh mục xứng đáng hơn, sẽ không cần một thời kỳ chuyển tiếp nào. Và cái trạng thái trọn vẹn, sự đồng nhất với Chúa không lệ thuộc ở một nơi nào nhất định, dù tôi ở Gillabone hay giữa các bức tường trong một tòa giám mục, ơn Chúa vẫn đến như nhau. Dĩ nhiên rất khó giải thích vì nó vẫn là điều huyền bí, ngay cả với các linh mục. Có phải chăng chính là thế. Từ bỏ sự thiêng liêng ấy? Tôi không thể từ bỏ được.
- Như vậy, cha giải thích có thể giống như một thứ quyền lực, phải không? Tại sao nó chỉ ban cho các linh mục? Điều gì làm cho cha tin rằng chỉ cần một lần xức dầu thánh trong một buổi lễ dài và mệt mỏi là đủ mang đến điều thiêng liêng ấy cho mọi người?
Ông lắc đầu.
- Phải nhiều năm suy nghĩ trước khi được thụ phong, thưa bà Carson. Một tiến triển chậm đưa đến một trạng thái tâm hồn mở ra cho Chúa ngự. Việc thụ phong tự nó xứng đáng và mỗi ngày, chúng ta tỏ ra xứng đáng; đó là mục đích của khánh nguyện, bà thấy không? Không một yếu tố thế tục nào, xen vào giữa người giáo sĩ và thiên hướng của ông ta... kể cả tình yêu của người phụ nữ hay tiền bạc, hoặc sự ghê tởm phải khuất phục trước những mệnh lệnh của những người khác. Sự nghèo khó không phải mới lạ đối với tôi, tôi không xuất thân từ một gia đình giàu có. Tôi chấp nhận sự thanh khiết mà không thấy khó khăn lắm. Còn sự phục tùng? Đối với riêng tôi, đó là điều khó nhất. Nhưng tôi tùng phục vì rằng nếu tôi tự coi mình quan trọng hơn chức năng thừa sai của Chúa thì tôi đã lạc hướng. Tôi phục tùng. Và nếu cần, tôi sẵn sàng chấp nhận Gillanbone suốt đời.
- Như thế thì cha là thằng ngốc - bà Carson vặn lại. Tôi cũng thế, tôi cho rằng có nhiều điều quan trọng hơn là tìm cho mình một nhân tình. Nhưng tự cho mình là nơi Chúa ngự, tôi không coi đó là một trong những điều quan trọng. Tôi không bao giờ nhận ra được rằng cha lại tin ở Chúa với một nhiệt tâm như thế. Tôi nghĩ ở cha cũng có sự hoài nghị
- Ồ, tôi cũng thế thôi! Có con người lý trí nào lại không hoài nghi! Chính vì thế mà có những lúc tôi trở nên trống rỗng. Bà biết không, tôi nghĩ rằng tôi có thể từ bỏ mọi tham vọng, và bóp chết mọi ham muốn để có hy vọng trở thành một linh mục hoàn toàn.
- Sự hoàn toàn dù ở bất cứ lĩnh vực nào cũng không thể chịu được, một thứ buồn chán thảm hại - Bà Carson nhận xét - Riêng tôi, tôi thích và thích hơn nhiều một nét nào đó không hoàn toàn.
Cha Ralph cười, nhìn bà Carson với sự ngưỡng mộ lẫn sự đố kỵ. Một người đàn bà đặc biệt.
Sự góa bụa đến với bà cách đây 30 năm và đứa con duy nhất, đứa con trai, đã chết lúc tuổi còn nhỏ. Do hoàn cảnh đặc biệt của bà ở giữa Gillanbone, bà đã không nhận lời bất cứ một người đàn ông nào hỏi cưới bà trong số những người nhiều cao vọng nhất mà bà có quan hệ. Với tư cách vợ góa của Michael Carson, bà là một bà hoàng không thể chối cãi. Nhưng với tư cách vợ của một gã nào đó bà đành chuyển cả quyền lực của mình cho người mình chọn. Chính vì thế mà bà từbỏ các khoái lạc xác thịt, thích cầm lấy cây gậy quyền hành hơn. Thật khó tưởng tượng được bà ta lấy chồng ở cái xứ Gillanbone này vốn rất thích cái món ngồi lê đôi mách, nói xấu. Thì đã ra sao. Biết đâu bà lại không đi ngược lại cách xử thế lâu nay và trở nên nhân hậu, yếu đuối.
Nhưng bây giờ bà đã khá lớn tuổi và người ta biết rằng bà ở ngoài vòng cám dỗ xác thịt. Khi vị linh mục trẻ tỏ ra cần mẫn trong các nhiệm vụ, bà có thể trả ơn ông bằng những món quà nhỏ, như chiếc ô tô. Cử chỉ đó không hề bị coi là khiếm nhã. Là cột trụ không hề lay chuyển của nhà thờ trong suốt cuộc đời, bà đã giúp cho xứ đạo và người dìu dắt tinh thần đúng như điều nên làm, ngay cả khi cha Kelly say mèm lảo đảo trong khi làm lễ. Bà không phải là người duy nhất quan tâm một cách đặc biệt người thay thế cha Kelly; cha Ralph de Bricassart xứng đáng được lòng tất cả các con chiên nghèo cũng như giàu. Nếu giáo dân ở xa nhất không có khả năng đến gặp ông ở Gillanbone thì ông đến với họ và cho tới khi Mary Carson tặng cho ông chiếc ô tô Daimler, ông di chuyển bằng ngựa. Sự kiên nhẫn và lòng tốt của ông khiến cho mọi người đều biết ơn. Một số người yêu mến ông một cách chân thành; chẳng hạn như Martin King ở Bugela đã trang hoàng lại rất tốn kém nhà xứ; Dominique O'' Rourke ở Dibbanđibban trả tiền lương hàng tháng cho người quản gia giỏi giang.
Do đó, đứng trên đài cao của tuổi tác và đơn vị, Mary Carson tự cho phép mình được hưởng mối quan hệ thân mật với cha Ralph mà không hề sợ tai tiếng. Bà thích tấn công ông bằng trí tuệ, con người mà bà đánh giá ngang mình về mặt này. Bà lấy làm thích thú khi tìm cách xuyên thủng các ý nghĩ thầm kín của cha Ralph bởi vì bà chưa bao giờ tin rằng mình đã hiểu rõ con người này.
Minnie đẩy chiếc bàn có bốn bánh xe nhỏ vào phòng, trên đó đặt trà và bánh ngọt.
Mary Carson trao cho khách bánh galét và lát bánh mì nướng.
- Cha thân mến - bà nói sau một tiếng thở ra - tôi mong cha sẽ cầu nguyện cho tôi với một sự nhiệt tình đặc biệt như sáng naỵ
- Bà hãy gọi tôi là Ralph. Tôi nghi ngờ về khả năng tôi cầu nguyện cho bà với một nhiệt tình cao hơn mọi khi. Tuy nhiên tôi sẽ cố gắng.
- Ồ, cha quả là người quyến rũ! Nhưng nhận xét của cha không hồn nhiên như người ta tưởng. Nói chung, tôi không quan tâm đến cái gì đương nhiên có, nhưng ở cha tôi không dám tin chắc rằng điều đập vào mắt thật ra chỉ là cái phần chìm dưới nước của tảng băng; phần nào đó giống như củ cà rốt mà người ta nhử trước con lừa. Thật sự cha nghĩ thế nào về tôi, cha De Bricassart? Tôi sẽ không bao giờ biết được điều đó vì rằng cha là người quá tế nhị phải không? Thật quyến rũ, quyến rũ... Nhưng cha nhớ hãy cầu nguyện cho tôi. Tôi già rồi và phạm nhiều tội lỗi.
Rồi bà Carson cười khúc khích.
- Tôi rất muốn biết được cha đã phạm tội như thế nào? Đúng thế, tôi rất muốn biết. Trong lúc này, tôi đang thiếu một người quản lý.
- Lại thiếu nữa?
- Có tất cả năm người lần lượt làm công việc ấy trong năm qua. Thật khó mà tìm được một người tin cậy.
- Nếu dư luận đồn đãi mà đúng thì rõ ràng bà không phải là một người chủ quảng đại và tốt bụng đối với những người làm công.
- Ồ sao lại ăn nói trâng tráo thế - Mary Carson vừa nói vừa cười - Ai đã tặng cho cha chiếc Daimler mới toanh để cho cha khỏi phải đi ngựa.
- Ồ! Nhưng bà cũng thấy với nhiệt tình của tôi như thế nào khi cầu nguyện cho bà.
- Nếu Michael có được một chút trí tuệ và cá tính của cha, tôi tin rằng tôi đã yêu anh ấy - Bà ta buông câu nói đột ngột (sắc mặt của bà đổi ngay và trở nên cau có) có lẽ cha nghĩ rằng tôi không còn một người bà con nào ở trên cõi đời này và tôi buộc phải để lại tiền bạc, đất đai cho Mẹ của giáo hội chúng ta?
- Tôi hoàn toàn không biết một tí gì - cha Ralph đáp lại một cách thản nhiên, tay vừa châm trà vào tách.
- Đây nhé, tôi vẫn còn một người em gia đình đông con phần nhiều là con trai.
- Bà quả thật rất may mắn - giọng cha Ralph nghiêm nghị.
- Khi tôi lấy chồng, tôi hoàn toàn không có một tài sản đất đai nào. Lúc đó tôi biết rằng tôi không thể kiếm một tấm chồng khá giả ở Ailen nơi mà một cô gái muốn câu được một ông chồng giàu phải có học và thuộc dòng dõi tiếng tăm. Cho nên tôi đã làm ăn vất vả để dành dụm một số tiền đủ để đi đến một nước khác, ở đó đàn ông giàu có và ít đòi hỏi hơn. Khi đặt chân lên đất này, tôi chỉ biết dựa vào gương mặt dễ coi, vóc dáng và một bộ óc trên trung bình của mình. Như thế tôi đã đóng đinh Michael Carson, một thằng giàu ngu độn. ông ta yêu tôi cho đến hơi thở cuối cùng.
- Còn người em của bà? - Cha Ralph vội vàng hỏi với hy vọng kéo bà ta trở lại đề tài chính.
- Em trai tôi Padraic nhỏ hơn tôi 11 tuổi. Vậy là hắn đã 54 rồi. Chúng tôi là hai kẻ duy nhất của gia đình còn sống sót lại. Tôi biết rất ít về em tôi vì khi tôi rời Galway nó vẫn còn quá nhỏ. Hiện nay em tôi sống ở Tây Tây Lan. Nó đã bỏ xứ ra đi mưu tìm sự nghiệp nhưng lại không thành công. Tối hôm kia lúc một trong những công nhân của tôi đến cho hay tên quản gia Arthur Teviot đã chuồn với bọc quần áo của hắn, tôi chợt nghĩ đến Padraic, một người sống chết với đất đai, nhiều kinh nghiệm nhưng không có điều kiện để trở thành ông chủ. Thế thì tại sao tôi không viết thư cho em tôi và yêu cầu Padraic đưa con cái đến đây làm ăn sinh sống - Tôi đã tự nói với mình, khi tôi chết, sẽ cho nó thừa kế Drogheda và công ty Michael Limited vì nó là bà con gần nhất của tôi, không kể vài người anh em bà con xa xôi còn ở lại Ailen.
Bà cười và nói tiếp:
- Tại sao lại phải chờ đợi? Nó đến ngay bây giờ vẫn tốt hơn là khi tôi đã chết. Ngay bây giờ nó có thể làm quen với công việc nuôi cừu trên những cánh đồng đất đen mà theo tôi rất khác xa với các điều kiện ở Tây Tây Lan. Sau đó, khi tôi không còn nữa, nó đã có thể mang đôi ủng của tôi một cách thoải mái
Đầu hơi nghiêng, bà quan sát rất kỹ cha Ralph.
- Tôi tự hỏi tại sao bà không nghĩ đến chuyện này sớm hơn - Ralph chỉ nói thế.
- Ồ, tôi có nghĩ chứ! Tuy nhiên gần đây, tôi muốn tránh bằng mọi giá cái đám kên kên chờ đợi một cách sốt ruột ngày tàn của tôi. Tôi có cảm giác là cái ngày của số mệnh gần kề và tôi tin rằng... Ồ! Tôi không biết. Giá mà cái ngày ấy quanh tôi là những người ruột thịt chắc là những người ruột thịt chắc là tôi sẽ dễ chịu hơn.
- Chuyện gì đã xảy ra, bà đang bệnh? Cha Ralph hỏi dồn đầy lo âu.
- Tôi hoàn toàn khỏe mạnh - Bà Mary Carson nhún vai - Tuy nhiên, vượt qua cái tuổi 65 cũng có cái gì đáng lo ngại.
- Tôi hiểu, và bà rất có lý. Chắc hẳn bà muốn được nghe những giọng nói trẻ trung trong ngôi nhà này.
- Ồ, họ không ở đây đâu - Bà Carson kêu lên - Họ sẽ ở tại nhà dành cho quản lý, nằm bên con suối cách đây không xa. Đặc biệt tôi không thích trẻ con, kể cả tiếng nói của chúng.
- Phải chăng làm như thế là keo kiệt với em trai duy nhất của bà?
- Nó sẽ có gia tài... vậy nó phải xứng đáng để được nhận cái gia tài đó! Bà Carson nói một cách sòng phẳng.
Fiona lại sinh thêm một đứa bé trai sáu ngày trước khi Meggie kỷ niệm sinh nhật lần thứ chín. Bà coi đó là điều may mắn sau hai lần sẩy thai. Chín tuổi, Meggie có thể giúp đỡ cho mẹ. Fiona đã bốn mươi - cái tuổi không còn trẻ để sinh con mà không thấy cực nhọc và mất sức. Đứa con trai kém sức khỏe được đặt tên là Harold, và đây là lần đầu tiên bà phải nhờ bác sĩ đến nhà chăm sóc thường xuyên.
Đúng là họa vô đơn chí, biết bao nhiêu khó khăn lại chồng chất lên gia đình Cleary. Sau chiến tranh, thời kỳ phát triển vẫn còn là chuyện xa vời, tệ hơn nữa các miền quê đang bước vào cơn khủng hoảng nên việc làm càng ngày càng khó hơn.
Lão Angus Mac Whirter một hôm mang đến cho gia đình bức điện lúc buổi cơm trưa vừa xong. Hay tay run run. Pađy mở phong thư ra: một bức thư gởi như thế thường không phải là những tin vui. Mấy đứa con trai tụ tập lại quanh ông, chỉ trừ Frank cầm tách trà và rời khỏi bàn ăn. Fiona nhìn theo Frank rồi quay nhìn ông chồng. Pađy lẩm bẩm gì đó.
- Chuyện gì đó hở anh? Bà hỏi chồng đang nhìn tờ giấy và ông trả lời như một tin báo tử.
- Archibald không cần cha con chúng ta - Bob đấm mạnh một cách tức giận xuống bàn. Anh đã quá hy vọng về việc theo tập sự làm thợ cắt lông cừu mà khởi đầu là đàn cừu của Archibald.
- Tại sao hắn lại chơi mình một vố đau như vậy hở bả Đáng lẽ ngày mai chúng ta đã bắt đầu.
- Hắn không nêu ra lý do nào cả. Ba đoán chắc một tên vô loại nào đó đã hạ giá thấp để "chặt co" dưới chân chúng tạ
- Ồ, Pađy! Bà vợ thở ra.
Đứa bé mà cả nhà gọi là Hal bắt đầu khóc trong chiếc nôi đặt gần nhà bếp. Fiona chưa kịp quay lại thì Meggie đã nhanh chân đến bên em. Frank vừa trở lại đứng gần cửa, vẫn tách trà trên tay, anh nhìn cha một cách chăm chú.
- Vậy thì bắt buộc tôi phải đi gặp Archibald - Cuối cùng Pađy đã nói như thế - Bây giờ đã quá trễ để đi tìm một chỗ có người thuê cắt lông cừu. Tôi cho rằng hắn phải giải thích với tôi rõ ràng. Chúng ta chỉ còn hy vọng kiếm được công việc vắt sữa cho đến khi đến Willoughly vào tháng bảy.
Trong khi nhìn Meggie thay tã cho em, Frank trêu chọc:
- Một người mẹ nhỏ...
- Ồ, đừng nói thế - Meggie bẻ lại, giận dỗi - Em chỉ giúp mẹ thôi mà...
- Anh biết - Frank gật đầu dễ thương - Em là một cô gái rất tốt, Meggie bé nhỏ của anh.
Nếu không vì Meggie và mẹ, Frank đã dứt khoát rời khỏi ngôi nhà này. Anh nhìn cay độc về phía cha, người trách nhiệm chính về cuộc sống mới có lắm xáo trộn trong gia đình.
Vì đã lớn Frank không bị đuổi ra khỏi nhà lúc mẹ sinh bé Hal, cho nên anh nghe tất cả những tiếng rên la khủng khiếp từ phòng mẹ hôm Hal ra đời. Chưa có một người phụ nữ nào lại chịu một thử thách ghê gớm như thế - anh đã lặp lại câu này cả ngàn lần. Một người đàn ông ích kỷ, không chịu để cho vợ được yên.
Meggie đặt Hal trở vào nôi và đến đứng bên cạnh mẹ. Lại một cô gái mà cuộc đời sau này sẽ vứt đi - Frank chua xót thầm nghĩ. Cũng gương mặt nghiêng nghiêng, sự nhạy cảm có cái gì đó của mẹ trong đôi tay, trong thân hình nhỏ bé của Meggiẹ Cô bé sẽ giống mẹ rất nhiều khi trở thành một phụ nữ. Meggie sẽ lấy ai làm chồng? Một thằng bặm trợn nào khác làm nghề cắt lông cừu người Ailen hay một tên nào đó thô lỗ, dơ dáy, làm mướn tại một hãng sữa ở Wahine? Con bé xứng đáng có một người chồng hơn thế nhưng gốc gác gia đình không cho phép Meggie đòi hỏi cao hơn. Tình thế bế tắc, đó là điều mà ai cũng nói đến và mỗi năm như khẳng định thêm lời tuyên án này.
Đoán biết cái nhìn chăm chú của Frank; Fiona và Meggie quay lại, cùng một lúc cả hai cười thật trìu mến, nụ cười mà phụ nữ thường chỉ dành cho người mình yêu thương nhất. Frank đặt tách trà xuống rồi đi ra sân cho chó ăn, anh thèm được khóc hay giết người miễn là làm sao vơi đi sự đau khổ.
Ba ngày sau Pađy nhận được tin buồn từ Archibald thì thư của Mary Carson đến. Ông mở thư ngay tại trạm bưu điện Wahine và trở về nhà vui mừng nhảy nhót như một đứa trẻ con.
- Chúng ta sẽ đi Úc! ông hét lên, tay giơ cao những tờ giấy trắng mịn đắt tiền trước sự ngơ ngác của gia đình.
Im lặng. Mọi người nhìn ông. Sắc mặt của Fiona lộ nét băn khoăn, Meggie cũng thế, nhưng ánh mắt của mấy đứa con trai thì đầy niềm vui. Mắt Frank sáng chói.
- Nhưng này Pađy, tại sao chị ấy bỗng nhiên nhớ đến anh sau bao nhiêu năm xa cách? - Fiona hỏi chồng sau khi đọc lá thư. Từ lâu nay chị ấy vẫn giàu có và vẫn sống cô độc. Thế nhưng có lúc nào bà ấy ngỏ lời giúp đỡ chúng ta đâu.
- Hình như chị ấy sợ chết một mình - Pađy nói để vừa xua đuổi nỗi lo sợ của mình vừa làm yên lòng Fiona. Em có thấy chị ấy nói: chị không còn trẻ và gia đình các em là những người thừa kế của chị. Chị nghĩ rằng chúng ta nên gặp nhau trước khi chị chết và đã đến lúc em tập làm người quản lý của chị, đó là một cách đào tạo tốt. Các con của em đã đến tuổi làm việc, cũng có thể tham gia có hiệu quả vào việc chăn nuôi. Drogheda sẽ trở thành một kiểu làm ăn gia đình, điều khiển bởi gia đình, không cần sự tiếp tay từ bên ngoài.
- Chị ấy không nói gì đến chuyện gởi tiền cho chúng ta đi à?
Pađy ưỡn người lên vàdứt khoát:
- Không bao giờ tôi chịu hạ mình xuống xin xỏ chị ấy! Chúng ta có thể đến Úc mà không cần ăn mày tiền của chị ấy. Tôi có một số tiền dành dụm lâu naỵ
- Tôi nghĩ đúng ra chị ấy phải chịu cái khoản chi phí này chứ - Fiona vặn lại không chịu bỏ quạ
Sự bướng bỉnh của Fiona làm ai cũng ngạc nhiên bở lâu nay ít khi Fiona nói năng như vậy.
- Tại sao anh lại từ bỏ cuộc sống của anh tại đây và đi làm việc cho chị ấy chỉ vì tin vào một lời hứa trong thư? Chị ấy chưa bao giờ nhúc nhích một ngón tay để giúp chúng ta, tôi không tin ở chị ấy. Tôi nhớ đã nghe chính anh nói về chị ấy. Tựu chung chị ấy có những ngón tay cong quắp đáng tởm hơn cả bọn người bòn rút từng xu. Anh Pađy à, dù sao thì anh cũng không biết rõ chị ấy; anh và chị ấy cách xa nhau về tuổi, chị ấy đi lúc trước khi anh bắt đầu đi học kia mà.
- Anh thấy điều đó chẳng ăn thua gì. Và nếu chị ấy thuộc loại người bòn rút từng xu, lại càng tốt, vì như thế chẳng qua là chúng ta sẽ được nhiều tiền hơn. Đừng kèo nài nữa Fiona à. Chúng ta sẽ điúUc và chúng ta sẽ tự lo cho chuyến đi ấy.
Fiona không nói thêm một lời. Trên sắc mặt bà không để lộ một nét nào để có thể biết bà bị tổn thương hay không.
- Hoan hô, chúng ta sẽ đi Úc! Bob ôm lấy vai cha nói lớn.
Jack, Hughie và Stuart nhảy múa lung tung còn Frank chỉ mỉm cười, mắt nhìn xa xăm.
Chỉ có Fiona và Meggie là buồn và lo ngại. Cả hai hy vọng rằng mọi chuyện sẽ không đến đâu vì cuộc sống ở Úc chưa chắc sẽ dễ dàng hơn, bên ấy cũng sẽ y hệt như ở đây mà lại thêm sự lạc lõng vì lạ xứ lạ người.
- Gillanbone ở đâu ba? - Stuart hỏi.
Một tấm bản đồ thế giới cũ kỹ được đem ra. Mấy đứa con trai mở to mắt nhìn những tờ giấy ngả màu vàng ố cho đến khi phát hiện ra New South Wales, diện tích tương đương với Bắc đảo của Tây Tây Lan. Và kìa Gillabone ở phía trên góc.
- Đây là tấm bản đồ rất cũ, Pađy giải thích. Úc châu giống như châu Mỹ, phát triển với những bước vĩ đại. Tôi tin chắc rằng cho tới nay đã có nhiều thành phố được xây dựng.
Pađy đi Wanganni để giữ tám chỗ nằm trên tàu thủy Wahine. Phải mang mấy con chó cho hàng xóm, bán rẻ một số bàn ghế, chỉ giữ lại một vài món mà Fiona cần thiết. Chén, dĩa, quần áo, sách vở và dụng cụ nhà bếp đều được đóng thùng mang xuống tàu.
Cuộc hành trình đúng là cơn ác mộng. Trước khi tàu Wahine rời cảng Wellington, tất cả đã say sóng và cứ trong tình trạng đó chịu đựng suốt một ngàn hai trăm hải lý trên mặt biển động với những cơn gió mùa đông.
Bốn tiếng đồng hồ sau khi rời Wellington, Frank và Meggie vẫn luôn ở bên mẹ và em bé, tưởng đâu mẹ mình sắp chết. Người phục vụ trên tàu mời một y sĩ từ những buồng hạng nhất xuống khám Fionạ ông ta đã lắc đầu bi quan.
- Mong sao cho cuộc hành trình sớm kết thúc - ông ta chỉ nói thế.
Liền đó, ông ra lệnh cho y tá tìm sữa cho đứa bé.
Frank và Meggie vẫn cố gắng cho bé Hal bú nhưng Hal không thiết tha lắm khi bình sữa được đưa vào miệng.
Còn ba tiếng đồng hồ nữa đến Sydney, biển đột ngột phẳng lặng như mặt gương. Meggie bắt đầu tỉnh lại, tưởng tượng rằng chiếc tàu đang rên siết sau những đòn nhừ tử chịu đựng sóng gió.
Meggie không bao giờ quên những tiếng còi buồn bã rú lên trong sương mù, ấn tượng đầu tiên khi đến Úc.
Pađy đã bồng Fiona trên tay khi rời tàu Wahine, tiếp theo là Frank với em bé, Meggie với một vali và mỗi đứa con trai bước đi chệnh choạng, lưng còng dước sức nặng của một thứ nào đó. Họ đến Pyrmont - cái tên hoàn toàn vô nghĩa đối với họ - vào một buổi sáng mùa đông đầy sương mù, cuối tháng tám 1921. Một hàng xe tắc-xi nối đuôi nhau đậu trước bến tàu. Mắt Meggie mở to ra, miệng há hốc, đứng nhìn; chưa bao giờ cô bé lại thấy lắm ô tô tập trung lại một nơi như thế. Pađy dồn được cả nhà lên một chiếc tắc-xi. Tài xế gợi ý đưa họ đến khách sạn Cung nhân nhân.
- Nơi này thích hợp nhất cho gia đình ông bạn - hắn giải thích với Pađy. Đây là một khách sạn dành cho công nhân do những người thuộc Đạo quân cứu thế quản lý.
Các con đường rộng đầy xe, chạy đủ hướng. Có rất ít ngựa. Chóa mắt, họ nhìn ngắm những tòa nhà cao bằng gạch, ngạc nhiên về những bước đi tất bật của khách bộ hành ở Wellington. Thủ đô Tây Tây Lan đã để lại dấu ấn đối với họ nhưng so với Sydney thì nó chỉ như một thị trấn.
Trong khi Fiona nghỉ ngơi ở một trong vô số những phòng của khách sạn được gọi một cách trìu mến Cung nhân dân, Pađy đi đến nhà ga trung tâm để hỏi giờ tàu lửa đi Gillanbone.
Ngay tối hôm đó họ lại lên tàu. Nếu không đi ngay chuyến này họ phải nằm khách sạn thêm một tuần nữa mới có tàu đi Gillanbone. Trước khi lên tàu, Pađy đã đánh điện cho Mary Carson báo trước tin họ sẽ đến vào chiều mai.
Pađy tìm được một ngăn trống trên toa tàu hạng ba cho cả gia đình. Những người lên sau ghé đầu vào tìm chỗ đều kinh hãi bỏ đi khi thấy lúc nhúc trẻ con.
Sáng hôm sau, mở choàng mắt ra, họ kinh ngạc và lo âu trước cảnh vật hết sức lạ lùng ngoài sự tưởng tượng. Hóa ra có một nơi như thế này trên trái đất hay sao? Vẫn là những thung lũng nhỏ có vẻ dịu dàng như ở Tây Tây Lan nhưng không có chút gì gợi đến miền đất vừa bỏ đi. Chỉ có màu nâu và màu xám, kẻ cả cây lá! Lúa mì mùa đông đã ngả sang màu bạc pha vàng hung dưới ánh nắng dữ dội của mặt trời. Fiona nhìn cảnh vật không để lộ xúc động còn Meggie thì nước mắt ràn rụa. Thật ghê tởm, mênh mông và không có một dấu vết của màu.
Gillanbone xuất hiện lúc ánh mặt trời sắp tắt. Một sự tập hợp đẹp mắt những căn nhà gỗ với tôn dợn sóng đã cũ. Hai bên con đường chính đầy bụi bặm, không có cây và buồn tẻ. Những tia sáng cuối cùng của mặt trời phủ lên một màu vàng hào nháng, đem lại cho thị trấn cái uy thế ngắn ngủi mờ dần. Gia đình Cleary đứng tại nhà ga mở to mắt nhìn. Nơi đây là một tập hợp dân cư trưng ở ngoài rìa cũng những vùng đất đai khô cằn. Nơi cuối cùng của một vùng còn nhận được những trận mưa không xa lắm về hướng Tây, bắt đầu ba ngàn cây số đất sa mạc.
Một chiếc ô tô lộng lẫy đậu ở sân ga, một linh mục tiến đến gần họ bằng những bước dài mà không cần chú ý đến lớp bụi dày. Chiếc áo dòng dài gợi nhớ hình ảnh của quá khứ; hình như ông không đi trên hai chân như một người bình thường, mà lướt nhẹ như trong một giấc mơ; xung quanh ông bụi tung lên từng đợt.
- Xin mừng tất cả đã đến bình yên, tôi là cha De Bricassart, vừa nói ông vừa đưa tay ra bắt tay Pađy. Tôi không thể nào lầm, ông đúng là em trai của bà Mary, ông giống bà ấy như hai giọt nước (ông quay sang nắm tay Fiona đưa lên môi với một nụ cước hết sức chân thành. Hơn ai hết, cha Ralph nhận ra ngay, đó là một người phụ nữ đáng kính). Bà rất đẹp - ông nói câu ấy như thể nhận xét vừa rồi của ông là chuyện tự nhiên đối với một linh mục, rồi ông đưa mắt về phía anh em gia đình Cleary đang tập trung ở một góc.
Mắt ông dừng một lúc, ngạc nhiên nhìn Frank bế Hal trên tay. Phía sau đám con trai, Meggie đứng nhìn cha Ralph, miệng hé mở, tần ngần một chút như vừa chứng kiến sự xuất hiện của Chúa. Không quan tâm đến chiếc áo dòng bằng vải mịn phết xuống đất, ông vượt qua đám con trai đến ngồi trước mặt Meggie đặt hai bàn tay chắc rắn lên tay cô bé như dịu dàng che chở:
- Thế nào! Con tên gì? Cha Ralph hỏi với nụ cười.
- Meggie - cô bé trả lời.
- Em tôi, tên Meghann - Frank xen vào hai mày nhíu lại tỏ vẻ bực mình con người dẹp trai và cao lớn ấy.
- Meghann là cái tên tôi ưa thích (ông đứng dậy nhưng vẫn giữ tay Meggie trong tay mình). Tốt nhất là các bạn đến nghỉ đêm tại nhà xứ, ông vừa nói vừa dẫn Meggie đến xe ô tô. Tôi sẽ đưa các bạn đến Droghela sáng mai; trang trại quá xa nên sau một cuộc hành trình dài bằng tàu hỏa thế này, chúng ta chưa thể đi ngay được chiều nay.
Khách sạn Hoàng Gia, nhà thờ công giáo, trường học của nhà thờ, tu viện và nhà xứ là những ngôi nhà bằng gạch hiếm hoi ở Gillanbone; tất cả các nhà khác, kể cả trường lớn của thị xã, đều bằng gỗ.
Bây giờ bóng tối đã phủ trùm, trời trở lạnh không thể tưởng tượng; nhưng phòng khách nhà xứ, ngọn lửa của lò sưởi đang cháy và từ một gian kế đó một mùi thơm dịu dàng hấp dẫn thoang thoảng bay qua. Bà quản gia người Scotland da nhăn nheo, miệng luôn nói. Đã quen với sự lạnh nhạt của các linh mục ở Wahine, gia đình Cleary vẫn xa lạ trước vẻ hiền lành chất phác nổi bật ở cha Ralph. Chỉ có Pađy là chậm, không có gì ngạc nhiên vì ông liên tưởng đến lòng nhân hậu của các tu sĩ vùng Galway quê hương của ông vẫn thường có cách đối xử tốt với người nghèo khó. Với ông, tôn giáo là hơi ấm và niềm an ủi; còn với những người khác trong gia đình ông thì tôn giáo là một khái niệm ăn sâu đầy sợ hãi, là sự khép mình vào một cách xử thế chệch ra ngoài nếu muốn tránh bị đày xuống địa ngục.
Khi mọi người đã về phòng, cha Ralph ngả người thoải mái trong chiếc ghế bành, mải mê nhìn ngọn lửa, đốt một điếu thuốc và mỉm cười. Trong đầu ông hiện lại đầy đủ hình ảnh gia đình Cleary, đúng như lần đầu ông đã gặp ở sân ga. Người đàn ông thật giống Mary Carson, nhưng lưng còng vì làm lụng vất vả và rõ ràng không hề có nét thâm hiểm của người chị. Vợ ông ta, đẹp, mỏi mệt, tưởng như vừa bước xuống từ trên chiếc xe sang trọng được kéo bởi những con ngựa trắng. Frank, cau có, mắt đen, thật đen; các đứa con trai khác giống cha, ngoại trừ đứa nhỏ nhất giống mẹ. Stuart, thằng này lớn lên sẽ rất đẹp. Đứa bé còn bồng không thể biết nó sẽ ra sao, và cuối cùng là Meggie.
Đây là đứa con gái đẹp và đáng yêu nhất mà ông chưa từng gặp. Màu tóc không thể nào mô tả được, không nâu mà cũng không vàng một sự hòa hợp tuyệt vời của hai màu. Cô bé đã nhìn ông bằng đôi mắt xám ánh lên màu bạc, con người trong suốt óng ánh như những viên ngọc. Nhún vai, ông ném điếu thuốc vào lò sưởi và đứng dậy.
Sáng hôm sau, ông đưa những người khách đi Drogheda. Quen thuộc với cảnh vật dọc đường, bằng những nhận xét của mình, ông gây thích thú cho những người ngồi trên xe. Hôm nay trời nóng bức, như hôm qua.
Tất cả ngồi chiếc Daimler tiện nghi gấp bội tàu hỏa.
- Các con cừu ở đây sẫm quá! Meggie nhận xét buồn bã; ánh mắt mất hút theo những chấm đỏ li ti mà người ta có thể đoán là những cái mũi đang chúi xuống cỏ.
- Ồ, tôi thấy đúng ra nên chọn Tây Tây Lan, linh mục nói. Đó là một xứ giống như Ái Nhĩ Lan và nơi các con cừu đều có một màu trắng sữa đẹp.
- Vâng, ở đây giống Tây Tây Lan nhiều thứ - Pađy tiếp lời - Ở đó cũng có một thứ cỏ xanh mướt, nhưng hoang dã hơn.
Pađy có vẻ cảm tình sâu đậm đối với cha Ralph. Đúng lúc đó, những con đà điểu tập hợp thành một đàn đứng phắt chệnh choạng rồi bắt đầu chạy nhanh như gió, chân cao lỏng khỏng rất khó nhìn rõ, cổ dài thẳng lên. Bọn trẻ con nín thở rồi cười rộ lên, thích thú được xem những con chim to lớn chỉ chạy chớ không baỵ
Sau những xúc động mà Úc châu nhanh chóng mang đến, trang trại Drogheda xuất hiện, gợi cho họ nhớ đến một phần Tây Tây Lan với tiền sảnh của tòa nhà theo kiểu thời vua George, những cây đậu chổi um tùm và hàng ngàn cây hồng.
- Mình sẽ ở đây à? Meggie hỏi.
- Không hoàn toàn đúng như thế - Linh mục lên tiếng rất mau - Ngôi nhà mà các bạn đến ở cách đây một kilomet rưỡi, phía dưới thấp một chút, cạnh bên con suối.
Mary Carson chờ họ trong phòng khách rộng thênh thang. Bà không có một động tác nào để đón em trai mình; Pađy phải đến chỗ bà đang ngồi.
- Thế nào, Pađy? Bà hỏi nhỏ nhẹ nhưng mắt bà liếc nhìn qua phía cha Ralph đang bế Meggie trên tay, hai cánh tay cô bé choàng lấy cổ chạ Mary Carson đứng dậy một cách nặng nề, không chào Fiona hoặc bất cứ ai.
- Chúng ta sẽ xem lễ tức thời, bà nói. Tôi biết chắc cha Ralph rất nóng lòng đi ngaỵ
- Không đâu bà Mary thân mến (ông cười, mắt long lanh). Tôi sẽ làm lễ, rồi tất cả chúng ta sẽ dùng chung một buổi cơm trưa ngon miệng và sau đó tôi sẽ chỉ cho Meggie cái nhà sẽ ở như tôi đã hứa với cô bé.
- Meggie? Mary Carson ngạc nhiên.
- Vâng, đây là Meggie. Nhưng chúng ta đã làm quen không đúng trình tự của nó, tôi xin giới thiệu cho đúng. Bà Mary, tôi xin giới thiệu Fionạ
Mary Carson bày tỏ sự đồng ý bằng một cái gật đầu gọn lỏn và sau đó không chú ý đến mấy cậu con trai mà cha Ralph lần lượt gọi tên. Bà quá chăm chú quan sát linh mục và Meggie.
Nơi ở dành cho người quản lý được xây theo kiểu nhà sàn bên cạnh con suối hẹp khoảng mười mét với hàng bạch đàn hai bên bờ. So với sự nguy nga của tòa nhà bà Mary Carson, ngôi nhà có vẻ trơ trọi nhưng nó cũng đủ những tiện nghi như căn nhà ở Tây Tây Lan. Đồ đạc bày biện trong nhà theo kiểu thời Victoria, bên trên phủ một lớp bụi mỏng.
- Các bạn rất may mắn, có một phòng tắm trong nhà, linh mục dẫn đường phía trước vừa đi vừa giải thích. Nhà xây trên các cọc khá cao vì vào mùa con suối lớn ra đột ngột, mực nước lên rất cao, tôi nghe nói, có lần lên cao đến 17 mét trong một đêm.
- Người ở nhà này trước đây không được sạch sẽ lắm - Fiona nhận xét mấy ngón tay chạm vào lớp bụi phủ trên tủ buýt-phê.
Cha Ralph cười to lên.
- Đừng có mong tẩy sạch lớp bụi này - ông giải thích - Nơi chúng ta ở thuộc vùng bên trong và có ba thứ mà bà sẽ phải chịu: sự nóng bức, bụi và ruồi. Dù bà có làm gì đi nữa cũng không đổi khác được.
- Cha rất tốt đối với chúng tôi - Fiona nhìn linh mục nói.
- Cũng là chuyện bình thường thôi, hai ông bà là những bà con duy nhất của người bạn tốt của tôi, bà Mary Carson.
Không để xúc động, Fiona nhún vai.
- Tôi không quen duy trì những quan hệ thân thuộc với các linh mục. Các linh mục ở Tây Tây Lan không can dự vào việc riêng của các con chiên.
- Bà không phải là người theo đạo công giáo?
- Pađy theo đạo công giáo - Dĩ nhiên, con cái cũng được dạy dỗ theo tôn giáo của anh ấy. Tất cả, cho đến đứa cuối cùng...
- Có phải vì thế mà bà không vừa lòng?
- Với tôi hoàn toàn không thành vấn đề.
- Bà đã được...
- Tôi không phải là kẻ đạo đức giả, thưa cha De Bricassart. Tôi đã mất đức tin đối với chính tôn giáo của tôi và tôi không mong muốn theo một tôn giáo khác cũng hoàn toàn vô nghĩa đối với tôi.
- Tôi hiểu.
Cha Ralph quan sát Meggie đang đứng ngoài hiên trước nhà và nhìn ra con đường dẫn đến tòa nhà lớn Droghelạ
- Con gái của bà đẹp quá. ông lại nói. Tôi vẫn đặc biệt thích mái tóc màu vàng vơnidơ. Màu tóc ấy của cô bé sẽ khiến ngay cả danh họa Le Titien cũng chạy tìm bút vẽ. Tôi chưa từng thấy màu tóc như thế bao giờ, có phải đó là con gái duy nhất của bà?
- Vâng. Cứ toàn là con trai, trong gia đình của Pađy và của tôi cũng thế. Con gái rất hiếm.
- Tội nghiệp cô bé, ông nói thầm, nhưng chẳng hiểu tại sao.
Title: Re: Tiếng chim hót trong bụi mận gai - Colleen McCullough. Bestseller năm 1977
Post by: Em se la Nguoi ra di on 10/04/07, 09:34
Post by: Em se la Nguoi ra di on 10/04/07, 09:34
Sao không post hết truyện hả Saos@ngmo, có thể đọc toàn bộ truyện ở đâu? Chỉ với... Cảm ơn nhiều
Title: Re: Tiếng chim hót trong bụi mận gai - Colleen McCullough. Bestseller năm 1977
Post by: Em se la Nguoi ra di on 10/04/07, 09:36
Post by: Em se la Nguoi ra di on 10/04/07, 09:36
Ối chết, hình như là nhầm. Sorry Sha... cứ tưởng saos@ post lên cơ. Nhờ sha chỉ dẫn thêm nhé
Title: Re: Tiếng chim hót trong bụi mận gai - Colleen McCullough. Bestseller năm 1977
Post by: Serenade24 on 10/04/07, 12:30
Post by: Serenade24 on 10/04/07, 12:30
Quote from: Em se la Nguoi ra di on 10/04/07, 09:34
Sao không post hết truyện hả Saos@ngmo, có thể đọc toàn bộ truyện ở đâu? Chỉ với... Cảm ơn nhiều
Quote from: Em se la Nguoi ra di on 10/04/07, 09:36
Ối chết, hình như là nhầm. Sorry Sha... cứ tưởng saos@ post lên cơ. Nhờ sha chỉ dẫn thêm nhé
My pleasure! Never mind!
SRN24 sẽ post hết cả tác phẩm này lên diễn đàn. Tác phẩm này có tất cả 46 chương (khá dài phải không?). Rất vui vì Em sẽ là người ra đi cũng thích tác phẩm này. Nếu ESLNRD muốn có cả tác phẩm ngay thì gửi địa chỉ hòm thư cho SRN24. SRN24 sẽ attach file và gửi cho bạn.
Title: Re: Tiếng chim hót trong bụi mận gai - Colleen McCullough. Bestseller năm 1977
Post by: Serenade24 on 10/04/07, 12:38
Post by: Serenade24 on 10/04/07, 12:38
Chương 6
Lúc đầu, những con số làm cho các thành viên của gia đình Cleary sững sờ. Drogheda có một diện tích cả trăm ngàn hecta. Đường ranh dài nhất có tới 130 kilomet. Sáu mươi lăm kilomet và 27 cái cổng rào ngăn cách căn nhà chính với Gillabone, điểm dân cư duy nhất nằm trong vòng 150 kilomet.
Pađy và các con trai như ở trên mây. Có khi họ ở trên lưng ngựa nhiều ngày liền cách xa nhà nhiều kilomet. Buổi tối, họ cắm trại dười bầu trời đầy sao khiến cho họ thỉnh thoảng tưởng như mình đã hòa nhập cùng Chúa.
Nhưng phụ nữ ở cái xứ này lại bị buộc chân ở nhà, họ thấy cuộc đời không có gì thích thú. Họ không có điều kiện giải trí và cả lý do để leo ngồi lên lưng ngựa. Vẫn là những công việc nhàm chán, dai dẳng như nấu nướng, giặt đồ, quét lau, ủi quần áo, lo cho con nhỏ... Họ phải chịu đựng cái nóng bức, bụi bặm, luôn thiếu người đàn ông để chở và bửa củi, bơm nước, mổ gà. Trời nóng bức đến nghẹt thở, dù rằng còn đang ở đầu mùa xuân, hàn thử biểu trong mát lên đến 30 độ. Trong nhà bếp nhiệt độ lên đến 47.
Quần áo mặc nhiều lớp, may bó chặt, trước đây để sử dụng ở Tây Tây Lan, nơi mà nhà luôn mát lạnh. Mary Carson đến thăm căn nhà của cô em dâu mình với mục đích quan sát coi có được vệ sinh không. Chiếc áo dài vải trúc bâu mà Fiona mặc bó sát lên đến cổ, đường viền phía sau phết dưới đất. Trong khi Mary Carson thì mặc theo mốt mới. Chiếc áo xoa màu kem chỉ dài đến bắp chân, tay rộng, thân không bó và cổ hở thấp.
- Fiona ơi, cô thật là cũ rích - Mary Carson nhận xét.
Bà ta liếc nhìn phòng khách, các bức tường được sơn lại màu kem; sàn nhà lót bằng những tấm thảm Ba Tư, đồ đạc bày biện đắt tiền và tinh tế, khiến cho bà phải chú ý.
- Tôi không có thì giờ để có thể làm khác hơn - Fiona trả lời bằng giọng khô khan.
- Cô có nhiều thời giờ hơn ở đây, vì đàn ông thường vắng mặt. Hãy cắt ngắn chiếc áo lại, vất đi những cái váy và cả coocxê, nếu không cô sẽ chết ngạt thở khi mùa hè đến. Nhiệt độ có thể tăng lên khoảng một chục độ, cô có biết không? Mắt bà Mary dừng lại bức chân dung của một phụ nữ đẹp, tóc vàng, ăn mặc mốt của Nữ hoàng Engénie - Ai đây? - Bà vừa hỏi vừa đưa tay chỉ về bức vẽ.
- Bà ngoại tôi.
- Ồ, thật à? Còn bàn ghế, các tấm thảm này ở đâu ra?
- Của bà ngoại tôi.
- Ồ, thật à? Fiona thân mến của tôi, hình như cô vỡ mộng?
Fiona vẫn bình tĩnh, hai môi mím lại.
- Tôi không nghĩ như vậy. Tôi đã lấy được một người chồng đôn hậu, chị cũng cần biết điều đó.
- Nhưng không có một đồng xu. Họ riêng của em là gì?
- Armstrong.
- Ồ, thật à? Có phải là bà con phía Roderick Armstrong?
- Roderick là tên của anh cả tôi.
Mary Carson đứng dậy, tay chạm mạnh vào chiếc nón rộng vành để xua đuổi những con ruồi không biết kiêng nể bất cứ ai.
- Quả thật, cô sinh ra trong một gia đình khá hơn dòng họ Cleary, tôi phải nhìn nhận điều này. Cô yêu Pađy đến mức nào mà bỏ tất cả như thế?
- Điều đó chỉ liên quan đến tôi - giọng Fiona nói đều đều - Nói không liên quan đến chị. Tôi tránh nói về chồng tôi, kể cả với chị ruột anh ấy.
Nếp nhăn hai bên mũi Mary Carson càng rõ nét, bà trố mắt.
- Cô dễ bị tự ái quá.
Sau này Mary Carson không đến nhà em dâu nữa nhưng bà Smith, quản gia của Mary Carson lại đến thường xuyên và khuyên Fiona nên đổi thay cách ăn mặc.
Trước khi chia tay, Mary Carson nói:
- Trong phòng tôi có một chiếc máy may ít khi sử dụng. Tôi sẽ bảo hai người khiêng qua cho cô. Khi nào tôi cần, tôi đến đây sử dụng (Mắt của bà nhìn về phía bé Hal đang nằm chơi trên sàn nhà). Tôi rất thích nghe tiếng trẻ con líu lo, bà Cleary ạ.
Meggie sống khá cô độc. Bọn con trai chỉ còn lại có Stuart ở nhà. Jack và Hughie theo cha để học nghề chăn cừu, Stuart không có nhiều thì giờ ở bên cạnh Meggie như những anh trai khác. Cậu ta sống với thế giới riêng vốn không ồn ào, thích ngồi hàng giờ quan sát đàn kiến nối đuôi nhau hơn là leo trèo trên cây, trò chơi mà Meggie rất thích, nhất là trèo trên những cây bạch đàn Úc châu đẹp tuyệt.
Tuy nhiên Meggie và Stuart không phải lúc nào cũng có thì giờ dư dả để nhìn kiến và leo cây, cả hai phải làm việc rất dữ: bửa củi và khiêng củi, đào hố rác, trồng rau trong vườn, chăm sóc gà vịt và heo. Cả hai cũng được học để biết cách giết rắn mặc dù vẫn rất sợ chúng.
Mấy năm gần đây mưa rất ít, suối cạn nước, những bồn chứa chỉ còn phân nửa. Cỏ còn đẹp nhưng không thể so sánh với lúc hoa lá xanh tươi.
- Có lẽ tình hình sẽ tệ hơn - Mary Carson nói với giọng chán nản.
Những người dân ở đây phải trải qua nạn lụt trước khi đối đầu với nạn hạn hán dữ dội. Vào giữa tháng giêng, cái gió mùa hướng Bắc - Tây thổi qua vùng này. Những ngọn gió lớn đổi hướng bất thường mặc sức hoành hành. Có khi chỉ những điểm xa nhất phía Bắc của lục địa chịu những trận mưa hè như thác; có khi, những trận mưa ấy tràn xuống phía dưới, làm cho mùa hè trở nên ẩm ướt. Năm đó, vào tháng giêng, mây đen nghịt bị những cơn gió xé toạc ra từng mảnh. Mưa bắt đầu đổ xuống, hồng thủy, trời đất gầm rú liên tục.
- Gió mùa tới. Blue Williams, người chở mướn qua nhiều vùng ghé lại Droghela, vừa vấn thuốc hút vừa nói - Sông Cooper, sông Barcoo, và sông Diamantia phình to ra, còn sông Overflow vỡ bờ. Cả vùng bên trong Queensland sẽ ngập dưới 60 centimet nước; phải rất khó khăn nếu muốn tìm ra một nơi cao để bảo vệ đàn cừu.
Bỗng chốc mưa đến. Pađy và các con trai làm việc thật vất vả để đưa các đàn cừu rời khỏi những vòng rào phía dưới. Cha Ralph đến tiếp tay rất nhiệt tình. ông thắng yên ngựa và đi cùng Frank, với những đàn chó săn giỏi nhất để di chuyển đàn súc vật về những khu đất rào kín gần rìa con sông Barwon. Trong khi đó Pađy và hai người làm công, mỗi người có một cậu con trai đi theo lại chạy về hướng khác.
Cha Ralph trông chẳng khác một nhà chăn nuôi sành sỏi. ông cỡi con ngựa sắc hồng thuần chủng - quà tặng của bà Mary Carson - mặc quần da, chân mang giày bốt bóng loáng, thân người chắc nịch bó sát trong chiếc áo màu trắng tinh, tay áo xắn lên cao, cổ áo mở rộng để lộ ra phần ngực rám nắng. Còn Frank thì mặc quần dài bạc màu, ở phía dưới đầu gối được bó lại bằng những mảnh da cănguru, người anh mặc một chiếc áo ngắn sát nách bằng nỉ mỏng màu xám, khiến Frank trở nên nghèo nàn bên cạnh cha Ralph.
Quả thật là thế - Frank, nhếch mép nghĩ thầm - nhìn theo cái dáng người thẳng của cha Ralph trên lưng con ngựa cái nhanh nhẹn xuyên qua cây thông và hoàng dương bên kia con suối nhỏ. Con ngựa của cha Ralph lông đốm, một con vật tính khí dữ dằn, bướng bỉnh, luôn tỏ ra căm ghét đồng loại. Được kích động, bầy chó chạy tứ tung, sủa loạn lên và cắn lẫn nhau. Răng nanh của chúng nhe ra bắt buộc cha Ralph phải vung những đường roi để trấn áp. Không có gì là không thể làm được ở con người này. ông biết cả huýt gió để ra lệnh đàn chó trở lại nhiệm vụ và sử dụng ngọn roi khéo léo hơn cả Frank.
Khi trời nhá nhem tối, cha Ralph và bầy chó, với sự tiếp sức không có hiệu quả mấy của Frank đã đưa được đàn cừu đến bãi đất thứ nhất, thường thì công việc ấy phải mất nhiều ngày. Linh mục vừa tháo yên ngựa ở một lùm cây gần bãi đất thứ hai, hào hứng cho rằng họ có thể lập lại thành tích đưa đàn cừu đến một bãi khác trước khi trận mưa ào tới. Mấy con chó nằm trên cỏ, lưỡi thòng ra, tìm cách ve vãn cha Ralph. Frank kéo ra từ trong túi trên lưng ngựa những miếng thịt cănguru bầy nhầy và quẳng cho nó. Chúng cắn nhau giành giật.
- Đồ súc vật! Frank nói lầm bầm. Chúng nó không như loài chó nhà. Đúng là những con chó rừng.
- Theo tôi nghĩ có lẽ chúng gần gũi với điều Chúa muốn hơn so với chó nuôi trong nhà. Cha Ralph nói lại nhẹ nhàng. Nhanh nhẹn, thông minh, hung hăng, phần nào thuần hóa. Tôi vẫn thích chúng hơn là chó nuôi làm bạn. Mèo cũng thế - Anh có nhận thấy, những con mèo lảng vảng xung quanh nhà? Hoang dại và hung dữ không thua những con beo; chúng không cho người đến gần. Nhưng chúng săn chuột tuyệt vời và không cần ai nuôi.
Cha Ralph lấy ra từ trong túi đặt trên lưng ngựa một miếng thịt cừu đông lạnh và một gói bánh mì, bơ. Cắt một miếng thịt trao cho Frank, ông để bánh mì và bơ giữa hai người, trên một khúc cây đốn ngã. Ông cắn vào miếng thịt ngon lành. Cả hai cùng uống nước trong một túi da và vấn thuốc hút.
- Này Frank, hình như anh không vui?
Cha Ralph hỏi với một tiếng thở ra, tay vấn điếu thuốc thứ hai.
Frank ngồi cách linh mục khoảng một mét rưỡi; anh quay phắt đầu lại, nhìn cha Ralph với vẻ dò xét.
- Hạnh phúc là thế nào?
- Anh có thể tìm ra một thí dụ. Cha và các em của anh đều rất hạnh phúc, ít ra lúc này. Nhưng anh thì lại khác. Mẹ anh cũng thế và cả em gái Meggie của anh đều không thích Úc châu?
- Tôi không thích vùng này. Tôi muốn đi Sydney; ở đó tôi hy vọng có lối thoát.
- Sydney. Đó là một nơi dễ sa ngã - Cha Ralph cười nói.
- Tôi cóc cần! Ở đây tôi cũng lại bị kẹt cứng như ở Tây Tây Lan. Tôi muốn trốn khỏi ông ấy.
- Ông ấy?
Frank nói một cách đột ngột và từ chối nói thêm. Nằm ngửa, Frank ngước mắt nhìn lên tán cây.
- Anh bao nhiêu tuổi, Frank?
- Hai mươi hai.
- Ồ, tất nhiên! Có lần nào anh xa gia đình chưa?
- Chưa.
- Anh có đi khiêu vũ lần nào chưa? Chắc đã có?
- Chưa.
- Thế thì ông ấy sẽ không giữ được anh lâu.
- Ông ta sẽ giữ tôi đến chết.
Cha Ralph ngáp dài và chuẩn bị ngủ.
- Chúc ngủ ngon - ông nói trong miệng.
Hôm sau dù mây vần vũ nhưng trời vẫn chưa mưa và hai người đã giải tỏa được bãi chăn thứ hai.
Mưa bắt đầu đổ xuống và buổi chiều lúc Frank và linh mục phi ngựa đến chỗ cạn của đoạn suối gần nhà.
Nhưng khi qua bên kia bờ thì người và ngựa không thể lên cùng lúc vì dốc đứng và trơn trợt. Họ phải để ngựa lên trước, cả hai còn lại leo lên tuột xuống mấy lượt.
Nhờ thấy hai con ngựa không có chủ về nhà, Pađy đoán ra chuyện không hay của hai người. Ông đến bên bờ suối với dây thừng kéo cha Ralph và Frank lên.
Pađy mời cha vào nhà thay quần áo ấm nhưng cha cười lắc đầu từ chối.
- Mọi người đang chờ tôi ở Nhà Lớn - ông nói. Mary Carson nghe tiếng cha Ralph gọi cửa trước khi đám gia nhân nghe thấy. Ông đã đi vòng ra phía trước tòa nhà dự tính đi thẳng vào phòng.
- Cha không thể vào nhà trong tình trạng này, người lấm bê lấm bết - Bà Mary Carson đứng trong hiên nói với Ralph.
- Vậy xin bà đưa giúp tôi mấy cái khăn và chiếc valị
Không chút ngượng nghịu, bà quan sát cha Ralph trong khi ông cởi áo, cởi giày bốt. Ông tựa vào cửa sổ phòng khách dùng khăn để lau bùn.
- Cha là người đàn ông đẹp nhất mà tôi được nhìn, Ralph ạ - Tại sao có lắm linh mục đẹp như thế. Phải chăng vì có dòng máu Ái Nhĩ Lan. Tất nhiên, đó là một dân tộc đẹp, những người Ái Nhĩ Lan. Có phải những đàn ông đẹp đi làm linh mục để thoát khỏi sự quyến rũ của chính họ. Tôi đánh cuộc với cha rằng tất cả thiếu nữ ở Gilly đều ao ước cha.
- Từ lâu tôi có thói quen không để ý đến các cô gái si tình - ông trả lời vui vẻ - Bất cứ linh mục nào dưới 50 tuổi đều co thể là mục tiêu của một số các cô và một linh mục dưới 35 thì dứt khoát các cô phải mê rồi. Nhưng chỉ có các cô gái theo đạo Tin lành là muốn chinh phục tôi một cách công khai.
- Cha không trả lời thẳng câu hỏi của tôi.
Mary Carson đứng thẳng người lên, đến sát cha Ralph đặt lòng bàn tay của mình lên ngực linh mục và giữ nguyên ở đó.
- Sự đòi hỏi của phụ nữ có làm cha ray rứt không, cha Ralph?
- Không, ông trả lời, đầu ông ngả về phía sau trong một động tác bày tỏ sự khinh miệt.
- Với đàn ông thì có lẽ?
- Còn tệ hơn phụ nữ. Không, không có đòi hỏi nào giày vò tôi.
- Hay cha chỉ yêu chính cha mà thôi?
- Càng ít hơn bất cứ ai.
- Thật lý thú. Bà đi vòng quanh cha Ralph và quan sát linh mục. Ralph, Hồng Y De Bricassart - giọng Mary Carson mỉa mai.
Đầu tháng hai, cuộc sống thay đổi đột ngột với Meggie và Stuart. Cả hai được gởi đi học nội trú ở tu viện Gillabone vì không có trường nào gần hơn. Pađy cho biết khi tới tuổi, Hal sẽ học theo phương pháp hàm thụ của trường trung học Blacfriard ở Sydney. Còn bây giờ vì Meggie và Stuart quen học với thầy nên phải gởi đi học ở tu viện Saint Croix, tiền nội trú được bà Mary Carson chi rộng rãi. Còn Jack và Hughie sẽ không đi học nữa, Drogheda cần chúng và cả hai đều thích sống với đất đai.
Meggie và Stuart trải qua một cuộc sống êm đềm ở tu viện Saint Croix, rất khác so với những ngày chúng học Trường Thánh Tâm ở Wahine. Cha Ralph đã tế nhị cho các nữ tu biết ông bảo trợ cho hai đứa bé và khéo léo nhắc đến người cô của chúng là một phụ nữ giàu nhất ở New South Wales. Do đó mà sự rụt rè của Meggie được xem như một đức tính tốt và cuộc sống tách rời, cô độc của Stuart, thói quen nhìn vào khoảng không, giờ này sang giờ khác, lại được coi là thánh thiện.
Cha Ralph thường đến thăm Meggie và Stuart, đón cả hai về nhà xứ đều đặn đến nỗi ông quyết định cho sơn căn phòng được dành cho Meggie - bằng màu xanh dịu - ông cho treo màn mới và thay khăn trải giường. Stuart thì tiếp tục ngủ trong căn phòng trước đây sơn màu kem bây giờ ngả sang màu nâu. Cha Ralph không hề tỏ ra quan tâm Stuart ở đây có vui không. Sự hiện diện của Stuart là phụ thuộc, cậu ta được mời về chỉ do sự tế nhị bắt buộc mà thôi.
Cha Ralph cũng không biết tại sao ông lại mến Meggie đến thế, và trong thâm tâm ông cũng không khi nào tự hỏi về điều này . Đầu tiên ông cảm thấy thương hại cô bé khi nhìn thấy lần đầu ở sân ga đầy bụi, Meggie đứng tách riêng một mình, có lẽ vì là con gái duy nhất trong gia đình. Ông kết luận như vậy. Nhưng ngược lại, linh mục không lưu tâm đến Frank cũng đứng một mình ngoài vòng gia đình; ông không hề thương hại cậu thanh niên ấy. Còn Meggie, cô bé làm cho linh mục xúc động sâu xa mặc dù ông không biết tại sao. Màu tóc của Meggie khiến cho ông bị mê hoặc. Màu và hình dáng của đôi mắt làm nhớ đến đôi mắt rất đẹp của Fiona, nhưng dịu dàng gấp bội và đáng yêu hơn. Và tính tình của Meggie theo ông đó là cái tính lý tưởng của người phụ nữ: thụ động, nhưng kiên quyết trước mọi thử thách. Không có sự nổi loạn ở Meggie, trái lại, cả đời Meggie sẽ khuất phục, chấp nhận sống bên trong những ranh giới của số phận người phụ nữ.
Tuy nhiên, không phải chỉ có những điều đó làm Ralph quý mến Meggie; mà trong sâu xa, tình cảm đối với cô bé này xuất phát từ một pha trộn của thời gian, nơi chốn và cá tính. Không ai coi cô bé ra gì, điều đó gây nên một khoảng trống trong cuộc đời của Meggie, cái khoảng trống ấy ông có thể làm đầy và chắc chắn sẽ nhận được tình thương của cô bé. Meggie lại là một đứa trẻ con và như thế không gây nên lời ra tiếng vào nào cho lối sống và tiếng tăm của linh mục. Cô bé rất đẹp và ông say mê với cái đẹp ấy . Điều đó khó có thể chấp nhận, cô bé đã lấp cái khoảng trống của cuộc đời ông, cái khoảng trống mà Chúa của ông không thể lấp được, vì rằng cô bé có một sức hấp dẫn và một nhân cách rõ nét. Để không gây sự khó chịu cho gia đình Cleary khi ông thường xuyên tặng quà cho Meggie, ông đã dành tất cả thời gian mà ông có thể có được - thời giờ và cả tâm trí - để trang hoàng căn phòng của Meggie ở trong nhà xứ, với mục đích được thấy cô bé vui, hơn là để có một nơi để đặt viên ngọc quí Meggie.
Lúc đầu, những con số làm cho các thành viên của gia đình Cleary sững sờ. Drogheda có một diện tích cả trăm ngàn hecta. Đường ranh dài nhất có tới 130 kilomet. Sáu mươi lăm kilomet và 27 cái cổng rào ngăn cách căn nhà chính với Gillabone, điểm dân cư duy nhất nằm trong vòng 150 kilomet.
Pađy và các con trai như ở trên mây. Có khi họ ở trên lưng ngựa nhiều ngày liền cách xa nhà nhiều kilomet. Buổi tối, họ cắm trại dười bầu trời đầy sao khiến cho họ thỉnh thoảng tưởng như mình đã hòa nhập cùng Chúa.
Nhưng phụ nữ ở cái xứ này lại bị buộc chân ở nhà, họ thấy cuộc đời không có gì thích thú. Họ không có điều kiện giải trí và cả lý do để leo ngồi lên lưng ngựa. Vẫn là những công việc nhàm chán, dai dẳng như nấu nướng, giặt đồ, quét lau, ủi quần áo, lo cho con nhỏ... Họ phải chịu đựng cái nóng bức, bụi bặm, luôn thiếu người đàn ông để chở và bửa củi, bơm nước, mổ gà. Trời nóng bức đến nghẹt thở, dù rằng còn đang ở đầu mùa xuân, hàn thử biểu trong mát lên đến 30 độ. Trong nhà bếp nhiệt độ lên đến 47.
Quần áo mặc nhiều lớp, may bó chặt, trước đây để sử dụng ở Tây Tây Lan, nơi mà nhà luôn mát lạnh. Mary Carson đến thăm căn nhà của cô em dâu mình với mục đích quan sát coi có được vệ sinh không. Chiếc áo dài vải trúc bâu mà Fiona mặc bó sát lên đến cổ, đường viền phía sau phết dưới đất. Trong khi Mary Carson thì mặc theo mốt mới. Chiếc áo xoa màu kem chỉ dài đến bắp chân, tay rộng, thân không bó và cổ hở thấp.
- Fiona ơi, cô thật là cũ rích - Mary Carson nhận xét.
Bà ta liếc nhìn phòng khách, các bức tường được sơn lại màu kem; sàn nhà lót bằng những tấm thảm Ba Tư, đồ đạc bày biện đắt tiền và tinh tế, khiến cho bà phải chú ý.
- Tôi không có thì giờ để có thể làm khác hơn - Fiona trả lời bằng giọng khô khan.
- Cô có nhiều thời giờ hơn ở đây, vì đàn ông thường vắng mặt. Hãy cắt ngắn chiếc áo lại, vất đi những cái váy và cả coocxê, nếu không cô sẽ chết ngạt thở khi mùa hè đến. Nhiệt độ có thể tăng lên khoảng một chục độ, cô có biết không? Mắt bà Mary dừng lại bức chân dung của một phụ nữ đẹp, tóc vàng, ăn mặc mốt của Nữ hoàng Engénie - Ai đây? - Bà vừa hỏi vừa đưa tay chỉ về bức vẽ.
- Bà ngoại tôi.
- Ồ, thật à? Còn bàn ghế, các tấm thảm này ở đâu ra?
- Của bà ngoại tôi.
- Ồ, thật à? Fiona thân mến của tôi, hình như cô vỡ mộng?
Fiona vẫn bình tĩnh, hai môi mím lại.
- Tôi không nghĩ như vậy. Tôi đã lấy được một người chồng đôn hậu, chị cũng cần biết điều đó.
- Nhưng không có một đồng xu. Họ riêng của em là gì?
- Armstrong.
- Ồ, thật à? Có phải là bà con phía Roderick Armstrong?
- Roderick là tên của anh cả tôi.
Mary Carson đứng dậy, tay chạm mạnh vào chiếc nón rộng vành để xua đuổi những con ruồi không biết kiêng nể bất cứ ai.
- Quả thật, cô sinh ra trong một gia đình khá hơn dòng họ Cleary, tôi phải nhìn nhận điều này. Cô yêu Pađy đến mức nào mà bỏ tất cả như thế?
- Điều đó chỉ liên quan đến tôi - giọng Fiona nói đều đều - Nói không liên quan đến chị. Tôi tránh nói về chồng tôi, kể cả với chị ruột anh ấy.
Nếp nhăn hai bên mũi Mary Carson càng rõ nét, bà trố mắt.
- Cô dễ bị tự ái quá.
Sau này Mary Carson không đến nhà em dâu nữa nhưng bà Smith, quản gia của Mary Carson lại đến thường xuyên và khuyên Fiona nên đổi thay cách ăn mặc.
Trước khi chia tay, Mary Carson nói:
- Trong phòng tôi có một chiếc máy may ít khi sử dụng. Tôi sẽ bảo hai người khiêng qua cho cô. Khi nào tôi cần, tôi đến đây sử dụng (Mắt của bà nhìn về phía bé Hal đang nằm chơi trên sàn nhà). Tôi rất thích nghe tiếng trẻ con líu lo, bà Cleary ạ.
Meggie sống khá cô độc. Bọn con trai chỉ còn lại có Stuart ở nhà. Jack và Hughie theo cha để học nghề chăn cừu, Stuart không có nhiều thì giờ ở bên cạnh Meggie như những anh trai khác. Cậu ta sống với thế giới riêng vốn không ồn ào, thích ngồi hàng giờ quan sát đàn kiến nối đuôi nhau hơn là leo trèo trên cây, trò chơi mà Meggie rất thích, nhất là trèo trên những cây bạch đàn Úc châu đẹp tuyệt.
Tuy nhiên Meggie và Stuart không phải lúc nào cũng có thì giờ dư dả để nhìn kiến và leo cây, cả hai phải làm việc rất dữ: bửa củi và khiêng củi, đào hố rác, trồng rau trong vườn, chăm sóc gà vịt và heo. Cả hai cũng được học để biết cách giết rắn mặc dù vẫn rất sợ chúng.
Mấy năm gần đây mưa rất ít, suối cạn nước, những bồn chứa chỉ còn phân nửa. Cỏ còn đẹp nhưng không thể so sánh với lúc hoa lá xanh tươi.
- Có lẽ tình hình sẽ tệ hơn - Mary Carson nói với giọng chán nản.
Những người dân ở đây phải trải qua nạn lụt trước khi đối đầu với nạn hạn hán dữ dội. Vào giữa tháng giêng, cái gió mùa hướng Bắc - Tây thổi qua vùng này. Những ngọn gió lớn đổi hướng bất thường mặc sức hoành hành. Có khi chỉ những điểm xa nhất phía Bắc của lục địa chịu những trận mưa hè như thác; có khi, những trận mưa ấy tràn xuống phía dưới, làm cho mùa hè trở nên ẩm ướt. Năm đó, vào tháng giêng, mây đen nghịt bị những cơn gió xé toạc ra từng mảnh. Mưa bắt đầu đổ xuống, hồng thủy, trời đất gầm rú liên tục.
- Gió mùa tới. Blue Williams, người chở mướn qua nhiều vùng ghé lại Droghela, vừa vấn thuốc hút vừa nói - Sông Cooper, sông Barcoo, và sông Diamantia phình to ra, còn sông Overflow vỡ bờ. Cả vùng bên trong Queensland sẽ ngập dưới 60 centimet nước; phải rất khó khăn nếu muốn tìm ra một nơi cao để bảo vệ đàn cừu.
Bỗng chốc mưa đến. Pađy và các con trai làm việc thật vất vả để đưa các đàn cừu rời khỏi những vòng rào phía dưới. Cha Ralph đến tiếp tay rất nhiệt tình. ông thắng yên ngựa và đi cùng Frank, với những đàn chó săn giỏi nhất để di chuyển đàn súc vật về những khu đất rào kín gần rìa con sông Barwon. Trong khi đó Pađy và hai người làm công, mỗi người có một cậu con trai đi theo lại chạy về hướng khác.
Cha Ralph trông chẳng khác một nhà chăn nuôi sành sỏi. ông cỡi con ngựa sắc hồng thuần chủng - quà tặng của bà Mary Carson - mặc quần da, chân mang giày bốt bóng loáng, thân người chắc nịch bó sát trong chiếc áo màu trắng tinh, tay áo xắn lên cao, cổ áo mở rộng để lộ ra phần ngực rám nắng. Còn Frank thì mặc quần dài bạc màu, ở phía dưới đầu gối được bó lại bằng những mảnh da cănguru, người anh mặc một chiếc áo ngắn sát nách bằng nỉ mỏng màu xám, khiến Frank trở nên nghèo nàn bên cạnh cha Ralph.
Quả thật là thế - Frank, nhếch mép nghĩ thầm - nhìn theo cái dáng người thẳng của cha Ralph trên lưng con ngựa cái nhanh nhẹn xuyên qua cây thông và hoàng dương bên kia con suối nhỏ. Con ngựa của cha Ralph lông đốm, một con vật tính khí dữ dằn, bướng bỉnh, luôn tỏ ra căm ghét đồng loại. Được kích động, bầy chó chạy tứ tung, sủa loạn lên và cắn lẫn nhau. Răng nanh của chúng nhe ra bắt buộc cha Ralph phải vung những đường roi để trấn áp. Không có gì là không thể làm được ở con người này. ông biết cả huýt gió để ra lệnh đàn chó trở lại nhiệm vụ và sử dụng ngọn roi khéo léo hơn cả Frank.
Khi trời nhá nhem tối, cha Ralph và bầy chó, với sự tiếp sức không có hiệu quả mấy của Frank đã đưa được đàn cừu đến bãi đất thứ nhất, thường thì công việc ấy phải mất nhiều ngày. Linh mục vừa tháo yên ngựa ở một lùm cây gần bãi đất thứ hai, hào hứng cho rằng họ có thể lập lại thành tích đưa đàn cừu đến một bãi khác trước khi trận mưa ào tới. Mấy con chó nằm trên cỏ, lưỡi thòng ra, tìm cách ve vãn cha Ralph. Frank kéo ra từ trong túi trên lưng ngựa những miếng thịt cănguru bầy nhầy và quẳng cho nó. Chúng cắn nhau giành giật.
- Đồ súc vật! Frank nói lầm bầm. Chúng nó không như loài chó nhà. Đúng là những con chó rừng.
- Theo tôi nghĩ có lẽ chúng gần gũi với điều Chúa muốn hơn so với chó nuôi trong nhà. Cha Ralph nói lại nhẹ nhàng. Nhanh nhẹn, thông minh, hung hăng, phần nào thuần hóa. Tôi vẫn thích chúng hơn là chó nuôi làm bạn. Mèo cũng thế - Anh có nhận thấy, những con mèo lảng vảng xung quanh nhà? Hoang dại và hung dữ không thua những con beo; chúng không cho người đến gần. Nhưng chúng săn chuột tuyệt vời và không cần ai nuôi.
Cha Ralph lấy ra từ trong túi đặt trên lưng ngựa một miếng thịt cừu đông lạnh và một gói bánh mì, bơ. Cắt một miếng thịt trao cho Frank, ông để bánh mì và bơ giữa hai người, trên một khúc cây đốn ngã. Ông cắn vào miếng thịt ngon lành. Cả hai cùng uống nước trong một túi da và vấn thuốc hút.
- Này Frank, hình như anh không vui?
Cha Ralph hỏi với một tiếng thở ra, tay vấn điếu thuốc thứ hai.
Frank ngồi cách linh mục khoảng một mét rưỡi; anh quay phắt đầu lại, nhìn cha Ralph với vẻ dò xét.
- Hạnh phúc là thế nào?
- Anh có thể tìm ra một thí dụ. Cha và các em của anh đều rất hạnh phúc, ít ra lúc này. Nhưng anh thì lại khác. Mẹ anh cũng thế và cả em gái Meggie của anh đều không thích Úc châu?
- Tôi không thích vùng này. Tôi muốn đi Sydney; ở đó tôi hy vọng có lối thoát.
- Sydney. Đó là một nơi dễ sa ngã - Cha Ralph cười nói.
- Tôi cóc cần! Ở đây tôi cũng lại bị kẹt cứng như ở Tây Tây Lan. Tôi muốn trốn khỏi ông ấy.
- Ông ấy?
Frank nói một cách đột ngột và từ chối nói thêm. Nằm ngửa, Frank ngước mắt nhìn lên tán cây.
- Anh bao nhiêu tuổi, Frank?
- Hai mươi hai.
- Ồ, tất nhiên! Có lần nào anh xa gia đình chưa?
- Chưa.
- Anh có đi khiêu vũ lần nào chưa? Chắc đã có?
- Chưa.
- Thế thì ông ấy sẽ không giữ được anh lâu.
- Ông ta sẽ giữ tôi đến chết.
Cha Ralph ngáp dài và chuẩn bị ngủ.
- Chúc ngủ ngon - ông nói trong miệng.
Hôm sau dù mây vần vũ nhưng trời vẫn chưa mưa và hai người đã giải tỏa được bãi chăn thứ hai.
Mưa bắt đầu đổ xuống và buổi chiều lúc Frank và linh mục phi ngựa đến chỗ cạn của đoạn suối gần nhà.
Nhưng khi qua bên kia bờ thì người và ngựa không thể lên cùng lúc vì dốc đứng và trơn trợt. Họ phải để ngựa lên trước, cả hai còn lại leo lên tuột xuống mấy lượt.
Nhờ thấy hai con ngựa không có chủ về nhà, Pađy đoán ra chuyện không hay của hai người. Ông đến bên bờ suối với dây thừng kéo cha Ralph và Frank lên.
Pađy mời cha vào nhà thay quần áo ấm nhưng cha cười lắc đầu từ chối.
- Mọi người đang chờ tôi ở Nhà Lớn - ông nói. Mary Carson nghe tiếng cha Ralph gọi cửa trước khi đám gia nhân nghe thấy. Ông đã đi vòng ra phía trước tòa nhà dự tính đi thẳng vào phòng.
- Cha không thể vào nhà trong tình trạng này, người lấm bê lấm bết - Bà Mary Carson đứng trong hiên nói với Ralph.
- Vậy xin bà đưa giúp tôi mấy cái khăn và chiếc valị
Không chút ngượng nghịu, bà quan sát cha Ralph trong khi ông cởi áo, cởi giày bốt. Ông tựa vào cửa sổ phòng khách dùng khăn để lau bùn.
- Cha là người đàn ông đẹp nhất mà tôi được nhìn, Ralph ạ - Tại sao có lắm linh mục đẹp như thế. Phải chăng vì có dòng máu Ái Nhĩ Lan. Tất nhiên, đó là một dân tộc đẹp, những người Ái Nhĩ Lan. Có phải những đàn ông đẹp đi làm linh mục để thoát khỏi sự quyến rũ của chính họ. Tôi đánh cuộc với cha rằng tất cả thiếu nữ ở Gilly đều ao ước cha.
- Từ lâu tôi có thói quen không để ý đến các cô gái si tình - ông trả lời vui vẻ - Bất cứ linh mục nào dưới 50 tuổi đều co thể là mục tiêu của một số các cô và một linh mục dưới 35 thì dứt khoát các cô phải mê rồi. Nhưng chỉ có các cô gái theo đạo Tin lành là muốn chinh phục tôi một cách công khai.
- Cha không trả lời thẳng câu hỏi của tôi.
Mary Carson đứng thẳng người lên, đến sát cha Ralph đặt lòng bàn tay của mình lên ngực linh mục và giữ nguyên ở đó.
- Sự đòi hỏi của phụ nữ có làm cha ray rứt không, cha Ralph?
- Không, ông trả lời, đầu ông ngả về phía sau trong một động tác bày tỏ sự khinh miệt.
- Với đàn ông thì có lẽ?
- Còn tệ hơn phụ nữ. Không, không có đòi hỏi nào giày vò tôi.
- Hay cha chỉ yêu chính cha mà thôi?
- Càng ít hơn bất cứ ai.
- Thật lý thú. Bà đi vòng quanh cha Ralph và quan sát linh mục. Ralph, Hồng Y De Bricassart - giọng Mary Carson mỉa mai.
Đầu tháng hai, cuộc sống thay đổi đột ngột với Meggie và Stuart. Cả hai được gởi đi học nội trú ở tu viện Gillabone vì không có trường nào gần hơn. Pađy cho biết khi tới tuổi, Hal sẽ học theo phương pháp hàm thụ của trường trung học Blacfriard ở Sydney. Còn bây giờ vì Meggie và Stuart quen học với thầy nên phải gởi đi học ở tu viện Saint Croix, tiền nội trú được bà Mary Carson chi rộng rãi. Còn Jack và Hughie sẽ không đi học nữa, Drogheda cần chúng và cả hai đều thích sống với đất đai.
Meggie và Stuart trải qua một cuộc sống êm đềm ở tu viện Saint Croix, rất khác so với những ngày chúng học Trường Thánh Tâm ở Wahine. Cha Ralph đã tế nhị cho các nữ tu biết ông bảo trợ cho hai đứa bé và khéo léo nhắc đến người cô của chúng là một phụ nữ giàu nhất ở New South Wales. Do đó mà sự rụt rè của Meggie được xem như một đức tính tốt và cuộc sống tách rời, cô độc của Stuart, thói quen nhìn vào khoảng không, giờ này sang giờ khác, lại được coi là thánh thiện.
Cha Ralph thường đến thăm Meggie và Stuart, đón cả hai về nhà xứ đều đặn đến nỗi ông quyết định cho sơn căn phòng được dành cho Meggie - bằng màu xanh dịu - ông cho treo màn mới và thay khăn trải giường. Stuart thì tiếp tục ngủ trong căn phòng trước đây sơn màu kem bây giờ ngả sang màu nâu. Cha Ralph không hề tỏ ra quan tâm Stuart ở đây có vui không. Sự hiện diện của Stuart là phụ thuộc, cậu ta được mời về chỉ do sự tế nhị bắt buộc mà thôi.
Cha Ralph cũng không biết tại sao ông lại mến Meggie đến thế, và trong thâm tâm ông cũng không khi nào tự hỏi về điều này . Đầu tiên ông cảm thấy thương hại cô bé khi nhìn thấy lần đầu ở sân ga đầy bụi, Meggie đứng tách riêng một mình, có lẽ vì là con gái duy nhất trong gia đình. Ông kết luận như vậy. Nhưng ngược lại, linh mục không lưu tâm đến Frank cũng đứng một mình ngoài vòng gia đình; ông không hề thương hại cậu thanh niên ấy. Còn Meggie, cô bé làm cho linh mục xúc động sâu xa mặc dù ông không biết tại sao. Màu tóc của Meggie khiến cho ông bị mê hoặc. Màu và hình dáng của đôi mắt làm nhớ đến đôi mắt rất đẹp của Fiona, nhưng dịu dàng gấp bội và đáng yêu hơn. Và tính tình của Meggie theo ông đó là cái tính lý tưởng của người phụ nữ: thụ động, nhưng kiên quyết trước mọi thử thách. Không có sự nổi loạn ở Meggie, trái lại, cả đời Meggie sẽ khuất phục, chấp nhận sống bên trong những ranh giới của số phận người phụ nữ.
Tuy nhiên, không phải chỉ có những điều đó làm Ralph quý mến Meggie; mà trong sâu xa, tình cảm đối với cô bé này xuất phát từ một pha trộn của thời gian, nơi chốn và cá tính. Không ai coi cô bé ra gì, điều đó gây nên một khoảng trống trong cuộc đời của Meggie, cái khoảng trống ấy ông có thể làm đầy và chắc chắn sẽ nhận được tình thương của cô bé. Meggie lại là một đứa trẻ con và như thế không gây nên lời ra tiếng vào nào cho lối sống và tiếng tăm của linh mục. Cô bé rất đẹp và ông say mê với cái đẹp ấy . Điều đó khó có thể chấp nhận, cô bé đã lấp cái khoảng trống của cuộc đời ông, cái khoảng trống mà Chúa của ông không thể lấp được, vì rằng cô bé có một sức hấp dẫn và một nhân cách rõ nét. Để không gây sự khó chịu cho gia đình Cleary khi ông thường xuyên tặng quà cho Meggie, ông đã dành tất cả thời gian mà ông có thể có được - thời giờ và cả tâm trí - để trang hoàng căn phòng của Meggie ở trong nhà xứ, với mục đích được thấy cô bé vui, hơn là để có một nơi để đặt viên ngọc quí Meggie.
Title: Re: Tiếng chim hót trong bụi mận gai - Colleen McCullough. Bestseller năm 1977
Post by: Serenade24 on 10/04/07, 12:42
Post by: Serenade24 on 10/04/07, 12:42
Chương 7
Frank không về nhà từ mười lăm ngày nay. Anh ta theo người chăn nuôi già tên Peter Cái Thùng, với đàn chó, hai con ngựa, một chiếc xe nhỏ do một con ngựa tồi kéo dùng để chở đồ dự trữ, họ đến những vùng bãi chăn cừu xa nhất về hướng Tây đưa cừu về. Công việc mất thời giờ, chậm chạp và nhạt nhẽo không như việc tập hợp cừu vội vã vào thời điểm sắp sửa có lụt. Nơi cắt lông cừu chỉ có thể nhận cùng một lúc mười ngàn con vì vậy khâu tuyển lựa rất cần thiết.
Khi Frank bước vào nhà bếp, anh gặp ngay mẹ đứng bên bể rửa chén dĩa, vẫn lúi húi vào thứ công việc không bao giờ kết thúc: gọt khoai.
- Mẹ ơi, con về rồi! Anh vui mừng báo tin.
Bà quay lại Frank, ngạc nhiên nhìn lên; hai tuần lễ xa nhà cái nhìn của anh sắc hơn.
- Trời ơi...! Frank lầm thầm trong miệng.
Trong đôi mắt của Fiona không thấy có niềm vui gặp lại con, gương mặt đỏ lên xấu hổ, hai tay bà đặt lên tạp dề độn tròn như để che giấu điều mà áo quần không thể che được.
- Con dê già ấy thật gớm ghiếc! Frank kêu lên, tay chân run rẩy.
- Frank! Mẹ không cho phép con được nói như thế. Con lớn rồi. Con phải hiểu biết. Chính con cũng chào đời bằng kết quả như thế. Điều này không có gì xấu xa; khi con chửi cha con, con đã chửi cả mẹ rồi đấy!
- Ông ta không có quyền! Đáng ra ông ta phải để mẹ yên. Frank chống chế lại, miệng rít lên sùi bọt mép.
- Không xấu xa đâu, Frank - bà lặp lại bằng giọng mỏi mệt và nhìn Frank bằng đôi mắt sáng trong - không xấu xa đâu, Frank, không xấu xa hơn hành động để cho một đứa trẻ sinh ra đời.
Lần này thì Frank đỏ mặt lên. Anh không dám nhìn thẳng mẹ; anh nhìn đi nơi khác rồi về phòng chung với Bob, Jack và Hughie. Mấy bức tường trống trơn, những chiếc giường chật như trêu chọc Frank, bêu riếu sự có mặt của anh; đây là nơi ngủ buồn tẻ của Frank, không có người nào khác để gây hơi ấm và cũng chẳng có chút gì gọi là thiêng liêng. Và lúc ấy trong anh hiện lên gương mặt của mẹ, nét đẹp mệt mỏi, với quầng sáng của mái tóc vàng óng ánh tỏa ra như một vầng hào quang, sung sướng vì cảm nhận trong bụng mình cái kết quả đã cùng con dê già lông lá cấu tạo giữa cái nóng oi bức của mùa hè.
Anh ta không thể xua đuổi nỗi ám ảnh ấy, không thể tách rời mẹ với những suy nghĩ đen tối đang vây hãm mình. Rồi những đòi hỏi tự nhiên của lứa tuổi và sự sung mãn của người đàn ông đã dậy lên ở anh ra. Bình thường, Frank xua đuổi được những ý tưởng ấy khỏi đầu óc nhưng khi mẹ anh ta phô bày ra trước anh sự hiển nhiên của chuyện dâm dục, và cái hành vi bí ẩn đã thực hiện với con thú già đa dâm ấy thì... Làm sao Frank có thể chấp nhận được, chịu đựng được? Frank mong muốn nghĩ về mẹ như một người hết sức thánh thiện, trong trắng như Đức Mẹ đồng trinh, một người phụ nữ vượt lên trên hành động tầm thường mặc dù tất cả phụ nữ, ở khắp thế gian, đều phạm tội ấy. Cảm thấy mẹ đánh mất cái ý tưởng đẹp mà anh vốn trân trọng, Frank phát điên lên. Để đầu óc được bình tỉnh, Frank cần phải tưởng tượng rằng mẹ mình nằm kế bên lão già ghê tởm ấy trong sự trong trắng hoàn toàn, chỉ để ngủ, và trong đêm cả hai không quay mặt lại nhau, cũng không hề chạm nhau - Trời ơi!
Tiếng lanh lảnh của kim loại khiến Frank nhìn xuống; anh nhận ra là mình đang bóp vẹo cái thanh sắt giường.
- Tiếc quá, mày không phải là cha tao! Anh nói với thanh sắt.
- Frank, Fiona đứng ở cửa phòng gọi Frank. Anh ngước nhìn mẹ bằng đôi mắt đen, sáng quắc, nhưng ướt đẫm như hòn than dưới mưa.
- Trước sau gì con cũng giết ông ta - giọng Frank gầm gừ.
- Và rồi con sẽ giết luôn mẹ chứ gì! Fiona vừa nói vừa đến ngồi bên Frank.
- Không, con sẽ giải thoát mẹ! Frank đáp lại, giọng sôi nổi, lòng nung nấu bởi một hy vọng điên rồ.
- Frank à, mẹ sẽ không bao giờ được tự do. Hơn nữa mẹ cũng không muốn được tự do. Mẹ muốn tìm hiểu sự mù quáng của con từ đâu mà ra, vậy mà mẹ không thể hiểu được. Nhưng có điều chắc là không phải từ mẹ, mà cũng không từ cha con. Mẹ biết con không có hạnh phúc, nhưng tại sao con trút tất cả lên mẹ và cha? (Bà nhìn hai tay mình, rồi nhìn lên Frank). Đáng lý mẹ không nói điều này với con, nhưng mẹ nghĩ cần phải nói. Frank à, đã đến lúc con cần có người bạn gái, để sau này xây dựng một mái ấm gia đình. Drogheda không thiếu chỗ đâu; về chuyện này mẹ không âu lo cho các em con; các em con bản tính không giống con. Nhưng còn con, con cần một người vợ. Frank à. Khi có vợ, con không có thời giờ để nghĩ đến mẹ nữa.
Frank ngồi quay lưng lại mẹ, anh không muốn phải nhìn thẳng vào mẹ. Hơn năm phút đã trôi qua, bà vẫn ngồi trên giường với hy vọng Frank sẽ nói điều gì đó, nhưng rồi bà thở dài, đứng lên và rời khỏi phòng.
Frank không về nhà từ mười lăm ngày nay. Anh ta theo người chăn nuôi già tên Peter Cái Thùng, với đàn chó, hai con ngựa, một chiếc xe nhỏ do một con ngựa tồi kéo dùng để chở đồ dự trữ, họ đến những vùng bãi chăn cừu xa nhất về hướng Tây đưa cừu về. Công việc mất thời giờ, chậm chạp và nhạt nhẽo không như việc tập hợp cừu vội vã vào thời điểm sắp sửa có lụt. Nơi cắt lông cừu chỉ có thể nhận cùng một lúc mười ngàn con vì vậy khâu tuyển lựa rất cần thiết.
Khi Frank bước vào nhà bếp, anh gặp ngay mẹ đứng bên bể rửa chén dĩa, vẫn lúi húi vào thứ công việc không bao giờ kết thúc: gọt khoai.
- Mẹ ơi, con về rồi! Anh vui mừng báo tin.
Bà quay lại Frank, ngạc nhiên nhìn lên; hai tuần lễ xa nhà cái nhìn của anh sắc hơn.
- Trời ơi...! Frank lầm thầm trong miệng.
Trong đôi mắt của Fiona không thấy có niềm vui gặp lại con, gương mặt đỏ lên xấu hổ, hai tay bà đặt lên tạp dề độn tròn như để che giấu điều mà áo quần không thể che được.
- Con dê già ấy thật gớm ghiếc! Frank kêu lên, tay chân run rẩy.
- Frank! Mẹ không cho phép con được nói như thế. Con lớn rồi. Con phải hiểu biết. Chính con cũng chào đời bằng kết quả như thế. Điều này không có gì xấu xa; khi con chửi cha con, con đã chửi cả mẹ rồi đấy!
- Ông ta không có quyền! Đáng ra ông ta phải để mẹ yên. Frank chống chế lại, miệng rít lên sùi bọt mép.
- Không xấu xa đâu, Frank - bà lặp lại bằng giọng mỏi mệt và nhìn Frank bằng đôi mắt sáng trong - không xấu xa đâu, Frank, không xấu xa hơn hành động để cho một đứa trẻ sinh ra đời.
Lần này thì Frank đỏ mặt lên. Anh không dám nhìn thẳng mẹ; anh nhìn đi nơi khác rồi về phòng chung với Bob, Jack và Hughie. Mấy bức tường trống trơn, những chiếc giường chật như trêu chọc Frank, bêu riếu sự có mặt của anh; đây là nơi ngủ buồn tẻ của Frank, không có người nào khác để gây hơi ấm và cũng chẳng có chút gì gọi là thiêng liêng. Và lúc ấy trong anh hiện lên gương mặt của mẹ, nét đẹp mệt mỏi, với quầng sáng của mái tóc vàng óng ánh tỏa ra như một vầng hào quang, sung sướng vì cảm nhận trong bụng mình cái kết quả đã cùng con dê già lông lá cấu tạo giữa cái nóng oi bức của mùa hè.
Anh ta không thể xua đuổi nỗi ám ảnh ấy, không thể tách rời mẹ với những suy nghĩ đen tối đang vây hãm mình. Rồi những đòi hỏi tự nhiên của lứa tuổi và sự sung mãn của người đàn ông đã dậy lên ở anh ra. Bình thường, Frank xua đuổi được những ý tưởng ấy khỏi đầu óc nhưng khi mẹ anh ta phô bày ra trước anh sự hiển nhiên của chuyện dâm dục, và cái hành vi bí ẩn đã thực hiện với con thú già đa dâm ấy thì... Làm sao Frank có thể chấp nhận được, chịu đựng được? Frank mong muốn nghĩ về mẹ như một người hết sức thánh thiện, trong trắng như Đức Mẹ đồng trinh, một người phụ nữ vượt lên trên hành động tầm thường mặc dù tất cả phụ nữ, ở khắp thế gian, đều phạm tội ấy. Cảm thấy mẹ đánh mất cái ý tưởng đẹp mà anh vốn trân trọng, Frank phát điên lên. Để đầu óc được bình tỉnh, Frank cần phải tưởng tượng rằng mẹ mình nằm kế bên lão già ghê tởm ấy trong sự trong trắng hoàn toàn, chỉ để ngủ, và trong đêm cả hai không quay mặt lại nhau, cũng không hề chạm nhau - Trời ơi!
Tiếng lanh lảnh của kim loại khiến Frank nhìn xuống; anh nhận ra là mình đang bóp vẹo cái thanh sắt giường.
- Tiếc quá, mày không phải là cha tao! Anh nói với thanh sắt.
- Frank, Fiona đứng ở cửa phòng gọi Frank. Anh ngước nhìn mẹ bằng đôi mắt đen, sáng quắc, nhưng ướt đẫm như hòn than dưới mưa.
- Trước sau gì con cũng giết ông ta - giọng Frank gầm gừ.
- Và rồi con sẽ giết luôn mẹ chứ gì! Fiona vừa nói vừa đến ngồi bên Frank.
- Không, con sẽ giải thoát mẹ! Frank đáp lại, giọng sôi nổi, lòng nung nấu bởi một hy vọng điên rồ.
- Frank à, mẹ sẽ không bao giờ được tự do. Hơn nữa mẹ cũng không muốn được tự do. Mẹ muốn tìm hiểu sự mù quáng của con từ đâu mà ra, vậy mà mẹ không thể hiểu được. Nhưng có điều chắc là không phải từ mẹ, mà cũng không từ cha con. Mẹ biết con không có hạnh phúc, nhưng tại sao con trút tất cả lên mẹ và cha? (Bà nhìn hai tay mình, rồi nhìn lên Frank). Đáng lý mẹ không nói điều này với con, nhưng mẹ nghĩ cần phải nói. Frank à, đã đến lúc con cần có người bạn gái, để sau này xây dựng một mái ấm gia đình. Drogheda không thiếu chỗ đâu; về chuyện này mẹ không âu lo cho các em con; các em con bản tính không giống con. Nhưng còn con, con cần một người vợ. Frank à. Khi có vợ, con không có thời giờ để nghĩ đến mẹ nữa.
Frank ngồi quay lưng lại mẹ, anh không muốn phải nhìn thẳng vào mẹ. Hơn năm phút đã trôi qua, bà vẫn ngồi trên giường với hy vọng Frank sẽ nói điều gì đó, nhưng rồi bà thở dài, đứng lên và rời khỏi phòng.
Title: Re: Tiếng chim hót trong bụi mận gai - Colleen McCullough. Bestseller năm 1977
Post by: Serenade24 on 10/04/07, 12:46
Post by: Serenade24 on 10/04/07, 12:46
Chương 8
Sau khi các thợ cắt lông cừu đã đi, lúc mà cả vùng trở lại sự yên tĩnh bình thường của mùa đông thì ngày lễ hàng năm của Gillanbone lại đến. Cuộc vui kéo dài hai ngày, Fiona cảm thấy không khỏe lắm nên không tham dự, còn Pađy phải lái xe Rolls Royce đưa Mary Carson lên tỉnh.
Mọi người đều dự các cuộc vui. Mấy đứa con trai của Pađy, trước khi được đi theo Peter Cái Thùng, đều bị hăm dọa đủ điều nếu ai đó gặp chúng phá phách. Riêng Frank đi thật sớm, một mình trên chiếc ô tô Ford. Tất cả người lớn đều ở lại đến ngày mai để dự cuộc đua ngựa. Bà Mary Carson, vì những lý do riêng, đã từ chối lời mời của cha Ralph đưa bà đến nghỉ đêm ở nhà xứ, nhưng ngược lại nằng nặc bảo Pađy và Frank nhận lời cha Ralph.
Sau khi đưa chị đến khách sạn Hoàng Gia, Pađy xuống quầy rượu và gặp Frank, tay cầm một cốc bia.
- Ba đãi con sau - Pađy nói nhỏ nhẹ với con - Ba phải đưa cô Mary đi ăn cơm trưa ngoài trời trước khi đi xem đua ngựa và ba cần được thoải mái trước khi phải chịu đựng một cuộc thử thách với cô Marỵ
Thói quen và sự sợ sệt khó vượt qua hơn là ta vẫn thường nghĩ khi định thoát ra khỏi sự chi phối của nó - Frank nói với mình. Anh ta tự thấy không thể để hành động theo ý mình, không thể trút cả cốc bia vào mặt cha, nhất là trước mặt đông đảo những khách tấp nập quanh quầy. Anh đành nuốt ực phần bia còn lại, mỉm cười và lườm lườm nói:
- Rất tiếc ba; con có hẹn với mấy thằng bạn ở chỗ lễ.
Meggie với hai bím tóc thòng xuống quá vai, mặc bộ đồng phục màu xanh nữ sinh nội trú trường Saint Croix, theo sau một bà xơ, đi băng qua bãi cỏ của tu viện để đến nhà xứ. Tại đây bà xơ giao Meggie cho bà quản gia của cha Ralph; bà này rất yêu thương Meggiẹ
- Tôi yêu con bé này vì mái tóc của nó ngọt ngào như rượu tiên - bà ta giải thích Ralph ngạc nhiên về sự say mê đó. Annie - bà quản gia - không ưa đám con gái và thường than phiền nhà xứ ở quá gần trường học.
- Thôi đừng giải thích lung tung bà Annie ạ. Tóc là thứ vô giá trị. Bà không thể yêu một con người duy nhất chỉ vì màu tóc - Cha Ralph ghẹo bà.
Lúc đó Frank vào, cơn xúc động sau khi gặp cha mình tại quầy rượu, đầu óc rối loạn.
- Meggie đi với anh, anh đưa em đi hội chợ - vừa nói vừa đưa tay ra.
- Hay là cha sẽ đưa cả hai cùng đỉ Cha Ralph đề nghị. Hai bàn tay nhỏ bé của Meggie siết chặt hai tay của hai người đàn ông mà cô bé tôn kính. Meggie thấy mình ở bảy tầng mây.
Hội chợ tổ chức ở bên bờ sông Barson, bên cạnh trường đua ngựa.
Thái độ cha Ralph chăm sóc Meggie làm nhiều thiếu nữ ghen ghét, nhất là hoa khôi Carmichael muốn chinh phục cha. Đi ngang một vũng nước, trong khi hoa khôi Carmichael lúng túng với chiếc áo dài phết đất, chờ đợi một cử chỉ galăng của cha Ralph, thì linh mục lại quay sang bế Meggie một cách ân cần.
Ở đầu bãi đằng xa, một cái lều to sừng sững, trước lều một sàn gỗ, sau lều treo một tấm vải với nhiều hình vẽ dữ tợn như muốn hù dọa đám đông. Một đám người cầm máy phát âm, nói to với những người hiếu kì đang tụ tập lại.
- Thưa các ngài, đây là đoàn võ sĩ nổi tiếng Jimmy Sharman! Tám nhà vô địch ưu tú nhất thế giới, sẽ có một khoản tiền thưởng cho bất cứ ai trong quí ngài muốn thử thời vận.
Các nhà vô địch đứng trên sàn gỗ cười nói với nhau tự nhiên và rất tự tin, xem chuyện này chẳng có gì quan trọng.
- Mau lên các bạn, ai muốn đeo găng vào? Cái anh chàng cầm máy phát âm vẫn la hét. Ai muốn thử thời vận? Đeo găng vào và bạn sẽ lãnh ngay năm bảng! Xen lẫn tiếng hét của anh ta là những hồi trống thúc giục.
- Tôi, Frank kêu to. Tôi đây!
Frank rút tay ra khỏi tay cha Ralph đang cố giữ anh lại. Đám đông cười rộ lên khi nhìn thấy vóc người thấp nhỏ của Frank. Bọn họ đẩy Frank lên sàn gỗ một cách vui vẻ. Nhưng anh chàng rao hàng thì lại nghiêm nghị khi một người trong những người của đoàn đưa tay thân thiện giúp Frank bước lên cầu thang đến chỗ của tám võ sĩ.
- Đừng có vội cười thưa quí ngài! Chàng thanh niên này không to nhưng anh là người đầu tiên tình nguyện lên đây! Trong một trận đấu, vóc dáng người không phải là vấn đề quyết định mà là những gì chứa trong bụng! Và đây là một cậu bé can đảm lên thử thời vận. Các anh còn chờ đợi gì, những chàng to khỏe, hả? Này, cậu trai hãy mang găng vào và lãnh năm bảng bằng cách đứng vững trước một trong các nhà vô địch của Jimmy Sharman cho đến giây phút cuối cùng!
Cha Ralph không muốn Meggie chứng kiến cảnh Frank ăn đòn nên bế xốc cô bé lên và định quay ra. Meggie hét lên, cha Ralph càng đi ra xa, tiếng hét cô bé càng dữ dội. Người ta bắt đầu hướng mắt về họ. Uy tín không hề bị tai tiếng của cha Ralph trước đây có nguy cơ bị ảnh hưởng vì chuyện này.
- Nghe đây Meggie, cha không thể đưa con vào trong đó! Ba con sẽ lột da cha và ông ấy làm như thế là có lý.
- Con muốn ở lại với Frank! Con muốn ở lại với Frank! Cô bé cứ hét lên, hai chân giẫy nẩy.
- Thật là rắc rối! Linh mục bực dọc.
Đành phải chịu, không thể nào làm khác hơn, cha Ralph cho tay vào túi lấy ra vài đồng tiền và đến gần cửa lều, mắt đảo quanh sợ một trong số các anh của Meggie bắt gặp.
- Đây không phải là cuộc trình diễn dành cho con bé này. Người bán vé rõ ràng khó chịu.
Cha Ralph đưa mắt lên nhìn trời.
- Nếu anh có cách nào đó đưa cô bé rời xa nơi đây mà không gây ồn ào để cảnh sát có thể bắt chúng ta về cái tội hành hung trẻ con, thì tôi sẵn sàng đưa nó đi ngaỵ Anh cô ấy chấp nhận lên đài so găng, cô ấy không muốn bỏ rơi anh mình.
Người bán vé nhún vai.
- Thôi thì tôi không tranh luận với cha làm gì. Xin mời vào nhưng cố làm sao cho nó đứng yên. Không, không, cha hãy giữ tiền lại, Jimmy Sharman không nhận tiền của cha đâu.
Đầu tiên Frank so găng với một võ sĩ hạng lông, anh hạ đo ván võ sĩ này. Ở tiếng cồng thứ ba Frank đề nghị so găng với một đấu thủ khác. Khi anh thi đấu đến trận thứ ba thì tiếng đồn đã lan ra nhanh như thuốc súng, trong lều chật ních người xem, không còn một chỗ trống.
Đánh đấm là cách duy nhất mà Frank biết để trút hận thù và sự phiền muộn. Ngay lúc anh tung ra cú đánh hạ đối thủ, hình như anh nghe một tiếng nói xa xăm dội vào tai anh: Hãy giết ông ta! Hãy giết ông ta!
Sau đó người ta đưa ra đối đầu với Frank một võ sĩ vô địch đích thực, một võ sĩ hạng nhẹ được chỉ thị giữ một cự ly cách xa Frank để dò xem Frank có biết đấu quyền Anh không hay chỉ là liều lĩnh. Đôi mắt Jimmy Sharman sáng lên. ông ta luôn đi tìm những nhà vô địch, vào các ngày hội ở vùng quê thường giúp cho ông phát hiện vài người. Người võ sĩ hạng nhẹ theo đúng chỉ đạo của ông, trong khi đó Frank, điên lên muốn giết đối thủ, lao thẳng vào cái bóng luôn nhảy qua nhảy lại không ngớt né tránh. Anh rút ra bài học, cứ mỗi lần đánh áp sát, là bị một trận mưa đòn, vì rằng Frank thuộc vào loại người kỳ lạ có thể suy nghĩ ngay giữa lúc hung tợn điên cuồng. Và Frank đã đứng vững đến phút cuối cùng, trước những cú đấm dạn dày kinh nghiệm của đối phương. Một con mắt của Frank sưng vù lên, một đường tét ở chân mày và một đường khác ở môi. Nhưng anh lãnh được hai mươi bảng và được những người có mặt thán phục.
- Con muốn chúng ta chờ Frank hay chúng ta đi ngay?
Cô bé dựa vào cha Ralph, đầy lòng cảm ơn đối với sự yên lặng và thông cảm mà linh mục đã dành cho.
- Cha đã phải tự hỏi tại sao con lại khiến trái tim vô nghĩa của cha chịu một thử thách gay go như thế - linh mục nói thầm (ông nghĩ rằng cô bé sẽ rất buồn và khổ mà nghe ông nói nhưng ông có nhu cầu phải bày tỏ các suy nghĩ của mình thành tiếng, đấy là trường hợp thường xảy ra ở những kẻ sống độc thân). Con không làm cho cha nhớ đến mẹ và cha cũng không có em, cha muốn biết yêu thuật nào ẩn núp trong con và trong gia đình tội nghiệp của con cũng thế... Mọi việc có quá khó khăn cho con không, hỡi cô bé Meggie của cha?
Frank bước ra khỏi lều, một miếng băng dính trên chân mày, tay chậm lên môi. Lần đầu tiên từ khi cha Ralph biết Frank, ông thấy anh ta có vẻ vui lên. Tưởng như Frank vừa trải qua một đêm yêu đương với một người phụ nữ - cha Ralph nghĩ thầm như thế.
Khi Pađy bước vào phòng khách của nhà xứ để tìm Frank thì Meggie và cha Ralph đang đứng quanh ngọn lửa, thoải mái như trải qua một ngày vui, tuyệt vời. Điều đó khiến cho Pađy bực bội. Không có vợ bên cạnh, Pađy cảm thấy thiếu vô cùng. Đối với chị Mary Carson, Pađy vẫn giữ sự ác cảm không khác gì thời ông còn là một cậu bé ở Ái Nhĩ Lan. Đúng lúc đó ông chú ý đến cái băng dính trên chân mày của Frank và gương mặt sưng phù; một cái cớ từ trên môi rơi xuống để cho ông trút ra bao nhiêu thứ bực bội.
- Với cái mặt thế này thì làm sao mày dám về nhìn mặt mẹ mầy! - Ông rầy to. Chỉ cần tao buông lơi một chút là mầy lại sẵn sàng vồ lấy thằng nào đầu tiên lườm mày.
Sửng sốt, cha Ralph bật ngồi dậy và nói vài tiếng để xoa dịu Pađy, nhưng Frank đã phản ứng trước.
- Con đã kiếm tiền bằng cách này đây - Frank nói rất khẽ, tay chỉ cái băng dính - Hai mươi bảng trong vài phút lao động, hơn cả số tiền cô Mary trả cho chúng ta, ba và con, trong một tháng! Con đã đánh ngã ba võ sĩ giỏi và đứng vững trước một nhà vô địch hạng nhẹ trong lều của Jimmy Sharman trưa này. Con đã lãnh 20 bảng! Điều này nó không dính dấp đến những gì ba thường nghĩ về con. Tất cả mọi người chứng kiến trận đấu đều nể nang con.
- Thắng vài thằng khốn khổ mệt mỏi và bầm dập vì bị đấm, chỉ xuất hiện để lòe thiên hạ trong các ngày hội ở nhà quê thế mà mày lại phách lối. Phải biết cư xử như một người đã trưởng thành, Frank. Tao biết có thể mày đã không thể cao hơn nhưng hãy vì mẹ mày, để cái đầu của mày lớn ra!
Mặt Frank tái nhợt đi! Như những miếng xương trắng phếu dưới mặt trời. Với anh, đây là sự sỉ nhục kinh khủng nhất từ trước tới nay. Hơi thở của Frank nghe rít lên nhưng vẫn cố giữ hai tay ở yên hai bên sườn hông.
- Họ không phải là những tên khốn khổ bị bầm dập bởi những cú đấm, thưa ba. Ba đã nghe danh Jimmy Sharman nhiều không thua con và chính hắn ta nói với con rằng con sinh ra là một võ sĩ và trước mặt con là một tương lai sáng. Hắn muốn mướn con vào đoàn và rèn luyện, và sẽ trả lương cho con! Có thể con không còn lớn nữa nhưng con đã đủ lớn để dạy cho bất cứ ai một bài học... Lời nói ấy có giá trị cho cả ba nữa, con dê già thối tha!
Những tiếng cuối cùng hạ thấp giọng vẫn lọt vào tai của Pađy. Mặt ông tái nhợt không thua mặt con khi ông biết Frank ám chỉ mình.
- Sao mày dám nói thế?
- Ba không là cái gì khác hơn. Ba đáng ghê tởm. Còn tồi tệ hơn cừu đực động đực! Tại sao ba không để mẹ con yên? Ba không thể tự kìm chế việc dùng mẹ con để tìm khoái lạc hả?
- Đừng, đừng, đừng! Meggie hét to lên. Mấy ngón tay của cha Ralph cắm mạnh vào hai vai Meggie như móng chim mồi để cố giữ cô bé sát vào mình. Nước mắt ràn rụa trên mặt, Meggie cố vùng vẫy hết sức mình nhưng vẫn không thể thoát ra. ...
- Đừng ba, đừng! Frank ơi, em van anh! Em van anh! Cô bé la lên giọng hốt hoảng.
Nhưng chỉ có cha Ralph là nghe cô bé. Frank và Pađy xáp lại đối diện nhau. Lòng căm hờn và sự e sợ đều bị lột trần. Con đê trước kia ngăn chặn hai người - tình yêu cả hai dành cho Fiona - đã bị vỡ, giờ đây sự đối đầu ngấm ngầm đã bộc lộ công khai.
- Tao là chồng. Và Chúa đã giáng phúc cho cuộc kết hợp giữa hai vợ chồng tao bằng cách mang lại cho hai vợ chồng tao nhiều con cái, Pađy nói với giọng bình tĩnh hơn, cố gắng tự chủ.
- Ba không xứng đáng hơn một con chó già dơ dáy chạy theo sau bất cứ con chó cái nào để tìm cách nhảy đực!
- Còn mày, mày không hơn gì con chó già dơ dáy đã đẻ ra mày mà tao không hề biết đó là con chó nào! Pady hét lên. Rất may, nhờ ơn Chúa, tao không có dính dấp gì vào chuyện ấy. Trời ơi, tại sao tôi đã nói như thế...
Pađy chợt im bặt; sự điên tiết của ông tan biến nhanh như gió. Ông ta muốn ngã quỵ xuống, co rúm lại, hai tay đưa lên bụm miệng, tưởng như ông muốn rứt cái lưỡi đã thốt ra điều không bao giờ có quyền thốt ra.
- Tôi không muốn nói điều đó, Pađy than khóc - Tôi không muốn nói điều đó!
Ngay lúc những lời ấy thoát khỏi miệng Pađy, cha Ralph buông Meggie ra và chạy ngay tới Frank. Ông bẻ vặn cánh tay Frank ra sau lưng, cánh tay còn lại ông kẹp cổ anh tạ ông rất to khỏe và cái khóa ấy giữ chặt Frank; Frank vùng vẫy để thoát ra nhưng rồi đột ngột sự chống trả của anh tan biến và anh lắc đầu ra dấu khuất phục - Meggie quỵ xuống sàn nhà, quỳ gối và khóc, mắt hết nhìn anh rồi nhìn cha với sự van xin bất lực. Cô bé không hiểu chuyện gì đã xảy ra, nhưng biết rằng sau chuyện này thì mình sẽ không còn giữ đủ cả hai.
- Đừng chối, thật sự ông muốn nói ra điều ấy. Đáng lý tôi đã biết điều đó. Cha hãy buông tôi ra. Tôi không đụng tới ông ta đâu. Cầu xin Chúa giúp đỡ tôi.
- Cầu xin Chúa giúp đỡ các người? Cầu Chúa khiến cả hai mục xương dưới địa ngục! Nếu các người làm chấn thương tâm thần con bé này, tôi sẽ giết các người. - Cha Ralph lớn tiếng, người duy nhất bây giờ nổi giận - Các người có biết rằng tôi đã giữ con bé ở lại đây là để ngăn cản cả hai cấu xé nhau chớ đâu phải để nghe những điều tồi tệ ấy. Đáng lý tôi cứ để hai người tha hồ giết nhau, đồ ích kỷ, ngu đần và khốn nạn.
- Thôi được rồi, tôi đi đây - Frank nói bằng một giọng xa lạ, trống rỗng. - Tôi sẽ sung vào đoàn của Jimmy Sharman và vĩnh viễn tôi sẽ không trở lại đây.
- Con phải trở lại đây! Pađy nói lớn - Ba sẽ ăn nói sao đây với mẹ con? Mẹ con yêu con hơn tất cả những người khác cộng lại. Bà ấy sẽ không bao giờ tha thứ cho ba.
- Ông cứ nói là tôi đã sung vào đội Jimmy Sharman vì tôi muốn trở thành một người có tên tuổi. Đó là sự thật.
- Điều mà ba đã nói... không đúng sự thật đâu Frank.
Đôi mắt đen, đôi mắt xa lạ của Frank ném một tia nhìn khinh miệt. Chính đó là đôi mắt gây ngạc nhiên cho cha Ralph ở lần đầu ông gặp chàng thanh niên. Tại sao Fiona thì mắt nâu còn Pađy mắt xanh lại đẻ ra đứa con trai mắt đen? Cha Ralph biết định luật di truyền Medel, do đó bản thân ông đã rút ra kết luận.
Frank lấy áo măng tô và nón.
- Trời ơi, đúng như thế! Tôi vẫn nghi ngờ điều ấy. Tôi vẫn nhớ hình ảnh mẹ tôi ngồi chơi đàn Claxeven trong một phòng mà ông không làm sao có được! Tôi vẫn linh cảm là ông không hề có mặt ở đó, ông đã đến với mẹ tôi sau tôi. Và khi nhớ lại suốt bao năm tháng tôi thù ghét ông vì ông hành hạ mẹ tôi. Chính tại tôi!
- Không tại ai hết, Frank ạ, không do ai hết. - Cha Ralph cố xoa dịu Frank - Con không hiểu hết những con đường bí ẩn của chúa, con phải nhìn các sự việc theo cách đó.
Frank rút tay ra khỏi bàn tay cha Ralph đang nắm chặt anh, rồi đi ra cửa bằng những bước nhẹ nhàng, êm ả - Không thế chối cãi anh ta sinh ra đã là võ sĩ - Cha Ralph nghĩ thầm.
- Những con đường bí ẩn của Chúa! Chàng thanh niên mỉa mai, giọng nói vang lại từ ngoài cửa - Cha chỉ là một sinh vật khi cha đóng vai linh mục, thưa cha De Bricassart! Riêng tôi, tôi nói Chúa đã đến cứu giúp cha, cứu giúp riêng cha ma thôi, vì rằng cha là người duy nhất ở đây không mảy may biết một chút nào về con người thật ấy.
Pađy ngồi sụp xuống trên chiếc ghế bành, mặt xám xịt, nhớn nhác, mắt nhìn Meggie trân trân, trong khi đó Meggie ngồi trước lò sưởi khóc sướt mướt. Pađy định đứng dậy ôm con gái mình nhưng cha Ralph chăn lại.
- Hãy để con bé yên. ông gây cho nó bao nhiêu đớn đau như thế đủ rồi. ông có thể tìm rượu whisky trong tủ và uống vài hớp đi. Tôi đưa con bé vào phòng cho nó nghỉ, nhưng tôi sẽ trở lại nói chuyện với ông. Vậy ông đừng rời khỏi đây. ông nghe tôi nói chứ?
- Tôi chờ cha, thưa cha. Cha đặt Meggie lên giường dùm tôi.
Trên gác, trong căn phòng sơn màu xanh nhạt xinh xắn, linh mục cởi chiếc áo ngoài và bộ đồ bó sát bên trong của Meggie và đặt cô bé ngồi trên giường, để cởi giày vớ. Chiếc áo ngủ đã được bà quản gia Annie để sẵn trên gối! Linh mục tròng áo qua cổ và kéo phủ xuống thân người Meggiẹ Sau đó, mới cở quần lót cho Meggiẹ Trong thời gian này, cha Ralph kể đủ thứ chuyện đâu đâu cho cô bé nghe, nào là chuyện tầm phào về những cái nút khó cởi, những sợi dây giày khó bảo, những dải rubăng tháo mãi không ra. Đôi mắt cô bé còn đầy nét kinh hoàng thơ ngây không giải thích được, tất cả rối ren và đau đớn vượt sức chịu đựng của tuổi cô bé. Meggie như rơi vào khoảng không
- Bây giờ hãy nằm dài ra, con yêu quí của cha và ráng nhắm mắt ngủ. Cha sẽ trở lại ngay để thăm con. Đừng lo sợ gì. Chúng ta sẽ trở lại tất cả những chuyện này vào ngày mai.
Pađy hỏi cha Ralph khi linh mục trở lại phòng khách:
- Con bé đã bình yên chưa?
Linh mục đưa tay lấy chai rượu whisky trên tủ và rót nửa ly.
- Thành thật mà nói, tôi chưa biết ra sao. Có Chúa chứng giám, tôi muốn hiểu sự bất hạnh tệ hại nhất của người Ailen là từ đâu: rượu hay cái tính hay nổi giận bất thường... Cái gì đã xúi giục ông nói lên điều ấy? Thôi, giải thích cũng bằng thừa. Cái tính khí bất thường! Tất nhiên là thế. Tôi đã biết ngay Frank không phải là con của ông khi lần đầu tôi gặp nó.
- Không có gì thoát khỏi cặp mắt của chạ
- Không phải thế. Nhưng chỉ cần có chút óc quan sát trung bình thôi cũng đủ phát hiện những chuyện buồn phiền hay đau khổ mà một số con chiên của Chúa phải gánh chịu.
- Phải chăng cha có được nhiều người ở Gilly yêu mến?
- Có lẽ tôi được như thế nhờ ở gương mặt và vóc dáng - linh mục Ralph trả lời một cách chua chát không thể giữ giọng mình tự nhiên như ý muốn.
- Cha nghĩ như thế à? ý kiến con lại khác, thưa cha. Chúng con yêu mến cha vì cha là một đấng chăn chiên tốt.
Dù sao thì tôi dính líu quá sâu vào những rắc rối của gia đình ông - Cha Ralph nói hơi lúng túng - ông nên rút ra hết đi những gì đè nặng trong lòng, ông bạn ạ.
Pađy vẫn nhìn chăm chăm ngọn lửa đang cháy rực. Lúc nãy khi cha Ralph bế Meggie lên lầu và đặt cô bé lên giường ông đã ném vào lò sưởi thêm nhiều khúc củi, lòng bị giày xéo bởi sự ăn năn và một đòi hỏi dữ dội muốn làm một điều gì đó. Cái ly rượu như nhảy múa trên tay ông, bởi ông chưa qua cơn xúc động và run bật lên từng chặp. Cha Ralph đứng lên, lấy chai rượu và rót đầy vào ly của Pađy. Sau khi nốc một hơi, Pađy thở dài và lau những giọt nước mắt trên má lúc nào ông không hay.
- Con không hề biết cha của Frank là ai. Chuyện xảy ra trước khi con gặp Fiona. Gia đình của vợ con là một gia đình danh giá ở Tây Tây Lan. Cha của Fiona có một điền trang rộng lớn trồng lúa mì và nuôi cừu, ở gần Ashburton trên Nam Đảo. Tiền nhiều không kể xiết. Fiona là con gái duy nhất của ông ấy. Theo như con biết, ông ấy đã lo trước cho Fiona đủ cả, nào là sang Anh, ra mắt ở triều đình, và lấy một người chồng xứng đáng. Dĩ nhiên Fiona không động một móng tay vào các công việc trong nhà. Cô ta có nhiều người phục vụ... Gia đình sống như vua chúa.
Con làm công ở một hãng sữa, đôi khi cũng thấy Fiona từ xa. Cô ấy đi dạo với một thằng bé khoảng 18 tháng. Rồi một hôm, lão James Armstrong tìm con. Ông cho con biết là con gái của ông đã làm nhục gia đình, định đưa cô ấy đi đến một nơi xa thì bà ngoại của Fiona chống lại một cách ồn ào đến mức gia đình buộc lòng vẫn để Fiona ở đó mặc dù có vẻ bất tiện. Nhưng sau này bà ngoại sắp qua đời, không còn ai ngăn cản việc đuổi Fiona và đứa con trai ra khỏi nhà. Con còn độc thân và James bảo con nếu chịu lấy con gái của ông làm vợ và cam đoan chắc chắn với ông ta là sẽ đưa con gái đi khỏi Nam Đảo thì ông sẽ chịu mọi tổn phí và biếu thêm một số tiền là 500 bảng.
Thưa cha, đó là cả một tài sản đối với con, hơn nữa con đã chán cái cảnh độc thân. Bao giờ con cũng nhút nhát, không làm được chuyện gì nên thân trong quan hệ với phái nữ. ý kiến ấy rất tốt đối với con và thẳng thắng mà nói, đứa bé không gây khó chút nào cho con. Bà ngoại của Fiona cuối cùng đoán ra được việc này và cho người đi tìm con. Lúc bấy giờ bà đã bệnh nặng. Bà là một người có uy quyền, tính tình rất khó chịu, nhưng con quả quyết với cha, đó là một người phụ nữ rất đáng kính trọng. Bà kể cho con nghe một chút về Fiona, nhưng vẫn không nói ai là cha của thằng bé. Phần con cũng thấy không cần thiết tìm hiểu xa hơn. Bà buộc con hứa với bà ấy sẽ đối xử tối với cháu gái của bà... Bà biết rằng Fiona sẽ rời khỏi nhà ngay khi bà nhắm mắt. Và chính bà đã đưa ra ý kiến với James nên tìm cho Fiona một người chồng. Con rất tội nghiệp cho bà cụ; bà rất yêu thương cháu gái của bà.
Cha có tin hay không nếu con kể cho cha biết rằng lần đầu tiên con đến gần Fiona, ở khoảng cách nghe được tiếng nói của cô ấy, thì đó là ngày cưới?
- Tôi tin ông - cha Ralph nói khẽ - Pađy, thế là ông đã cưới một người vợ có điều kiện trên ông rất nhiều.
- Vâng. Lúc ấy con rất sợ cô ấy, sợ đến chết được. Cô ta đẹp quá, thưa cha... Và cũng rất... xa xôi, chắc cha hiểu con muốn nói gì. Tưởng như cô ta không hiện diện trong nhà mà là một người nào khác ngồi đó.
- Bây giờ bà ấy vẫn còn đẹp, ông Pađy ạ. - Cha Ralph dịu dàng nói. - Tôi có thể nhìn thấy ở Meggie hình ảnh của Fiona trước kia.
- Cuộc sống dành cho Fiona không phải dễ dàng thưa cha, như cha biết đấy, không thể nào khác hơn được. Với con, ít nhất cô ấy được an toàn, không sợ bị đối xử tệ. Phải chờ đến hai năm sau con mới dám... nói thẳng ra, mới dám trở thành chồng thật sự của cô ấy. Con buộc phải tập cô ấy làm bếp, quét nhà, giặt và ủi quần áo. Trước kia cô ấy không biết làm gì hết.
Qua suốt bao năm tháng dài mà chúng con ở với nhau, chưa bao giờ cô ấy hé môi một lần thở than nhưng đồng thời cô ấy cũng không bao giờ cười hoặc khóc. Chỉ trong những lúc hết sức riêng tư, trong tình vợ chồng, cô ấy mới để lộ ra những xúc động của mình, nhưng ngay lúc đó cô ấy cũng không nói lời nào. Con rất muốn nghe cô ấy tâm tình và đồng thời lại rất sợ vì con vẫn cảm giác rằng nếu cô ấy tâm tình thì không thể tránh nhắc tới người ấy. Không! Con không nghĩ rằng cô ấy đối xử không tốt với con và mấy đứa nhỏ. Con đã dành cho cô ấy tất cả sự trìu mến nhưng hình như tình yêu đã tắt trong lòng cô ấy tự bao giờ. Ngoại trừ đối với Frank. Con đoán chắc rằng cô ấy yêu thương Frank hơn tất cả chúng con cộng lại. Có lẽ xưa kia cô ấy rất yêu cha của Frank. Nhưng con không biết gì về con người ấy, hắn ta là ai mà tại sao hắn không thể cưới Fiona.
Cha nhìn hai bàn tay mình, rồi nheo mắt.
- Ồ, Pađy, cuộc đời quả là khổ cực làm sao! Nhờ ơn Chúa mà tôi đã không dám đi gần hơn cái rìa của cuộc sống. Tôi không có can đảm ôm lấy cuộc sống thật sự trong vòng tay mình.
Pađy đứng lên loạng choạng, hai chân không vững.
- Thế đó, lần này thì con đã làm một điều dại dột. Con đã ép buộc Frank đi khỏi nhà. Fiona sẽ không bao giờ tha thứ con.
- Ông không nên nói với bà ấy, Pađy à. Không, không nên nói. Cứ giải thích đơn giản với bà rằng Frank đã đi theo đoàn võ sĩ, thế thôi. Bà ấy dư biết rằng từ lâu tính tình Frank đã như thế và bà ấy sẽ tin ông.
- Con không thể nói dối như thế, thưa cha! Pađy kêu lên, sững sờ.
- Cần nói như thế, Pađy. Bà ấy đã đau khổ và bị dằn vặt như thế chưa đủ sao? Đừng gây thêm bất hạnh cho bà ấy nữa.
Trong lòng mình, cha Ralph nghĩ: Biết đâu? - Rất có thể cuối cùng bà ấy sẽ dồn tình yêu dành cho Frank sang ông và cho con người bé nhỏ đang nằm trên lầu...
- Cha tin như thế?
- Rất có thể. Nhưng chuyện xảy ra tối nay phải được giữ bí mật giữa hai chúng tạ
- Nhưng còn... Meggie? Con bé đã nghe hết.
- Ông đừng lo về phần Meggie. Tôi sẽ liệu. Tôi không nghĩ rằng Meggie hiểu được câu chuyện xảy ra. Nó sẽ nghĩ chỉ là một cuộc cãi vã giữa ông và Frank. Tôi sẽ tìm cách làm cho Meggie hiểu rằng kể lại cho mẹ nó nghe chuyện cãi vã giữa cha và anh chỉ làm cho mẹ đau khổ thêm. Hơn nữa theo tôi nhận xét, Meggie cũng ít khi nói chuyện với mẹ nó (ông đứng lên). Ông hãy đi ngủ đi Pađy. Nhớ đừng quên giữ cho sắc mặt của mình thật bình thường vào sáng mai khi ông trở lại làm việc với nữ hoàng Mary.
Meggie vẫn không ngủ, nằm dài, hai mắt mở to dưới ánh sáng của ngọn đèn đặt ở đầu giường. Linh mục ngồi ở mép giường và nhận ra rằng tóc của cô bé vẫn còn thắt bím. Một cách thận trọng, ông tháo chiếc rubăng màu xanh nước biển và nhẹ nhàng gỡ từng lọn tóc cho đến khi cả mái tóc dợn sóng, vàng óng ả nằm trải ra gối.
- Anh Frank đã đi rồi, Meggie - ông nói.
- Con biết, thưa cha.
- Con có biết tại sao không, con thân yêu?
- Có chuyện ẩu đả với ba.
- Con tính sao?
- Con sẽ đi theo Frank. Anh ấy cần con.
- Không thể được, Meggie bé nhỏ của cha.
- Được chứ thưa cha. Con muốn đi tìm anh ấy đêm nay, nhưng đôi chân của con rã rời và con rất sợ bóng đêm. Nhưng sáng mai, con sẽ đi tìm anh ấy.
- Không nên Meggie ạ. Con phải biết, Frank có cuộc sống của anh ấy, và đã đến lúc anh ấy phải ra đi. Cha biết là con không muốn cho anh ấy đi, nhưng đã từ lâu, anh ấy muốn thế. Con không nên ích kỷ. Phải để cho anh ấy chọn cuộc sống theo ý thích. Khi chúng ta lớn lên, ý muốn được sống ở ngoài cái gia đình ma ta đã được nuôi nấng là chuyện bình thường và đúng đắn. Frank đã trưởng thành, con có hiểu những lời cha nói không Meggie?
Đôi mắt cô bé nhìn thẳng vào mặt linh mục. Một đôi mắt mỏi mệt, đau đớn và không còn chút nào là trẻ con.
- Con biết, cô bé thì thầm. Frank đã muốn đi từ lâu khi con còn nhỏ xíu. Nhưng rồi anh ấy không đi được. Ba đã bắt anh đem trở về nhà và buộc anh ấy tiếp tục sống với tụi con.
- Nhưng lần này thì ba con không thể đem anh ấy về nữa, Frank đã đi thật sự rồi Meggie. Anh ấy sẽ không trở về.
- Con sẽ không bao giờ gặp lại anh ấy nữa sao?
- Cha không biết được - cha Ralph trả lời thành thật - Cha vẫn muốn nói với con để con yên lòng là anh ấy sẽ trở về, nhưng không ai có thể đoán được tương lai, Meggie, kể cả các linh mục. Con không nên nói cho mẹ con biết chuyện cãi vã giữa ba và anh Frank, nghe không Meggie? Điều đó sẽ làm cho mẹ thêm đau buồn; mẹ con hiện không được khỏe.
- Bởi vì mẹ sắp có em bé?
- Sao con biết.
- Mẹ rất thích làm nở ra các em bé. Và mẹ đã cho nở nhiều em bé rất dễ thương, thưa cha. Ngay cả khi mẹ không được khỏe. Con sẽ cho nở ra một em bé như Hal. Như thế con sẽ thấy bớt nhớ Frank hơn.
- Sự sinh sản - cha Ralph nói một mình. Chúc con may mắn, Meggie. Nhưng chuyện gì xảy ra nếu con không làm nở ra được một em bé?
- Con vẫn có Hal, giọng nói của Meggie đầy vẻ buồn ngủ, đầu nép vào gối, cha ơi, còn cha sẽ không đi chứ?
- Một ngày nào đó, rất có thể; nhưng bây giờ thì chưa, Meggie ạ, con đừng lo nghĩ. Cha có cảm giác là cha sẽ ở Gilly lâu, rất lâu - Cha Ralph trả lời, hai mắt vương buồn.
Sau khi các thợ cắt lông cừu đã đi, lúc mà cả vùng trở lại sự yên tĩnh bình thường của mùa đông thì ngày lễ hàng năm của Gillanbone lại đến. Cuộc vui kéo dài hai ngày, Fiona cảm thấy không khỏe lắm nên không tham dự, còn Pađy phải lái xe Rolls Royce đưa Mary Carson lên tỉnh.
Mọi người đều dự các cuộc vui. Mấy đứa con trai của Pađy, trước khi được đi theo Peter Cái Thùng, đều bị hăm dọa đủ điều nếu ai đó gặp chúng phá phách. Riêng Frank đi thật sớm, một mình trên chiếc ô tô Ford. Tất cả người lớn đều ở lại đến ngày mai để dự cuộc đua ngựa. Bà Mary Carson, vì những lý do riêng, đã từ chối lời mời của cha Ralph đưa bà đến nghỉ đêm ở nhà xứ, nhưng ngược lại nằng nặc bảo Pađy và Frank nhận lời cha Ralph.
Sau khi đưa chị đến khách sạn Hoàng Gia, Pađy xuống quầy rượu và gặp Frank, tay cầm một cốc bia.
- Ba đãi con sau - Pađy nói nhỏ nhẹ với con - Ba phải đưa cô Mary đi ăn cơm trưa ngoài trời trước khi đi xem đua ngựa và ba cần được thoải mái trước khi phải chịu đựng một cuộc thử thách với cô Marỵ
Thói quen và sự sợ sệt khó vượt qua hơn là ta vẫn thường nghĩ khi định thoát ra khỏi sự chi phối của nó - Frank nói với mình. Anh ta tự thấy không thể để hành động theo ý mình, không thể trút cả cốc bia vào mặt cha, nhất là trước mặt đông đảo những khách tấp nập quanh quầy. Anh đành nuốt ực phần bia còn lại, mỉm cười và lườm lườm nói:
- Rất tiếc ba; con có hẹn với mấy thằng bạn ở chỗ lễ.
Meggie với hai bím tóc thòng xuống quá vai, mặc bộ đồng phục màu xanh nữ sinh nội trú trường Saint Croix, theo sau một bà xơ, đi băng qua bãi cỏ của tu viện để đến nhà xứ. Tại đây bà xơ giao Meggie cho bà quản gia của cha Ralph; bà này rất yêu thương Meggiẹ
- Tôi yêu con bé này vì mái tóc của nó ngọt ngào như rượu tiên - bà ta giải thích Ralph ngạc nhiên về sự say mê đó. Annie - bà quản gia - không ưa đám con gái và thường than phiền nhà xứ ở quá gần trường học.
- Thôi đừng giải thích lung tung bà Annie ạ. Tóc là thứ vô giá trị. Bà không thể yêu một con người duy nhất chỉ vì màu tóc - Cha Ralph ghẹo bà.
Lúc đó Frank vào, cơn xúc động sau khi gặp cha mình tại quầy rượu, đầu óc rối loạn.
- Meggie đi với anh, anh đưa em đi hội chợ - vừa nói vừa đưa tay ra.
- Hay là cha sẽ đưa cả hai cùng đỉ Cha Ralph đề nghị. Hai bàn tay nhỏ bé của Meggie siết chặt hai tay của hai người đàn ông mà cô bé tôn kính. Meggie thấy mình ở bảy tầng mây.
Hội chợ tổ chức ở bên bờ sông Barson, bên cạnh trường đua ngựa.
Thái độ cha Ralph chăm sóc Meggie làm nhiều thiếu nữ ghen ghét, nhất là hoa khôi Carmichael muốn chinh phục cha. Đi ngang một vũng nước, trong khi hoa khôi Carmichael lúng túng với chiếc áo dài phết đất, chờ đợi một cử chỉ galăng của cha Ralph, thì linh mục lại quay sang bế Meggie một cách ân cần.
Ở đầu bãi đằng xa, một cái lều to sừng sững, trước lều một sàn gỗ, sau lều treo một tấm vải với nhiều hình vẽ dữ tợn như muốn hù dọa đám đông. Một đám người cầm máy phát âm, nói to với những người hiếu kì đang tụ tập lại.
- Thưa các ngài, đây là đoàn võ sĩ nổi tiếng Jimmy Sharman! Tám nhà vô địch ưu tú nhất thế giới, sẽ có một khoản tiền thưởng cho bất cứ ai trong quí ngài muốn thử thời vận.
Các nhà vô địch đứng trên sàn gỗ cười nói với nhau tự nhiên và rất tự tin, xem chuyện này chẳng có gì quan trọng.
- Mau lên các bạn, ai muốn đeo găng vào? Cái anh chàng cầm máy phát âm vẫn la hét. Ai muốn thử thời vận? Đeo găng vào và bạn sẽ lãnh ngay năm bảng! Xen lẫn tiếng hét của anh ta là những hồi trống thúc giục.
- Tôi, Frank kêu to. Tôi đây!
Frank rút tay ra khỏi tay cha Ralph đang cố giữ anh lại. Đám đông cười rộ lên khi nhìn thấy vóc người thấp nhỏ của Frank. Bọn họ đẩy Frank lên sàn gỗ một cách vui vẻ. Nhưng anh chàng rao hàng thì lại nghiêm nghị khi một người trong những người của đoàn đưa tay thân thiện giúp Frank bước lên cầu thang đến chỗ của tám võ sĩ.
- Đừng có vội cười thưa quí ngài! Chàng thanh niên này không to nhưng anh là người đầu tiên tình nguyện lên đây! Trong một trận đấu, vóc dáng người không phải là vấn đề quyết định mà là những gì chứa trong bụng! Và đây là một cậu bé can đảm lên thử thời vận. Các anh còn chờ đợi gì, những chàng to khỏe, hả? Này, cậu trai hãy mang găng vào và lãnh năm bảng bằng cách đứng vững trước một trong các nhà vô địch của Jimmy Sharman cho đến giây phút cuối cùng!
Cha Ralph không muốn Meggie chứng kiến cảnh Frank ăn đòn nên bế xốc cô bé lên và định quay ra. Meggie hét lên, cha Ralph càng đi ra xa, tiếng hét cô bé càng dữ dội. Người ta bắt đầu hướng mắt về họ. Uy tín không hề bị tai tiếng của cha Ralph trước đây có nguy cơ bị ảnh hưởng vì chuyện này.
- Nghe đây Meggie, cha không thể đưa con vào trong đó! Ba con sẽ lột da cha và ông ấy làm như thế là có lý.
- Con muốn ở lại với Frank! Con muốn ở lại với Frank! Cô bé cứ hét lên, hai chân giẫy nẩy.
- Thật là rắc rối! Linh mục bực dọc.
Đành phải chịu, không thể nào làm khác hơn, cha Ralph cho tay vào túi lấy ra vài đồng tiền và đến gần cửa lều, mắt đảo quanh sợ một trong số các anh của Meggie bắt gặp.
- Đây không phải là cuộc trình diễn dành cho con bé này. Người bán vé rõ ràng khó chịu.
Cha Ralph đưa mắt lên nhìn trời.
- Nếu anh có cách nào đó đưa cô bé rời xa nơi đây mà không gây ồn ào để cảnh sát có thể bắt chúng ta về cái tội hành hung trẻ con, thì tôi sẵn sàng đưa nó đi ngaỵ Anh cô ấy chấp nhận lên đài so găng, cô ấy không muốn bỏ rơi anh mình.
Người bán vé nhún vai.
- Thôi thì tôi không tranh luận với cha làm gì. Xin mời vào nhưng cố làm sao cho nó đứng yên. Không, không, cha hãy giữ tiền lại, Jimmy Sharman không nhận tiền của cha đâu.
Đầu tiên Frank so găng với một võ sĩ hạng lông, anh hạ đo ván võ sĩ này. Ở tiếng cồng thứ ba Frank đề nghị so găng với một đấu thủ khác. Khi anh thi đấu đến trận thứ ba thì tiếng đồn đã lan ra nhanh như thuốc súng, trong lều chật ních người xem, không còn một chỗ trống.
Đánh đấm là cách duy nhất mà Frank biết để trút hận thù và sự phiền muộn. Ngay lúc anh tung ra cú đánh hạ đối thủ, hình như anh nghe một tiếng nói xa xăm dội vào tai anh: Hãy giết ông ta! Hãy giết ông ta!
Sau đó người ta đưa ra đối đầu với Frank một võ sĩ vô địch đích thực, một võ sĩ hạng nhẹ được chỉ thị giữ một cự ly cách xa Frank để dò xem Frank có biết đấu quyền Anh không hay chỉ là liều lĩnh. Đôi mắt Jimmy Sharman sáng lên. ông ta luôn đi tìm những nhà vô địch, vào các ngày hội ở vùng quê thường giúp cho ông phát hiện vài người. Người võ sĩ hạng nhẹ theo đúng chỉ đạo của ông, trong khi đó Frank, điên lên muốn giết đối thủ, lao thẳng vào cái bóng luôn nhảy qua nhảy lại không ngớt né tránh. Anh rút ra bài học, cứ mỗi lần đánh áp sát, là bị một trận mưa đòn, vì rằng Frank thuộc vào loại người kỳ lạ có thể suy nghĩ ngay giữa lúc hung tợn điên cuồng. Và Frank đã đứng vững đến phút cuối cùng, trước những cú đấm dạn dày kinh nghiệm của đối phương. Một con mắt của Frank sưng vù lên, một đường tét ở chân mày và một đường khác ở môi. Nhưng anh lãnh được hai mươi bảng và được những người có mặt thán phục.
- Con muốn chúng ta chờ Frank hay chúng ta đi ngay?
Cô bé dựa vào cha Ralph, đầy lòng cảm ơn đối với sự yên lặng và thông cảm mà linh mục đã dành cho.
- Cha đã phải tự hỏi tại sao con lại khiến trái tim vô nghĩa của cha chịu một thử thách gay go như thế - linh mục nói thầm (ông nghĩ rằng cô bé sẽ rất buồn và khổ mà nghe ông nói nhưng ông có nhu cầu phải bày tỏ các suy nghĩ của mình thành tiếng, đấy là trường hợp thường xảy ra ở những kẻ sống độc thân). Con không làm cho cha nhớ đến mẹ và cha cũng không có em, cha muốn biết yêu thuật nào ẩn núp trong con và trong gia đình tội nghiệp của con cũng thế... Mọi việc có quá khó khăn cho con không, hỡi cô bé Meggie của cha?
Frank bước ra khỏi lều, một miếng băng dính trên chân mày, tay chậm lên môi. Lần đầu tiên từ khi cha Ralph biết Frank, ông thấy anh ta có vẻ vui lên. Tưởng như Frank vừa trải qua một đêm yêu đương với một người phụ nữ - cha Ralph nghĩ thầm như thế.
Khi Pađy bước vào phòng khách của nhà xứ để tìm Frank thì Meggie và cha Ralph đang đứng quanh ngọn lửa, thoải mái như trải qua một ngày vui, tuyệt vời. Điều đó khiến cho Pađy bực bội. Không có vợ bên cạnh, Pađy cảm thấy thiếu vô cùng. Đối với chị Mary Carson, Pađy vẫn giữ sự ác cảm không khác gì thời ông còn là một cậu bé ở Ái Nhĩ Lan. Đúng lúc đó ông chú ý đến cái băng dính trên chân mày của Frank và gương mặt sưng phù; một cái cớ từ trên môi rơi xuống để cho ông trút ra bao nhiêu thứ bực bội.
- Với cái mặt thế này thì làm sao mày dám về nhìn mặt mẹ mầy! - Ông rầy to. Chỉ cần tao buông lơi một chút là mầy lại sẵn sàng vồ lấy thằng nào đầu tiên lườm mày.
Sửng sốt, cha Ralph bật ngồi dậy và nói vài tiếng để xoa dịu Pađy, nhưng Frank đã phản ứng trước.
- Con đã kiếm tiền bằng cách này đây - Frank nói rất khẽ, tay chỉ cái băng dính - Hai mươi bảng trong vài phút lao động, hơn cả số tiền cô Mary trả cho chúng ta, ba và con, trong một tháng! Con đã đánh ngã ba võ sĩ giỏi và đứng vững trước một nhà vô địch hạng nhẹ trong lều của Jimmy Sharman trưa này. Con đã lãnh 20 bảng! Điều này nó không dính dấp đến những gì ba thường nghĩ về con. Tất cả mọi người chứng kiến trận đấu đều nể nang con.
- Thắng vài thằng khốn khổ mệt mỏi và bầm dập vì bị đấm, chỉ xuất hiện để lòe thiên hạ trong các ngày hội ở nhà quê thế mà mày lại phách lối. Phải biết cư xử như một người đã trưởng thành, Frank. Tao biết có thể mày đã không thể cao hơn nhưng hãy vì mẹ mày, để cái đầu của mày lớn ra!
Mặt Frank tái nhợt đi! Như những miếng xương trắng phếu dưới mặt trời. Với anh, đây là sự sỉ nhục kinh khủng nhất từ trước tới nay. Hơi thở của Frank nghe rít lên nhưng vẫn cố giữ hai tay ở yên hai bên sườn hông.
- Họ không phải là những tên khốn khổ bị bầm dập bởi những cú đấm, thưa ba. Ba đã nghe danh Jimmy Sharman nhiều không thua con và chính hắn ta nói với con rằng con sinh ra là một võ sĩ và trước mặt con là một tương lai sáng. Hắn muốn mướn con vào đoàn và rèn luyện, và sẽ trả lương cho con! Có thể con không còn lớn nữa nhưng con đã đủ lớn để dạy cho bất cứ ai một bài học... Lời nói ấy có giá trị cho cả ba nữa, con dê già thối tha!
Những tiếng cuối cùng hạ thấp giọng vẫn lọt vào tai của Pađy. Mặt ông tái nhợt không thua mặt con khi ông biết Frank ám chỉ mình.
- Sao mày dám nói thế?
- Ba không là cái gì khác hơn. Ba đáng ghê tởm. Còn tồi tệ hơn cừu đực động đực! Tại sao ba không để mẹ con yên? Ba không thể tự kìm chế việc dùng mẹ con để tìm khoái lạc hả?
- Đừng, đừng, đừng! Meggie hét to lên. Mấy ngón tay của cha Ralph cắm mạnh vào hai vai Meggie như móng chim mồi để cố giữ cô bé sát vào mình. Nước mắt ràn rụa trên mặt, Meggie cố vùng vẫy hết sức mình nhưng vẫn không thể thoát ra. ...
- Đừng ba, đừng! Frank ơi, em van anh! Em van anh! Cô bé la lên giọng hốt hoảng.
Nhưng chỉ có cha Ralph là nghe cô bé. Frank và Pađy xáp lại đối diện nhau. Lòng căm hờn và sự e sợ đều bị lột trần. Con đê trước kia ngăn chặn hai người - tình yêu cả hai dành cho Fiona - đã bị vỡ, giờ đây sự đối đầu ngấm ngầm đã bộc lộ công khai.
- Tao là chồng. Và Chúa đã giáng phúc cho cuộc kết hợp giữa hai vợ chồng tao bằng cách mang lại cho hai vợ chồng tao nhiều con cái, Pađy nói với giọng bình tĩnh hơn, cố gắng tự chủ.
- Ba không xứng đáng hơn một con chó già dơ dáy chạy theo sau bất cứ con chó cái nào để tìm cách nhảy đực!
- Còn mày, mày không hơn gì con chó già dơ dáy đã đẻ ra mày mà tao không hề biết đó là con chó nào! Pady hét lên. Rất may, nhờ ơn Chúa, tao không có dính dấp gì vào chuyện ấy. Trời ơi, tại sao tôi đã nói như thế...
Pađy chợt im bặt; sự điên tiết của ông tan biến nhanh như gió. Ông ta muốn ngã quỵ xuống, co rúm lại, hai tay đưa lên bụm miệng, tưởng như ông muốn rứt cái lưỡi đã thốt ra điều không bao giờ có quyền thốt ra.
- Tôi không muốn nói điều đó, Pađy than khóc - Tôi không muốn nói điều đó!
Ngay lúc những lời ấy thoát khỏi miệng Pađy, cha Ralph buông Meggie ra và chạy ngay tới Frank. Ông bẻ vặn cánh tay Frank ra sau lưng, cánh tay còn lại ông kẹp cổ anh tạ ông rất to khỏe và cái khóa ấy giữ chặt Frank; Frank vùng vẫy để thoát ra nhưng rồi đột ngột sự chống trả của anh tan biến và anh lắc đầu ra dấu khuất phục - Meggie quỵ xuống sàn nhà, quỳ gối và khóc, mắt hết nhìn anh rồi nhìn cha với sự van xin bất lực. Cô bé không hiểu chuyện gì đã xảy ra, nhưng biết rằng sau chuyện này thì mình sẽ không còn giữ đủ cả hai.
- Đừng chối, thật sự ông muốn nói ra điều ấy. Đáng lý tôi đã biết điều đó. Cha hãy buông tôi ra. Tôi không đụng tới ông ta đâu. Cầu xin Chúa giúp đỡ tôi.
- Cầu xin Chúa giúp đỡ các người? Cầu Chúa khiến cả hai mục xương dưới địa ngục! Nếu các người làm chấn thương tâm thần con bé này, tôi sẽ giết các người. - Cha Ralph lớn tiếng, người duy nhất bây giờ nổi giận - Các người có biết rằng tôi đã giữ con bé ở lại đây là để ngăn cản cả hai cấu xé nhau chớ đâu phải để nghe những điều tồi tệ ấy. Đáng lý tôi cứ để hai người tha hồ giết nhau, đồ ích kỷ, ngu đần và khốn nạn.
- Thôi được rồi, tôi đi đây - Frank nói bằng một giọng xa lạ, trống rỗng. - Tôi sẽ sung vào đoàn của Jimmy Sharman và vĩnh viễn tôi sẽ không trở lại đây.
- Con phải trở lại đây! Pađy nói lớn - Ba sẽ ăn nói sao đây với mẹ con? Mẹ con yêu con hơn tất cả những người khác cộng lại. Bà ấy sẽ không bao giờ tha thứ cho ba.
- Ông cứ nói là tôi đã sung vào đội Jimmy Sharman vì tôi muốn trở thành một người có tên tuổi. Đó là sự thật.
- Điều mà ba đã nói... không đúng sự thật đâu Frank.
Đôi mắt đen, đôi mắt xa lạ của Frank ném một tia nhìn khinh miệt. Chính đó là đôi mắt gây ngạc nhiên cho cha Ralph ở lần đầu ông gặp chàng thanh niên. Tại sao Fiona thì mắt nâu còn Pađy mắt xanh lại đẻ ra đứa con trai mắt đen? Cha Ralph biết định luật di truyền Medel, do đó bản thân ông đã rút ra kết luận.
Frank lấy áo măng tô và nón.
- Trời ơi, đúng như thế! Tôi vẫn nghi ngờ điều ấy. Tôi vẫn nhớ hình ảnh mẹ tôi ngồi chơi đàn Claxeven trong một phòng mà ông không làm sao có được! Tôi vẫn linh cảm là ông không hề có mặt ở đó, ông đã đến với mẹ tôi sau tôi. Và khi nhớ lại suốt bao năm tháng tôi thù ghét ông vì ông hành hạ mẹ tôi. Chính tại tôi!
- Không tại ai hết, Frank ạ, không do ai hết. - Cha Ralph cố xoa dịu Frank - Con không hiểu hết những con đường bí ẩn của chúa, con phải nhìn các sự việc theo cách đó.
Frank rút tay ra khỏi bàn tay cha Ralph đang nắm chặt anh, rồi đi ra cửa bằng những bước nhẹ nhàng, êm ả - Không thế chối cãi anh ta sinh ra đã là võ sĩ - Cha Ralph nghĩ thầm.
- Những con đường bí ẩn của Chúa! Chàng thanh niên mỉa mai, giọng nói vang lại từ ngoài cửa - Cha chỉ là một sinh vật khi cha đóng vai linh mục, thưa cha De Bricassart! Riêng tôi, tôi nói Chúa đã đến cứu giúp cha, cứu giúp riêng cha ma thôi, vì rằng cha là người duy nhất ở đây không mảy may biết một chút nào về con người thật ấy.
Pađy ngồi sụp xuống trên chiếc ghế bành, mặt xám xịt, nhớn nhác, mắt nhìn Meggie trân trân, trong khi đó Meggie ngồi trước lò sưởi khóc sướt mướt. Pađy định đứng dậy ôm con gái mình nhưng cha Ralph chăn lại.
- Hãy để con bé yên. ông gây cho nó bao nhiêu đớn đau như thế đủ rồi. ông có thể tìm rượu whisky trong tủ và uống vài hớp đi. Tôi đưa con bé vào phòng cho nó nghỉ, nhưng tôi sẽ trở lại nói chuyện với ông. Vậy ông đừng rời khỏi đây. ông nghe tôi nói chứ?
- Tôi chờ cha, thưa cha. Cha đặt Meggie lên giường dùm tôi.
Trên gác, trong căn phòng sơn màu xanh nhạt xinh xắn, linh mục cởi chiếc áo ngoài và bộ đồ bó sát bên trong của Meggie và đặt cô bé ngồi trên giường, để cởi giày vớ. Chiếc áo ngủ đã được bà quản gia Annie để sẵn trên gối! Linh mục tròng áo qua cổ và kéo phủ xuống thân người Meggiẹ Sau đó, mới cở quần lót cho Meggiẹ Trong thời gian này, cha Ralph kể đủ thứ chuyện đâu đâu cho cô bé nghe, nào là chuyện tầm phào về những cái nút khó cởi, những sợi dây giày khó bảo, những dải rubăng tháo mãi không ra. Đôi mắt cô bé còn đầy nét kinh hoàng thơ ngây không giải thích được, tất cả rối ren và đau đớn vượt sức chịu đựng của tuổi cô bé. Meggie như rơi vào khoảng không
- Bây giờ hãy nằm dài ra, con yêu quí của cha và ráng nhắm mắt ngủ. Cha sẽ trở lại ngay để thăm con. Đừng lo sợ gì. Chúng ta sẽ trở lại tất cả những chuyện này vào ngày mai.
Pađy hỏi cha Ralph khi linh mục trở lại phòng khách:
- Con bé đã bình yên chưa?
Linh mục đưa tay lấy chai rượu whisky trên tủ và rót nửa ly.
- Thành thật mà nói, tôi chưa biết ra sao. Có Chúa chứng giám, tôi muốn hiểu sự bất hạnh tệ hại nhất của người Ailen là từ đâu: rượu hay cái tính hay nổi giận bất thường... Cái gì đã xúi giục ông nói lên điều ấy? Thôi, giải thích cũng bằng thừa. Cái tính khí bất thường! Tất nhiên là thế. Tôi đã biết ngay Frank không phải là con của ông khi lần đầu tôi gặp nó.
- Không có gì thoát khỏi cặp mắt của chạ
- Không phải thế. Nhưng chỉ cần có chút óc quan sát trung bình thôi cũng đủ phát hiện những chuyện buồn phiền hay đau khổ mà một số con chiên của Chúa phải gánh chịu.
- Phải chăng cha có được nhiều người ở Gilly yêu mến?
- Có lẽ tôi được như thế nhờ ở gương mặt và vóc dáng - linh mục Ralph trả lời một cách chua chát không thể giữ giọng mình tự nhiên như ý muốn.
- Cha nghĩ như thế à? ý kiến con lại khác, thưa cha. Chúng con yêu mến cha vì cha là một đấng chăn chiên tốt.
Dù sao thì tôi dính líu quá sâu vào những rắc rối của gia đình ông - Cha Ralph nói hơi lúng túng - ông nên rút ra hết đi những gì đè nặng trong lòng, ông bạn ạ.
Pađy vẫn nhìn chăm chăm ngọn lửa đang cháy rực. Lúc nãy khi cha Ralph bế Meggie lên lầu và đặt cô bé lên giường ông đã ném vào lò sưởi thêm nhiều khúc củi, lòng bị giày xéo bởi sự ăn năn và một đòi hỏi dữ dội muốn làm một điều gì đó. Cái ly rượu như nhảy múa trên tay ông, bởi ông chưa qua cơn xúc động và run bật lên từng chặp. Cha Ralph đứng lên, lấy chai rượu và rót đầy vào ly của Pađy. Sau khi nốc một hơi, Pađy thở dài và lau những giọt nước mắt trên má lúc nào ông không hay.
- Con không hề biết cha của Frank là ai. Chuyện xảy ra trước khi con gặp Fiona. Gia đình của vợ con là một gia đình danh giá ở Tây Tây Lan. Cha của Fiona có một điền trang rộng lớn trồng lúa mì và nuôi cừu, ở gần Ashburton trên Nam Đảo. Tiền nhiều không kể xiết. Fiona là con gái duy nhất của ông ấy. Theo như con biết, ông ấy đã lo trước cho Fiona đủ cả, nào là sang Anh, ra mắt ở triều đình, và lấy một người chồng xứng đáng. Dĩ nhiên Fiona không động một móng tay vào các công việc trong nhà. Cô ta có nhiều người phục vụ... Gia đình sống như vua chúa.
Con làm công ở một hãng sữa, đôi khi cũng thấy Fiona từ xa. Cô ấy đi dạo với một thằng bé khoảng 18 tháng. Rồi một hôm, lão James Armstrong tìm con. Ông cho con biết là con gái của ông đã làm nhục gia đình, định đưa cô ấy đi đến một nơi xa thì bà ngoại của Fiona chống lại một cách ồn ào đến mức gia đình buộc lòng vẫn để Fiona ở đó mặc dù có vẻ bất tiện. Nhưng sau này bà ngoại sắp qua đời, không còn ai ngăn cản việc đuổi Fiona và đứa con trai ra khỏi nhà. Con còn độc thân và James bảo con nếu chịu lấy con gái của ông làm vợ và cam đoan chắc chắn với ông ta là sẽ đưa con gái đi khỏi Nam Đảo thì ông sẽ chịu mọi tổn phí và biếu thêm một số tiền là 500 bảng.
Thưa cha, đó là cả một tài sản đối với con, hơn nữa con đã chán cái cảnh độc thân. Bao giờ con cũng nhút nhát, không làm được chuyện gì nên thân trong quan hệ với phái nữ. ý kiến ấy rất tốt đối với con và thẳng thắng mà nói, đứa bé không gây khó chút nào cho con. Bà ngoại của Fiona cuối cùng đoán ra được việc này và cho người đi tìm con. Lúc bấy giờ bà đã bệnh nặng. Bà là một người có uy quyền, tính tình rất khó chịu, nhưng con quả quyết với cha, đó là một người phụ nữ rất đáng kính trọng. Bà kể cho con nghe một chút về Fiona, nhưng vẫn không nói ai là cha của thằng bé. Phần con cũng thấy không cần thiết tìm hiểu xa hơn. Bà buộc con hứa với bà ấy sẽ đối xử tối với cháu gái của bà... Bà biết rằng Fiona sẽ rời khỏi nhà ngay khi bà nhắm mắt. Và chính bà đã đưa ra ý kiến với James nên tìm cho Fiona một người chồng. Con rất tội nghiệp cho bà cụ; bà rất yêu thương cháu gái của bà.
Cha có tin hay không nếu con kể cho cha biết rằng lần đầu tiên con đến gần Fiona, ở khoảng cách nghe được tiếng nói của cô ấy, thì đó là ngày cưới?
- Tôi tin ông - cha Ralph nói khẽ - Pađy, thế là ông đã cưới một người vợ có điều kiện trên ông rất nhiều.
- Vâng. Lúc ấy con rất sợ cô ấy, sợ đến chết được. Cô ta đẹp quá, thưa cha... Và cũng rất... xa xôi, chắc cha hiểu con muốn nói gì. Tưởng như cô ta không hiện diện trong nhà mà là một người nào khác ngồi đó.
- Bây giờ bà ấy vẫn còn đẹp, ông Pađy ạ. - Cha Ralph dịu dàng nói. - Tôi có thể nhìn thấy ở Meggie hình ảnh của Fiona trước kia.
- Cuộc sống dành cho Fiona không phải dễ dàng thưa cha, như cha biết đấy, không thể nào khác hơn được. Với con, ít nhất cô ấy được an toàn, không sợ bị đối xử tệ. Phải chờ đến hai năm sau con mới dám... nói thẳng ra, mới dám trở thành chồng thật sự của cô ấy. Con buộc phải tập cô ấy làm bếp, quét nhà, giặt và ủi quần áo. Trước kia cô ấy không biết làm gì hết.
Qua suốt bao năm tháng dài mà chúng con ở với nhau, chưa bao giờ cô ấy hé môi một lần thở than nhưng đồng thời cô ấy cũng không bao giờ cười hoặc khóc. Chỉ trong những lúc hết sức riêng tư, trong tình vợ chồng, cô ấy mới để lộ ra những xúc động của mình, nhưng ngay lúc đó cô ấy cũng không nói lời nào. Con rất muốn nghe cô ấy tâm tình và đồng thời lại rất sợ vì con vẫn cảm giác rằng nếu cô ấy tâm tình thì không thể tránh nhắc tới người ấy. Không! Con không nghĩ rằng cô ấy đối xử không tốt với con và mấy đứa nhỏ. Con đã dành cho cô ấy tất cả sự trìu mến nhưng hình như tình yêu đã tắt trong lòng cô ấy tự bao giờ. Ngoại trừ đối với Frank. Con đoán chắc rằng cô ấy yêu thương Frank hơn tất cả chúng con cộng lại. Có lẽ xưa kia cô ấy rất yêu cha của Frank. Nhưng con không biết gì về con người ấy, hắn ta là ai mà tại sao hắn không thể cưới Fiona.
Cha nhìn hai bàn tay mình, rồi nheo mắt.
- Ồ, Pađy, cuộc đời quả là khổ cực làm sao! Nhờ ơn Chúa mà tôi đã không dám đi gần hơn cái rìa của cuộc sống. Tôi không có can đảm ôm lấy cuộc sống thật sự trong vòng tay mình.
Pađy đứng lên loạng choạng, hai chân không vững.
- Thế đó, lần này thì con đã làm một điều dại dột. Con đã ép buộc Frank đi khỏi nhà. Fiona sẽ không bao giờ tha thứ con.
- Ông không nên nói với bà ấy, Pađy à. Không, không nên nói. Cứ giải thích đơn giản với bà rằng Frank đã đi theo đoàn võ sĩ, thế thôi. Bà ấy dư biết rằng từ lâu tính tình Frank đã như thế và bà ấy sẽ tin ông.
- Con không thể nói dối như thế, thưa cha! Pađy kêu lên, sững sờ.
- Cần nói như thế, Pađy. Bà ấy đã đau khổ và bị dằn vặt như thế chưa đủ sao? Đừng gây thêm bất hạnh cho bà ấy nữa.
Trong lòng mình, cha Ralph nghĩ: Biết đâu? - Rất có thể cuối cùng bà ấy sẽ dồn tình yêu dành cho Frank sang ông và cho con người bé nhỏ đang nằm trên lầu...
- Cha tin như thế?
- Rất có thể. Nhưng chuyện xảy ra tối nay phải được giữ bí mật giữa hai chúng tạ
- Nhưng còn... Meggie? Con bé đã nghe hết.
- Ông đừng lo về phần Meggie. Tôi sẽ liệu. Tôi không nghĩ rằng Meggie hiểu được câu chuyện xảy ra. Nó sẽ nghĩ chỉ là một cuộc cãi vã giữa ông và Frank. Tôi sẽ tìm cách làm cho Meggie hiểu rằng kể lại cho mẹ nó nghe chuyện cãi vã giữa cha và anh chỉ làm cho mẹ đau khổ thêm. Hơn nữa theo tôi nhận xét, Meggie cũng ít khi nói chuyện với mẹ nó (ông đứng lên). Ông hãy đi ngủ đi Pađy. Nhớ đừng quên giữ cho sắc mặt của mình thật bình thường vào sáng mai khi ông trở lại làm việc với nữ hoàng Mary.
Meggie vẫn không ngủ, nằm dài, hai mắt mở to dưới ánh sáng của ngọn đèn đặt ở đầu giường. Linh mục ngồi ở mép giường và nhận ra rằng tóc của cô bé vẫn còn thắt bím. Một cách thận trọng, ông tháo chiếc rubăng màu xanh nước biển và nhẹ nhàng gỡ từng lọn tóc cho đến khi cả mái tóc dợn sóng, vàng óng ả nằm trải ra gối.
- Anh Frank đã đi rồi, Meggie - ông nói.
- Con biết, thưa cha.
- Con có biết tại sao không, con thân yêu?
- Có chuyện ẩu đả với ba.
- Con tính sao?
- Con sẽ đi theo Frank. Anh ấy cần con.
- Không thể được, Meggie bé nhỏ của cha.
- Được chứ thưa cha. Con muốn đi tìm anh ấy đêm nay, nhưng đôi chân của con rã rời và con rất sợ bóng đêm. Nhưng sáng mai, con sẽ đi tìm anh ấy.
- Không nên Meggie ạ. Con phải biết, Frank có cuộc sống của anh ấy, và đã đến lúc anh ấy phải ra đi. Cha biết là con không muốn cho anh ấy đi, nhưng đã từ lâu, anh ấy muốn thế. Con không nên ích kỷ. Phải để cho anh ấy chọn cuộc sống theo ý thích. Khi chúng ta lớn lên, ý muốn được sống ở ngoài cái gia đình ma ta đã được nuôi nấng là chuyện bình thường và đúng đắn. Frank đã trưởng thành, con có hiểu những lời cha nói không Meggie?
Đôi mắt cô bé nhìn thẳng vào mặt linh mục. Một đôi mắt mỏi mệt, đau đớn và không còn chút nào là trẻ con.
- Con biết, cô bé thì thầm. Frank đã muốn đi từ lâu khi con còn nhỏ xíu. Nhưng rồi anh ấy không đi được. Ba đã bắt anh đem trở về nhà và buộc anh ấy tiếp tục sống với tụi con.
- Nhưng lần này thì ba con không thể đem anh ấy về nữa, Frank đã đi thật sự rồi Meggie. Anh ấy sẽ không trở về.
- Con sẽ không bao giờ gặp lại anh ấy nữa sao?
- Cha không biết được - cha Ralph trả lời thành thật - Cha vẫn muốn nói với con để con yên lòng là anh ấy sẽ trở về, nhưng không ai có thể đoán được tương lai, Meggie, kể cả các linh mục. Con không nên nói cho mẹ con biết chuyện cãi vã giữa ba và anh Frank, nghe không Meggie? Điều đó sẽ làm cho mẹ thêm đau buồn; mẹ con hiện không được khỏe.
- Bởi vì mẹ sắp có em bé?
- Sao con biết.
- Mẹ rất thích làm nở ra các em bé. Và mẹ đã cho nở nhiều em bé rất dễ thương, thưa cha. Ngay cả khi mẹ không được khỏe. Con sẽ cho nở ra một em bé như Hal. Như thế con sẽ thấy bớt nhớ Frank hơn.
- Sự sinh sản - cha Ralph nói một mình. Chúc con may mắn, Meggie. Nhưng chuyện gì xảy ra nếu con không làm nở ra được một em bé?
- Con vẫn có Hal, giọng nói của Meggie đầy vẻ buồn ngủ, đầu nép vào gối, cha ơi, còn cha sẽ không đi chứ?
- Một ngày nào đó, rất có thể; nhưng bây giờ thì chưa, Meggie ạ, con đừng lo nghĩ. Cha có cảm giác là cha sẽ ở Gilly lâu, rất lâu - Cha Ralph trả lời, hai mắt vương buồn.
Title: Re: Tiếng chim hót trong bụi mận gai - Colleen McCullough. Bestseller năm 1977
Post by: Em se la Nguoi ra di on 10/04/07, 13:41
Post by: Em se la Nguoi ra di on 10/04/07, 13:41
Chả hiểu sao không gửi được tin nhắn cho Sha. Sha ơi! Mail của ESLNRD là: Au_wa@yahoo.com. Cảm ơn trước nhé.
Title: Re: Tiếng chim hót trong bụi mận gai - Colleen McCullough. Bestseller năm 1977
Post by: Re Bin on 14/04/07, 20:01
Post by: Re Bin on 14/04/07, 20:01
chuyện này đọc hay nhưng buồn lắm, nếu có thể bạn tách từng trang thì đọc rễ hơn tạo cảm giác về không gian cho người đọc
Title: Re: Tiếng chim hót trong bụi mận gai - Colleen McCullough. Bestseller năm 1977
Post by: tuylipkhongmau on 26/04/07, 14:21
Post by: tuylipkhongmau on 26/04/07, 14:21
Chuyện quá hay, đang đọc lại hết rùi gởi hộ mình toàn bộ chuyện được ko? Cám ơn nhiều.
Title: Re: Tiếng chim hót trong bụi mận gai - Colleen McCullough. Bestseller năm 1977
Post by: Serenade24 on 02/05/07, 08:05
Post by: Serenade24 on 02/05/07, 08:05
Chương 9
Không thể khác hơn, Meggie phải trở về nhà. Fiona cần sự giúp đỡ của cô bé. Stuart còn lại một mình ở tu viện Gilly, bắt đầu một cuộc tuyệt thực, cuối cùng cũng đã trở về nhà.
Khi gặp lại mẹ, cô bé tưởng như bị một sức nặng khủng khiếp đè nặng người mình; cô có biết đâu đó là dấu hiệu của sự rời bỏ tuổi thơ và là sự cảm nhận rất sớm thân phận người phụ nữ.
Bề ngoài, Fiona không thay đổi, ngoại trừ cái bụng, nhưng bên trong, tất cả đều chậm lại như một chiếc đồng hồ treo tường cũ kỹ với cái quả lắc mỗi lúc một mỏi mệt cho đến khi ngừng hẳn.
Chú bé con tóc màu hung chạy lăng xăng khắp nhà đụng vào bàn ghế, nhưng Fiona không ép nó vào một khuôn khổ kỷ luật nào. Bà vẫn tiếp tục công việc như lâu nay - đi lại giữa nhà bếp, nơi giặt quần áo và bồn rửa chén - như trên đời không còn gì khác hơn để làm.
Không ai nhắc tới tên của Frank nhưng cứ sáu tuần một lần, Fiona ngước nhìn lên khi nghe tiếng kèn đồng báo hiệu chiếc xe phát thư đến. Bà vui lên một lúc. Nhưng khi bà Smith đã trao thư từ cho Fiona và không thấy có thư nào của Frank thì nỗi xót xa lại xâm chiếm lấy bà và tắt lịm đi.
Có thêm hai người mới trong nhà. Fiona cho ra đời một lúc hai đứa con trai tóc hung. James và Patrick mà trong nhà gọi một cách thân yêu là Jimes và Patsy.
Bé Hal thì chỉ biết có Meggie, nó không muốn ai khác.
Chương 10
Cha Ralph quan sát Meggie một cách trìu mến. Cô bé đang chải mái tóc màu hung và uốn lọn cho Patsy đứng không vững trên hai chân bé nhỏ, trong khi Jimes đứng kế bên chờ đến phiên mình. Cả hai nhìn chị bằng cái nhìn đầy thương yêu. Đúng là một bà mẹ tí hon. Tấm lòng ấy phải là một đức tính bẩm sinh ở Meggie - cha Ralph nghĩ thầm.
Trong một lúc cha Ralph bị thu hút bởi cảnh thân mật dễ thương này. Ông thả lỏng chiếc roi da xuốn đôi giày bốt đầy bụi, rồi đưa mắt u buồn nhìn qua hiên, hướng về tòa nhà lớn khuất sau những cây bạch đàn và các thứ cây leo khác, biệt lập với căn nhà của người quản lý và cuộc sống còn lại của điền trang.
Giữa cái mạng lưới nhện rộng bao la ấy, con nhện già đang toan tính giăng ra một kế nào nữa?
- Cha ơi, cha không nhìn đây! Meggie kêu lên trách móc.
- Cha xin lỗi con! Cha đang suy nghĩ.
Ông quay lại nhìn Meggie đúng lúc cô bé vừa chải xong cho Jimes. Cả ba đang theo dõi ông, chờ cái lúc ông nghiêng mình xuống để bế hai chú bé con sinh đôi, mỗi đứa một bên hông.
- Chúng ta hãy cùng nhau thăm bà Mary. Ông nói.
Meggie đi theo sau cha Ralph trên con đường dẫn đến ngôi nhà lớn, một tay cầm cây roi da của linh mục và một tay dắt cương con ngựa cái lông hai màu. Còn linh mục bế hai đứa bé không có vẻ gì mệt nhọc mặc dù từ đó đến tòa nhà lớn xa hơn một cây số rưỡi. Vào phía sau nhà bếp, cha Ralph lần lượt trao hai đứa bé cho bà Smith đón nhận chúng một cách sung sướng. Cha đi thẳng ra nhà trước, Meggie theo bên cạnh.
Mary Carson đang ngồi trên chiếc ghế bành đặc biệt cho mình. Lúc này, bà ít khi rời khỏi ghế, hơn nữa, sự có mặt của bà cũng không còn cần thiết vì Pađy lo liệu tất cả một cách giỏi giang. Khi cha Ralph bước vào, cầm tay Meggie, thì cái nhìn đầy ác cảm của bà già buộc ngay cô bé phải nhìn xuống đất; cha Ralph nghe được tiếng tim đập nhanh của Meggie, càng nắm chặt cổ tay của cô bé truyền sang nó niềm an ủi và sự âu yếm. Cô bé nghiêng người xuống chào một cách vụng về, miệng ấp úng mấy câu thưa gửi.
- Cô bé đi ngay ra phía sau nhà bếp chơi. Cháu uống trà với bà Smith - Mary Carson ra lệnh một cách lạnh lùng.
- Tại sao bà không thương nó? Cha Ralph vừa hỏi vừa buông mình xuống chiếc ghế mà ông hiểu rằng Mary Carson dành cho ông.
- Bởi vì cha thương nó - bà trả lời.
- Thôi đi! Cha Ralph phản đối, lần thứ nhất thấy mình ở vào thế yếu - Con bé chỉ là đứa trẻ cô độc, bà Mary ạ.
- Nhưng cha đã không nhìn nó dước góc cạnh đó, chính cha cũng biết điều ấy
Cặp mắt xanh đẹp nhìn bà một cách mỉa mai; ông cảm thấy thoải mái hơn.
- Bà nghĩ rằng tôi có những quan hệ tội lỗi với trẻ con? Dù sao tôi cũng là linh mục.
- Trước hết cha là một người đàn ông, Ralph de Bricassart! Làm linh mục - điều đó chỉ mang đến cho cha một cảm giác an toàn, có thế thôi.
Bất ngờ và bối rối, cha Ralph cười. Không hiểu vì sao, ông cảm thấy thấy mình bất lực, không có khả năng so gươm với bà ngay hôm đó; hình như bà đã khám phá ra chỗ nhược của chiếc áo giáp và bà đã khoan vào đấy bằng nọc độc của con nhện. Có lẽ ông đã thay đổi nhiều, đã già đi, chấp nhận thích nghi với cuộc sống lu mờ ở Gillabone. Ngọn lửa tắt dần trong lòng ông hay là nó dã cháy lên với một niềm say mê khác?
- Tôi không phải là một người đàn ông - ông vặn lại - Tôi là linh mục...
- Ồ, Ralph, cha đã thay đổi nhiều quá - bà chế giễu - Phải chăng tôi đang nghe chính đức Hồng Y De Bricassart nói?
- Không hề có chuyện đó, ông nói, cái nhìn có một thoáng tuyệt vọng che khuất. Tôi không nghĩ rằng tôi còn muốn tiến lên trên những tầng cao ấy.
Bà Mary cười lớn, người nghiêng ra trước rồi ngả ra sau trên chiếc ghế bành, nhưng không một giây lơi quan sát cha Ralph.
- Có thật thế không Ralph? Cha không còn muốn nữa? Thế thì, tôi sẽ để cho cha mốc meo ở đây thêm một thời gian, nhưng rồi cái ngày đền tội của cha sẽ đến, không thể nghi ngờ. Tôi là hiện thân Quỷ Xa tăng đối với cha và tôi sẽ hiến dâng cho cha... Thôi, tôi đã nói đủ rồi! Nhưng đừng có nghi ngờ, tôi sẽ bắt cha chịu sự nhục hình. Cha là người đàn ông hấp dẫn nhất mà tôi gặp. Cha ném cái đẹp của cha lên đầu chúng tôi, đồng thời lại khinh miệt những sự yếu đuối của chúng tôi. Nhưng tôi nhất định sẽ ghim cha lên tường và bằng cách khai thác chính những chỗ yếu của cha, tôi sẽ buộc cha tự bán mình như một con điếm son phấn lòe loẹt. Cha có tin như thế không?
Ông bật ngửa ra sau, cười.
- Tôi không nghi ngờ là bà sẽ thử làm việc ấy nhưng tôi không tin bà hiểu tôi như bà tưởng.
- Không hẳn. Thời gian sẽ trả lời cha, Ralph, chỉ có thời gian thôi. Tôi đã già, với tôi không còn gì khác hơn là sự chờ đợi.
- Thế thì bà nghĩ tôi có cái gì khác hơn à? - ông hỏi lại. Cũng là thời gian mà thôi, bà Mary, chỉ có thời gian. Thời gian, cát bụi và muỗi mòng.
Một hôm, bé Hal ho; hơi thở khó, mệt nhọc từng lúc và sức khỏe xuống rất nhanh. Pađy lên nhà lớn gọi điện thoại nhưng bác sĩ lại ở cách đây hơn 60 cây số và ông ta đang đi thăm một bệnh nhân khác.
Meggie không tin Hal sẽ chết, ngay cả khi Fiona và Pađy quỳ bên giường, tuyệt vọng, đọc kinh cầu nguyện cho Hal. Nửa đêm, Pađy gỡ hai tay của Meggie đang ôm Hal rồi bế thân xác nhỏ bé cứng đơ của Hal đặt nhẹ nhàng lên giường.
Bấy giờ, Meggie choàng mở mắt. Cô bé đã thiếp đi lúc Hal không còn giãy giụa nữa.
- Ba ơi, Hal có đỡ không ba?
Pađy lắc đầu.
- Không, Meggie ạ. Hal không đỡ chút nào như con mong, em đã yên nghỉ rồi. Hal đã trở về với Chúa, thế là không còn đau khổ nữa.
- Không, ba ơi, em không chết. Không thể thế được.
... Meggie ngồi trên ghế hai tay đặt lên đầu gối. Hal thuộc về cô bé nhưng Hal đã chết. Chú Hal mà Meggie đã thương yêu, săn sóc, dỗ ngủ nay đã không còn.
Cha Ralph đã bắt gặp Meggie như thế khi bước vào nhà cùng với một bác sĩ đi theo. Sau đó không lâu thì bác sĩ đi ra. Ông không thể làm gì khác hơn vì ở cách quá xa bệnh viện, phương tiện y tế lại thiếu.
Sau đó, nhiệm vụ của cha Ralph cũng xong. Pađy tìm Fiona, còn Bob và các anh trai của Meggie thì xuống xưởng mộc để đóng cái hòm.
Quên rằng mình đang choàng chiếc khăn lễ màu tía trên cổ, cha Ralph cúi xuống thổi bếp bùng lên. Ông vặn thấp ngọn đèn đặt trên bàn phía sau rồi ngồi trên chiếc ghế dài đặt trước mặt Meggie để có thể quan sát cô bé rõ hơn. Meggie đã lớn; cô bé đã mang hia bảy dặm, có khả năng bỏ lại cha Ralph đằng sau. Ông cảm thấy mình ngày càng rối loạn lên dữ dội khi nhìn lại cả chiều dài của một cuộc đời đầy rẫy những hoài nghi và ám ảnh. Nhưng ông sợ cái gì? Cái gì đã làm cho ông nghĩ rằng nếu nó xuất hiện thì ông không thể đối đầu? Ông có thể vững vàng với những người khác; ông không sợ; nhưng nơi ông, sự chờ đợi cái điều không thể giải thích ấy đang len vào trong ý thức của ông, giữa lúc mà ông ít chờ đợi nhất thì ông biết sợ. Trong khi ấy Meggie, sinh ra sau ông 18 năm, đang lớn lên, bước trước ông rất xa.
Meggie không phải là một nữ thánh, càng không phải là một cô bé gái như mọi cô bé gái khác. Meggie không bao giờ than vãn, lại có cái đức tính bẩm sinh - hay đó là một bất hạnh - là sự chịu đựng. Trước bất cứ chuyện gì hoặc xắp xảy ra cô bé đều đối đầu và chấp nhận hết để đốt cháy thêm ngọn lửa trong lòng. Hay là ý tưởng mà ông đã có về Meggie chỉ là tấm gương phản chiếu những ảo tưởng của chính ông.
- Ồ, Meggie - ông thì thầm với một tiếng thở dài bất lực.
Meggie quay lại nhìn cha Ralph đột ngột và từ niềm đau khổ tột cùng cô bé mỉm cười như gửi đến cha Ralph một nụ hôn yêu thương tuyệt đối, tràn trề, không ẩn giấu bất cứ điều gì; những điều cấm kỵ và ức chế của một người phụ nữ chưa có thế giới riêng tư, còn ngây thơ của Meggie.
Được yêu như thế làm cho cha Ralph bàng hoàng, như bị thiêu đốt; ông đã phải xin Thượng đế - dù cho trước đây lắm lúc ông đã nghi ngờ sự hiện hữu - hãy biến ông thành bất cứ một con người èao khác trong cuộc đời này, miễn là không phải Ralph de Bricassart. Có phải chăng chính đó la điều không thể giải thích trong ông? Thượng đế ơi, tại sao tôi lại yêu thương cô bé đến thế? Nhưng cũng như mọi khi, không có ai trả lời cho ông. Ngồi im trước mặt, Meggie vẫn tiếp tục mỉm cười với ông...
Cuộc sống tiếp diễn theo cái vòng tuần hoàn vĩnh cửu, đều đặn của trái đất, mùa hè kế tiếp mang những cơn mưa đến làm đầy con suối và các bồn chứa, tưới mát những rễ cây khát nước, giữ chặt trên mặt đất những cơn bụi điên cuồng. Bọn đàn ông mừng rỡ muốn khóc khi làm những công việc mùa vụ, yên tâm không phải mất công chở cỏ khô để nuôi cừu.
Drogheda biệt lập với thế giới còn lại, chỉ có đọc sách là cách tiếp xúc duy nhất với bên ngoài. Nhưng không như Wahine có thư viện lưu động, ở đây chỉ trông cậy vào Ralph. ông cung cấp cho các gia đình ham đọc ở Drogheda những quyển sách lấy từ tủ sách của chính ông và của tu viện.
Vào thời đó, cuốn sách ướt át nhất cũng chỉ dám tả một nụ hôn trong sáng, chứ không đi xa hơn.
Trong sự biệt lập ấy, Meggie hoàn toàn không hiểu được cả cái ý nghĩa của khái niệm những thực tế của cuộc sống vì rằng điều kiện thực tế đã ngăn chặn mọi ngả đường khám phá. Cha của cô dựng lên một rào chắn kiên cố giữa đàn ông phụ nữ trong gia đình; các đề tài như gây giống hay giao phối của súc vật không bao giờ được đề cập trước mặt Meggie và đàn ông không bao giờ xuất hiện trước mặt cô bé mà không ăn mặc đàng hoàng. Loại sách có khả năng soi sáng một chút gì đó cũng không tới Drogheda. Meggie không có bạn gái cùng lứa tuổi để tăng thêm sự hiểu biết. Cuộc sống của cô bé chỉ quanh quẩn vào những công việc trong nhà và những vùng lân cận, hoàn toàn không có một hoạt động nào dính dấp đến giới tính. Các sinh vật ở vùng đất này đều không sinh đẻ. Mary Carson không gây giống ngựa; bà mua ngựa của Martin Jang ở Bugela. Ở trang trại có một con bò rừng, con vật hung dữ không cho mọi người léo hánh tới. Mấy con chó thì bị cột trong chuồng; lấy giống được coi như một công việc khoa học và diễn ra dưới mắt lành nghề của Pađy và Bob. Thời giờ không phải để chăm sóc mấy con heo, vả lại Meggie cũng rất ghê tởm chúng dù phải nuôi. Nói cho đúng là Meggie không có thời giờ cần thiết để nghĩ đến bất cứ chuyện gì ngoài hai đứa em trai. Sự dốt nát này kéo theo sự dốt nát khác; một cơ thể và một bộ óc không được kéo ra khỏi cơn ngủ thì cứ tiếp tục ngủ, mặc các sự kiện mà con người vừa mở mắt đã ghi nhận được tất cả.
Vài hôm trước sinh nhật lần thứ 15 của Meggie, giữa cái nóng oi bức của mùa hè lên đến gần cực điểm, Meggie bỗng chú ý thấy những vết nâu nâu từng vệt dính trong quần lót . Sau đó một hai hôm không thấy gì nữa nhưng sáu tuần sau, các vết ấy lại xuất hiện trở lại. Sự mắc cỡ ở Meggie biến thành sợ hãi. Lần đầu, cô nghĩ là do mình giặt quần áo không sạch, thật là nhục; nhưng qua lần xuất hiện thứ nhì, sự hoài nghi không cho phép nữa, chắc chắn không thể chối cãi đây là máu . Meggie không có một chút khái niệm gì về nguyên nhân sự chảy máu ấy nhưng cô tưởng tượng là nó chảy ra ở phía sau. Sự chảy máu rỉ rả ấy biến đi sau ba ngày và không trở lại trước hai tháng sau; Meggie lén lút giặt quần lót, không ai hay biết vì ngày thường cũng chính Meggie đảm trách phần giặt giũ quần áo cho mọi người trong nhà.
Hiện tượng chảy máu lần kế tiếp kèm theo sự đau đớn, sự đau đớn nhiều nhất từ trước tới này, hơn cả những cơn đau dạ dày. Và lần này, máu chảy cũng nhiều, thật nhiều. Cô ăn cắp vài miếng tã lót cũ của hai em trai sinh đôi và đặt ở trong quần lót, với nỗi lo sợ kinh khủng máu có thể chảy ra tới bên ngoài.
Cái chết đã mang Hal đi được Meggie hiểu như sự xuất hiện của một hiện tượng siêu tự nhiên, nhưng còn cái gì đó đang chảy âm ỉ từ trong người của Meggie thì lại gây cho cô một nỗi kinh hoàng. Bằng mọi cách Meggie phải đi tìm mẹ hoặc cha để thông báo rằng mình sắp sửa chết do một bệnh tật nhục nhã, khó nói cho ai biết. Chỉ duy nhất với Frank, cô mới có thể thổ lộ nỗi lo âu của mình, nhưng giờ đây anh ấy đang ở quá xa và không biết cách nào mà tìm. Meggie có nghe những người phụ nữ lớn tuổi giữa lúc uống trà đã nói với nhau về những khối u và ung thư, về những cái chết khủng khiếp của những người bạn và những người bà con sau những tháng dài đau đớn. Và Meggie tin rằng một hiện tượng tương tự cũng đang ngốn bên trong cơ thể âm ỉ, tiến sâu vào trái tim hoảng hốt của Meggie. Ôi, cô bé không muốn chết chút nào!
Những hiểu biết tương đối về cái chết lại rất mơ hồ đối với Meggie nhưng cô rất sợ hãi và không bao giờ muốn chết. Meggie không thể tưởng tượng được mình sẽ ra sao trong cái thế giới bên kia. Với Meggie, tôn giáo chẳng khác gì một loạt luật lệ hơn là cuộc sống tinh thần, do đó tôn giáo không giúp gì được cho cô cả.
Sự lặng lẽ xâm chiếm Meggie, sự yên tĩnh ấy không thể so sánh với nỗi cô độc êm đềm và mơ mộng của Stuart. Ở Meggie sự lặng lẽ đó có cả chút sợ hãi sửng sốt của một con thú bị rắn thôi miên. Khi có ai hỏi đột ngột, Meggie giật nẩy người, nếu các đứa em trai gọi Meggie bằng cách hét to lên, Meggie sẽ chạy hốt hoảng và tự trách mình sao sơ sót. Và cứ mỗi khi lợi dụng được giây phút hiếm hoi ngơi nghỉ, Meggie liền chạy nhanh ra nghĩa trang để tìm lại Hal, cái chết duy nhất mà cô được biết.
Mọi người đều nhận ra sự thay đổi ở Meggie nhưng đều coi đó là một hiện tượng phát triển bình thường của lứa tuổi. Cô bé giấu kín một cách tài tình nỗi cô đơn tuyệt vọng. Không ai có thể hiểu những gì xảy ra bên trong Meggie. Không có một biểu lộ nào, và sự kín đáo đó được giữ cho tới cùng. Từ Fiona đến Stuart, qua Frank, không biết bao nhiêu điều đã xảy ra.
Thế mà, trong những chuyến thăm Drogheda thường xuyên, cha Ralph đã nhận ra sự thay đổi ở Meggie; sự thay đổi ấy trùng hợp với diễn biến rất dễ thương ở người phụ nữ; nó làm giảm đi các hoạt động vì lo lắng rồi âu sầu. Một sự sa sút về thể xác lẫn tinh thần đập vào mắt cha Ralph. Meggie lẩn tránh mọi người. Cha Ralph không muốn thấy Meggie biến thành một Fiona thứ hai. Gương mặt nhỏ bé thu lại chỉ còn thấy rõ đôi mắt, đôi mắt mở to như hướng về một viễn ảnh khủng khiếp nào. Da màu sữa, trước đây đầy đặn, không hề bị rám nắng, cũng không có vết tàn nhang, đang càng lúc càng tăng lên. Nếu cái đà này cứ tiếp tục, cha Ralph nghĩ thầm, một ngày nào đó Meggie sẽ tự đâm mình, vất vưởng trong tia sáng hiu hắt màu nâu, lờ đờ, rất khó nhận ra bằng mắt, giữa những chiếc bóng đan lên nhau và những vệt đen đang lan dần lên bức tường trắng.
Thế là cha Ralph quyết khám phá điều ấy ở Meggie, dù phải dùng biện pháp mạnh. Vào lúc đó, Mary Carson tỏ ra khó chịu và ghen tuông từng lúc mỗi khi cha Ralph ở lại tại nhà Pađy.
Một hôm, ông thoát ra được sự kềm kẹp của Mary Carson và săn tìm cho được Meggie, cuối cùng gặp cô trong nghĩa trang nhỏ, núp nắng dưới một bức tượng thánh - Meggie đang nhìn nét mặt nhợt nhạt của bức tượng, trong khi đó chính gương mặt của cô biểu lộ nét sợ hãi, một sự tương phản giữa xúc cảm và vô cảm trơ trơ - cha Ralph nghĩ thầm như thế. Nhưng mình ở đây làm gì, chạy theo đuôi cô ta như một con gà mẹ già nua, trong khi Fiona hoặc Pađy có trách nhiệm tìm hiểu những nguyên nhân âu lo của con gái.
Nhưng cha mẹ của Meggie đã không nhận thấy gì bởi họ ít quan tâm đến con gái, trong khi cha Ralph lại dành cho Meggie thật nhiều thứ. Hơn thế, với cương vị một linh mục, cha Ralph còn có trách nhiệm an ủi những tâm hồn đau khổ cô đơn và tuyệt vọng. Ông không thể chịu đựng nổi khi thấy Meggie đau khổ, nhưng tai hại là ông đã ngày càng gắn bó với Meggie qua một loạt sự kiện rắc rối chồng lên nhau. Với Meggie, ông đã hằn sâu biết bao sự việc và kỷ niệm, do đó ông cảm thấy sợ. Tình thương của ông dành cho Meggie và bản chất linh mục của ông, thúc đẩy ông phải sẵn sàng mang lại mọi sự giúp đỡ về mặt tinh thần mà đúng ra mọi người đều có quyền chờ đợi ở ông. Ông phải tự chiến đấu để thấy rõ hơn là mình có trách nhiệm với Meggie cũng như với bất cứ ai khác.
Nghe tiếng chân đi trên cỏ, Meggie quay lại, hai tay đặt chéo trên đùi, mắt nhìn xuống. Cha Ralph đến ngồi bên cạnh cô, tay bó gối. Chiếc áo choàng không được kín đáo làm tăng vẻ đẹp cái thân thể bên trong của cha. Thối thoát vô ích, ông nghĩ thầm. Nếu muốn, Meggie có thể tránh né ông.
- Có chuyện gì xảy ra hở Meggie?
- Không có chi thưa cha.
- Cha không tin lời con.
- Con xin van cha, con xin van cha ma! Con không thể nói với cha chuyện này được.
- Ồ, Meggie thương yêu! Cô gái thiếu đức tin! Con có thể nói với cha tất cả. Chính vì thế mà cha có mặt tại đây. Chính vì thế mà cha là linh mục. Cha là người đại diện đã được Chúa lựa chọn trên trần gian. Cha nhân danh Chúa mà nghe con nói, nhân danh Người ta có quyền tha thứ cho con. Nghe đây Meggie bé nhỏ của ta, không có điều gì ở trên trần thế này mà Chúa và ta không thể tha thứ. Con phải nói cho ta biết điều gì làm con băn khoăn, con thương yêu. Ngày nào ta còn trên đời này, ta sẽ luôn tìm cách giúp đỡ con, che chở con. Nếu con muốn thì cha sẽ như một thiên thần hộ mệnh, chắc chắn đáng tin cậy hơn so với bức tượng đá cẩm thạch mà con nhìn thấy. Nếu con thương yêu ta, hãy nói cho ta biết làm gì làm con lo lắng.
- Thưa cha, con sắp chết, cô gái vừa nói vừa vặn hai tay - con bị ung thư.
Suýt nữa ông cười to lên vì gánh nặng trong lòng bỗng chốc trút bỏ hết; nhưng liền đó nhìn kỹ làn da mịn, hơi xanh, hai cánh tay nhỏ gầy của Meggie, trong lòng ông nổi lên một thèm muốn ghê gớm được khóc và hét to lên, oán giận cả trời đất trước một bất công như thế. Không, Meggie không tự mình tưởng tượng ra chuyện khủng khiếp ấy mà không dựa vào một nguyên nhân nào đó, có thể có một lý do.
- Điều gì khiến cho con tin như thế, quả tim bé nhỏ của cha?
Phải một lúc khá lâu, cô mới kể lại và khi ấy, cha Ralph phải nghiêng đầu về phía gần môi Meggiẹ ông lặp lại một cách máy móc tư thế của một linh mục trước một con chiên đang xưng tội: lấy tay che mặt để mắt cô gái không trông thấy mình, còn tai sẵn sàng nghe những lời xưng tội.
- Cách đây sáu tháng thưa cha, chuyện ấy bắt đầu xảy ra. Con bị đau bụng dữ dội, nhưng không phải đau bụng như khi ăn không tiêu đâu... Rồi... Cha ơi... rất nhiều máu chảy ra.
Cha Ralph ngửa đầu ra sau, cử chỉ mà không bao giờ có trong những lúc nghe xưng tội; ông nhìn đầu Meggie cúi xuống vì xấu hổ. Biết bao xúc động dấy lên khiến cho ông không thể lấy lại sự bình tĩnh. Vô lý thật. Sự nhẹ nhõm hết sức dễ chịu rồi sau đó ông lại giận Fiona, mẹ của Meggie, ông thán phục với sự kinh ngạc khi nghĩ đến cô gái bé bỏng ấy sao lại có thể chịu đựng một cực hình dai dẳng, một sự khó chịu như thế mà không hình dung được là cái gì.
Ông đã từng nghe những chuyện tương tự như chuyện Meggie kể trong suộc cuộc đời linh mục. Mỗi thành phố cha từng ở lại từ Dublin đến Gillabone, đều có những cô gái hư hỏng len vào phòng xưng tội kể lể những chuyện bịa đặt cứ như là thật với mục đích duy nhất là khơi dậy cái điều mà họ tò mò nhất ở một linh mục: đó là tính sung mãn của người đàn ông. Tất cả đám con gái đó không chịu nhìn nhận rằng họ hoàn toàn thất bại trong toan tính này. Họ thì thầm kể lại nào là họ đã bị hãm hiếp như thế nào, gợi lên những trò cấm kỵ giữa họ với những đứa con gái khác, những chuyện dâm đãng và ngoại tình; một vài cô trong bọn, óc tưởng tượng phong phú hơn, đến mức kể tỉ mỉ những chi tiết làm tình với một linh mục. Thế mà cha Ralph vẫn nghe, hoàn toàn không xao xuyến mà chỉ thấy kinh tởm và xót xa cho họ. Cha đã trải qua cuộc sống khắc khổ ở tu viện.
Hơn thế nữa với một con người thuộc tầm cỡ ông, bài học ấy ông tiêu hóa không khó khăn lắm. Nhưng trong tất cả các trường hợp đã qua, chưa bao giờ các cô gái lại nói về những chỗ yếu của thân xác, làm hạ phẩm giá của họ.
Dù hết sức cố gắng nhưng cha Ralph không thể ngăn chặn máu trong người nóng lên. Mặt ửng đỏ; cha Ralph quay đầu đi và úp mặt trong tay, chống chỏi lại sự hổ thẹn lần đầu làm đỏ mặt ông.
Nhưng tất cả những chuyện ấy không giúp gì cho cô gái bé Meggie. Khi biết chắc rằng sắc mặt của mình đã trở lại bình thường, cha Ralph đứng dậy, nâng Meggie lên và đặt cô gái ngồi trên bệ đá cẩm thạch để cho mặt của Meggie cao ngang với ông.
- Meggie hãy nhìn cha. Đừng làm thế, hãy nhìn thẳng cha.
Meggie ngước lên với đôi mắt của con thú bị săn đuổi và thấy linh mục mỉm cười; tâm hồn cô cảm thấy nhẹ nhàng một niềm an ủi vô hạn. Cha sẽ không mỉm cười như thế nếu cô sắp chết. Meggie biết rất rõ cha Ralph chẳng bao giờ giấu diếm tình cảm của ông.
- Meggie, con không biết đâu và con cũng không bị ung thư. Đúng ra ở cương vị này cha không thể giải thích chuyện gì đã xảy ra nhưng cha nghĩ rằng cha phải làm thôi. Đáng lý mẹ con hải nói cho con biết từ lâu, chuẩn bị cho con sẵn sàng đón nhận hiện tượng ấy. Cha không thể nào hiểu được tại sao mẹ con không làm như vậy.
Cha Ralph liếc nhìn bức tượng thánh bằng cẩm thạch đứng sững trên cao, rồi cười như tắt nghẹn.
- Lạy Chúa! Chúa giao cho con một nhiệm vụ không dễ dàng. Này Meggie thân yêu, với năm tháng, khi con lớn lên, rồi già đi và khi con biết được nhiều hơn về những thực tế của cuộc sống, con sẽ nhớ lại cái ngày này mà không khỏi khó chịu, hổ thẹn nữa là khác. Nhưng đừng giữ kỷ niệm này làm gì, Meggie ạ. Tất cả chuyện này chẳng có gì lạ xấu hổ và chẳng có gì ngượng ngập cả. Lúc này, cũng như mọi khi, cha chỉ là công cụ ở trần thế, cha không có quyền nghĩ đến nhiệm vụ nào khác. Con đã quá sợ hãi, con cần sự giúp đỡ, và Đức Chúa Trời đã ban cho con sự giúp đó qua đại diện của Người là ta. Con nên nhớ điều ấy, Meggie ạ. Cha là tôi tớ của Chúa và những gì cha nói đều nhân danh Chúa. Chuyện xảy ra với con là chuyện đã xảy ra với tất cả mọi phụ nữ, Meggie, mỗi tháng một lần và kéo dài trong nhiều ngày, con sẽ thấy ra máu. Thường chuyện đó xuất hiện ở tuổi 12, 13... Con đã mấy tuổi?
- Thưa con mười lăm!
- Mười lăm à? Con đã mười lăm? - Cha Ralph lắc đầu không tin - Nhưng thôi, con đã nói với cha thì cha không nghi ngờ gì. Với cái tuổi mười lăm chuyện ấy xảy ra như thế là trễ. Hiện tượng này sẽ diễn ra mỗi tháng cho đến khi con trên 50 tuổi. Với một số người nó xuất hiện đều đặn theo chu kỳ tuần trăng, với một số khác có thể không đều đặn. Với người này không bị đau đớn, với người khác thì ngược lại. Người ta không biết được tại sao sự khác nhau ấy. Nhưng đó là dấu hiệu trưởng thành của con. Con có hiểu trưởng thành là gì không?
- Con biết chứ, thưa cha. Con đọc sách! Trưởng thành có nghĩa là con đã lớn.
- Tốt. Giải thích như thế cũng khá đủ. Khi nào con ra máu là người phụ nữ còn có thể có con. Đó là sự kế tục nòi giống. Vào thời kỳ trước khi xảy ra tội tổ tông, hình như Eva không có kinh nguyệt. Kinh nguyệt là tên gọi hiện tượng đã xảy đến với con, Meggie. Nhưng khi Adam và Eva phạm tội, Chúa Trời đã trừng phạt người phụ nữ nặng hơn vì rằng trong sự sa ngã ấy, người phụ nữ có tội nhiều hơn, chính họ đã cám dỗ người đàn ông. Con có nhớ những lời giảng trong kinh thánh không? Người sẽ sinh đẻ trong đau đớn, có nghĩa là Chúa muốn rằng đối với người phụ nữ, tất cả những gì liên quan đến việc sinh đẻ đều là nguồn gốc của mọi tội lỗi. Đó là những niềm vui sướng thật lớn lao nhưng đồng thời cũng là những đau đớn tận cùng. Đó là phần số của con người, Meggie ạ, con phải cam chịu như vậy.
Meggie không biết rằng cha Ralph cũng sẵn sàng mang lại sự an ủi và giúp đỡ y như thế với bất cứ một nữ giáo dân nào, mặc dù có khi cha không thiết tha đến số phận của họ như đối với số phận của Meggie. Cha là hiện thân của lòng tốt, nhưng không bao giờ cha lại để bị lôi cuốn vào những nỗi lo âu. Sự an ủi và giúp đỡ riêng càng có ích gấp bội đối với người đón nhận. Cha Ralph vượt lên trên những điều tầm thường. Bất cứ ai cần sự giúp đỡ của cha đều không cảm thấy bị ghét bỏ hay chê trách. Nhiều linh mục đã khiến cho con chiên mang mặc cảm tội lỗi, xấu xa, đê tiện khi ra về. Còn cha Ralph thì không. Cha Ralph làm cho họ hiểu rằng, chính bản thân ông, cũng có những niềm đau và những cuộc đấu tranh. Niềm đau thì xa lạ còn cuộc đấu tranh có thể không thấy rõ hết nhưng không vì hiểu điều này, rằng phần lớn sức quyến rũ và sức hấp dẫn của ông không do con người xác thịt của ông tạo nên, mà do chính sự xa cách gần như thần thánh, do một phần nhỏ rất con người thấm sâu vào tâm hồn ông.
Với Meggie, ông nói chuyện như Frank đã nói chuyện với em gái, ngang hàng nhau. Nhưng ông lớn tuổi hơn, sáng suốt hơn và hiểu biết hơn Frank nhiều, do đó ông là người mà Meggie có thể tâm tình thoải mái hơn. Giọng nói của cha Ralph thanh thoát mang âm điệu nhẹ nhàng của người Ailen, có khả năng làm lắng xuống mọi sợ hãi và âu lo. Meggie còn trẻ, lúc nào cũng tò mò, khao khát được hiểu tất cả những gì cần thiết; đầu óc chưa bao giờ bị rối loạn bởi những triết lý vốn thường gây hoang mang. Cha Ralph là người bạn của cô, là thần tượng yêu thương của lòng cô, một mặt trời mới trong bầu trời riêng của cô.
- Meggie, bây giờ con phải trở về nhà và nói cho mẹ con biết là con bị ra máu. Mẹ con sẽ chỉ cách làm thế nào để giữ cho con được sạch.
- Mẹ con cũng bị như thế chứ?
- Tất cả phụ nữ khỏe mạnh đều bị như thế. Nhưng khi mang thai, sẽ ngưng lại cho đến ngày sinh em bé. Chính khi tắt kinh, người phụ nữ biết rằng mình đang mang trong người một mầm sống mới.
- Tại sao máu ngưng chảy ra khi người phụ nữ chờ đợi sinh con?
- Cha không biết, thật sự không biết. Xin lỗi con, Meggie.
- Tại sao máu lại chảy ở phía sau?
Cha Ralph hướng mắt giận dữ về phía tượng thánh đang bình thản ngắm nhìn ông, bất động trước những buồn phiền mà những người phụ nữ gặp phải. Mọi việc trở nên quá hóc búa đối với cha Ralph. Ông không ngờ Meggie lại đặt các câu hỏi xa vời mà bình thường cô hay bỏ lửng nửa chừng, điều ấy khiến cho cha kinh ngạc! Nhưng ông ý thức rằng từ nay ông sẽ là nguồn cung cấp hiểu biết cho Meggie, ông cố tránh bằng mọi giá không để cô phát hiện sự bối rối và khó chịu của mình. Rất có khả năng, cô sẽ thu mình lại và không thèm đặt câu hỏi với ông nữa.
- Máu không chảy ra từ phía sau của con, Meggie - ông trả lời, với tất cả sự kiên nhẫn. Nó chảy ra từ một nơi ẩn giấu, phía trước thân thể con, cái nơi dính dáng mật thiết với chuyện có con.
- Ồ, có phải ý cha muốn nói máu chảy ra từ chỗ ấy? Meggie reo lên. Nhiều lần con đã tự hỏi các em bé ra đời như thế nào?
ông mỉm cười, nhấc bổng Meggie lên khỏi bệ đá.
- Bây giờ thì Meggie đã biết tất cả rồi. Con có biết ai tạo ra những đứa con không, Meggie?
- Ồ, biết chứ! - Meggie ưỡn ngực ra, vui sướng vì đã hiểu biết chút ít - Người ta làm cho các em bé mọc ra.
- Và con có biết chúng bắt đầu mọc ra như thế nào không?
- Khi người ta muốn có các em bé một cách mãnh liệt.
- Ai nói cho con nghe điều ấy?
- Không ai cả. Con tự hiểu như thế.
Cha Ralph nhắm mắt lại và thầm nghĩ không ai có thể kết tội ông hèn nhát vì đã bỏ lửng chuyện ấy ở đó. Dù cho ông có thương hại cô gái bé nhỏ, ông vẫn không thể giúp đỡ cô ta xa hơn. Thử thách mà ông trải qua như thế quá đủ rồi.
Không thể khác hơn, Meggie phải trở về nhà. Fiona cần sự giúp đỡ của cô bé. Stuart còn lại một mình ở tu viện Gilly, bắt đầu một cuộc tuyệt thực, cuối cùng cũng đã trở về nhà.
Khi gặp lại mẹ, cô bé tưởng như bị một sức nặng khủng khiếp đè nặng người mình; cô có biết đâu đó là dấu hiệu của sự rời bỏ tuổi thơ và là sự cảm nhận rất sớm thân phận người phụ nữ.
Bề ngoài, Fiona không thay đổi, ngoại trừ cái bụng, nhưng bên trong, tất cả đều chậm lại như một chiếc đồng hồ treo tường cũ kỹ với cái quả lắc mỗi lúc một mỏi mệt cho đến khi ngừng hẳn.
Chú bé con tóc màu hung chạy lăng xăng khắp nhà đụng vào bàn ghế, nhưng Fiona không ép nó vào một khuôn khổ kỷ luật nào. Bà vẫn tiếp tục công việc như lâu nay - đi lại giữa nhà bếp, nơi giặt quần áo và bồn rửa chén - như trên đời không còn gì khác hơn để làm.
Không ai nhắc tới tên của Frank nhưng cứ sáu tuần một lần, Fiona ngước nhìn lên khi nghe tiếng kèn đồng báo hiệu chiếc xe phát thư đến. Bà vui lên một lúc. Nhưng khi bà Smith đã trao thư từ cho Fiona và không thấy có thư nào của Frank thì nỗi xót xa lại xâm chiếm lấy bà và tắt lịm đi.
Có thêm hai người mới trong nhà. Fiona cho ra đời một lúc hai đứa con trai tóc hung. James và Patrick mà trong nhà gọi một cách thân yêu là Jimes và Patsy.
Bé Hal thì chỉ biết có Meggie, nó không muốn ai khác.
Chương 10
Cha Ralph quan sát Meggie một cách trìu mến. Cô bé đang chải mái tóc màu hung và uốn lọn cho Patsy đứng không vững trên hai chân bé nhỏ, trong khi Jimes đứng kế bên chờ đến phiên mình. Cả hai nhìn chị bằng cái nhìn đầy thương yêu. Đúng là một bà mẹ tí hon. Tấm lòng ấy phải là một đức tính bẩm sinh ở Meggie - cha Ralph nghĩ thầm.
Trong một lúc cha Ralph bị thu hút bởi cảnh thân mật dễ thương này. Ông thả lỏng chiếc roi da xuốn đôi giày bốt đầy bụi, rồi đưa mắt u buồn nhìn qua hiên, hướng về tòa nhà lớn khuất sau những cây bạch đàn và các thứ cây leo khác, biệt lập với căn nhà của người quản lý và cuộc sống còn lại của điền trang.
Giữa cái mạng lưới nhện rộng bao la ấy, con nhện già đang toan tính giăng ra một kế nào nữa?
- Cha ơi, cha không nhìn đây! Meggie kêu lên trách móc.
- Cha xin lỗi con! Cha đang suy nghĩ.
Ông quay lại nhìn Meggie đúng lúc cô bé vừa chải xong cho Jimes. Cả ba đang theo dõi ông, chờ cái lúc ông nghiêng mình xuống để bế hai chú bé con sinh đôi, mỗi đứa một bên hông.
- Chúng ta hãy cùng nhau thăm bà Mary. Ông nói.
Meggie đi theo sau cha Ralph trên con đường dẫn đến ngôi nhà lớn, một tay cầm cây roi da của linh mục và một tay dắt cương con ngựa cái lông hai màu. Còn linh mục bế hai đứa bé không có vẻ gì mệt nhọc mặc dù từ đó đến tòa nhà lớn xa hơn một cây số rưỡi. Vào phía sau nhà bếp, cha Ralph lần lượt trao hai đứa bé cho bà Smith đón nhận chúng một cách sung sướng. Cha đi thẳng ra nhà trước, Meggie theo bên cạnh.
Mary Carson đang ngồi trên chiếc ghế bành đặc biệt cho mình. Lúc này, bà ít khi rời khỏi ghế, hơn nữa, sự có mặt của bà cũng không còn cần thiết vì Pađy lo liệu tất cả một cách giỏi giang. Khi cha Ralph bước vào, cầm tay Meggie, thì cái nhìn đầy ác cảm của bà già buộc ngay cô bé phải nhìn xuống đất; cha Ralph nghe được tiếng tim đập nhanh của Meggie, càng nắm chặt cổ tay của cô bé truyền sang nó niềm an ủi và sự âu yếm. Cô bé nghiêng người xuống chào một cách vụng về, miệng ấp úng mấy câu thưa gửi.
- Cô bé đi ngay ra phía sau nhà bếp chơi. Cháu uống trà với bà Smith - Mary Carson ra lệnh một cách lạnh lùng.
- Tại sao bà không thương nó? Cha Ralph vừa hỏi vừa buông mình xuống chiếc ghế mà ông hiểu rằng Mary Carson dành cho ông.
- Bởi vì cha thương nó - bà trả lời.
- Thôi đi! Cha Ralph phản đối, lần thứ nhất thấy mình ở vào thế yếu - Con bé chỉ là đứa trẻ cô độc, bà Mary ạ.
- Nhưng cha đã không nhìn nó dước góc cạnh đó, chính cha cũng biết điều ấy
Cặp mắt xanh đẹp nhìn bà một cách mỉa mai; ông cảm thấy thoải mái hơn.
- Bà nghĩ rằng tôi có những quan hệ tội lỗi với trẻ con? Dù sao tôi cũng là linh mục.
- Trước hết cha là một người đàn ông, Ralph de Bricassart! Làm linh mục - điều đó chỉ mang đến cho cha một cảm giác an toàn, có thế thôi.
Bất ngờ và bối rối, cha Ralph cười. Không hiểu vì sao, ông cảm thấy thấy mình bất lực, không có khả năng so gươm với bà ngay hôm đó; hình như bà đã khám phá ra chỗ nhược của chiếc áo giáp và bà đã khoan vào đấy bằng nọc độc của con nhện. Có lẽ ông đã thay đổi nhiều, đã già đi, chấp nhận thích nghi với cuộc sống lu mờ ở Gillabone. Ngọn lửa tắt dần trong lòng ông hay là nó dã cháy lên với một niềm say mê khác?
- Tôi không phải là một người đàn ông - ông vặn lại - Tôi là linh mục...
- Ồ, Ralph, cha đã thay đổi nhiều quá - bà chế giễu - Phải chăng tôi đang nghe chính đức Hồng Y De Bricassart nói?
- Không hề có chuyện đó, ông nói, cái nhìn có một thoáng tuyệt vọng che khuất. Tôi không nghĩ rằng tôi còn muốn tiến lên trên những tầng cao ấy.
Bà Mary cười lớn, người nghiêng ra trước rồi ngả ra sau trên chiếc ghế bành, nhưng không một giây lơi quan sát cha Ralph.
- Có thật thế không Ralph? Cha không còn muốn nữa? Thế thì, tôi sẽ để cho cha mốc meo ở đây thêm một thời gian, nhưng rồi cái ngày đền tội của cha sẽ đến, không thể nghi ngờ. Tôi là hiện thân Quỷ Xa tăng đối với cha và tôi sẽ hiến dâng cho cha... Thôi, tôi đã nói đủ rồi! Nhưng đừng có nghi ngờ, tôi sẽ bắt cha chịu sự nhục hình. Cha là người đàn ông hấp dẫn nhất mà tôi gặp. Cha ném cái đẹp của cha lên đầu chúng tôi, đồng thời lại khinh miệt những sự yếu đuối của chúng tôi. Nhưng tôi nhất định sẽ ghim cha lên tường và bằng cách khai thác chính những chỗ yếu của cha, tôi sẽ buộc cha tự bán mình như một con điếm son phấn lòe loẹt. Cha có tin như thế không?
Ông bật ngửa ra sau, cười.
- Tôi không nghi ngờ là bà sẽ thử làm việc ấy nhưng tôi không tin bà hiểu tôi như bà tưởng.
- Không hẳn. Thời gian sẽ trả lời cha, Ralph, chỉ có thời gian thôi. Tôi đã già, với tôi không còn gì khác hơn là sự chờ đợi.
- Thế thì bà nghĩ tôi có cái gì khác hơn à? - ông hỏi lại. Cũng là thời gian mà thôi, bà Mary, chỉ có thời gian. Thời gian, cát bụi và muỗi mòng.
Một hôm, bé Hal ho; hơi thở khó, mệt nhọc từng lúc và sức khỏe xuống rất nhanh. Pađy lên nhà lớn gọi điện thoại nhưng bác sĩ lại ở cách đây hơn 60 cây số và ông ta đang đi thăm một bệnh nhân khác.
Meggie không tin Hal sẽ chết, ngay cả khi Fiona và Pađy quỳ bên giường, tuyệt vọng, đọc kinh cầu nguyện cho Hal. Nửa đêm, Pađy gỡ hai tay của Meggie đang ôm Hal rồi bế thân xác nhỏ bé cứng đơ của Hal đặt nhẹ nhàng lên giường.
Bấy giờ, Meggie choàng mở mắt. Cô bé đã thiếp đi lúc Hal không còn giãy giụa nữa.
- Ba ơi, Hal có đỡ không ba?
Pađy lắc đầu.
- Không, Meggie ạ. Hal không đỡ chút nào như con mong, em đã yên nghỉ rồi. Hal đã trở về với Chúa, thế là không còn đau khổ nữa.
- Không, ba ơi, em không chết. Không thể thế được.
... Meggie ngồi trên ghế hai tay đặt lên đầu gối. Hal thuộc về cô bé nhưng Hal đã chết. Chú Hal mà Meggie đã thương yêu, săn sóc, dỗ ngủ nay đã không còn.
Cha Ralph đã bắt gặp Meggie như thế khi bước vào nhà cùng với một bác sĩ đi theo. Sau đó không lâu thì bác sĩ đi ra. Ông không thể làm gì khác hơn vì ở cách quá xa bệnh viện, phương tiện y tế lại thiếu.
Sau đó, nhiệm vụ của cha Ralph cũng xong. Pađy tìm Fiona, còn Bob và các anh trai của Meggie thì xuống xưởng mộc để đóng cái hòm.
Quên rằng mình đang choàng chiếc khăn lễ màu tía trên cổ, cha Ralph cúi xuống thổi bếp bùng lên. Ông vặn thấp ngọn đèn đặt trên bàn phía sau rồi ngồi trên chiếc ghế dài đặt trước mặt Meggie để có thể quan sát cô bé rõ hơn. Meggie đã lớn; cô bé đã mang hia bảy dặm, có khả năng bỏ lại cha Ralph đằng sau. Ông cảm thấy mình ngày càng rối loạn lên dữ dội khi nhìn lại cả chiều dài của một cuộc đời đầy rẫy những hoài nghi và ám ảnh. Nhưng ông sợ cái gì? Cái gì đã làm cho ông nghĩ rằng nếu nó xuất hiện thì ông không thể đối đầu? Ông có thể vững vàng với những người khác; ông không sợ; nhưng nơi ông, sự chờ đợi cái điều không thể giải thích ấy đang len vào trong ý thức của ông, giữa lúc mà ông ít chờ đợi nhất thì ông biết sợ. Trong khi ấy Meggie, sinh ra sau ông 18 năm, đang lớn lên, bước trước ông rất xa.
Meggie không phải là một nữ thánh, càng không phải là một cô bé gái như mọi cô bé gái khác. Meggie không bao giờ than vãn, lại có cái đức tính bẩm sinh - hay đó là một bất hạnh - là sự chịu đựng. Trước bất cứ chuyện gì hoặc xắp xảy ra cô bé đều đối đầu và chấp nhận hết để đốt cháy thêm ngọn lửa trong lòng. Hay là ý tưởng mà ông đã có về Meggie chỉ là tấm gương phản chiếu những ảo tưởng của chính ông.
- Ồ, Meggie - ông thì thầm với một tiếng thở dài bất lực.
Meggie quay lại nhìn cha Ralph đột ngột và từ niềm đau khổ tột cùng cô bé mỉm cười như gửi đến cha Ralph một nụ hôn yêu thương tuyệt đối, tràn trề, không ẩn giấu bất cứ điều gì; những điều cấm kỵ và ức chế của một người phụ nữ chưa có thế giới riêng tư, còn ngây thơ của Meggie.
Được yêu như thế làm cho cha Ralph bàng hoàng, như bị thiêu đốt; ông đã phải xin Thượng đế - dù cho trước đây lắm lúc ông đã nghi ngờ sự hiện hữu - hãy biến ông thành bất cứ một con người èao khác trong cuộc đời này, miễn là không phải Ralph de Bricassart. Có phải chăng chính đó la điều không thể giải thích trong ông? Thượng đế ơi, tại sao tôi lại yêu thương cô bé đến thế? Nhưng cũng như mọi khi, không có ai trả lời cho ông. Ngồi im trước mặt, Meggie vẫn tiếp tục mỉm cười với ông...
Cuộc sống tiếp diễn theo cái vòng tuần hoàn vĩnh cửu, đều đặn của trái đất, mùa hè kế tiếp mang những cơn mưa đến làm đầy con suối và các bồn chứa, tưới mát những rễ cây khát nước, giữ chặt trên mặt đất những cơn bụi điên cuồng. Bọn đàn ông mừng rỡ muốn khóc khi làm những công việc mùa vụ, yên tâm không phải mất công chở cỏ khô để nuôi cừu.
Drogheda biệt lập với thế giới còn lại, chỉ có đọc sách là cách tiếp xúc duy nhất với bên ngoài. Nhưng không như Wahine có thư viện lưu động, ở đây chỉ trông cậy vào Ralph. ông cung cấp cho các gia đình ham đọc ở Drogheda những quyển sách lấy từ tủ sách của chính ông và của tu viện.
Vào thời đó, cuốn sách ướt át nhất cũng chỉ dám tả một nụ hôn trong sáng, chứ không đi xa hơn.
Trong sự biệt lập ấy, Meggie hoàn toàn không hiểu được cả cái ý nghĩa của khái niệm những thực tế của cuộc sống vì rằng điều kiện thực tế đã ngăn chặn mọi ngả đường khám phá. Cha của cô dựng lên một rào chắn kiên cố giữa đàn ông phụ nữ trong gia đình; các đề tài như gây giống hay giao phối của súc vật không bao giờ được đề cập trước mặt Meggie và đàn ông không bao giờ xuất hiện trước mặt cô bé mà không ăn mặc đàng hoàng. Loại sách có khả năng soi sáng một chút gì đó cũng không tới Drogheda. Meggie không có bạn gái cùng lứa tuổi để tăng thêm sự hiểu biết. Cuộc sống của cô bé chỉ quanh quẩn vào những công việc trong nhà và những vùng lân cận, hoàn toàn không có một hoạt động nào dính dấp đến giới tính. Các sinh vật ở vùng đất này đều không sinh đẻ. Mary Carson không gây giống ngựa; bà mua ngựa của Martin Jang ở Bugela. Ở trang trại có một con bò rừng, con vật hung dữ không cho mọi người léo hánh tới. Mấy con chó thì bị cột trong chuồng; lấy giống được coi như một công việc khoa học và diễn ra dưới mắt lành nghề của Pađy và Bob. Thời giờ không phải để chăm sóc mấy con heo, vả lại Meggie cũng rất ghê tởm chúng dù phải nuôi. Nói cho đúng là Meggie không có thời giờ cần thiết để nghĩ đến bất cứ chuyện gì ngoài hai đứa em trai. Sự dốt nát này kéo theo sự dốt nát khác; một cơ thể và một bộ óc không được kéo ra khỏi cơn ngủ thì cứ tiếp tục ngủ, mặc các sự kiện mà con người vừa mở mắt đã ghi nhận được tất cả.
Vài hôm trước sinh nhật lần thứ 15 của Meggie, giữa cái nóng oi bức của mùa hè lên đến gần cực điểm, Meggie bỗng chú ý thấy những vết nâu nâu từng vệt dính trong quần lót . Sau đó một hai hôm không thấy gì nữa nhưng sáu tuần sau, các vết ấy lại xuất hiện trở lại. Sự mắc cỡ ở Meggie biến thành sợ hãi. Lần đầu, cô nghĩ là do mình giặt quần áo không sạch, thật là nhục; nhưng qua lần xuất hiện thứ nhì, sự hoài nghi không cho phép nữa, chắc chắn không thể chối cãi đây là máu . Meggie không có một chút khái niệm gì về nguyên nhân sự chảy máu ấy nhưng cô tưởng tượng là nó chảy ra ở phía sau. Sự chảy máu rỉ rả ấy biến đi sau ba ngày và không trở lại trước hai tháng sau; Meggie lén lút giặt quần lót, không ai hay biết vì ngày thường cũng chính Meggie đảm trách phần giặt giũ quần áo cho mọi người trong nhà.
Hiện tượng chảy máu lần kế tiếp kèm theo sự đau đớn, sự đau đớn nhiều nhất từ trước tới này, hơn cả những cơn đau dạ dày. Và lần này, máu chảy cũng nhiều, thật nhiều. Cô ăn cắp vài miếng tã lót cũ của hai em trai sinh đôi và đặt ở trong quần lót, với nỗi lo sợ kinh khủng máu có thể chảy ra tới bên ngoài.
Cái chết đã mang Hal đi được Meggie hiểu như sự xuất hiện của một hiện tượng siêu tự nhiên, nhưng còn cái gì đó đang chảy âm ỉ từ trong người của Meggie thì lại gây cho cô một nỗi kinh hoàng. Bằng mọi cách Meggie phải đi tìm mẹ hoặc cha để thông báo rằng mình sắp sửa chết do một bệnh tật nhục nhã, khó nói cho ai biết. Chỉ duy nhất với Frank, cô mới có thể thổ lộ nỗi lo âu của mình, nhưng giờ đây anh ấy đang ở quá xa và không biết cách nào mà tìm. Meggie có nghe những người phụ nữ lớn tuổi giữa lúc uống trà đã nói với nhau về những khối u và ung thư, về những cái chết khủng khiếp của những người bạn và những người bà con sau những tháng dài đau đớn. Và Meggie tin rằng một hiện tượng tương tự cũng đang ngốn bên trong cơ thể âm ỉ, tiến sâu vào trái tim hoảng hốt của Meggie. Ôi, cô bé không muốn chết chút nào!
Những hiểu biết tương đối về cái chết lại rất mơ hồ đối với Meggie nhưng cô rất sợ hãi và không bao giờ muốn chết. Meggie không thể tưởng tượng được mình sẽ ra sao trong cái thế giới bên kia. Với Meggie, tôn giáo chẳng khác gì một loạt luật lệ hơn là cuộc sống tinh thần, do đó tôn giáo không giúp gì được cho cô cả.
Sự lặng lẽ xâm chiếm Meggie, sự yên tĩnh ấy không thể so sánh với nỗi cô độc êm đềm và mơ mộng của Stuart. Ở Meggie sự lặng lẽ đó có cả chút sợ hãi sửng sốt của một con thú bị rắn thôi miên. Khi có ai hỏi đột ngột, Meggie giật nẩy người, nếu các đứa em trai gọi Meggie bằng cách hét to lên, Meggie sẽ chạy hốt hoảng và tự trách mình sao sơ sót. Và cứ mỗi khi lợi dụng được giây phút hiếm hoi ngơi nghỉ, Meggie liền chạy nhanh ra nghĩa trang để tìm lại Hal, cái chết duy nhất mà cô được biết.
Mọi người đều nhận ra sự thay đổi ở Meggie nhưng đều coi đó là một hiện tượng phát triển bình thường của lứa tuổi. Cô bé giấu kín một cách tài tình nỗi cô đơn tuyệt vọng. Không ai có thể hiểu những gì xảy ra bên trong Meggie. Không có một biểu lộ nào, và sự kín đáo đó được giữ cho tới cùng. Từ Fiona đến Stuart, qua Frank, không biết bao nhiêu điều đã xảy ra.
Thế mà, trong những chuyến thăm Drogheda thường xuyên, cha Ralph đã nhận ra sự thay đổi ở Meggie; sự thay đổi ấy trùng hợp với diễn biến rất dễ thương ở người phụ nữ; nó làm giảm đi các hoạt động vì lo lắng rồi âu sầu. Một sự sa sút về thể xác lẫn tinh thần đập vào mắt cha Ralph. Meggie lẩn tránh mọi người. Cha Ralph không muốn thấy Meggie biến thành một Fiona thứ hai. Gương mặt nhỏ bé thu lại chỉ còn thấy rõ đôi mắt, đôi mắt mở to như hướng về một viễn ảnh khủng khiếp nào. Da màu sữa, trước đây đầy đặn, không hề bị rám nắng, cũng không có vết tàn nhang, đang càng lúc càng tăng lên. Nếu cái đà này cứ tiếp tục, cha Ralph nghĩ thầm, một ngày nào đó Meggie sẽ tự đâm mình, vất vưởng trong tia sáng hiu hắt màu nâu, lờ đờ, rất khó nhận ra bằng mắt, giữa những chiếc bóng đan lên nhau và những vệt đen đang lan dần lên bức tường trắng.
Thế là cha Ralph quyết khám phá điều ấy ở Meggie, dù phải dùng biện pháp mạnh. Vào lúc đó, Mary Carson tỏ ra khó chịu và ghen tuông từng lúc mỗi khi cha Ralph ở lại tại nhà Pađy.
Một hôm, ông thoát ra được sự kềm kẹp của Mary Carson và săn tìm cho được Meggie, cuối cùng gặp cô trong nghĩa trang nhỏ, núp nắng dưới một bức tượng thánh - Meggie đang nhìn nét mặt nhợt nhạt của bức tượng, trong khi đó chính gương mặt của cô biểu lộ nét sợ hãi, một sự tương phản giữa xúc cảm và vô cảm trơ trơ - cha Ralph nghĩ thầm như thế. Nhưng mình ở đây làm gì, chạy theo đuôi cô ta như một con gà mẹ già nua, trong khi Fiona hoặc Pađy có trách nhiệm tìm hiểu những nguyên nhân âu lo của con gái.
Nhưng cha mẹ của Meggie đã không nhận thấy gì bởi họ ít quan tâm đến con gái, trong khi cha Ralph lại dành cho Meggie thật nhiều thứ. Hơn thế, với cương vị một linh mục, cha Ralph còn có trách nhiệm an ủi những tâm hồn đau khổ cô đơn và tuyệt vọng. Ông không thể chịu đựng nổi khi thấy Meggie đau khổ, nhưng tai hại là ông đã ngày càng gắn bó với Meggie qua một loạt sự kiện rắc rối chồng lên nhau. Với Meggie, ông đã hằn sâu biết bao sự việc và kỷ niệm, do đó ông cảm thấy sợ. Tình thương của ông dành cho Meggie và bản chất linh mục của ông, thúc đẩy ông phải sẵn sàng mang lại mọi sự giúp đỡ về mặt tinh thần mà đúng ra mọi người đều có quyền chờ đợi ở ông. Ông phải tự chiến đấu để thấy rõ hơn là mình có trách nhiệm với Meggie cũng như với bất cứ ai khác.
Nghe tiếng chân đi trên cỏ, Meggie quay lại, hai tay đặt chéo trên đùi, mắt nhìn xuống. Cha Ralph đến ngồi bên cạnh cô, tay bó gối. Chiếc áo choàng không được kín đáo làm tăng vẻ đẹp cái thân thể bên trong của cha. Thối thoát vô ích, ông nghĩ thầm. Nếu muốn, Meggie có thể tránh né ông.
- Có chuyện gì xảy ra hở Meggie?
- Không có chi thưa cha.
- Cha không tin lời con.
- Con xin van cha, con xin van cha ma! Con không thể nói với cha chuyện này được.
- Ồ, Meggie thương yêu! Cô gái thiếu đức tin! Con có thể nói với cha tất cả. Chính vì thế mà cha có mặt tại đây. Chính vì thế mà cha là linh mục. Cha là người đại diện đã được Chúa lựa chọn trên trần gian. Cha nhân danh Chúa mà nghe con nói, nhân danh Người ta có quyền tha thứ cho con. Nghe đây Meggie bé nhỏ của ta, không có điều gì ở trên trần thế này mà Chúa và ta không thể tha thứ. Con phải nói cho ta biết điều gì làm con băn khoăn, con thương yêu. Ngày nào ta còn trên đời này, ta sẽ luôn tìm cách giúp đỡ con, che chở con. Nếu con muốn thì cha sẽ như một thiên thần hộ mệnh, chắc chắn đáng tin cậy hơn so với bức tượng đá cẩm thạch mà con nhìn thấy. Nếu con thương yêu ta, hãy nói cho ta biết làm gì làm con lo lắng.
- Thưa cha, con sắp chết, cô gái vừa nói vừa vặn hai tay - con bị ung thư.
Suýt nữa ông cười to lên vì gánh nặng trong lòng bỗng chốc trút bỏ hết; nhưng liền đó nhìn kỹ làn da mịn, hơi xanh, hai cánh tay nhỏ gầy của Meggie, trong lòng ông nổi lên một thèm muốn ghê gớm được khóc và hét to lên, oán giận cả trời đất trước một bất công như thế. Không, Meggie không tự mình tưởng tượng ra chuyện khủng khiếp ấy mà không dựa vào một nguyên nhân nào đó, có thể có một lý do.
- Điều gì khiến cho con tin như thế, quả tim bé nhỏ của cha?
Phải một lúc khá lâu, cô mới kể lại và khi ấy, cha Ralph phải nghiêng đầu về phía gần môi Meggiẹ ông lặp lại một cách máy móc tư thế của một linh mục trước một con chiên đang xưng tội: lấy tay che mặt để mắt cô gái không trông thấy mình, còn tai sẵn sàng nghe những lời xưng tội.
- Cách đây sáu tháng thưa cha, chuyện ấy bắt đầu xảy ra. Con bị đau bụng dữ dội, nhưng không phải đau bụng như khi ăn không tiêu đâu... Rồi... Cha ơi... rất nhiều máu chảy ra.
Cha Ralph ngửa đầu ra sau, cử chỉ mà không bao giờ có trong những lúc nghe xưng tội; ông nhìn đầu Meggie cúi xuống vì xấu hổ. Biết bao xúc động dấy lên khiến cho ông không thể lấy lại sự bình tĩnh. Vô lý thật. Sự nhẹ nhõm hết sức dễ chịu rồi sau đó ông lại giận Fiona, mẹ của Meggie, ông thán phục với sự kinh ngạc khi nghĩ đến cô gái bé bỏng ấy sao lại có thể chịu đựng một cực hình dai dẳng, một sự khó chịu như thế mà không hình dung được là cái gì.
Ông đã từng nghe những chuyện tương tự như chuyện Meggie kể trong suộc cuộc đời linh mục. Mỗi thành phố cha từng ở lại từ Dublin đến Gillabone, đều có những cô gái hư hỏng len vào phòng xưng tội kể lể những chuyện bịa đặt cứ như là thật với mục đích duy nhất là khơi dậy cái điều mà họ tò mò nhất ở một linh mục: đó là tính sung mãn của người đàn ông. Tất cả đám con gái đó không chịu nhìn nhận rằng họ hoàn toàn thất bại trong toan tính này. Họ thì thầm kể lại nào là họ đã bị hãm hiếp như thế nào, gợi lên những trò cấm kỵ giữa họ với những đứa con gái khác, những chuyện dâm đãng và ngoại tình; một vài cô trong bọn, óc tưởng tượng phong phú hơn, đến mức kể tỉ mỉ những chi tiết làm tình với một linh mục. Thế mà cha Ralph vẫn nghe, hoàn toàn không xao xuyến mà chỉ thấy kinh tởm và xót xa cho họ. Cha đã trải qua cuộc sống khắc khổ ở tu viện.
Hơn thế nữa với một con người thuộc tầm cỡ ông, bài học ấy ông tiêu hóa không khó khăn lắm. Nhưng trong tất cả các trường hợp đã qua, chưa bao giờ các cô gái lại nói về những chỗ yếu của thân xác, làm hạ phẩm giá của họ.
Dù hết sức cố gắng nhưng cha Ralph không thể ngăn chặn máu trong người nóng lên. Mặt ửng đỏ; cha Ralph quay đầu đi và úp mặt trong tay, chống chỏi lại sự hổ thẹn lần đầu làm đỏ mặt ông.
Nhưng tất cả những chuyện ấy không giúp gì cho cô gái bé Meggie. Khi biết chắc rằng sắc mặt của mình đã trở lại bình thường, cha Ralph đứng dậy, nâng Meggie lên và đặt cô gái ngồi trên bệ đá cẩm thạch để cho mặt của Meggie cao ngang với ông.
- Meggie hãy nhìn cha. Đừng làm thế, hãy nhìn thẳng cha.
Meggie ngước lên với đôi mắt của con thú bị săn đuổi và thấy linh mục mỉm cười; tâm hồn cô cảm thấy nhẹ nhàng một niềm an ủi vô hạn. Cha sẽ không mỉm cười như thế nếu cô sắp chết. Meggie biết rất rõ cha Ralph chẳng bao giờ giấu diếm tình cảm của ông.
- Meggie, con không biết đâu và con cũng không bị ung thư. Đúng ra ở cương vị này cha không thể giải thích chuyện gì đã xảy ra nhưng cha nghĩ rằng cha phải làm thôi. Đáng lý mẹ con hải nói cho con biết từ lâu, chuẩn bị cho con sẵn sàng đón nhận hiện tượng ấy. Cha không thể nào hiểu được tại sao mẹ con không làm như vậy.
Cha Ralph liếc nhìn bức tượng thánh bằng cẩm thạch đứng sững trên cao, rồi cười như tắt nghẹn.
- Lạy Chúa! Chúa giao cho con một nhiệm vụ không dễ dàng. Này Meggie thân yêu, với năm tháng, khi con lớn lên, rồi già đi và khi con biết được nhiều hơn về những thực tế của cuộc sống, con sẽ nhớ lại cái ngày này mà không khỏi khó chịu, hổ thẹn nữa là khác. Nhưng đừng giữ kỷ niệm này làm gì, Meggie ạ. Tất cả chuyện này chẳng có gì lạ xấu hổ và chẳng có gì ngượng ngập cả. Lúc này, cũng như mọi khi, cha chỉ là công cụ ở trần thế, cha không có quyền nghĩ đến nhiệm vụ nào khác. Con đã quá sợ hãi, con cần sự giúp đỡ, và Đức Chúa Trời đã ban cho con sự giúp đó qua đại diện của Người là ta. Con nên nhớ điều ấy, Meggie ạ. Cha là tôi tớ của Chúa và những gì cha nói đều nhân danh Chúa. Chuyện xảy ra với con là chuyện đã xảy ra với tất cả mọi phụ nữ, Meggie, mỗi tháng một lần và kéo dài trong nhiều ngày, con sẽ thấy ra máu. Thường chuyện đó xuất hiện ở tuổi 12, 13... Con đã mấy tuổi?
- Thưa con mười lăm!
- Mười lăm à? Con đã mười lăm? - Cha Ralph lắc đầu không tin - Nhưng thôi, con đã nói với cha thì cha không nghi ngờ gì. Với cái tuổi mười lăm chuyện ấy xảy ra như thế là trễ. Hiện tượng này sẽ diễn ra mỗi tháng cho đến khi con trên 50 tuổi. Với một số người nó xuất hiện đều đặn theo chu kỳ tuần trăng, với một số khác có thể không đều đặn. Với người này không bị đau đớn, với người khác thì ngược lại. Người ta không biết được tại sao sự khác nhau ấy. Nhưng đó là dấu hiệu trưởng thành của con. Con có hiểu trưởng thành là gì không?
- Con biết chứ, thưa cha. Con đọc sách! Trưởng thành có nghĩa là con đã lớn.
- Tốt. Giải thích như thế cũng khá đủ. Khi nào con ra máu là người phụ nữ còn có thể có con. Đó là sự kế tục nòi giống. Vào thời kỳ trước khi xảy ra tội tổ tông, hình như Eva không có kinh nguyệt. Kinh nguyệt là tên gọi hiện tượng đã xảy đến với con, Meggie. Nhưng khi Adam và Eva phạm tội, Chúa Trời đã trừng phạt người phụ nữ nặng hơn vì rằng trong sự sa ngã ấy, người phụ nữ có tội nhiều hơn, chính họ đã cám dỗ người đàn ông. Con có nhớ những lời giảng trong kinh thánh không? Người sẽ sinh đẻ trong đau đớn, có nghĩa là Chúa muốn rằng đối với người phụ nữ, tất cả những gì liên quan đến việc sinh đẻ đều là nguồn gốc của mọi tội lỗi. Đó là những niềm vui sướng thật lớn lao nhưng đồng thời cũng là những đau đớn tận cùng. Đó là phần số của con người, Meggie ạ, con phải cam chịu như vậy.
Meggie không biết rằng cha Ralph cũng sẵn sàng mang lại sự an ủi và giúp đỡ y như thế với bất cứ một nữ giáo dân nào, mặc dù có khi cha không thiết tha đến số phận của họ như đối với số phận của Meggie. Cha là hiện thân của lòng tốt, nhưng không bao giờ cha lại để bị lôi cuốn vào những nỗi lo âu. Sự an ủi và giúp đỡ riêng càng có ích gấp bội đối với người đón nhận. Cha Ralph vượt lên trên những điều tầm thường. Bất cứ ai cần sự giúp đỡ của cha đều không cảm thấy bị ghét bỏ hay chê trách. Nhiều linh mục đã khiến cho con chiên mang mặc cảm tội lỗi, xấu xa, đê tiện khi ra về. Còn cha Ralph thì không. Cha Ralph làm cho họ hiểu rằng, chính bản thân ông, cũng có những niềm đau và những cuộc đấu tranh. Niềm đau thì xa lạ còn cuộc đấu tranh có thể không thấy rõ hết nhưng không vì hiểu điều này, rằng phần lớn sức quyến rũ và sức hấp dẫn của ông không do con người xác thịt của ông tạo nên, mà do chính sự xa cách gần như thần thánh, do một phần nhỏ rất con người thấm sâu vào tâm hồn ông.
Với Meggie, ông nói chuyện như Frank đã nói chuyện với em gái, ngang hàng nhau. Nhưng ông lớn tuổi hơn, sáng suốt hơn và hiểu biết hơn Frank nhiều, do đó ông là người mà Meggie có thể tâm tình thoải mái hơn. Giọng nói của cha Ralph thanh thoát mang âm điệu nhẹ nhàng của người Ailen, có khả năng làm lắng xuống mọi sợ hãi và âu lo. Meggie còn trẻ, lúc nào cũng tò mò, khao khát được hiểu tất cả những gì cần thiết; đầu óc chưa bao giờ bị rối loạn bởi những triết lý vốn thường gây hoang mang. Cha Ralph là người bạn của cô, là thần tượng yêu thương của lòng cô, một mặt trời mới trong bầu trời riêng của cô.
- Meggie, bây giờ con phải trở về nhà và nói cho mẹ con biết là con bị ra máu. Mẹ con sẽ chỉ cách làm thế nào để giữ cho con được sạch.
- Mẹ con cũng bị như thế chứ?
- Tất cả phụ nữ khỏe mạnh đều bị như thế. Nhưng khi mang thai, sẽ ngưng lại cho đến ngày sinh em bé. Chính khi tắt kinh, người phụ nữ biết rằng mình đang mang trong người một mầm sống mới.
- Tại sao máu ngưng chảy ra khi người phụ nữ chờ đợi sinh con?
- Cha không biết, thật sự không biết. Xin lỗi con, Meggie.
- Tại sao máu lại chảy ở phía sau?
Cha Ralph hướng mắt giận dữ về phía tượng thánh đang bình thản ngắm nhìn ông, bất động trước những buồn phiền mà những người phụ nữ gặp phải. Mọi việc trở nên quá hóc búa đối với cha Ralph. Ông không ngờ Meggie lại đặt các câu hỏi xa vời mà bình thường cô hay bỏ lửng nửa chừng, điều ấy khiến cho cha kinh ngạc! Nhưng ông ý thức rằng từ nay ông sẽ là nguồn cung cấp hiểu biết cho Meggie, ông cố tránh bằng mọi giá không để cô phát hiện sự bối rối và khó chịu của mình. Rất có khả năng, cô sẽ thu mình lại và không thèm đặt câu hỏi với ông nữa.
- Máu không chảy ra từ phía sau của con, Meggie - ông trả lời, với tất cả sự kiên nhẫn. Nó chảy ra từ một nơi ẩn giấu, phía trước thân thể con, cái nơi dính dáng mật thiết với chuyện có con.
- Ồ, có phải ý cha muốn nói máu chảy ra từ chỗ ấy? Meggie reo lên. Nhiều lần con đã tự hỏi các em bé ra đời như thế nào?
ông mỉm cười, nhấc bổng Meggie lên khỏi bệ đá.
- Bây giờ thì Meggie đã biết tất cả rồi. Con có biết ai tạo ra những đứa con không, Meggie?
- Ồ, biết chứ! - Meggie ưỡn ngực ra, vui sướng vì đã hiểu biết chút ít - Người ta làm cho các em bé mọc ra.
- Và con có biết chúng bắt đầu mọc ra như thế nào không?
- Khi người ta muốn có các em bé một cách mãnh liệt.
- Ai nói cho con nghe điều ấy?
- Không ai cả. Con tự hiểu như thế.
Cha Ralph nhắm mắt lại và thầm nghĩ không ai có thể kết tội ông hèn nhát vì đã bỏ lửng chuyện ấy ở đó. Dù cho ông có thương hại cô gái bé nhỏ, ông vẫn không thể giúp đỡ cô ta xa hơn. Thử thách mà ông trải qua như thế quá đủ rồi.
Title: Re: Tiếng chim hót trong bụi mận gai - Colleen McCullough. Bestseller năm 1977
Post by: Serenade24 on 02/05/07, 08:08
Post by: Serenade24 on 02/05/07, 08:08
Chương 11
Mary Carson sắp 72 tuổi, bà chuẩn bị chu đáo cho buổi tiếp tân lớn, chưa từng có ở Drogheda trong 50 năm qua. Ngày kỷ niệm sinh nhật của bà đúng vào thượng tuần tháng 11, bấy giờ trời vẫn còn nóng dữ dội, nhất là đối với người dân ở Gilly.
- Bà Smith hãy nhớ nhé điều tôi đã nói với bà. Minnie thì thầm. Đừng quên nhé! Bà ta sinh ngày 3 tháng 11
- Nhưng mày muốn nói gì nữa, Minnie? Bà quản gia hỏi.
Thái độ bí hiểm theo kiểu người Scotland của Minnie gây bực bội cho bà già người Anh.
- Sao, bà không hiểu à? Điều đó chứng tỏ ngày sinh của bà ta là con bọ cạp. Một con bọ cạp... Bà có thấy đúng thế không?
Trên chiếc ghế bành, con nhện cái già ở trung tâm mạng lưới, phát ra một loạt mệnh lệnh; phải làm thế này, phải làm thế kia, đem cái này ra, dời cái kia đi chỗ khác. Hai cô gái hầu phòng đang đánh bóng những đồ bằng bạc và rửa bộ chén đĩa bằng sứ Haviland, biến nhà nguyện nhỏ trong nhà thành nơi chiêu đãi và xếp những bàn dài đầy bánh rượu ở mấy phòng bên cạnh.
Dàn nhạc Clarence O'' Toole sẽ từ Sydney đến cùng một lúc với các món hải sản quí. Cả một vùng rộng lớn, từ Rudna Hunish đến Inishmurray và Bugela đến Narrengang rộn ràng chuẩn bị tham dự buổi lễ này.
Giữa lúc nền đá cẩm thạch của đại sảnh vang lên những tiếng bàn ghế xê dịch, những tiếng gọi nhau ơi ới của những người khuân vác đang bày viện phòng tiếp tân thì Mary Carson rời khỏi chiếc ghế bành, đến ngồi sau bàn viết. Bà lấy ra một tờ giấy mịn, chấm bút vào bình mực rồi bắt đầu. Bà viết liên tục không do dự, ngay cả khi chấm phẩy. Năm năm gần đây, bà đã suy nghĩ một cách chi li nội dung từng câu phức tạp, sắp xếp thật chỉnh để từng chữ được sử dụng đúng, chính xác. Viết thì chẳng mất bao nhiêu. Bà Carson viết đầy hai tờ giấy, trong đó một tờ chỉ hai phần ba. Khi viết xong dòng cuối cùng, bà ngồi yên một lúc. Bàn viết đặt bên cạnh cửa sổ lớn, chỉ cần quay đầu là đã nhìn thấy thảm cỏ trước nhà. Tiếng cười từ ngoài vọng vào làm bà chú ý, lúc đầu bà chẳng nghĩ gì nhưng sau đó lại khơi dậy trong bà sự bực bội tức tối ngấm ngầm. Cầu Chúa hãy đầy hắn xuống địa ngục, hắn và con người ám ảnh hắn.
Cha Ralph bỗng nẩy ý kiến tập Meggie cỡi ngựa; dù là một cô gái ở đồng quê, chưa bao giờ Meggie có dịp ngồi trên yên ngựa. Thực tế lạ lùng là các cô gái xuất thân từ những gia đình nghèo rất ít khi được cỡi ngựa. Đây là một trò tiêu khiển dành cho các phụ nữ trẻ giàu có - Ở nông thôn hay thành thị cũng thế.
Một hôm cha Ralph mang từ Gilly đến một đôi ủng ngắn, bộ quần áo cỡi ngựa và ném các thứ ấy lên chiếc bàn ở nhà bếp gia dình Cleary. Pađy đang đọc sách sau buổi ăn trưa giật mình, nhìn lên ngạc nhiên.
- Ủa, chuyện gì đó, thưa cha? - ông ta hỏi.
- Bộ đồ đi ngựa cho Meggie.
- Sao? Pađy kinh ngạc.
- Đồ đi ngựa cho Meggie. Pađy à, ông không thể nào vứt bỏ cái lớp nhà quê của ông hay sao? Ông là người thừa kế của một điền trang rộng và giàu nhất xứ New South Wales, vậy mà chưa bao giờ ông cho phép cô con gái duy nhất của ông được cỡi ngựa! Thế thì làm sao con gái của ông giữ được vị trí bên cạnh ái nữ Carmichael, ái nữ Hopeton và phu nhân Antony King, tất cả đều là những kỵ sĩ tài ba. Meggie phải tập cỡi ngựa ngồi một bên theo cách dành cho phụ nữ và cả hai bên như đàn ông. Ông có nghe tôi không ông Pađy? Tôi biết ông rất bận, vậy tôi sẽ dạy cho Meggie nghệ thuật cỡi ngựa, dù ông có thích hay không thích. Nếu vì chuyện này Meggie có xao lãng việc nhà thì cũng chẳng sao. Một vài giờ trong tuần Fiona sẽ không có Meggie bên cạnh để làm việc nhà. Chúng ta không trở lại vấn đề này, dứt khoát là như thế.
Pađy không có khả năng đối đầu với một linh mục; thế là từ đó, Meggie bắt đầu tập cỡi ngựa. Nhiều năm trước đây cô bé ao ước phút giây này. Có một lần, Meggie đã bày tỏ ước muốn đó với cha nhưng Pađy lại quên, và cô bé cũng không nhắc lại coi như cha mình im lặng có nghĩa là từ chối. Được học cỡi ngựa dưới sự hướng dẫn của cha Ralph, Meggie sung sướng phát điên lên, không hề giấu giếm niềm vui của mình. Sự ngưỡng mộ của Meggie đối với cha Ralph giờ đây đã biến thành mối tình nóng bỏng của một cô gái lém lỉnh . Vẫn biết rằng mối tình ấy là không đi đến đâu nhưng cô bé vẫn tự cho phép mình mơ tưởng về con người ấy. Meggie tưởng tượng cái cảm giác mà có được khi ở trong vòng tay của cha Ralph và cả những nụ hôn nồng nàn của cha. Những suy nghĩ thơ thẩn của Meggie không đi xa hơn; cô bé không có chút ý tưởng gì về điều có thể xảy ra sau đó, thậm chí không hiểu những diễn biến tiếp theo sẽ như thế nào.
Nếu cô bé biết rằng mơ tưởng đến một linh mục là xấu thì chính cô cũng không đủ sức để né tránh. Bây giờ cô chỉ còn biết che giấu lòng mình, không để cho cha Ralph đoán được những ý nghĩ thầm kín.
Chương 12
Trong khi Mary Carson đang đứng sau cánh cửa sổ phòng khách theo dõi cả hai người thì cha Ralph và Meggie từ chuồng ngựa đang đi về tận bên kia đối diện với ngôi nhà lớn, cùng một hướng với nhà của người quản lý. Những người làm công ở trang trại chỉ được cỡi trên những con ngựa chưa hề nuôi trong chuồng mà thả ngoài sân hay lang thang đi ăn cỏ. Nhưng ở Drogheda vẫn có những đàn ngựa rất đẹp mặc dù chỉ có cha Ralph là được cỡi trên những con ngựa đó. Mary Carson đã giữ lại hai con ngựa thuần giống đặc biệt dành cho cha Ralph sử dụng, không thể để những con ngựa già ốm nhom cho cha. Khi cha Ralph hỏi bà Mary Carson có bằng lòng cho Meggie cỡi trên một trong hai con ngựa ấy không, bà Mary không có cách nào từ chối. Cô gái là cháu của bà, vả lại lý do của cha Ralph đưa ra là chí lý. Cô bé phải biết cỡi ngựa chứ, cháu gái của bà chủ kia mà.
Trong thâm tâm, bà Mary Carson rất muốn từ chối hoặc ít ra nên cùng đi với họ. Nhưng bà không thể cưỡng lại lời yêu cầu của linh mục, cũng như với cái tuổi này bà không thể ngồi trên lưng ngựa được nữa. Thế là bà đành chịu thua một cách bực tức khi nhìn thấy họ sánh vai đi qua bãi cỏ. Người đàn ông mặc quần ngắn, đôi ủng cao tới đầu gối, vóc người mảnh khảnh, nét mặt có chút liến thoắng của con trai. Cặp nam nữ này biểu lộ tình cảm thân mật và hết sức thanh thản. Đây là lần thứ một ngàn, bà Mary Carson tự hỏi tại sao ngoài bà ra, không ai đặt vấn đề mối quan hệ ấy. Pađy thì tỏ ra hết sức bằng lòng về mối quan hệ giữa con gái mình và cha Ralph, còn Fiona lúc nào cũng im lặng chẳng nói lời nào như khúc gỗ. Phải chăng vì yêu Ralph de Bricassart mà bà Mary Carson phát hiện ra cái điều không ai thấy được? Hoặc là óc tưởng tượng của bà đã hại bà? Có đúng đây là tình bạn giữa một người đàn ông gần 35 tuổi dành cho một cô gái chưa trưởng thành? Ngu ngốc! Không một người đàn ông nào kể cả Ralph lại không biết Meggie như bông hồng đang nở sao? Với Ralph thì có gì lọt qua được con mắt của ông ta đâu?
Bàn tay của Mary Carson run lên, những giọt mực xanh đen rơi xuống làm bẩn trang giấy trước mặt bà ta. Những ngón tay khẳng khiu đưa vào hộc tủ lấy ra một tờ giấy khác. Bà lại cầm viết chấm vào bình mực và viết lại từng chữ, với sự tự tin và viết suông sẻ không khác lần trước. Sau đó bà đứng lên và nặng nề đi về phía cửa.
- Minnie, Minnie! Bà gọi tọ
- Chúa ơi! Chính bà ta gọi. - Chị hầu phòng kêu lên bằng một giọng trong trẻo. Con có thể giúp gì cho bà, thưa bà Carson? Chị ta vừa hỏi vừa nghĩ thầm tại sao bà ta không gọi bà Smith như mọi khi.
- Mày đi gọi ngay thằng làm hàng rào và Tom đến đây ngay.
- Con có cần nói cho bà Smith biết không?
- Không, mày chỉ cần làm theo như tao bảo.
Khi cả hai đến, Mary Carson hỏi:
- Hai anh có biết viết không?
Cả hai vừa nuốt nước miếng để tự trấn an vừa gật đầu.
- Vậy thì tốt. Tôi muốn hai anh nhìn tôi ký tên trên tờ giấy này, rồi hai anh ký tên và viết địa chỉ của hai anh ở dưới chữ ký của tôi. Hiểu chứ?
Cả hai gật đầu.
Mary Carson chăm chú theo dõi họ và khi hai người đã viết xong, bà trao cho mỗi người một tờ bạc mười bảng với lời dặn phải biết giữ miệng.
Meggie và cha Ralph đã biến mất tự bao giờ. Mary Carson nặng nề ngồi xuống bàn viết, lại lấy ra một tờ giấy khác và lại bắt đầu viết. Lần này, có lẽ do nội dung được viết không đơn giản nên bà không còn khoan thai như trước. Rất nhiều lần, bà dừng lại để suy nghĩ, môi mím chặt, mỉm cười nhưng không vui, rồi bà lại tiếp tục. Hình như bà có nhiều điều phải nói: các hàng chữ san sát nhau, thế mà bà vẫn cần một tờ thứ hai. Sau cùng bà đọc kỹ một lần nữa, bà xếp lại và cho vào một bao thư, bên ngoài niêm phong bằng xi đỏ...
Chỉ có Pađy, Fiona, Bob, Jack và Meggie phải đi dự buổi chiêu đãi; Hughie và Stuart nhẹ nhõm vì được ở nhà để lo cho hai em bé. Thật là một trường hợp hết sức đặc biệt, Mary Carson đã trút hầu bao khá rộng rãi để cho mỗi người một bộ quần áo đẹp nhất có thể có được ở Gilly này.
Khi Fiona và Pađy ra khỏi phòng, mấy đứa con trai của hai ông bà hết sức ngạc nhiên chưa bao giờ chúng lại nhìn thấy cha mẹ ăn mặc đẹp một cách vương giả như thế.
Tuy nhiên người gây sự chú ý hơn hết trong căn phòng này chính là Meggie. Có lẽ vì nhớ lại thời nhỏ bị coi rẻ của mình và điên tiết vì các phụ nữ trẻ khác đều đặt may quần áo ở Sydney nên chị thợ may ở Gilly đã đặt hết tài năng vào chiếc áo của Meggie. Đó là chiếc áo dài không có tay, cổ hở khá thấp. Fiona hơi ngại nhưng Meggie lại nài nỉ mẹ chiều mình. Chị thợ may cam đoan rằng tất cả các thiếu nữ bây giờ đều ăn mặc như thế, lẽ nào lại để Meggie ăn mặc như một đứa con gái nhà quê, làm trò cười cho thiên hạ. Thế là cuối cùng Fiona đã nhân nhượng.
Pađy đã há miệng khi đối diện với con gái mình nhưng ông đã kịp kìm chết lại và không để lọt môi lời nào ra dù cho cổ họng ông nóng ran và ngứa ngáy. Bài học cay đắng xảy ra ở nhà xứ với Frank tuy đã lâu, nhưng Pađy vẫn còn nhớ mãi. Ông đưa tay về hướng con gái và mỉm cười dịu dàng.
- Ồ, Meggie, con đẹp quá! Đến đây, ba muốn đóng vai chàng hiệp sĩ hộ vệ con. Còn Bob và Jack lo cho mẹ con.
Tháng tới Meggie 17 tuổi và lần đầu tiên trong cuộc đời, Pađy cảm thấy mình già. Còn Meggie, vẫn là đứa con gái yêu quí của ông. Không thể để bất cứ chuyện gì làm hỏng sự xuất hiện lần đầu của Meggie trước đám đông.
Cha Ralph vẫn mặc chiếc áo thụng như thường lệ Không có một thứ thời trang nào của đàn ông lại thích hợp với cha Ralph hơn là chiếc áo màu đen theo một kiểu cắt rất nghiêm trang: rộng ra ở phía dưới, vô số nút chạy dài từ cổ xuống với chiếc thắt lưng rộng viền đỏ.
Mary Carson mặc toàn một màu trắng, xa tanh trắng, đăng ten trắng và lông đà điểu trắng trên chiếc áo của bà. Fiona nhìn bà sửng sốt và không còn có được thái độ thản nhiên như mọi khi. Cách ăn mặc của Mary Carson thật là lố bịch giống như cô dâu trong ngày cưới, không thể nào tưởng tượng được. - Tại sao bà ta lại đỏm dáng như một cô gái già thất tình bôi trét phấn son dị hợm.
Thật ra bà ta giống từng nét một bức ảnh nổi tiếng của nữ hoàng Victoria chụp trước ngày chết.
Mary Carson cười với Pađy và đặt tay lên vai em trai mình.
- Em có thể đưa tay ra dìu chị đến bàn ăn, Padraic. Còn cha Ralph sẽ đưa Fiona, mấy đứa con trai thì đi theo Meggie - Con có khiêu vũ tối nay không, Meggie?
Pađy nhanh miệng trả lời cho con:
- Nó còn nhỏ quá. Nó mới mưòi bảy tuổi. Nói xong Pađy sực nhớ lại, một thiếu sót khác của gia đình mình là các con đều không hề được tập nhảy.
- Rất tiếc! Bà Mary Carson nói buông thõng.
Cuộc chiêu đã thật rình rang, một vũ hội rực rỡ, sáng chói, không thể nào quên. Đó là những lời bình phẩm nghe được qua các cuộc trao đổi tối hôm đó. Royal O'' Mara, từ Inishmurray cách Drogheda 300 cây số cũng có mặt cùng vợ, các con trai và con gái duy nhất. Dân chúng ở trong vùng không ngại đường xa 300 cây số để đến dự một trận đấu cricket, môn thể thao ưa thích ở Úc, không thể tưởng tượng là họ đi một đoạn dài như thế dự một cuộc tiếp tân. Duncan Gordon đến từ Each Uisgẹ Martin King với vợ, con trai Anthony và cô con dâu; Evan Pugh từ Braich Y Pull; Dominic O'' Rourk từ Dibban Dibban, Horry Hoperton từ Beel - Beel và hơn một chục nhân vật tiếng tăm khác trong vùng. Hầu hết theo đạo Công giáo và rất ít người trong số họ mang tên Anglo - Saxon; số người Irish, Scottish và Welsh gần bằng nhau. Có người đồn rằng bà Mary có đủ tiền để mua và bán cả vua nước Anh nữa. Bà ta đầu tư khai thác thép, bạc, chì, thiếc, đồng và vàng, bỏ vốn vào hàng trăm xí nghiệp. Drogheda từ lâu không còn được coi là nguồn sinh lợi chính của bà; thu nhập ở điền trang này không còn có nghĩa lý gì và chỉ là một công việc làm chơi cho vui của Mary.
Cha Ralph không nói chuyện với Meggie trong buổi ăn và cả sau đó. Suốt buổi chiêu đãi, ông quên hẳn Meggie. Như bị xúc phạm, cô gái cứ theo dõi ông khắp phòng. Cảm nhận được sự xao xuyến ở Meggie, cha Ralph đến gần cô bé, cắt nghĩa cho cô rõ nếu ông tỏ ra chú ý Meggie hơn các cô gái khác như Carmichael, Gordon hay O'' Mara chẳng hạn thì tiếng tăm của hai người có thể bị ảnh hưởng xấu. Cũng như Meggie, cha Ralph không khiêu vũ và cũng như cô, ông thu hút sự chú ý của nhiều thiếu nữ; cả hai đẹp hơn hẳn tất cả những người có mặt.
Pađy và Fiona vẫn ở lại chơi nhưng vào nửa đêm, Bob và Jack cùng Meggie rời khỏi cuộc vui. Cha mẹ họ không hay họ đã đi chơi nơi khác.
Khi Meggie rời khỏi phòng, cha Ralph thấy mình trẻ hơn ít nhất mười tuổi. Ông trở nên sinh động và gây ngạc nhiên cho các cô gái như Hopeton, Mackail, Gordon và O'' Mara về những bước nhảy với Carmichael. Sau đó, cha Ralph mời lần lượt tất cả các thiếu nữ, luôn cả Pugh, xấu xí nhất. Không một người khách nào có thể than phiền rằng con gái mình đã mất cơ hội khiêu vũ với cha De Bricassart.
Đến ba giờ sáng, Mary Carson đứng lên một cách nặng nề và ngáp:
- Không, cuộc vui cứ tiếp tục! Nếu tôi mệt - quả thật tôi đã mệt - tôi sẽ đi nằm, đó cũng là ý định của tôi; nhưng thức ăn và đồ uống không thiếu, còn dàn nhạc đã được trả tiền để chơi cho đến khi không còn một ai muốn nhảy nữa mới thôi. Hơn nữa có một chút ồn ào chỉ dỗ giấc ngủ tôi thêm nhiều mộng đẹp. Thưa cha, cha có thể giúp đưa tôi lên lầu được không?
Khi rời khỏi phòng chiêu đãi, bà không đi đến cầu thang rộng uy nghi dẫn lên lầu, mà lại hướng cha Ralph cùng đến phòng khách. Trông bà có vẻ mỏi mệt, dựa cả người vào cánh tay của cha Ralph. Cửa phòng đóng kín, bà chờ linh mục dùng chìa khóa do bà trao để mở cửa. Bà đi vào trước.
- Cuộc chiêu đãi thành công đấy bà Mary ạ, ông nói.
- Đây là lần cuối cùng tôi tổ chức, thưa cha.
- Không nên nói thế, bà Mary thân mến.
- Tại sao? Tôi đã chán sống và tôi sẽ kết thúc cuộc sống ở đây. Cha không tin à? Trong hơn 70 năm, tôi luôn luôn làm đúng những gì tôi muốn. Cho nên nếu thần chết nghĩ rằng hắn có quyền chọn lựa giờ phút ra đi của tôi thì hắn sai lầm vô cùng. Tôi sẽ chết vào đúng cái lúc tôi chọn, mà tuyệt nhiên không phải là tự tử. Chính lòng ham sống giúp cho chúng ta tồn tại; chấm dứt cuộc sống không khó khăn đâu nếu chúng ta thật sự muốn. Tôi đã mỏi mệt và tôi muốn chấm dứt. Rất đơn giản.
Cha Ralph cũng thế, rất mỏi mệt, không phải mỏi mệt với cuộc sống mà về cái bề ngoài không thay đổi ông phải núp ở phía sau, mỏi mệt vì không khí nhàm chán, sự thiếu vắng bạn tri kỷ và mỏi mệt cả với chính mình. Căn phòng lờ mờ dưới ánh sáng của một cây đèn dầu bằng thủy tinh màu hồng ngọc rất quí, ánh đèn tỏ ra những vệt sáng màu hồng lên mặt bà Mary Carson, làm cho đường nét cứng rắn của quai hàm bà càng trở nên ma quái. Cha Ralph thấy nhức ở chân, ở lưng, lâu rồi ông không khiêu vũ nhiều như thế mặc dù ông vẫn tự hào không bị lạc hậu với những kiểu nhảy mới nhất. Ba mươi lăm tuổi rồi nhưng vẫn là linh mục ở nông thôn... Vậy thì đến bao giờ mới trở thành một nhân vật đầy quyền lực của Nhà thờ? Giấc mộng kết thúc trước khi bắt đầu - Ô hô! Những giấc mơ của thời trẻ! Và những lời nói vô tâm, sự sôi nổi của tuổi trẻ. Ông đã thiếu bản lĩnh để chiến thắng thử thách. Nhưng không bao giờ ông lặp lại sai lầm cũ, không bao giờ, không bao giờ...
Không giữ vững được chỗ đứng của mình, ông thở dài, đâu còn gì? Dịp may không đến hai lần. Đã đến lúc nhìn thẳng các sự việc, chấm dứt hy vọng và mơ mộng.
- Cha Ralph có nhớ không, tôi đã từng nói với cha rằng tôi sẽ đánh bại cha ngay trên mảnh đất quen thuộc của cha, và tôi sẽ làm cho cha bị sụp vào chính cái bẫy của cha?
Tiếng nói khôn khan kéo cha Ralph ra khỏi những ý tưởng đang đeo đuổi trong lúc buồn chán. Ông nhìn Mary Carson và cười.
- Bà Mary thân mến, tôi không quên bất cứ điều gì mà bà đã nói. Tôi tự hỏi tôi sẽ làm gì nếu trong những năm qua không có sự giúp đỡ của bà. Trí tuệ của bà, sự khôn ngoan và nhạy cảm của bà trước các sự việc...
- Nếu tôi trẻ hơn, tôi đã chinh phục ông bằng cách khác, Ralph. ông không bao giờ biết tôi khát khao đến mức nào được lùi lại ba mươi năm. Nếu có con quỷ nào xuất hiện tặng tôi cái xuân sắc đổi lấy linh hồn tôi, tôi sẽ không hề do dự một phút và cũng không bao giờ tiếc về cuộc thỏa thuận ấy như tên già ngu ngốc Faust đâu. Nhưng thôi đừng điên rồ... Tôi không thể tin vào Chúa lẫn quỉ, ông dư biết. Tôi không thấy có gì chứng tỏ cả hai đều tồn tại. Còn cha?
- Đúng là lý luận hơi đơn giản.
- Có thể.
- Tôi nghĩ rằng con người đã mang sẵn đức tin trong mình ngay khi vừa sinh ra. Về phần tôi, đó là cuộc đấu tranh không ngừng với bản thân, nhưng không bao giờ tôi bỏ cuộc.
- Thế mà tôi lại rất muốn làm ông bỏ cuộc.
- Ô, bà Mary thân mến! Điều đó tôi đã biết! Ông nói với một thoáng đùa, đôi mắt như nhuộm màu nâu xám dưới ánh đèn.
- Nhưng cha có biết tại sao không?
Một cảm giác sợ hãi tràn ngập cha Ralph. Bỗng chốc ông nhận ra con người đầy nhược điểm của mình nhưng ông liền lùi ý nghĩ đó.
- Tôi biết, bà Mary ạ. Hãy tin tôi, tôi cảm thấy xót xa về điều đó.
- Ngoài mẹ của ông ra, bao nhiêu phụ nữ đã yêu ông rồi?
- Mẹ tôi có yêu tôi không? Tôi tự hỏi điều đó. Dù sao thì cuối cùng tôi vẫn bị mẹ tôi căm ghét. Phần đông phụ nữ đều như thế cả. Đáng lý tên tôi phải là Hippolyte.
- Ồ! Điều đó giải thích rất nhiều.
- Còn những người phụ nữ khác, tôi chỉ thấy có Meggie... Nhưng đó là một cô gái còn bé. Chắc không quá đáng chút nào khi nói rằng có hàng trăm phụ nữ muốn tôi. Nhưng còn yêu tôi? Tôi nghi ngờ điều này lắm.
- Còn tôi, tôi đã yêu ông. - Bà nói giọng xúc động.
- Không đâu, tôi chỉ là một chất kích thích tuổi già của bà, không hơn không kém. Khi bà nhìn tôi, tôi làm bà sực nhớ tất cả những ham muốn mà tuổi tác đã ngăn chặn bà lại.
- Ông lầm rồi. Tôi đã yêu ông. Yêu thiết tha. ông nghĩ rằng tuổi già không cho tôi có thể yêu à? Thế thì, cha Ralph hãy nghe tôi nói điều sau đây. Bên trong cái thân xác quái đản này, tôi vẫn còn trẻ... Tôi còn cảm giác, còn khát khao, còn mơ mộng, tôi vẫn giậm chân và bực tức trước những thua thiệt của thân xác già nua này. Tuổi già là sự trừng phạt cay đắng nhất mà Chúa bắt chúng ta phải chịu. Tại sao Người lại không làm cho tâm hồn già đi cùng một lúc với tuổi tác? Tất nhiên tôi sẽ xuống địa ngục. Nhưng trước đó tôi hy vọng sẽ có dịp nói với Đấng tối cao rằng ngài là kẻ tồi tệ, khô khan và đáng khinh bỉ dường nào.
- Bà góa bụa quá lâu, bà Mary. Chúa đã ban cho bà sự tự do chọn lựa, đáng lý bà nên đi thêm một bước nữa nhưng rồi bà vẫn quyết chọn cuộc sống độc thân, vậy thì bà chỉ nên trách mình, chứ không thể trách Chúa được.
Một lúc im lặng, bà bấu chặt lấy hai bên chiếc ghế bành, và cảm thấy dễ chịu trở lại khi mở mắt ra. Dưới ánh đèn dầu, đôi mắt ấy đỏ và long lanh nhưng vẫn không có một giọt nước mắt, có cái gì đó đau đớn hơn, trong suốt hơn những giọt nước mắt giấu kín. Cha Ralph không dám thở mạnh, ông cảm thấy lo sợ và nghĩ rằng bà ta chẳng khác gì con nhện cái.
- Cha Ralph, trên bàn viết của tôi có một phong bì. Xin ông vui lòng mang lại cho tôi, cảm ơn ông nhiều lắm.
Cha Ralph e dè đứng lên đi đến bàn và cầm lấy phong bì với một chút tò mò. Phong bì trắng dán kín, nguyên phía sau đóng xi đỏ con dấu riêng của Mary Carson hình đầu con cừu đực và chữ D bao chung quanh. Ông mang lại cho bà Carson nhưng liền đó bà ra dấu mời ông ngồi xuống và đưa phong bì ra phía trước.
- Phong bì này của ông - bà nhếch miệng cười - và số phận của ông ở trong đó. ànghĩa của phong bì này là như thế. Thật tiếc vô cùng, tôi không còn có mặt ở trên cỏi đời này để chứng kiến những gì sẽ xảy ra, nhưng tôi đoán biết được chuyện ấy, vì rằng tôi biết rõ ông, biết ông nhiều hơn ông tưởng. Con người ông kiêu hãnh không thể chịu nổi! Phong bì chứa đựng số phận cuộc đời và cả linh hồn ông đấy. Tôi đành phải nhường ông cho Meggie nhưng tôi an tâm vì đã có cách để con bé này cũng sẽ không có được ông.
- Tại sao bà lại cay cú với Meggie đến thế?
- Tôi đã nói với ông rồi. Tại vì ông yêu nó.
- Nhưng tình yêu ấy không như bà hiểu. Meggie đáng tuổi con tôi, mà tôi thì không bao giờ có con được, cô ấy là niềm vui của đời tôi. Bà Mary ạ, Meggie đối với tôi là một ý niệm, đúng là một ý niệm!
Bà già cười cay độc:
- Tôi không muốn chúng ta nói về Meggie quí báu của ông! Tôi sẽ mãi mãi không gặp lại ông do đó tôi không muốn mất thì giờ về chuyện của con bé ấy. Trở lại cái thư, tôi muốn rằng ông thề với tôi, lời thề của một linh mục rằng ông sẽ không mở phong bì trước khi chính ông tận mắt nhìn thấy cái chết của tôi. Ông chỉ mở thư ra trước khi tôi được chôn cất. Ông hãy thề đi.
- Không cần thế bà Mary ạ. Tôi sẽ làm đúng như lời yêu cầu của bà.
- Ông hãy thề đi, nếu không tôi lấy lại phong thư đấy.
- Thế thì... tôi đồng ý - cha Ralph nhún vai. Đây là lời thề của một linh mục, tôi xin thề, sẽ không mở thư ra trước khi nhìn tận mắt bà đã chết, và sẽ đọc thư này trước khi bà được chôn cất.
- Tốt lắm, tốt lắm.
- Bà Mary, xin bà đừng lo lắng! Chẳng qua đây cũng là một ý nghĩ ngông cuồng đùa giỡn của bà thế thôi. Sáng mai bà lại cười về chuyện này đấy.
- Tôi sẽ không thấy cái sáng mai ấy. Tôi sẽ chết đêm nay; tôi không quá yếu đuối để nán lại chờ giây phút sung sướng được nhìn thấy ông lần nữa. Không lẽ tôi lại tuột dốc đến thế sao! Tôi đi nghỉ đây. Ông sẵn sàng đưa tôi lên đến đầu cầu thang chứ?
Cha Ralph không tin điều bà Mary Carson nói nhưng biết rằng cãi lại cũng vô ích, vả lại bà ta đang trong tâm trạng bất ổn không nên làm buồn lòng bà bằng một chuyện bông đùa. Chỉ có Chúa là định cái chết của một con người, ngoại trừ trường hợp theo ý muốn riêng mà ngay cả ý muốn đó cũng do Chúa đã ban cho ta có thể tự kết liễu đời mình. Nhưng bà đã nói rằng bà sẽ không tự tử mà. Cha Ralph dìu bà ta bước lên từng bậc thang, bà tỏ ra rất mệt và cần được giúp thật sự. Đến cuối cầu thang, ông cầm hai tay của bà lên, cúi xuống định hôn nhưng bà ra rút tay lại.
- Riêng đêm nay, tôi không muốn nhận một cái hôn như thế. Hôn trên môi, Ralph. Hãy ôm hôn vào môi tôi như thể chúng ta là đôi tình nhân!
Dưới ánh sáng rực rỡ của cây đèn chùm lớn được thắp đến 400 ngọn nến, bà nhận ra gương mặt của linh mục một vẻ thật kinh tởm, bất giác bà lùi lại. Bấy giờ bà muốn chết đi, muốn một cách mãnh liệt không thể nào chần chờ được nữa.
- Bà Mary, tôi là linh mục! Tôi không thể làm chuyện đó.
Mary Carson cười lớn, tiếng cười chát chúa, quái dị
- Ồ, Ralph, ông đúng là một kẻ lừa bịp! Lừa bịp với tư cách con người và lừa bịp với tư cách một linh mục: ông chẳng là gì hết, Ralph ạ. Một tên lừa bịp bất lực, vô ích! Một thứ đàn ông bất lực và một linh mục bất lực!
Mary Carson sắp 72 tuổi, bà chuẩn bị chu đáo cho buổi tiếp tân lớn, chưa từng có ở Drogheda trong 50 năm qua. Ngày kỷ niệm sinh nhật của bà đúng vào thượng tuần tháng 11, bấy giờ trời vẫn còn nóng dữ dội, nhất là đối với người dân ở Gilly.
- Bà Smith hãy nhớ nhé điều tôi đã nói với bà. Minnie thì thầm. Đừng quên nhé! Bà ta sinh ngày 3 tháng 11
- Nhưng mày muốn nói gì nữa, Minnie? Bà quản gia hỏi.
Thái độ bí hiểm theo kiểu người Scotland của Minnie gây bực bội cho bà già người Anh.
- Sao, bà không hiểu à? Điều đó chứng tỏ ngày sinh của bà ta là con bọ cạp. Một con bọ cạp... Bà có thấy đúng thế không?
Trên chiếc ghế bành, con nhện cái già ở trung tâm mạng lưới, phát ra một loạt mệnh lệnh; phải làm thế này, phải làm thế kia, đem cái này ra, dời cái kia đi chỗ khác. Hai cô gái hầu phòng đang đánh bóng những đồ bằng bạc và rửa bộ chén đĩa bằng sứ Haviland, biến nhà nguyện nhỏ trong nhà thành nơi chiêu đãi và xếp những bàn dài đầy bánh rượu ở mấy phòng bên cạnh.
Dàn nhạc Clarence O'' Toole sẽ từ Sydney đến cùng một lúc với các món hải sản quí. Cả một vùng rộng lớn, từ Rudna Hunish đến Inishmurray và Bugela đến Narrengang rộn ràng chuẩn bị tham dự buổi lễ này.
Giữa lúc nền đá cẩm thạch của đại sảnh vang lên những tiếng bàn ghế xê dịch, những tiếng gọi nhau ơi ới của những người khuân vác đang bày viện phòng tiếp tân thì Mary Carson rời khỏi chiếc ghế bành, đến ngồi sau bàn viết. Bà lấy ra một tờ giấy mịn, chấm bút vào bình mực rồi bắt đầu. Bà viết liên tục không do dự, ngay cả khi chấm phẩy. Năm năm gần đây, bà đã suy nghĩ một cách chi li nội dung từng câu phức tạp, sắp xếp thật chỉnh để từng chữ được sử dụng đúng, chính xác. Viết thì chẳng mất bao nhiêu. Bà Carson viết đầy hai tờ giấy, trong đó một tờ chỉ hai phần ba. Khi viết xong dòng cuối cùng, bà ngồi yên một lúc. Bàn viết đặt bên cạnh cửa sổ lớn, chỉ cần quay đầu là đã nhìn thấy thảm cỏ trước nhà. Tiếng cười từ ngoài vọng vào làm bà chú ý, lúc đầu bà chẳng nghĩ gì nhưng sau đó lại khơi dậy trong bà sự bực bội tức tối ngấm ngầm. Cầu Chúa hãy đầy hắn xuống địa ngục, hắn và con người ám ảnh hắn.
Cha Ralph bỗng nẩy ý kiến tập Meggie cỡi ngựa; dù là một cô gái ở đồng quê, chưa bao giờ Meggie có dịp ngồi trên yên ngựa. Thực tế lạ lùng là các cô gái xuất thân từ những gia đình nghèo rất ít khi được cỡi ngựa. Đây là một trò tiêu khiển dành cho các phụ nữ trẻ giàu có - Ở nông thôn hay thành thị cũng thế.
Một hôm cha Ralph mang từ Gilly đến một đôi ủng ngắn, bộ quần áo cỡi ngựa và ném các thứ ấy lên chiếc bàn ở nhà bếp gia dình Cleary. Pađy đang đọc sách sau buổi ăn trưa giật mình, nhìn lên ngạc nhiên.
- Ủa, chuyện gì đó, thưa cha? - ông ta hỏi.
- Bộ đồ đi ngựa cho Meggie.
- Sao? Pađy kinh ngạc.
- Đồ đi ngựa cho Meggie. Pađy à, ông không thể nào vứt bỏ cái lớp nhà quê của ông hay sao? Ông là người thừa kế của một điền trang rộng và giàu nhất xứ New South Wales, vậy mà chưa bao giờ ông cho phép cô con gái duy nhất của ông được cỡi ngựa! Thế thì làm sao con gái của ông giữ được vị trí bên cạnh ái nữ Carmichael, ái nữ Hopeton và phu nhân Antony King, tất cả đều là những kỵ sĩ tài ba. Meggie phải tập cỡi ngựa ngồi một bên theo cách dành cho phụ nữ và cả hai bên như đàn ông. Ông có nghe tôi không ông Pađy? Tôi biết ông rất bận, vậy tôi sẽ dạy cho Meggie nghệ thuật cỡi ngựa, dù ông có thích hay không thích. Nếu vì chuyện này Meggie có xao lãng việc nhà thì cũng chẳng sao. Một vài giờ trong tuần Fiona sẽ không có Meggie bên cạnh để làm việc nhà. Chúng ta không trở lại vấn đề này, dứt khoát là như thế.
Pađy không có khả năng đối đầu với một linh mục; thế là từ đó, Meggie bắt đầu tập cỡi ngựa. Nhiều năm trước đây cô bé ao ước phút giây này. Có một lần, Meggie đã bày tỏ ước muốn đó với cha nhưng Pađy lại quên, và cô bé cũng không nhắc lại coi như cha mình im lặng có nghĩa là từ chối. Được học cỡi ngựa dưới sự hướng dẫn của cha Ralph, Meggie sung sướng phát điên lên, không hề giấu giếm niềm vui của mình. Sự ngưỡng mộ của Meggie đối với cha Ralph giờ đây đã biến thành mối tình nóng bỏng của một cô gái lém lỉnh . Vẫn biết rằng mối tình ấy là không đi đến đâu nhưng cô bé vẫn tự cho phép mình mơ tưởng về con người ấy. Meggie tưởng tượng cái cảm giác mà có được khi ở trong vòng tay của cha Ralph và cả những nụ hôn nồng nàn của cha. Những suy nghĩ thơ thẩn của Meggie không đi xa hơn; cô bé không có chút ý tưởng gì về điều có thể xảy ra sau đó, thậm chí không hiểu những diễn biến tiếp theo sẽ như thế nào.
Nếu cô bé biết rằng mơ tưởng đến một linh mục là xấu thì chính cô cũng không đủ sức để né tránh. Bây giờ cô chỉ còn biết che giấu lòng mình, không để cho cha Ralph đoán được những ý nghĩ thầm kín.
Chương 12
Trong khi Mary Carson đang đứng sau cánh cửa sổ phòng khách theo dõi cả hai người thì cha Ralph và Meggie từ chuồng ngựa đang đi về tận bên kia đối diện với ngôi nhà lớn, cùng một hướng với nhà của người quản lý. Những người làm công ở trang trại chỉ được cỡi trên những con ngựa chưa hề nuôi trong chuồng mà thả ngoài sân hay lang thang đi ăn cỏ. Nhưng ở Drogheda vẫn có những đàn ngựa rất đẹp mặc dù chỉ có cha Ralph là được cỡi trên những con ngựa đó. Mary Carson đã giữ lại hai con ngựa thuần giống đặc biệt dành cho cha Ralph sử dụng, không thể để những con ngựa già ốm nhom cho cha. Khi cha Ralph hỏi bà Mary Carson có bằng lòng cho Meggie cỡi trên một trong hai con ngựa ấy không, bà Mary không có cách nào từ chối. Cô gái là cháu của bà, vả lại lý do của cha Ralph đưa ra là chí lý. Cô bé phải biết cỡi ngựa chứ, cháu gái của bà chủ kia mà.
Trong thâm tâm, bà Mary Carson rất muốn từ chối hoặc ít ra nên cùng đi với họ. Nhưng bà không thể cưỡng lại lời yêu cầu của linh mục, cũng như với cái tuổi này bà không thể ngồi trên lưng ngựa được nữa. Thế là bà đành chịu thua một cách bực tức khi nhìn thấy họ sánh vai đi qua bãi cỏ. Người đàn ông mặc quần ngắn, đôi ủng cao tới đầu gối, vóc người mảnh khảnh, nét mặt có chút liến thoắng của con trai. Cặp nam nữ này biểu lộ tình cảm thân mật và hết sức thanh thản. Đây là lần thứ một ngàn, bà Mary Carson tự hỏi tại sao ngoài bà ra, không ai đặt vấn đề mối quan hệ ấy. Pađy thì tỏ ra hết sức bằng lòng về mối quan hệ giữa con gái mình và cha Ralph, còn Fiona lúc nào cũng im lặng chẳng nói lời nào như khúc gỗ. Phải chăng vì yêu Ralph de Bricassart mà bà Mary Carson phát hiện ra cái điều không ai thấy được? Hoặc là óc tưởng tượng của bà đã hại bà? Có đúng đây là tình bạn giữa một người đàn ông gần 35 tuổi dành cho một cô gái chưa trưởng thành? Ngu ngốc! Không một người đàn ông nào kể cả Ralph lại không biết Meggie như bông hồng đang nở sao? Với Ralph thì có gì lọt qua được con mắt của ông ta đâu?
Bàn tay của Mary Carson run lên, những giọt mực xanh đen rơi xuống làm bẩn trang giấy trước mặt bà ta. Những ngón tay khẳng khiu đưa vào hộc tủ lấy ra một tờ giấy khác. Bà lại cầm viết chấm vào bình mực và viết lại từng chữ, với sự tự tin và viết suông sẻ không khác lần trước. Sau đó bà đứng lên và nặng nề đi về phía cửa.
- Minnie, Minnie! Bà gọi tọ
- Chúa ơi! Chính bà ta gọi. - Chị hầu phòng kêu lên bằng một giọng trong trẻo. Con có thể giúp gì cho bà, thưa bà Carson? Chị ta vừa hỏi vừa nghĩ thầm tại sao bà ta không gọi bà Smith như mọi khi.
- Mày đi gọi ngay thằng làm hàng rào và Tom đến đây ngay.
- Con có cần nói cho bà Smith biết không?
- Không, mày chỉ cần làm theo như tao bảo.
Khi cả hai đến, Mary Carson hỏi:
- Hai anh có biết viết không?
Cả hai vừa nuốt nước miếng để tự trấn an vừa gật đầu.
- Vậy thì tốt. Tôi muốn hai anh nhìn tôi ký tên trên tờ giấy này, rồi hai anh ký tên và viết địa chỉ của hai anh ở dưới chữ ký của tôi. Hiểu chứ?
Cả hai gật đầu.
Mary Carson chăm chú theo dõi họ và khi hai người đã viết xong, bà trao cho mỗi người một tờ bạc mười bảng với lời dặn phải biết giữ miệng.
Meggie và cha Ralph đã biến mất tự bao giờ. Mary Carson nặng nề ngồi xuống bàn viết, lại lấy ra một tờ giấy khác và lại bắt đầu viết. Lần này, có lẽ do nội dung được viết không đơn giản nên bà không còn khoan thai như trước. Rất nhiều lần, bà dừng lại để suy nghĩ, môi mím chặt, mỉm cười nhưng không vui, rồi bà lại tiếp tục. Hình như bà có nhiều điều phải nói: các hàng chữ san sát nhau, thế mà bà vẫn cần một tờ thứ hai. Sau cùng bà đọc kỹ một lần nữa, bà xếp lại và cho vào một bao thư, bên ngoài niêm phong bằng xi đỏ...
Chỉ có Pađy, Fiona, Bob, Jack và Meggie phải đi dự buổi chiêu đãi; Hughie và Stuart nhẹ nhõm vì được ở nhà để lo cho hai em bé. Thật là một trường hợp hết sức đặc biệt, Mary Carson đã trút hầu bao khá rộng rãi để cho mỗi người một bộ quần áo đẹp nhất có thể có được ở Gilly này.
Khi Fiona và Pađy ra khỏi phòng, mấy đứa con trai của hai ông bà hết sức ngạc nhiên chưa bao giờ chúng lại nhìn thấy cha mẹ ăn mặc đẹp một cách vương giả như thế.
Tuy nhiên người gây sự chú ý hơn hết trong căn phòng này chính là Meggie. Có lẽ vì nhớ lại thời nhỏ bị coi rẻ của mình và điên tiết vì các phụ nữ trẻ khác đều đặt may quần áo ở Sydney nên chị thợ may ở Gilly đã đặt hết tài năng vào chiếc áo của Meggie. Đó là chiếc áo dài không có tay, cổ hở khá thấp. Fiona hơi ngại nhưng Meggie lại nài nỉ mẹ chiều mình. Chị thợ may cam đoan rằng tất cả các thiếu nữ bây giờ đều ăn mặc như thế, lẽ nào lại để Meggie ăn mặc như một đứa con gái nhà quê, làm trò cười cho thiên hạ. Thế là cuối cùng Fiona đã nhân nhượng.
Pađy đã há miệng khi đối diện với con gái mình nhưng ông đã kịp kìm chết lại và không để lọt môi lời nào ra dù cho cổ họng ông nóng ran và ngứa ngáy. Bài học cay đắng xảy ra ở nhà xứ với Frank tuy đã lâu, nhưng Pađy vẫn còn nhớ mãi. Ông đưa tay về hướng con gái và mỉm cười dịu dàng.
- Ồ, Meggie, con đẹp quá! Đến đây, ba muốn đóng vai chàng hiệp sĩ hộ vệ con. Còn Bob và Jack lo cho mẹ con.
Tháng tới Meggie 17 tuổi và lần đầu tiên trong cuộc đời, Pađy cảm thấy mình già. Còn Meggie, vẫn là đứa con gái yêu quí của ông. Không thể để bất cứ chuyện gì làm hỏng sự xuất hiện lần đầu của Meggie trước đám đông.
Cha Ralph vẫn mặc chiếc áo thụng như thường lệ Không có một thứ thời trang nào của đàn ông lại thích hợp với cha Ralph hơn là chiếc áo màu đen theo một kiểu cắt rất nghiêm trang: rộng ra ở phía dưới, vô số nút chạy dài từ cổ xuống với chiếc thắt lưng rộng viền đỏ.
Mary Carson mặc toàn một màu trắng, xa tanh trắng, đăng ten trắng và lông đà điểu trắng trên chiếc áo của bà. Fiona nhìn bà sửng sốt và không còn có được thái độ thản nhiên như mọi khi. Cách ăn mặc của Mary Carson thật là lố bịch giống như cô dâu trong ngày cưới, không thể nào tưởng tượng được. - Tại sao bà ta lại đỏm dáng như một cô gái già thất tình bôi trét phấn son dị hợm.
Thật ra bà ta giống từng nét một bức ảnh nổi tiếng của nữ hoàng Victoria chụp trước ngày chết.
Mary Carson cười với Pađy và đặt tay lên vai em trai mình.
- Em có thể đưa tay ra dìu chị đến bàn ăn, Padraic. Còn cha Ralph sẽ đưa Fiona, mấy đứa con trai thì đi theo Meggie - Con có khiêu vũ tối nay không, Meggie?
Pađy nhanh miệng trả lời cho con:
- Nó còn nhỏ quá. Nó mới mưòi bảy tuổi. Nói xong Pađy sực nhớ lại, một thiếu sót khác của gia đình mình là các con đều không hề được tập nhảy.
- Rất tiếc! Bà Mary Carson nói buông thõng.
Cuộc chiêu đã thật rình rang, một vũ hội rực rỡ, sáng chói, không thể nào quên. Đó là những lời bình phẩm nghe được qua các cuộc trao đổi tối hôm đó. Royal O'' Mara, từ Inishmurray cách Drogheda 300 cây số cũng có mặt cùng vợ, các con trai và con gái duy nhất. Dân chúng ở trong vùng không ngại đường xa 300 cây số để đến dự một trận đấu cricket, môn thể thao ưa thích ở Úc, không thể tưởng tượng là họ đi một đoạn dài như thế dự một cuộc tiếp tân. Duncan Gordon đến từ Each Uisgẹ Martin King với vợ, con trai Anthony và cô con dâu; Evan Pugh từ Braich Y Pull; Dominic O'' Rourk từ Dibban Dibban, Horry Hoperton từ Beel - Beel và hơn một chục nhân vật tiếng tăm khác trong vùng. Hầu hết theo đạo Công giáo và rất ít người trong số họ mang tên Anglo - Saxon; số người Irish, Scottish và Welsh gần bằng nhau. Có người đồn rằng bà Mary có đủ tiền để mua và bán cả vua nước Anh nữa. Bà ta đầu tư khai thác thép, bạc, chì, thiếc, đồng và vàng, bỏ vốn vào hàng trăm xí nghiệp. Drogheda từ lâu không còn được coi là nguồn sinh lợi chính của bà; thu nhập ở điền trang này không còn có nghĩa lý gì và chỉ là một công việc làm chơi cho vui của Mary.
Cha Ralph không nói chuyện với Meggie trong buổi ăn và cả sau đó. Suốt buổi chiêu đãi, ông quên hẳn Meggie. Như bị xúc phạm, cô gái cứ theo dõi ông khắp phòng. Cảm nhận được sự xao xuyến ở Meggie, cha Ralph đến gần cô bé, cắt nghĩa cho cô rõ nếu ông tỏ ra chú ý Meggie hơn các cô gái khác như Carmichael, Gordon hay O'' Mara chẳng hạn thì tiếng tăm của hai người có thể bị ảnh hưởng xấu. Cũng như Meggie, cha Ralph không khiêu vũ và cũng như cô, ông thu hút sự chú ý của nhiều thiếu nữ; cả hai đẹp hơn hẳn tất cả những người có mặt.
Pađy và Fiona vẫn ở lại chơi nhưng vào nửa đêm, Bob và Jack cùng Meggie rời khỏi cuộc vui. Cha mẹ họ không hay họ đã đi chơi nơi khác.
Khi Meggie rời khỏi phòng, cha Ralph thấy mình trẻ hơn ít nhất mười tuổi. Ông trở nên sinh động và gây ngạc nhiên cho các cô gái như Hopeton, Mackail, Gordon và O'' Mara về những bước nhảy với Carmichael. Sau đó, cha Ralph mời lần lượt tất cả các thiếu nữ, luôn cả Pugh, xấu xí nhất. Không một người khách nào có thể than phiền rằng con gái mình đã mất cơ hội khiêu vũ với cha De Bricassart.
Đến ba giờ sáng, Mary Carson đứng lên một cách nặng nề và ngáp:
- Không, cuộc vui cứ tiếp tục! Nếu tôi mệt - quả thật tôi đã mệt - tôi sẽ đi nằm, đó cũng là ý định của tôi; nhưng thức ăn và đồ uống không thiếu, còn dàn nhạc đã được trả tiền để chơi cho đến khi không còn một ai muốn nhảy nữa mới thôi. Hơn nữa có một chút ồn ào chỉ dỗ giấc ngủ tôi thêm nhiều mộng đẹp. Thưa cha, cha có thể giúp đưa tôi lên lầu được không?
Khi rời khỏi phòng chiêu đãi, bà không đi đến cầu thang rộng uy nghi dẫn lên lầu, mà lại hướng cha Ralph cùng đến phòng khách. Trông bà có vẻ mỏi mệt, dựa cả người vào cánh tay của cha Ralph. Cửa phòng đóng kín, bà chờ linh mục dùng chìa khóa do bà trao để mở cửa. Bà đi vào trước.
- Cuộc chiêu đãi thành công đấy bà Mary ạ, ông nói.
- Đây là lần cuối cùng tôi tổ chức, thưa cha.
- Không nên nói thế, bà Mary thân mến.
- Tại sao? Tôi đã chán sống và tôi sẽ kết thúc cuộc sống ở đây. Cha không tin à? Trong hơn 70 năm, tôi luôn luôn làm đúng những gì tôi muốn. Cho nên nếu thần chết nghĩ rằng hắn có quyền chọn lựa giờ phút ra đi của tôi thì hắn sai lầm vô cùng. Tôi sẽ chết vào đúng cái lúc tôi chọn, mà tuyệt nhiên không phải là tự tử. Chính lòng ham sống giúp cho chúng ta tồn tại; chấm dứt cuộc sống không khó khăn đâu nếu chúng ta thật sự muốn. Tôi đã mỏi mệt và tôi muốn chấm dứt. Rất đơn giản.
Cha Ralph cũng thế, rất mỏi mệt, không phải mỏi mệt với cuộc sống mà về cái bề ngoài không thay đổi ông phải núp ở phía sau, mỏi mệt vì không khí nhàm chán, sự thiếu vắng bạn tri kỷ và mỏi mệt cả với chính mình. Căn phòng lờ mờ dưới ánh sáng của một cây đèn dầu bằng thủy tinh màu hồng ngọc rất quí, ánh đèn tỏ ra những vệt sáng màu hồng lên mặt bà Mary Carson, làm cho đường nét cứng rắn của quai hàm bà càng trở nên ma quái. Cha Ralph thấy nhức ở chân, ở lưng, lâu rồi ông không khiêu vũ nhiều như thế mặc dù ông vẫn tự hào không bị lạc hậu với những kiểu nhảy mới nhất. Ba mươi lăm tuổi rồi nhưng vẫn là linh mục ở nông thôn... Vậy thì đến bao giờ mới trở thành một nhân vật đầy quyền lực của Nhà thờ? Giấc mộng kết thúc trước khi bắt đầu - Ô hô! Những giấc mơ của thời trẻ! Và những lời nói vô tâm, sự sôi nổi của tuổi trẻ. Ông đã thiếu bản lĩnh để chiến thắng thử thách. Nhưng không bao giờ ông lặp lại sai lầm cũ, không bao giờ, không bao giờ...
Không giữ vững được chỗ đứng của mình, ông thở dài, đâu còn gì? Dịp may không đến hai lần. Đã đến lúc nhìn thẳng các sự việc, chấm dứt hy vọng và mơ mộng.
- Cha Ralph có nhớ không, tôi đã từng nói với cha rằng tôi sẽ đánh bại cha ngay trên mảnh đất quen thuộc của cha, và tôi sẽ làm cho cha bị sụp vào chính cái bẫy của cha?
Tiếng nói khôn khan kéo cha Ralph ra khỏi những ý tưởng đang đeo đuổi trong lúc buồn chán. Ông nhìn Mary Carson và cười.
- Bà Mary thân mến, tôi không quên bất cứ điều gì mà bà đã nói. Tôi tự hỏi tôi sẽ làm gì nếu trong những năm qua không có sự giúp đỡ của bà. Trí tuệ của bà, sự khôn ngoan và nhạy cảm của bà trước các sự việc...
- Nếu tôi trẻ hơn, tôi đã chinh phục ông bằng cách khác, Ralph. ông không bao giờ biết tôi khát khao đến mức nào được lùi lại ba mươi năm. Nếu có con quỷ nào xuất hiện tặng tôi cái xuân sắc đổi lấy linh hồn tôi, tôi sẽ không hề do dự một phút và cũng không bao giờ tiếc về cuộc thỏa thuận ấy như tên già ngu ngốc Faust đâu. Nhưng thôi đừng điên rồ... Tôi không thể tin vào Chúa lẫn quỉ, ông dư biết. Tôi không thấy có gì chứng tỏ cả hai đều tồn tại. Còn cha?
- Đúng là lý luận hơi đơn giản.
- Có thể.
- Tôi nghĩ rằng con người đã mang sẵn đức tin trong mình ngay khi vừa sinh ra. Về phần tôi, đó là cuộc đấu tranh không ngừng với bản thân, nhưng không bao giờ tôi bỏ cuộc.
- Thế mà tôi lại rất muốn làm ông bỏ cuộc.
- Ô, bà Mary thân mến! Điều đó tôi đã biết! Ông nói với một thoáng đùa, đôi mắt như nhuộm màu nâu xám dưới ánh đèn.
- Nhưng cha có biết tại sao không?
Một cảm giác sợ hãi tràn ngập cha Ralph. Bỗng chốc ông nhận ra con người đầy nhược điểm của mình nhưng ông liền lùi ý nghĩ đó.
- Tôi biết, bà Mary ạ. Hãy tin tôi, tôi cảm thấy xót xa về điều đó.
- Ngoài mẹ của ông ra, bao nhiêu phụ nữ đã yêu ông rồi?
- Mẹ tôi có yêu tôi không? Tôi tự hỏi điều đó. Dù sao thì cuối cùng tôi vẫn bị mẹ tôi căm ghét. Phần đông phụ nữ đều như thế cả. Đáng lý tên tôi phải là Hippolyte.
- Ồ! Điều đó giải thích rất nhiều.
- Còn những người phụ nữ khác, tôi chỉ thấy có Meggie... Nhưng đó là một cô gái còn bé. Chắc không quá đáng chút nào khi nói rằng có hàng trăm phụ nữ muốn tôi. Nhưng còn yêu tôi? Tôi nghi ngờ điều này lắm.
- Còn tôi, tôi đã yêu ông. - Bà nói giọng xúc động.
- Không đâu, tôi chỉ là một chất kích thích tuổi già của bà, không hơn không kém. Khi bà nhìn tôi, tôi làm bà sực nhớ tất cả những ham muốn mà tuổi tác đã ngăn chặn bà lại.
- Ông lầm rồi. Tôi đã yêu ông. Yêu thiết tha. ông nghĩ rằng tuổi già không cho tôi có thể yêu à? Thế thì, cha Ralph hãy nghe tôi nói điều sau đây. Bên trong cái thân xác quái đản này, tôi vẫn còn trẻ... Tôi còn cảm giác, còn khát khao, còn mơ mộng, tôi vẫn giậm chân và bực tức trước những thua thiệt của thân xác già nua này. Tuổi già là sự trừng phạt cay đắng nhất mà Chúa bắt chúng ta phải chịu. Tại sao Người lại không làm cho tâm hồn già đi cùng một lúc với tuổi tác? Tất nhiên tôi sẽ xuống địa ngục. Nhưng trước đó tôi hy vọng sẽ có dịp nói với Đấng tối cao rằng ngài là kẻ tồi tệ, khô khan và đáng khinh bỉ dường nào.
- Bà góa bụa quá lâu, bà Mary. Chúa đã ban cho bà sự tự do chọn lựa, đáng lý bà nên đi thêm một bước nữa nhưng rồi bà vẫn quyết chọn cuộc sống độc thân, vậy thì bà chỉ nên trách mình, chứ không thể trách Chúa được.
Một lúc im lặng, bà bấu chặt lấy hai bên chiếc ghế bành, và cảm thấy dễ chịu trở lại khi mở mắt ra. Dưới ánh đèn dầu, đôi mắt ấy đỏ và long lanh nhưng vẫn không có một giọt nước mắt, có cái gì đó đau đớn hơn, trong suốt hơn những giọt nước mắt giấu kín. Cha Ralph không dám thở mạnh, ông cảm thấy lo sợ và nghĩ rằng bà ta chẳng khác gì con nhện cái.
- Cha Ralph, trên bàn viết của tôi có một phong bì. Xin ông vui lòng mang lại cho tôi, cảm ơn ông nhiều lắm.
Cha Ralph e dè đứng lên đi đến bàn và cầm lấy phong bì với một chút tò mò. Phong bì trắng dán kín, nguyên phía sau đóng xi đỏ con dấu riêng của Mary Carson hình đầu con cừu đực và chữ D bao chung quanh. Ông mang lại cho bà Carson nhưng liền đó bà ra dấu mời ông ngồi xuống và đưa phong bì ra phía trước.
- Phong bì này của ông - bà nhếch miệng cười - và số phận của ông ở trong đó. ànghĩa của phong bì này là như thế. Thật tiếc vô cùng, tôi không còn có mặt ở trên cỏi đời này để chứng kiến những gì sẽ xảy ra, nhưng tôi đoán biết được chuyện ấy, vì rằng tôi biết rõ ông, biết ông nhiều hơn ông tưởng. Con người ông kiêu hãnh không thể chịu nổi! Phong bì chứa đựng số phận cuộc đời và cả linh hồn ông đấy. Tôi đành phải nhường ông cho Meggie nhưng tôi an tâm vì đã có cách để con bé này cũng sẽ không có được ông.
- Tại sao bà lại cay cú với Meggie đến thế?
- Tôi đã nói với ông rồi. Tại vì ông yêu nó.
- Nhưng tình yêu ấy không như bà hiểu. Meggie đáng tuổi con tôi, mà tôi thì không bao giờ có con được, cô ấy là niềm vui của đời tôi. Bà Mary ạ, Meggie đối với tôi là một ý niệm, đúng là một ý niệm!
Bà già cười cay độc:
- Tôi không muốn chúng ta nói về Meggie quí báu của ông! Tôi sẽ mãi mãi không gặp lại ông do đó tôi không muốn mất thì giờ về chuyện của con bé ấy. Trở lại cái thư, tôi muốn rằng ông thề với tôi, lời thề của một linh mục rằng ông sẽ không mở phong bì trước khi chính ông tận mắt nhìn thấy cái chết của tôi. Ông chỉ mở thư ra trước khi tôi được chôn cất. Ông hãy thề đi.
- Không cần thế bà Mary ạ. Tôi sẽ làm đúng như lời yêu cầu của bà.
- Ông hãy thề đi, nếu không tôi lấy lại phong thư đấy.
- Thế thì... tôi đồng ý - cha Ralph nhún vai. Đây là lời thề của một linh mục, tôi xin thề, sẽ không mở thư ra trước khi nhìn tận mắt bà đã chết, và sẽ đọc thư này trước khi bà được chôn cất.
- Tốt lắm, tốt lắm.
- Bà Mary, xin bà đừng lo lắng! Chẳng qua đây cũng là một ý nghĩ ngông cuồng đùa giỡn của bà thế thôi. Sáng mai bà lại cười về chuyện này đấy.
- Tôi sẽ không thấy cái sáng mai ấy. Tôi sẽ chết đêm nay; tôi không quá yếu đuối để nán lại chờ giây phút sung sướng được nhìn thấy ông lần nữa. Không lẽ tôi lại tuột dốc đến thế sao! Tôi đi nghỉ đây. Ông sẵn sàng đưa tôi lên đến đầu cầu thang chứ?
Cha Ralph không tin điều bà Mary Carson nói nhưng biết rằng cãi lại cũng vô ích, vả lại bà ta đang trong tâm trạng bất ổn không nên làm buồn lòng bà bằng một chuyện bông đùa. Chỉ có Chúa là định cái chết của một con người, ngoại trừ trường hợp theo ý muốn riêng mà ngay cả ý muốn đó cũng do Chúa đã ban cho ta có thể tự kết liễu đời mình. Nhưng bà đã nói rằng bà sẽ không tự tử mà. Cha Ralph dìu bà ta bước lên từng bậc thang, bà tỏ ra rất mệt và cần được giúp thật sự. Đến cuối cầu thang, ông cầm hai tay của bà lên, cúi xuống định hôn nhưng bà ra rút tay lại.
- Riêng đêm nay, tôi không muốn nhận một cái hôn như thế. Hôn trên môi, Ralph. Hãy ôm hôn vào môi tôi như thể chúng ta là đôi tình nhân!
Dưới ánh sáng rực rỡ của cây đèn chùm lớn được thắp đến 400 ngọn nến, bà nhận ra gương mặt của linh mục một vẻ thật kinh tởm, bất giác bà lùi lại. Bấy giờ bà muốn chết đi, muốn một cách mãnh liệt không thể nào chần chờ được nữa.
- Bà Mary, tôi là linh mục! Tôi không thể làm chuyện đó.
Mary Carson cười lớn, tiếng cười chát chúa, quái dị
- Ồ, Ralph, ông đúng là một kẻ lừa bịp! Lừa bịp với tư cách con người và lừa bịp với tư cách một linh mục: ông chẳng là gì hết, Ralph ạ. Một tên lừa bịp bất lực, vô ích! Một thứ đàn ông bất lực và một linh mục bất lực!
Title: Re: Tiếng chim hót trong bụi mận gai - Colleen McCullough. Bestseller năm 1977
Post by: Serenade24 on 03/05/07, 08:16
Post by: Serenade24 on 03/05/07, 08:16
Chương 13
Ngoài kia bình minh chưa rõ nét, kể cả vầng sáng xuất hiện trước đó. Bóng tối êm ái, dày đặc, trong không khí nóng bức còn phủ trùm lên cả Drogheda. Đi đến đầu bên kia bãi cỏ, cha Ralph đứng sững lại, ngước mắt nhìn lên trời, tìm kiếm Thượng đế bằng cái ăn ten hoàn toàn bản năng của mình. Đúng rồi, ở một nơi nào đó trên cao, giữa cái chấm li ti phát ra thứ ánh sáng tinh khiết và vời vợi, có gì ở giữa màn đêm này? Chỉ cần nhìn vòm trời đầy sao cũng đã thuyết phục con người tin vào sự vĩnh cửu tồn tại của Chúa. Tất nhiên bà ta có lý. Một kẻ bịp. Đúng thật là một kẻ bịp. Chẳng ra linh mục chẳng ra đàn ông. Phải chi có ai đó thử tìm hiểu thế nào là người này hoặc người kia. Không! Chẳng phải người này, chẳng phải người kia! Linh mục và đàn ông không thể tồn tại chung với nhau - là đàn ông có nghĩa là không là linh mục. Tại sao tôi lại để chân kẹt trong mạng nhện của bà ta? Nọc độc của bà ta thật là dữ dằn, nham hiểm nhiều hơn tôi tưởng tượng. Trong thư chứa đựng điều gì? Có vẻ như bà ta muốn nhử ta! Bà ta đã biết gì, đoán gì? Cái gì ở ta mà bà muốn biết hay muốn đoán? Chỉ có sự trống rỗng và sự cô đơn. Hoài nghi đau khổ. Luôn luôn đau khổ. Tuy nhiên, bà đã lầm rồi bà Mary ạ. Tôi vẫn có khả năng làm người đàn ông, tôi không bất lực. Chẳng qua là tôi đã lựa chọn và tôi đã trải qua nhiều năm tự mình chứng minh rằng cái phút giây nổi dậy của thể xác có thể kìm chế được.
Có ai đó khóc thì thầm trong nghĩa trang. Đúng là Meggie. Cha Ralph kéo cao áo choàng lên, leo qua hàng rào sắt, không cưỡng lại được lòng háo hức muốn gặp Meggie vì tối qua ông chưa kịp từ giã. Bản tính dửng dưng đùa cợt trở lại với ông, bà ta không thể nào kéo ông ra khỏi cái bóng hình vẫn ám ảnh ông. Con nhện già nham hiểm! Cầu Chúa trừng phạt bà ta bị rữa thây ra. Bị rữa thây ra.
- Meggie thương yêu, đừng khóc nữa - ông ngồi xuống cạnh cô gái trêm thảm cỏ ướt đẫm sương. Cha đoán chắc con không mang theo khăn tay. Cầm lấy khăn của cha, lau nước mắt đi, ngoan nào.
Meggie cầm mảnh vải và vâng lời lau nước mắt.
- Con chưa thay cả chiếc áo đẹp này à. Con ngồi đây từ nửa đêm phải không?
- Con nói với hai anh là con đi ngủ.
- Thế thì tại sao con ra đây? Có chuyện gì hả Meggie?
- Hồi hôm, cha không nói với con một lời.
Xa xa về phía Đông trời ửng lên chút ánh sáng màu ngọc trai.
Mấy con gà trống ở Drogheda đón hiệu bình minh bằng tiếng gáy rát cả cổ họng. Bấy giờ cha Ralph nhìn rõ dấu vết của những giọt nước mắt đêm qua không làm mờ được ánh mắt tuyệt đẹp của Meggie.
- Meggie, trong buổi tiếp tân đêm qua, con là cô gái xinh đẹp nhất, không có ai sánh bằng. Nhưng người ta cũng biết cha thường đến Drogheda nhiều hơn là công việc thật sự đòi hỏi. Cha là linh mục, vì thế, cha đứng trên mọi sự nghi ngờ. Tuy nhiên, cha e người ta không nhìn các sự việc bằng con mắt ấy. Trong các linh mục, cha được coi là người còn trẻ và dễ coi. Nếu cha chú ý và con một chút thôi thì cả Gilly này sẽ biết tức khắc. Rồi tất cả các đường dây điện thoại sẽ loan truyền tin ấy. Con có hiểu cha nói gì không?
Meggie lắc đầu, những lọn tóc quăn óng ánh càng lúc càng rực rỡ dưới ánh mặt trời.
- Con còn quá trẻ để hiểu các chuyện rắc rối của đời này - ông nói tiếp - nhưng cha phải cho con biết dần. Và hình như, cũng lại chính cha là người dạy dỗ con. Điều mà cha muốn con phải hiểu là dư luận đồn đãi rằng cha chú ý đến con với tư cách đàn ông, chứ không phải với tư cách linh mục.
- Thưa cha...
- Ghê tởm, phải không Meggie? - ông mỉm cười - nhưng đó là điều mà họ nói, cha đoan chắc với con thế. Con phải hiểu, Meggie, con không còn là đứa trẻ con nữa, con là một cô gái. Thế nhưng con lại chưa biết che giấu tình cảm mà cha dành cho con, nếu cha đến gần con, nói chuyện với con trước nhiều người đang theo dõi thì ánh mắt của con sẽ tự thú con ngay, và người ta không thể không hiểu sai trái thái độ của con.
Meggie nhìn cha Ralph một cách hơi kỳ lạ, không thể nào hiểu được. Meggie quay đi nơi khác và cha Ralph chỉ nhìn thấy một nửa gương mặt.
- Vâng, con đã hiểu. Trước đây con thật là ngu đần không hiểu điều ấy.
- Con thấy đã đến lúc phải về nhà chưa? Hiện giờ hầu hết mọi người còn ngủ nướng trên giường, nhưng lỡ có ai thức dậy sớm như mọi khi, con lại gặp rắc rối đấy. Con không thể nói con vừa đi với cha về mà cũng không thể nói con đã có mặt ở nhà, Meggie ạ.
Meggie đứng lên, bất động một lúc, mắt nhìn xuống cha Ralph.
- Con đi đây, thưa cha. Nhưng con cầu mong mọi người hiểu cha hơn, như thế sẽ không ai đặt điều những chuyện như thế về cha. Nhưng có phải cha không hề vấn vương những ý tưởng như vậy?
Do một chuyện gì đó, câu hỏi của Meggie làm tổn thương ông, tổn thương nặng nề, hậu quả của nó còn hơn cả những lời châm chọc ác độc của Mary Carson.
- Không, Meggie. Con nói đúng. Cha không hề nuôi những ý tưởng như thế. Không, cha hoàn toàn không nghĩ đến. Con về đi, Meggie. Con về nhà đi!
Cha Ralph nhìn theo Meggie đang chạy giữa các nấm mồ, rồi trèo qua hàng rào thấp. Dưới lớp áo dài thêu những bông hoa hồng, thân hình của Meggie đẹp dịu dàng, đầy nữ tính và một chút gì đó như không thật.
Vào xế chiều cha Ralph có cảm giác một bàn tay chạm nhẹ vào vai. Ông giơ tay định nắm lấy nhưng vẫn không đủ nghị lực để mở mắt ra. Ông muốn giữ lại bàn tay ấy trên má mình.
- Meggie, ông thì thầm.
- Thưa cha, thưa cha! Cha ơi hãy thức dậy!
Giọng nói của bà Smith kéo ông ra khỏi cơn mê ngủ và ông tìm lại ngay sự tỉnh táo.
- Chuyện gì đó bà Smith?
- Bà Mary Carson... thưa cha. Bà đã chết.
Đồng hồ đeo tay của ông chỉ sáu giờ hơn. Còn ngái ngủ và mỏi mệt bởi cái nóng nặng nề của ban ngày, cha Ralph vội vàng cởi bộ đồ ngủ và mặc vào chiếc áo chùng, choàng lên cổ chiếc khăn lễ, lấy dầu làm lễ xức nước thánh, cây thánh giá lớn bằng bạc, tràng chuỗi hạt màu đen. Ông không cho rằng bà Smith lầm lẫn. Ông biết là con nhện già đã chết. Bà ta có cố tình thúc đẩy cái chết sớm hơn? Nếu như thế, cầu Chúa, bà không để lại một chứng cớ nào rõ rệt và cái chết của bà không làm cho bác sĩ nghi ngờ. Làm lễ xức dầu cho bà ta có ích lợi gì, ông cũng không biết, nhưng dù sao vẫn phải làm điều đó cho bà. Nếu ông từ chối làm lễ, thì sẽ có cuộc điều tra, và rồi sẽ đẻ ra đủ thứ chuyện rắc rối. Ông cho rằng bà Mary chết vì tự tử, thế thì làm lễ thánh trên thi thể của bà là một sự xúc phạm đến những gì thiêng liêng nhất.
Bà ta đã chết thật. Có lẽ đã chết vài phút sau khi cha Ralph từ giã, như vậy là cách đây khoảng mười tiếng đồng hồ. Các cửa sổ đều đóng thật kín, trong phòng có mùi ẩm của hơi nước chứa trong mấy chiếc chậu. Khi còn sống bà vẫn làm như thế để giữ cho da luôn mát và mịn. Có tiếng vo vo lạ tai trong không khí, sau một lúc ngơ ngác, cha Ralph nhận ra đó là tiếng ruồi bay; từng đàn lượn quanh, kéo nhau bu lại thưởng thức buổi tiệc thịnh soạn trên thi thể của bà Mary. Chúng bay qua lại, ghép đôi và đẻ trứng trên cơ thể đã lạnh của bà.
- Vì tình thương của Chúa, bà Smith hãy mở cửa sổ ra.
Cha Ralph kêu lên, hơi thở dồn dập. Mặt tái nhợt, ông đến gần giường. Một mùi hôi thối khó chịu hơn cả con ngựa chết ở ngoài bãi. Ông ghê tởm không dám chạm vào thi thể của bà cũng như ông đang ghê tởm không dám chạm vào người bà khi bà còn sống, nhất là trên hai môi lúc nhúc đầy trứng ruồi.
Cuối cùng thì mọi việc đều xong xuôi. Cha Ralph đứng thẳng người lên:
- Bà Smith, chạy đi báo cho ông Cleary hay, nói với ông ấy ra lệnh cho các con trai đóng ngay một quan tài. Chúng ta không còn thời giờ để chờ mang quan tài từ Gilly đến, thi thể của bà đang thối ra. Lạy Chúa! Tôi muốn nôn ra và phải đi tắm ngay. Tôi để quần áo ở ngoài cửa, bà hãy đem đốt giùm tôi. Mãi mãi tôi không thể tẩy xóa được mùi hôi thối thấm vào người tôi.
Trở về phòng riêng, cha Ralph mặc chiếc quần đi ngựa và áo sơ mi, bỗng ông nhớ lại phong thư và lời thề của mình.
Phong bì chứa bốn tờ giấy; ông mở từng tờ và nhận ra ngay hai tờ sau là di chúc của Mary Carson. Hai tờ đầu dưới hình thức thư riêng, viết cho ông.
Ralph thân mến của tôi,
Như ông đã nhận ra, văn bản thứ hai chứa đựng trong phong bì này là di chúc của tôi. Tôi có lập một di chúc khác, ký tên và đóng khằn lại hoàn toàn có giá trị, hiện nằm tại văn phòng của Harry Gough ở Gilly. Di chúc trong phong bì này được lập sau đó rất lâu, và tất nhiên nó có giá trị vô hiệu hóa di chúc mà Harry đang giữ.
Thật ra, tôi đã lập di chúc thứ hai chỉ cách đây mấy ngày. Tôi đã yêu cầu Tom và người thợ làm hàng rào ký tên dưới di chúc với tư cách người làm chứng; vì tôi hiểu biết rằng không thể gọi người được thừa hưởng để làm thủ tục này. Văn bản hoàn toàn hợp pháp dù rằng người lập không phải là Harry. Không một tòa án nào trong cả nước, có thể phủ nhận giá trị của bản di chúc sau, tôi cam đoan với ông như thế. Nhưng tại sao tôi không yêu cầu Harry lập di chúc này nếu tôi muốn sửa đổi nội dung của di chúc thứ nhất? Lý do thật đơn giản, Ralph thân mến của tôi. Tôi thật lòng muốn không một ai ngoài tôi và ông sẽ biết là có tờ di chúc này. Đây là bản duy nhất và bản này ở trong tay ông. Không một người nào biết được việc này cả, đây là một phần rất quan trọng trong kế hoạch của tôi.
Ông có nhớ đoạn trong kinh thánh kể lại Xa tăng đưa Chúa Jesus Christ lên núi và cám dỗ Người bằng cách hứa trao cho Người cả thế giới? Thật là thú vị nếu tôi biết được tôi có một quyền lực của Xa tăng và tôi có khả năng cám dỗ người tôi yêu (ông có hoài nghi về chuyện Xa tăng yêu Chúa? Tôi thì không) bằng cách trao cho người ấy cả thế giới. Trường hợp của ông đứng trước hai con đường phải chọn đã luôn kích thích suy nghĩ của tôi trong suốt những năm gần đây và khi tôi càng đến gần cái chết thì những gì tôi hình dung trong đầu lại càng mang đến cho tôi nhiều thích thú.
Sau khi đọc tờ di chúc, ông sẽ hiểu tôi nói với ngụ ý gì. Trong khi tôi bị hỏa thiêu dưới địa ngục, bị loại ra khỏi cái thế giới mà hiện giờ tôi biết thì ông vẫn còn sống, nhưng ông cũng sẽ bị thiêu trong một địa ngục của những ngọn lửa dữ dội hơn các ngọn lửa mà không một thần linh nào có thể tạo ra được. Ralph của tôi! Tôi đã tìm hiểu ông đến tận cùng! Rất có thể tôi chẳng làm được việc gì khác nhưng tôi lại rất biết cách hành hạ những người tôi yêu. Và ông là một con mồi vô cùng hấp dẫn so với người chồng quá cố Michael thân yêu của tôi.
Khi tôi mới biết ông, ông có ý muốn chiếm đoạt Drogheda và tiền bạc của tôi, phải không Ralph? ông coi cả hai là một phương tiện giúp ông mua cái quyền đạt tới giá trị mà ông mong muốn. Nhưng lúc đó, Meggie xuất hiện và ông đã loại ngay trong đầu ông mọi ý nghĩ mua chuộc tôi, phải thế không? Tôi đã trở thành cái bình phong cho các cuộc lui tới của ông ở Drogheda, tạo cơ hội cho ông gặp cô bé ấy. Tôi tự hỏi ông có dễ dàng thay đổi sự trung thành của ông hay không nếu ông biết đích xác tôi có một tài sản lớn như thế nào. Ông hoài nghi phải không Ralph? Tôi nghĩ rằng ông không tin điều đó. Đúng là rất khó coi về phía người để lại di chúc khi phải kê khai giá trị chính xác của di sản, nhưng theo đánh giá của tôi, tôi thấy tốt hơn cứ nêu ra đây giúp ông an tâm biết rằng ông có đủ các dữ kiện để lấy một quyết định khi thời điểm đến. Nếu có sai lệch cũng chỉ khoảng vài trăm ngàn bảng, tài sản của tôi lên tới trên 13 triệu đồng sterling.
Tôi đang viết cuối trang hai và tôi không có ý định nán lại lâu hơn nữa với lá thư này. Hãy đọc di chúc tôi, Ralph. Và khi đã đọc xong, ông cứ quyết định lấy ông sẽ làm gì. Hoặc ông sẽ trao cho Harry Gough để chính thức hóa, hoặc ông đốt nó đi và không nói một lời với bất cứ ai về sự tồn tại của nó? Đây là một quyết định hoàn toàn thuộc quyền của ông. Tôi thấy cần nói thêm rằng di chúc nằm ở văn phòng của Harry đã được tôi thảo ra một năm sau khi Pađy đến đây. Trong di chúc đó, tôi để lại hoàn toàn tài sản cho em trai tôi. Bây giờ thì ông biết chính xác chuyện gì được đặt ra với ông.
Ralph, tôi yêu ông đến mức tôi có thể giết ông vì ông đã xua đuổi tôi, nếu tôi không kịp suy nghĩ lại cách trả thù đó là quá nhẹ nhàng. Tôi không thuộc loại người cao thượng; tôi yêu ông, nhưng tôi muốn ông gào thét lên vì kinh hoàng. Vì rằng, tôi biết rất rõ quyết định mà ông sẽ chọn. Tôi biết một cách chắc chắn như là tôi ở đó đang nhìn ông. Ông sẽ gào thét lên, Ralph, và ông sẽ biết thế nào là nỗi kinh hoàng. Thế thì cứ đọc đi, chàng linh mục đẹp trai đầy tham vọng của tôi! Hãy đọc di chúc của tôi và hãy quyết định số phận của mình.
Lá thư không có chữ ký, kể cả chữ ký tắt. Cha Ralph cảm thấy mồ hôi ướt đẫm trán mình, nhỏ giọt từ gáy xuống lưng. Và ông muốn đứng dậy ngay, đem đốt cả hai văn bản, không cần xem nội dung của tờ di chúc. Nhưng quả thật bà ta hiểu quá nhiều con mồi của mình, cái con nhện già, phục phịch ấy. Tất nhiên rồi linh mục lại tiếp tục đọc văn bản thứ hai. Ông quá tò mò để có thể chống lại sự cám dỗ. Chúa ơi! Ông đã làm gì mà để cho bà ta nhận chìm vào một cơn xoáy kinh khủng như thế? Tại sao phụ nữ lại mang đến cho ông lắm khổ lụy? Tại sao thân xác ông không lùn thấp, tật nguyền, xấu xa? Nếu được như thế, biết đâu ông sẽ hạnh phúc?
Hai tờ giấy kia của di chúc cũng cùng một tuồng chữ nhỏ nhắn và chi li. Cũng ti tiện và hằn thù như lòng dạ đàn bà.
Tôi ký tên dưới đây là Mary Carson, khỏe mạnh và sáng suốt, tuyên bố đây là di chúc của tôi, có giá trị vô hiệu hóa và tiêu hủy các di chúc cũng do tôi lập ra trước đây.
Ngoại trừ các vật di tặng nêu ra dưới đây, tôi để lại toàn bộ động sản và bất động sản cho Tòa thánh La Mã, với những điều kiện sau đây:
Thứ nhất, Tòa thánh La Mã đã nêu trên (dưới đây sẽ gọi tắt là Tòa thánh) phải hiểu rằng tôi đã kính trọng và thương yêu như thế nào người đại diện của Chúa, cha Ralph. Duy nhất vì long nhân đức của cha, do sự biết ơn ở người đã hướng dẫn linh hồn tôi, do sự giúp đỡ mà cha mang đến cho tôi và không bao giờ từ chối, chính vì những lý do ấy mà tôi đã để lại toàn bộ tài sản của tôi cho Tòa thánh.
Thứ hai, Tòa thánh tiếp tục hưởng các quyền lợi của di sản này cho đến khi Tòa Thánh còn thừa nhận phẩm giá và khả năng của cha Ralph nói trên.
Thứ ba, chính cha Ralph đã nêu có trách nhiệm quản lý và điều hành tất cả động sản và bất động sản với tư cách là người quản lý chính của di sản này.
Thứ tư, nếu cha Ralph được nêu trên qua đời thì tờ di chúc của cha sẽ được nhìn nhận về mặt pháp lý liên quan đến sự quản lý tiếp tục tài sản của tôi. Có nghĩa là Tòa thánh vẫn tiếp tục làm chủ tài sản này nhưng linh mục Ralph là người duy nhất có thẩm quyền chỉ định người thay thế cha để quản lý. Không bắt buộc người thay thế cha Ralph phải được chọn trong giáo sĩ hay người ngoài giáo hội, theo đạo Công giáo.
Thứ năm, điền trang Drogheda không được bán hay phân chia.
Thứ sáu, em tôi Padraic Cleary, phải được giữ lại làm người quản lý điền trang Drogheda, được quyền ở lại tòa nhà của tôi và được trả hàng tháng một số tiền lương mà chỉ có cha Ralph biết được mà thôi.
Thứ bảy, trong trường hợp em tôi Padraic Cleary qua đời, thì vợ em tôi và các con em tôi được quyền tiếp tục ở tòa nhà đó và cương vị quản lý điền trang sẽ trao cho các con của em tôi theo thứ tự Rober, John, Hugh, Stuart, James va Patrick; danh sách này loại Francis.
Thứ tám, khi Padraic qua đời và đứa con cuối cùng của em tôi cũng qua đời thì các quyền lợi dành cho Padraic Cleary sẽ được chuyển sang các cháu của em tôi.
Những di tặng riêng.
Để lại cho Padraic Cleary tất cả đồ đạc trong các ngôi nhà nằm trên đất của điền trang Drogheda. Bà Eunice Smith, quản gia của tôi, được quyền ở lại cương vị hiện nay của bà với số lương xứng đáng cho đến khi nào tùy ý muốn của bà, ngoài ra trao ngay cho bà số tiền năm ngàn bảng Anh. Khi bà về hưu, trả cho bà một trợ cấp đầy đủ.
Với Minerva O'' Brien và Catherine Donnelly, cả hai được quyền ở lại cương vị mình cho đến khi nào tùy ý. Trao cho mỗi người một ngàn bảng Anh ngay bây giờ và khi về hưu cả hai nhận một số tiền trợ cấp đầy đủ.
Với cha Ralph, hàng năm hưởng một số tiền là mười ngàn bảng Anh, như thế suốt cả đời, để cho cha sử dụng việc riêng không cần báo cáo.
Tờ di chúc có chữ ký hợp lệ, ghi rõ ngày tháng và có chữ ký người chứng.
Phòng của cha Ralph nhìn ra hướng Tây. Mặt trời đang lặn. Màn bụi mỏng xuất hiện vào mỗi mùa hè phủ lên cả không gian đang chìm trong yên lặng. Các tia mặt trời xuyên qua màn bụi li ti ấy không khác gì những ngón tay, tất cả sáng rực lên màu vàng ánh và màu tía.
- Hoan hô Mary! Ông nói một mình. Bà Mary ơi, tôi phải nhìn nhận là bà đã thắng tôi. Một đòn của bậc sư, tôi là người bị lừa, chứ không phải bà.
Nước mắt rơi xuống từ lúc nào làm cha Ralph không còn nhìn thấy rõ các tờ giấy đang cầm trên tay; ông vội vã đưa ra xa để tránh khỏi bị nhòa.
Mười ba triệu đồng bảng Anh. Mười ba triệu đồng bảng Anh. Đúng lắm, đó là mục tiêu mà ông nhắm đến trước thời gian ông gặp Meggie. Với sự xuất hiện của Meggie, ông đã bỏ rơi kế hoạch vì rằng ông không thể lạnh lùng tiến hành một chiến dịch mà ông biết cuối cùng truất quyền thừa kế của Meggie.
Nhưng nếu ông biết trước chính xác tài sản của con nhện già kếch sù như thế thì ông đã như thế nào? Phản ứng của ông sẽ ra sao? Ông không bao giờ tưởng tượng rằng Mary Carson có thể để lại cho ông một phần mười số tiền này, nói chi mười ba triệu đồng bảng Anh?
Suốt bảy năm, Pađy và gia đình sống âm thầm trong ngôi nhà dành cho viên quản lý. Mọi người trong gia đình làm việc cật lực cho Mary Carson? Vì cái gì? Vì khoản tiền công bủn xỉn của bà ta sao? Chưa một lần cha Ralph chứng kiến Pađy than phiền sự đối xử keo kiệt của người chị, có lẽ Pađy nghĩ rằng ông ta sẽ được đền bù lại khi Mary Carson qua đời. Pađy chịu đựng đến mức quen dần và cuối cùng yêu thương Drogheda như điền trang này cũng sẽ thuộc về ông thôi.
- Mary, bà thật là tinh quái, cha Ralph lặp lại một mình.
Lần đầu tiên kể từ thuở ấu thơ, những giọt nước mắt rơi đầm đìa trên tay ông nhưng không hề rơi lên tờ di chúc.
Mười ba triệu bảng Anh; và còn có cả khả năng trở thành Hồng Y Bricassart. Dĩ nhiên là bằng cách tước đoạt quyền thừa kế của Pađy, vợ ông ta, các con trai ông ta - và Meggie. Trời ơi, hình như bà ta đã hết sức quỷ quái thấy được cả ruột gan của mình! Nếu Mary tước đoạt công sức Pađy, một cách trần trụi, thì con đường của cha Ralph được vạch ra quá rõ ràng: ông ta sẽ cầm ngay tờ di chúc, đứng lên đi xuống bếp, và ném nó vào lò lửa không một chút do dự. Nhưng không, Mary Carson không làm thế, bà lại bảo đảm cho Pađy không túng thiếu, lại có được một cuộc sống dễ thở hơn ở Drogheda sau cái chết của bà ta, mặt khác điền trang này cũng không hẳn truất khỏi tay ông. Thu nhập các loại của điền trang và quyền sở hữu ông không được hưởng, đúng thế, nhưng ông vẫn ở trên đất đó. Vâng, ông không làm chủ cái tài sản kếch sù 13 triệu bảng Anh, nhưng ông vẫn được kính trọng và sống một cách đầy đủ. Meggie không bao giờ đói, không bị tước đoạt tất cả. Có điều là Mary Carson không tạo điều kiện cho Meggie sánh ngang vai với tiểu thư Carmichael và giới thượng lưu thuộc địa. Hoàn toàn được kính trọng, được chấp nhận trong giới giàu sang nhưng không bao giờ thuộc hẳn vào tầng lớp bên trên. Không bao giờ.
Mười ba triệu bảng Anh. Đủ điều kiện để rời bỏ Gillanbone và bóng tối vĩnh cửu, tạo được một vị trí trong hàng chức sắc của Nhà thờ, được lòng những người ngang hàng và cả với các đấng bề trên. Tất cả những điều thuận lợi ấy đến giữa lúc ông còn trẻ, còn có thể tranh thủ những gì bị bỏ dở lâu nay. Mary Carson đã biến Gillanbone thành trung tâm lãnh địa dành riêng cho Đức Tổng giám mục đại diện của Giáo hoàng. Dư âm của sự việc này sẽ vang dội đến Vatican, đó là cách trả thù của bà. Dù cho giáo hội giàu có đến đâu, mười ba triệu bảng Anh vẫn là mười ba triệu bảng Anh. Đó không phải là một số tiền có thể coi nhẹ, dù với giáo hội đi nữa. Và chính cha Ralph là người duy nhất có thể đưa tài sản kếch sù ấy về cho Nhà thờ, ông là người đã được nhìn nhận tờ di chúc; chính bà Mary Carson đoán trước điều đó, cầu Chúa đày mụ già này mục xương dưới địa ngục! Nhưng chắc chắn Pađy sẽ giận dữ, sẽ từ chối nhìn mặt và từ nay chẳng thèm nói một lời nào với ông. Nhưng dù có giận dữ, ông ấy cũng sẽ không kiện được ra tòa.
Thật sự có cần lấy một quyết định không? Quyết định ấy, cha Ralph đã biết rồi. Ngay lúc vừa đọc tờ di chúc ông đã biết sẽ phải phản ứng như thế nào. Nước mắt đã khô ráo. Cha Ralph đứng lên, nhẹ nhàng và gọn gàng như mọi khi, ông xem lại chiếc áo sơ mi bỏ vào quần đã gọn gàng chưa, rồi đến gần cửa. Ông phải đi ngay Gilly, để lấy chiếc áo dòng và các thứ khác để làm lễ tang. Nhưng trước hết, ông phải nhìn mặt Mary lần cuối.
Các cửa sổ vẫn mở toang nhưng mùi hôi thối vẫn xông lên, không có một ngọn gió nhẹ. Đi những bước dứt khoát, ông đến gần giường, nhìn xuống. Những trứng ruồi đẻ đã bắt đầu nở thành dòi, lổn ngổn trên gương mặt có nhiều nơi ẩm ướt. Bàn tay và cánh tay Mary đã sình lên, da nứt ra với những đốm màu xanh tái. Ôi lạy Chúa! Sao con nhện già lại gớm ghiếc như thế. Nhưng mụ sẽ không bao giờ thắng được Meggie của ta, không thể nào tước đoạt ở Meggie những gì không thuộc về mụ. Rất có thể ta cũng bị thiêu ở hỏa ngục kế bên mụ nhưng ta biết trước hỏa ngục dành cho mụ như thế nào: mụ mong muốn vô cùng hai chúng ta sẽ cùng nhau rục xương trong vĩnh cửu nhưng mụ sẽ vẫn thấy ta hết sức dửng dưng trước mụ.
... Cha Ralph trầm ngâm khá lâu, lâu hơn thời gian đi về nhà xứ và trở lại. Trước khi về nhà, ông đã ghé lại nhà của Harry Gough ở Gillanbone.
Harry Gough vừa ngồi vào bàn ăn, đứng dậy và đi thẳng vào phòng khách khi được chị giúp việc báo tin cha Ralph đến.
- Thưa cha, xin mời cha dùng cơm. Có thịt bò nấu nhừ với khoai tây luộc, đặc biệt thịt bò không mặn lắm.
- Không, cảm ơn Harry, tôi không thể dùng cơm với ông được. Tôi ghé qua đây để cho ông biết bà Mary Carson đã mất sáng naỵ
- Chúa ơi! Tôi mới dự buổi tiếp tân của bà tối hôm qua! Bà ta trông khỏe mạnh lắm thưa cha!
- Đúng thế. Bà ta còn rất khỏe khi tôi dìu bà lên cầu thang hồi ba giờ, nhưng hình như bà chết ngay khi nằm xuống. Bà Smith phát hiện điều đó vào lúc sáu giờ chiều hôm nay.
- Ngày mai sẽ chôn?
- Phải, chôn ngày mai.
- Nhờ cha nói cho ông Pađy biết tôi sẽ mang di chúc của bà Mary Carson đến để kịp mở ra đọc ngay sau khi mai táng. Cha cũng là một trong những người được hưởng một phần tài sản, thưa cha. Do đó tôi cũng mời cha chứng kiến lúc đọc di chúc.
- Tôi e rằng chúng ta gặp một chút rắc rối, Harry. Ông có biết không, Mary đã lập một tờ di chúc khác. Tối hôm qua sau khi rời cuộc tiếp tân, bà đã trao lại cho tôi một phong thư được khằn kín và buộc tôi, phải long trọng hứa với bà chỉ mở phong thư ấy ra sau khi tôi biết chắc bà đã qua đời. Tôi đã làm theo ý nguyện của bà và được biết phong thư ấy chứa đựng một di chúc.
- Bà Marry đã lập một di chúc khác? Không có mặt tôi.
- Hình như thế. Theo tôi nghĩ bà ta đã tính việc này từ lâu, nhưng không biết lý do nào đã thúc đẩy bà giữ kín như thế.
- Cha có mang theo di chúc đó không?
- Có.
Cha Ralph đưa tay vào áo rút ra bản di chúc được xếp rất cẩn thận và trao cho Harrỵ
Vị trưởng khế không cần tỏ ra chút tế nhị nào, ông ta đọc ngay tại chỗ. Khi đọc dứt, ông ngước lên nhìn cha Ralph. Linh mục thấy trong mắt ông ta điều mà linh mục chẳng muốn thấy chút nào: sự ngưỡng mộ, sự giận dữ rồi sự khinh bỉ nào đó.
- Thế thì xin có lời chúc mừng cha. Cuối cùng thì cha thừa hưởng trọn tất cả.
Vì không là người công giáo, ông ta tự cho phép mình nhận xét như thế với cha Ralph.
- Này ông Harry, hãy tin tôi, điều này làm cho tôi bất ngờ không kém ông đâu.
- Có phải đây là bản duy nhất?
- Theo tôi biết thì đúng thế.
- Và bà đã trao cho cha lúc khuya đêm qua?
- Vâng.
- Vậy thì tại sao cha không tiêu hủy nó đi để có thể bảo đảm cho Pađy được thừa kế những gì đáng lý thuộc quyền của ông ấy? Nhà thờ không có lý do gì yêu sách tài sản của bà Mary Carson.
Linh mục Ralph nhìn thẳng ông trưởng khế không có chút gì quỷ quyệt:
- Ồ, như thế thì không đúng đắn, Harry! Quyền sử dụng tài sản như thế nào thuộc về bà Mary Carson.
- Tôi sẽ cố vấn cho Pađy đâm đơn kiện chống lại tờ di chúc thứ hai.
- Ông có lý.
Sau câu nói đó hai người chia tay nhau. Sáng hôm sau ngay khi chưa ai đến đưa đám, cả thị trấn Gillanbone và khắp trong vùng đã biết tin tài sản của bà Mary Carson về tay ai. Ván bài đã lật ngửa, hết đường thối lui.
Cha Ralph cho ô tô dừng lại cách dãy phía sau nhà khá xa, ông bước xuống và đi chầm chậm. Các cửa sổ đều có ánh sáng dội ra. Có bóng đen nào đó ở một nơi khuất sau cây đậu tía. Cha Ralph đứng lại, giật mình rởn tóc gáy. Con nhện cái già vẫn có những cái cách riêng của bà ta để gây bất ngờ. Nhưng không, hóa ra là Meggie trong bộ quần áo đi ngựa với đôi giày ống cao đang sốt ruột chờ ông trở lại.
- Con làm cho cha hoảng sợ, ông nói cụt ngủn.
- Con xin lỗi cha. Con không muốn làm thế. Nhưng con cũng không muốn ở trong nhà với ba và các anh con. Mẹ con ở đàng nhà với hai em, đáng lý giờ này con phải cầu kinh với bà Smith, Minnie và Cat, nhưng con không muốn cầu nguyện cho bà Mary. Như thế là có tội phải không cha?
Chính vào lúc ấy cha Ralph không cho phép ông nói điều gì đó làm vui lòng linh hồn của Mary Carson.
- Cha không cho rằng đó là một tội lỗi, Meggie à. Ngược lại, chính sự giả dối mới là có tội. Cha cũng thế, cha không muốn cầu nguyện cho bà ta. Bà ấy... không tốt lắm. Thế thì nếu con mắc tội vì đã nói cho cha biết suy nghĩ của con, thì cha cũng thế, nhưng riêng trong trường hợp của cha thì tội nặng hơn. Tội bắt buộc phải yêu thương mọi người, gánh nặng ấy con không phải gánh như cha.
- Cha có khỏe không?
- Khỏe, tốt lắm, ông vừa nói vừa nhìn lên tòa nhà, sau đó là một tiếng thở dài. Cha cũng không muốn vào trong đó chút nào. Có thế thôi. Cha không muốn ở chung dưới một mái nhà với bà ta cho tới sáng và chờ đợi cho bọn ma quỉ, tối tăm, bị xua đuổi. Nếu ngay bây giờ cha thắng ngựa, con có chịu cùng cha đi dạo cho tới lúc trời sáng không?
Bàn tay của cô gái phớt nhẹ qua tay áo đen rồi để rơi xuống.
- Con cũng vậy, con không muốn vào trong đó.
- Con chờ cha một phút để cha cất chiếc áo chùng vào ôtô.
- Con đi xuống chuồng ngựa.
Lần đầu tiên, cô muốn đối diện với cha Ralph ngay trên tư thế của ông; tư thế của người lớn; còn cha Ralph thì cảm nhận rõ ràng sự thay đổi ở Meggie như cảm nhận hương thơm hoa hồng ngào ngạt trong vười bà Mary Carson. Những hoa hồng. Tro của hoa hồng. Hoa hồng, đâu đâu cũng hoa hồng. Những hoa hồng, về đêm chỉ còn lại hương thơm. Hương thơm của hoa hồng. Meggie thân yêu của ta, ta đã bỏ rơi cô ta. Nhưng cô ta có hiểu không, cô ta đã trở thành một mối đe dọa? Cho nên, ta đã dẫm nát Meggie dưới đế giày tham vọng; Meggie không còn là gì khác hơn là một hoa hồng tan tác trên cỏ. Hương thơm của hoa hồng, mùi ghê tởm của Mary Carson. Hoa hồng và tro của hoa hồng.
- Tro của hoa hồng, ông thì thầm một mình khi ngồi lên lưng ngựa. Chúng ta đi thật xa, mùi thơm của hoa hồng xa cách như mặt trăng. Ngày mai, mùi thơm hoa hồng sẽ ngập tràn cả nhà.
Ông thúc gót giày vào hông ngựa, cho nó đi chầm chậm trước Meggie trên con đường chạy dọc theo bờ suối, lòng nghẹn ngào. Cho đến khi ông nghe mùi hương thơm ngào ngạt của những cụm hồng mà ngày mai đây sẽ phủ kín quan tài của bà Mary Carson, ông vẫn chưa ý thức biến cố sẽ xảy ra thức thời. Ông sẽ phải ra đi ngay. Quá nhiều suy nghĩ, quá nhiều xúc cảm, tất cả không thể dồn nén. Tòa thánh sẽ không để ông mốc meo ở cái xó Gilly này một ngày nào sau khi được biết nội dung tờ di chúc khó có thể tưởng tượng này. Ông sẽ bị gọi về Sydney tức thời. Ngay tức thời! Ông trốn chạy một sự đau khổ; mà lần đầu tiên ông nếm trải. Không phải là chuyện tình cờ nào đó trong tương lai lờ mờ; chuyện này sẽ xảy ra tức khắc. Và ông đã mường tượng ra gương mặt của Pađy, sự ghê tởm hiện lên ở con người tốt bụng ấy, cách né tránh để khỏi phải chạm mặt. Sau đó không bao giờ ông được tiếp đãi nồng hậu tại Drogheda nữa và ông sẽ không bao giờ gặp lại Meggie.
Nhưng rồi tiếng vó ngựa điên cuồng đã mang lại cho cha sự tự tin thường có. Như thế còn hơn, như thế còn hơn, như thế còn hơn. Ngựa phi rồi ngựa lại phi. Đúng vậy, như thế sẽ ít đau khổ hơn, thà ẩn mình trong sự an toàn của một tu phòng nào đó của tòa tổng giám mục và mỗi lúc một ít đau khổ hơn, và càng ít đau khổ hơn cho đến khi nỗi đau trong lòng tan biến. Nên chọn như thế còn hơn là ở lại Gillabone để nhìn thấy Meggie biến thành một con người khác, rồi đến một hôm phải làm phép cưới cho cô ta với một người xa lạ. Hãy để Meggie ra ngoài tầm mắt, ra ngoài suy nghĩ.
... Nhưng vậy thì, ta đang làm gì cho Meggie giữa lúc này, phi ngựa qua các lùm cây và bụi rậm, cách xa con suối? Ông không làm sao hiểu nổi lý do, chỉ nghe trong tim mình nhói đau. Không phải cơn đau so sự phản bội - Meggie không bao giờ làm chuyện đó mà chỉ là nỗi đau của sự chia ly.
- Cha ơi, cha ơi! Con không theo kịp cha! Đừng chạy nhanh quá, thưa cha!
Tiếng gọi của Meggie đứa cha trở về với bổn phận - trở về với thực tế. Cũng như trong một phim quay chậm, ông kéo ngược hàm ngựa để cho nó quay lại và ghìm lại tại chỗ cho đến khi con vật chịu đứng im, cha đứng đó chờ nàng đuổi kịp? Tai họa là thế đó, Meggie đuổi kịp ta không? Hai người dừng lại bên một đầm lớn nước sóng sôi sục mùi lưu huỳnh.
Cha Ralph ngồi trên một khúc gỗ ven bờ, Meggie cũng ngồi xuống theo nhưng cách một khoảng. Cô ta ngồi nghiêng một bên cốt ý có thể quan sát cha Ralph.
- Có chuyện gì đó, thưa cha?
Có cái gì đó hơi lạ, khi nghe một câu mình thường hỏi cô ta. Cha Ralph mỉm cười.
- Cha đã bán con, Meggie nhỏ bé của cha. Bán với giá mười ba triệu bảng Anh.
- Cha đã bán con?
- Một cách hình tượng. Điều đó không quan trọng lắm. Con hãy lại gần đây. Rồi đây chúng ta sẽ không còn kịp để nói chuyện với nhau nữa.
- àcha muốn nói trong suốt thời gian chịu tang chứ gì. Con không thấy có gì khác biệt giữa chuyện có tang và không có tang.
- Cha không nói đến chuyện đó, Meggie ạ.
- Hay là tại con đã lớn và người ta có thể dèm pha chuyện của chúng ta?
- Cũng không đúng như thế đâu. Chẳng qua là cha sẽ ra đi.
Lại thế đấy, thêm một cú định mệnh ngàn cân giáng vào đời cô. Không kêu la, không khóc, không nổi trận cuồng phong phẫn nộ mà chỉ hơi giật nẩy người, giống như cái gánh nặng ngàn cân ấy đặt lệch trên vai khiến Meggie mất thăng bằng. Meggie nén hơi thở, không để buông một tiếng thở dài.
- Khi nào thưa cha?
- Trong vài ngày.
- Cha ơi. Đó là điều khổ tâm cho con hơn cả sự ra đi của Frank.
- Còn với cha thì chưa bao giờ trong đời lại khổ tâm như thế. Cha không có một niềm an ủi nào. Nhưng con, ít ra cũng còn có gia đình.
- Cha có Chúa.
- Con nói hay lắm, Meggia. Con đã thật sự trưởng thành.
Nhưng Meggie thuộc hạng phụ nữ luôn biết mình muốn gì, đeo đẳng bền bỉ một mục đích cho nên cô trở lại một câu hỏi bỏ dở khi hai người phi ngựa trên con đường dài 5 cây số. Ralph ra đi, thật là khó chịu đựng nổi sự vắng mặt ấy, nhưng dù sao Meggie cũng cần đặt ra một câu hỏi.
- Thưa cha, lúc ở chuồng ngựa, cha có nói " tro của hoa hồng". Có phải ý cha muốn nói về màu áo của con?
- Có một phần như thế. Nhưng có lẽ cha muốn nói theo một nghĩa khác.
- Nghĩa nào?
- Thật khó để cho con hiểu, Meggie bé nhỏ của ta. Đó là việc suy nghĩ về một ý tưởng đang chết dần, không được quyền sinh sôi và cũng không được quyền nẩy nở.
- Không có một thứ gì lại không có quyền được sinh ra, kể cả một ý tưởng.
- Nhưng con biết cha định nói gì chứ?
- Có lẽ con biết.
- Không phải tất cả những gì được sinh ra đều tốt, Meggie ạ.
- Không. Cái gì đã sinh ra, thì bản chất nó đã mang cả ý muốn được tồn tại.
- Con nói như một tu sĩ dòng Tên. Con bao nhiêu tuổi rồi nhỉ?
- Một tháng nữa thôi con đã mười bảy tuổi rồi, thưa cha.
- Con trải qua 17 năm khá vất vả. Nhưng thế đấy, những cực nhọc làm cho con người ta trở nên già dặn. Trong những lúc rảnh trí con thường nghĩ gì Meggie?
- Ồ, con nghĩ đến Jimes, Patsy, đến các anh khác của con, đến cha mẹ, nghĩ đến Hal và cô Mary. Đôi khi nghĩ đến chuyện làm sao để có con, con rất thích như thế. Và con nghĩ đến mọi thứ trên đời mà đàn ông thường vẫn đề cập. Rồi thời tiết, mưa, vườn rau, các con gà mái đẻ trứng, và nghĩ đến ngày mai con sẽ làm gì.
- Thế con không nghĩ đến chuyện sẽ lấy chồng à?
- Không, nhưng con lại nghĩ rằng phải có một người chồng nếu con muốn có con. Thật đáng tội nghiệp đứa con không có cha.
Tuy lòng quặn đau, cha Ralph vẫn mỉm cười. Meggie là hiện thân của một sự pha trộn kỳ lạ giữa hiểu biết non nớt và ý thức đạo đức cao cả. Đột nhiên, ông quay lại, nâng cằm Meggie và nhìn thẳng vào mắt cô gái. Làm thế nào đây, phải làm gì đây!
- Con... Meggie chỉ lấp lửng.
Và im lặng.
- Con không nói rằng con đã nghĩ đến cha phải không? Nếu con không cảm thấy điều đó là tội lỗi thì con đã nhắc tên cha cùng một lúc với ba của con. Như vậy, tốt hơn là cha phải đi khỏi nơi đây, con thấy đúng không? Con đã bắt đầu quá cái tuổi để nuôi dưỡng trong đầu một ý thích ngông cuồng kiểu trẻ con mặc dù con rất già dặn so với một cô gái chưa đầy mười bảy tuổi. Cha vui mừng khi thấy con biết gì về những thực tế của cuộc sống, nhưng cha lại hiểu rằng những mối tình vẩn vơ trẻ con cũng gây ra lắm đau khổ. Cha cũng từng trải qua như thế.
Meggie định nói gì nhưng lại thôi, hai con mắt long lanh như muốn khóc, nhìn xuống và lắc đầu.
- Này Meggie, đây chỉ là một chặng đường, một cột mốc dẫn con đến cuộc đời của một người đàn bà. Vài năm nữa con sẽ gặp người nào đó sau này sẽ làm chồng con; con sẽ bận rộn vô cùng để tổ chức cuộc sống. Và khi ấy nếu có nhớ đến cha thì cũng chỉ là nhớ đến như một người bạn trước đây đã giúp mình trải qua cơn khủng hoảng của thời nhỏ. Điều con phải tránh là ước mơ lãng mạn về cha để trở thành thói quen.
Cha không có quyền đối xử với con như một người chồng . Cha không bao giờ nhìn con trong hướng ấy. Meggie, con hiểu lời cha chứ? Khi cha nói cha yêu con, không phải với tư cách một người đàn ông. Vì thế mà con không được mơ mộng về cha. Cha sẽ đi và ít hy vọng có thời giờ trở về Drogheda này, dù là một cuộc thăm viếng bình thường.
Hai vai của cô gái vẫn cụp xuống như thể cái sức nặng từ trên đè xuống quá mức chịu đựng, nhưng Meggie vẫn ngẩng đầu lên nhìn thẳng mặt cha Ralph.
- Con không mơ mộng nữa đâu, cha đừng lo. Con biết cha là linh mục.
- Con biết không, cha không hề nghĩ rằng mình đã chọn lầm sứ mệnh. Nó đã thỏa mãn trong cha một nhu cầu mà không ai có thể làm thỏa mãn được, kể cả con.
- Con biết. Con nhận ra điều đó khi chứng kiến cha hành lễ. Cha có quyền lực. Con tin rằng lúc ấy cha cảm nhận hoàn toàn rằng mình hòa đồng với Đức Chúa Trời.
- Ta nghe rõ từng hơi thở nín lại trong nhà thờ, Meggie ạ. Mỗi ngày, ta chết đi và mỗi sáng ta sống lại khi làm lễ. Có phải chăng chính vì ta là một đấng chăn chiên được Chúa lựa chọn hay vì ta cảm nhận được từng hơi thở bị nén lại và ta đoán được uy quyền của ta đối với những linh hồn tồn tại?
- Điều ấy có gì là quan trọng đâu cha? Như thế đó và chỉ thế thôi?
- Rất có thể điều đó không quan trọng đối với con nhưng với ta thì khác. Ta hoài nghi, hoài nghi.
Nhưng rồi Meggie trở lại điều cô tha thiết nhất.
- Con không biết thiếu cha con sẽ sống ra sao. Bắt đầu là Frank, bây giờ đến cha. Với Hal thì khác, ít ra con biết rằng Hal đã chết và sẽ không bao giờ trở lại. Nhưng cha và Frank đều còn sống! Con sẽ luôn tự hỏi hai người thân thiết nhất đời con ra sao, đang làm gì, mọi chuyện có tốt đẹp cả không, con có giúp gì cho họ không? Con cũng cần biết cha có còn sống không nữa chứ.
- Cha cũng có những băn khoăn ấy Meggie ạ, và cha biết rằng Frank cũng thế thôi.
- Ồ không đâu! Frank đã quên chúng ta. Rồi cha cũng thế thôi, cha sẽ quên chúng con.
- Cha mãi mãi không bao giờ quên con, Meggie, mãi mãi cho đến khi cha còn sống trên cõi đời này. Và đó sẽ là một hình phạt cho cha khi được sống lâu, thật lâu. Đã đến lúc chúng ta từ biệt nhau, Meggie. Chúng ta sẽ không còn có dịp gặp riêng như thế này nữa.
- Nếu cha không phải là linh mục, cha có lấy con làm vợ không?
Nghe nhắc nhở lại tâm trạng cũ, cha Ralph xao xuyến lạ lùng:
- Đừng có lúc nào cũng gọi ta luôn miệng là cha! Meggie có thể gọi ta là Ralph.
Lời nhắc nhở ấy của cha Ralph không là câu trả lời mà Meggie chờ đợi.
Mặc dù áp sát người vào Meggie, ông vẫn không có ý định ôm hôn. Meggie ngước lên nhìn ông đang chìm dần trong bóng đêm dày đặc; trăng đã khuất từ bao giờ. Ralph cảm giác hai đầu nhọn nhỏ nhắn trên ngực Meggie chạm nhẹ vào người ông; một thứ cảm giác kỳ lạ, bối rối. Càng bối rối hơn nữa là Meggie đã áp sát người vào Ralph một cách buông thả của người vợ hằng đêm âu yếm chồng. Rất tự nhiên, hai tay Meggie bấm vào cổ Ralph và ôm Ralph siết mạnh.
Chưa bao giờ cha Ralph đặt lên môi phụ nữ một cái hôn yêu đương nào, ngay cả lúc này đây cũng không muốn như thế. Một chạm nhẹ dịu dàng trên má, một cái siết vội vã giống như những điều mà Meggie thường chờ đợi ở cha ruột mình trước khi ông đi xa. Meggie vừa nhạy cảm lại vừa kiêu hãnh. Cha Ralph vô tình xúc phạm đến cô khi đón nhận một cách lạnh lùng những ước mơ sâu kín nhất mà cô hằng ôm ấp. Đúng thế, cũng như cha Ralph, Meggie mong chấm dứt ngay cái giây phút từ biệt này. Liệu rằng mình có được chút an ủi nào không khi biết được cha Ralph còn chịu nhiều đau khổ hơn trong phút giây này? Khi ông nghiêng đầu xuống hôn lên má Meggie, cô đã nhón chân lên và phải chăng là do tình cờ, môi của Meggie chạm qua môi của Ralph. Đầu cha bật ngược ra sau như vừa nếm phải nọc độc của con nhện; nhưng rồi nhớ sực lại rằng mình sẽ mất Meggie vĩnh viễn, cha Ralph lại cúi đầu sát Meggie, định nói điều gì đó với đôi môi dễ thương và mím chặt ấy. Còn Meggie cố gắng để trả lời, đôi môi hé mở. Cái cơ thể trẻ trung ấy bỗng nhiên như mất đi tất cả những xương thịt, biến thành một thứ chất lỏng, một phần của những bóng đêm ấm áp và tan biến vào đó. Một tay Ralph choàng qua thân người Meggie, bàn tay còn lại, Ralph vuốt ve mái tóc và gáy, giữ cho gương mặt cô ngước nhìn lên, như sợ rằng Meggie có thể thoát đi mất vào ngay giây phút ngắn ngủi này trước khi ông kịp khắc ghi vào tâm khảm sự hiện diện kỳ ảo của Meggie.
Meggie đó nhưng không phải là Meggie, quá xa lạ để mà quen thuộc vì rằng Meggie của cha Ralph chưa là phụ nữ, chưa mang đến cái cảm giác của người phụ nữ và không bao giờ là một phụ nữ đối với ông. Cũng như không thể nào ông là đàn ông đối với cô.
ànghĩ đã chiến thắng những giác quan đang bối rối. Cha Ralph gỡ hai tay đang choàng cổ ông, đẩy nhẹ Meggie ra và tìm cách nhìn vào đôi mắt của cô trong bóng đêm. Nhưng Meggie cúi mặt xuống, từ chối nhìn cha Ralph.
- Đã đến lúc chúng mình phải rời khỏi đây.
Không một lời, Meggie bước đến gần con ngựa, leo lên lưng ngồi chờ; thường khi thì cha Ralph ngồi sẵn để chờ Meggie.
Đúng như cha tiên đoán, tòa nhà ở Drogheda ngập tràn hoa hồng. Các vườn hồng chung quanh đều tập trung hoa về đây. Cha Ralph đã làm lễ Misa với những lời lẽ mà người này thì cho rằng ông đã mỉa mai, người khác thì cho rằng giọng nói ấy chứa đựng đau xót chân thành.
Sau đó chiếc quan tài được đặt lên chiếc xe đẩy thấp. Không ai chịu đưa vai vào khiêng thi hài của bà Mary Carson. Và cũng không có ai tiếc thương khi nhìn thấy hai cánh cửa hầm mộ khép kín lại. Thế là mọi người có thể hít thở tự nhiên.
Trong khi khách khứa tập trung ở gian phòng lớn để ăn lót dạ hay trò chuyện, ông chưởng khế Harry Gough mời Pađy và gia đình, cha Ralph, bà Smith và hai chị giúp việc đến phòng khách.
Vốn người nhân từ tốt bụng, Pađy đã khóc chị, còn bà Fiona, vợ Pađy, thì nét mặt vẫn không thay đổi, như thể kkhông chú ý đến chuyện gì đã xảy ra.
- Pađy, tôi đề nghị ông phản đối tờ di chúc - Harry Gough tuyên bố sau khi đọc trọn văn bản bằng một giọng khô khan và bất mãn.
- Đúng là một con mụ già thối tha và quỷ quái! Bà Smith buột miệng kêu lên.
Mặc dù bà thương cha Ralph nhưng tình cảm của bà Smith vẫn nghiêng về phía gia đình họ Cleary. Dòng họ này đã mang đến cho đời bà niềm vui rộn rã.
Pađy lắc đầu.
- Không, ông Harry! Tôi không làm gì cả. Tài sản này là của chị tôi và chị tôi có toàn quyền quyết định theo ý bà. Nếu chị tôi muốn để lại tất cả cho Nhà thờ thì chúng tôi phải cúi đầu trước ý muốn của bà. Tôi không thể nói dối rằng tôi hoàn toàn không hề thất vọng nhưng tôi chỉ là một người chất phác, cho nên như vậy lại tốt hơn. Tôi thành thật nói rằng tôi không ham nhận trách nhiệm nặng nề cai quản một điền trang rộng bao la như Drogheda.
- Ông không hiểu gì hết Pađy ạ - Harry Gough nói lại bằng cách nhấn mạnh từng lời một như nói với trẻ con - Không phải chỉ có Drogheda, điền trang chỉ là một phần rất nhỏ trong số tài sản mà chị của ông đã để lại. Bà ấy là cổ đông có quyền kiểm soát cả trăm công ty loại lớn; bà còn có những nhà máy đúc thép, những mỏ vàng, hãng Michar Limited mà trụ sở là một tòa nhà chín tầng ở Sydney. Bà chị ông là người giàu có nhất ở Úc! Thật kỳ lạ, chính bà đã nhờ tôi liên hệ với các giám đốc Michar Limited ở Sydney chỉ mới cách đây không đầy một tháng với mục đích xem lại tiền bạc của bà hiện có là bao nhiêu. Vào lúc bà qua đời, tài sản của bà lên tới mười ba triệu bảng Anh.
- Mười ba triệu bảng! Pađy lặp lại con số với giọng xa xôi như khi người ta nhắc tới cái khoảng cách từ mặt đất tới mặt trời, một sự đánh giá không tài nào hình dung nổi. Thế đấy, coi như vấn đề đã giải quyết, Harry. Tôi dứt khoát không muốn đảm trách những công việc quá to lớn ấy.
- Không có công việc to lớn nào phải đảm trách, Pađy! Ông không hiểu à? Với những tài sản như thế sẽ tự quản lý lấy! Ông hoàn toàn khỏi phải quan tâm tới, có hàng trăm nhân viên để lo việc này. Pađy, ông hãy kiện lại tờ di chúc này, tôi tha thiết đề nghị với ông như vậy. Tôi sẽ giới thiệu với ông những luật sư giỏi nhất nước và tôi sẽ hỗ trợ đến cùng, dù phải đến đến tận Hội đồng cơ mật.
Pađy bỗng nhớ lại rằng gia đình ông cũng có quyền phát biểu trong việc này, ông quay sang Bob và Jack, đang há hốc miệng, ngồi cạnh nhau trên một chiếc ghế dài cẩm thạch Ý.
- Này các con, các con nghĩ thế nào? Các con có muốn tìm cách túm lấy cái món béo bở... mười ba triệu bảng của cô Mary không? Nếu các con muốn, ba sẽ kiện phản đối di chúc này, còn không thì ba sẽ rút lui.
- Nhưng dù thế nào thì chúng ta vẫn được quyền tiếp tục sống ở Drogheda, trong di chúc cũng có nói rõ điều đó phải không ba? - Bob hỏi.
- Không ai có quyền đuổi các cậu ra khỏi Drogheda cho đến khi nào ba các cậu còn một người con người cháu ở đây, Harry giải thích.
- Chúng ta sẽ ở đây, trong ngôi nhà lớn với bà Smith và Minnie, Cat. Những người này phục vụ chúng ta và chúng ta lại nhận một số tiền lương cao - Pađy thêm vào, quá sung sướng và hài lòng về sự may mắn của mình và quên đi nỗi bất hạnh.
- Vậy thì còn đòi hỏi gì hơn nữa? Bob hỏi em mình. Em có đồng ý không?
- Với em, như thế là vừa. Jack trả lời ngắn gọn.
Cha Ralph lòng dạ bồn chồn. Không kịp thay bộ đồ làm lễ, ông cũng không kịp ngồi; không khác một pháp sư đẹp và hắc ám; ông đứng trong bóng tối ở cuối phòng, hai tay đút vào áo choàng màu đen; nét mặt sững sờ. Trong tận đáy sâu của tôi mắt xanh xa xôi, đang dồn sự phiền muộn và nỗi kinh hoàng. Sự trừng phạt mà ông chờ đợi một cách giận dữ và khinh bỉ, cuối cùng đã không xảy ra. Pađy đã đặt tất cả trên một mâm bạc, đầy thiện chí, dâng tặng ông lời cảm ơn ông đã lo giùm gánh nặng cho dòng họ Cleary.
- Còn bà Fiona và Meggie thì sao? Linh mục xen vào, lời nói khô khan hướng về phía Pađỵ Phải chăng ông không coi trọng lắm phụ nữ trong gia đình nên không hỏi ý kiến của những người ấy?
- Vậy Fiona, em có ý kiến gì? Pađy lo lắng hỏi.
- Em tuân theo ý kiến của anh, Pađy. Phần em thì sao cũng được.
- Con không cần 13 triệu bảng của bà ta, Meggie trả lời, mắt nhìn chăm chăm cha Ralph.
- Như thế, coi như kết thúc vụ này, Harry - Pađy quay lại nói với viên chưởng khế - Chúng tôi không muốn kiện chống lại tờ di chúc. Tòa thánh cứ thừa hưởng tiền của bà Marry, như thế là rất tốt.
Harry đập hai tay vào nhau.
- Trời đất ơi, tôi đau tận ruột gan khi nhìn thấy ông bị trấn lột.
- Tôi cảm ơn ngôi sao bổn mạng của tôi, Pađy nhỏ nhẹ nói. Nếu không có chị Mary của tôi, thì bây giờ tôi còn phải làm thuê làm mướn cho người này, người nọ để sống ở Tân Tây Lan.
Trước khi rời phòng khách, Pađy gặp cha Ralph, bắt tay linh mục trước bao nhiêu người chăm chú theo dõi từ nãy giờ.
- Thưa cha, xin cha đừng nghĩ rằng chúng tôi có ý nghĩ bất bình gì đối với cha. Suốt cả chiều dài của cuộc đời bà, Mary không hề để cho một ai ảnh hưởng mình, dù người đó là linh mục, em hay chồng. Cha hãy tin tôi và cha cũng rất tốt đối với chúng tôi. Chúng tôi không bao giờ quên.
Mặc cảm tội lỗi. Gánh nặng. Suýt chút nữa cha Ralph quên nằm bàn tay sần sùi mà Pađy đã chìa ra nhưng bộ óc của cha đã kịp giành lại phần thắng; cha Ralph bắt tay và siết thật mạnh, mỉm cười khó nhọc.
- Cám ơn Pađy. Hãy tin chắc rằng tôi sẽ theo dõi sát không để cho gia đình ông thiếu hụt bất cứ thứ gì.
Cha Ralph đi ngay trong tuần lễ ấy và không hề trở lại thăm Drogheda. Ông dành vài ngày để sắp xếp một vài thứ lặt vặt và đi thăm các gia đình công giáo trong vùng, ngoại trừ Drogheda.
Linh mục Watkin Thomas từ xứ Wales tới, thay thế đảm trách giáo xứ Gillanbone, còn cha Ralph de Bricassart trở thành thư ký riêng của tổng giám mục Gluny Dark. Nhưng công việc của cha rất ít; cha có hai người trợ lý. Cha được giao nhiệm vụ xem lại sản nghiệp của bà Mary Carson gồm những gì và giá trị thật sự bao nhiêu vì lợi ích của Tòa thánh
Ngoài kia bình minh chưa rõ nét, kể cả vầng sáng xuất hiện trước đó. Bóng tối êm ái, dày đặc, trong không khí nóng bức còn phủ trùm lên cả Drogheda. Đi đến đầu bên kia bãi cỏ, cha Ralph đứng sững lại, ngước mắt nhìn lên trời, tìm kiếm Thượng đế bằng cái ăn ten hoàn toàn bản năng của mình. Đúng rồi, ở một nơi nào đó trên cao, giữa cái chấm li ti phát ra thứ ánh sáng tinh khiết và vời vợi, có gì ở giữa màn đêm này? Chỉ cần nhìn vòm trời đầy sao cũng đã thuyết phục con người tin vào sự vĩnh cửu tồn tại của Chúa. Tất nhiên bà ta có lý. Một kẻ bịp. Đúng thật là một kẻ bịp. Chẳng ra linh mục chẳng ra đàn ông. Phải chi có ai đó thử tìm hiểu thế nào là người này hoặc người kia. Không! Chẳng phải người này, chẳng phải người kia! Linh mục và đàn ông không thể tồn tại chung với nhau - là đàn ông có nghĩa là không là linh mục. Tại sao tôi lại để chân kẹt trong mạng nhện của bà ta? Nọc độc của bà ta thật là dữ dằn, nham hiểm nhiều hơn tôi tưởng tượng. Trong thư chứa đựng điều gì? Có vẻ như bà ta muốn nhử ta! Bà ta đã biết gì, đoán gì? Cái gì ở ta mà bà muốn biết hay muốn đoán? Chỉ có sự trống rỗng và sự cô đơn. Hoài nghi đau khổ. Luôn luôn đau khổ. Tuy nhiên, bà đã lầm rồi bà Mary ạ. Tôi vẫn có khả năng làm người đàn ông, tôi không bất lực. Chẳng qua là tôi đã lựa chọn và tôi đã trải qua nhiều năm tự mình chứng minh rằng cái phút giây nổi dậy của thể xác có thể kìm chế được.
Có ai đó khóc thì thầm trong nghĩa trang. Đúng là Meggie. Cha Ralph kéo cao áo choàng lên, leo qua hàng rào sắt, không cưỡng lại được lòng háo hức muốn gặp Meggie vì tối qua ông chưa kịp từ giã. Bản tính dửng dưng đùa cợt trở lại với ông, bà ta không thể nào kéo ông ra khỏi cái bóng hình vẫn ám ảnh ông. Con nhện già nham hiểm! Cầu Chúa trừng phạt bà ta bị rữa thây ra. Bị rữa thây ra.
- Meggie thương yêu, đừng khóc nữa - ông ngồi xuống cạnh cô gái trêm thảm cỏ ướt đẫm sương. Cha đoán chắc con không mang theo khăn tay. Cầm lấy khăn của cha, lau nước mắt đi, ngoan nào.
Meggie cầm mảnh vải và vâng lời lau nước mắt.
- Con chưa thay cả chiếc áo đẹp này à. Con ngồi đây từ nửa đêm phải không?
- Con nói với hai anh là con đi ngủ.
- Thế thì tại sao con ra đây? Có chuyện gì hả Meggie?
- Hồi hôm, cha không nói với con một lời.
Xa xa về phía Đông trời ửng lên chút ánh sáng màu ngọc trai.
Mấy con gà trống ở Drogheda đón hiệu bình minh bằng tiếng gáy rát cả cổ họng. Bấy giờ cha Ralph nhìn rõ dấu vết của những giọt nước mắt đêm qua không làm mờ được ánh mắt tuyệt đẹp của Meggie.
- Meggie, trong buổi tiếp tân đêm qua, con là cô gái xinh đẹp nhất, không có ai sánh bằng. Nhưng người ta cũng biết cha thường đến Drogheda nhiều hơn là công việc thật sự đòi hỏi. Cha là linh mục, vì thế, cha đứng trên mọi sự nghi ngờ. Tuy nhiên, cha e người ta không nhìn các sự việc bằng con mắt ấy. Trong các linh mục, cha được coi là người còn trẻ và dễ coi. Nếu cha chú ý và con một chút thôi thì cả Gilly này sẽ biết tức khắc. Rồi tất cả các đường dây điện thoại sẽ loan truyền tin ấy. Con có hiểu cha nói gì không?
Meggie lắc đầu, những lọn tóc quăn óng ánh càng lúc càng rực rỡ dưới ánh mặt trời.
- Con còn quá trẻ để hiểu các chuyện rắc rối của đời này - ông nói tiếp - nhưng cha phải cho con biết dần. Và hình như, cũng lại chính cha là người dạy dỗ con. Điều mà cha muốn con phải hiểu là dư luận đồn đãi rằng cha chú ý đến con với tư cách đàn ông, chứ không phải với tư cách linh mục.
- Thưa cha...
- Ghê tởm, phải không Meggie? - ông mỉm cười - nhưng đó là điều mà họ nói, cha đoan chắc với con thế. Con phải hiểu, Meggie, con không còn là đứa trẻ con nữa, con là một cô gái. Thế nhưng con lại chưa biết che giấu tình cảm mà cha dành cho con, nếu cha đến gần con, nói chuyện với con trước nhiều người đang theo dõi thì ánh mắt của con sẽ tự thú con ngay, và người ta không thể không hiểu sai trái thái độ của con.
Meggie nhìn cha Ralph một cách hơi kỳ lạ, không thể nào hiểu được. Meggie quay đi nơi khác và cha Ralph chỉ nhìn thấy một nửa gương mặt.
- Vâng, con đã hiểu. Trước đây con thật là ngu đần không hiểu điều ấy.
- Con thấy đã đến lúc phải về nhà chưa? Hiện giờ hầu hết mọi người còn ngủ nướng trên giường, nhưng lỡ có ai thức dậy sớm như mọi khi, con lại gặp rắc rối đấy. Con không thể nói con vừa đi với cha về mà cũng không thể nói con đã có mặt ở nhà, Meggie ạ.
Meggie đứng lên, bất động một lúc, mắt nhìn xuống cha Ralph.
- Con đi đây, thưa cha. Nhưng con cầu mong mọi người hiểu cha hơn, như thế sẽ không ai đặt điều những chuyện như thế về cha. Nhưng có phải cha không hề vấn vương những ý tưởng như vậy?
Do một chuyện gì đó, câu hỏi của Meggie làm tổn thương ông, tổn thương nặng nề, hậu quả của nó còn hơn cả những lời châm chọc ác độc của Mary Carson.
- Không, Meggie. Con nói đúng. Cha không hề nuôi những ý tưởng như thế. Không, cha hoàn toàn không nghĩ đến. Con về đi, Meggie. Con về nhà đi!
Cha Ralph nhìn theo Meggie đang chạy giữa các nấm mồ, rồi trèo qua hàng rào thấp. Dưới lớp áo dài thêu những bông hoa hồng, thân hình của Meggie đẹp dịu dàng, đầy nữ tính và một chút gì đó như không thật.
Vào xế chiều cha Ralph có cảm giác một bàn tay chạm nhẹ vào vai. Ông giơ tay định nắm lấy nhưng vẫn không đủ nghị lực để mở mắt ra. Ông muốn giữ lại bàn tay ấy trên má mình.
- Meggie, ông thì thầm.
- Thưa cha, thưa cha! Cha ơi hãy thức dậy!
Giọng nói của bà Smith kéo ông ra khỏi cơn mê ngủ và ông tìm lại ngay sự tỉnh táo.
- Chuyện gì đó bà Smith?
- Bà Mary Carson... thưa cha. Bà đã chết.
Đồng hồ đeo tay của ông chỉ sáu giờ hơn. Còn ngái ngủ và mỏi mệt bởi cái nóng nặng nề của ban ngày, cha Ralph vội vàng cởi bộ đồ ngủ và mặc vào chiếc áo chùng, choàng lên cổ chiếc khăn lễ, lấy dầu làm lễ xức nước thánh, cây thánh giá lớn bằng bạc, tràng chuỗi hạt màu đen. Ông không cho rằng bà Smith lầm lẫn. Ông biết là con nhện già đã chết. Bà ta có cố tình thúc đẩy cái chết sớm hơn? Nếu như thế, cầu Chúa, bà không để lại một chứng cớ nào rõ rệt và cái chết của bà không làm cho bác sĩ nghi ngờ. Làm lễ xức dầu cho bà ta có ích lợi gì, ông cũng không biết, nhưng dù sao vẫn phải làm điều đó cho bà. Nếu ông từ chối làm lễ, thì sẽ có cuộc điều tra, và rồi sẽ đẻ ra đủ thứ chuyện rắc rối. Ông cho rằng bà Mary chết vì tự tử, thế thì làm lễ thánh trên thi thể của bà là một sự xúc phạm đến những gì thiêng liêng nhất.
Bà ta đã chết thật. Có lẽ đã chết vài phút sau khi cha Ralph từ giã, như vậy là cách đây khoảng mười tiếng đồng hồ. Các cửa sổ đều đóng thật kín, trong phòng có mùi ẩm của hơi nước chứa trong mấy chiếc chậu. Khi còn sống bà vẫn làm như thế để giữ cho da luôn mát và mịn. Có tiếng vo vo lạ tai trong không khí, sau một lúc ngơ ngác, cha Ralph nhận ra đó là tiếng ruồi bay; từng đàn lượn quanh, kéo nhau bu lại thưởng thức buổi tiệc thịnh soạn trên thi thể của bà Mary. Chúng bay qua lại, ghép đôi và đẻ trứng trên cơ thể đã lạnh của bà.
- Vì tình thương của Chúa, bà Smith hãy mở cửa sổ ra.
Cha Ralph kêu lên, hơi thở dồn dập. Mặt tái nhợt, ông đến gần giường. Một mùi hôi thối khó chịu hơn cả con ngựa chết ở ngoài bãi. Ông ghê tởm không dám chạm vào thi thể của bà cũng như ông đang ghê tởm không dám chạm vào người bà khi bà còn sống, nhất là trên hai môi lúc nhúc đầy trứng ruồi.
Cuối cùng thì mọi việc đều xong xuôi. Cha Ralph đứng thẳng người lên:
- Bà Smith, chạy đi báo cho ông Cleary hay, nói với ông ấy ra lệnh cho các con trai đóng ngay một quan tài. Chúng ta không còn thời giờ để chờ mang quan tài từ Gilly đến, thi thể của bà đang thối ra. Lạy Chúa! Tôi muốn nôn ra và phải đi tắm ngay. Tôi để quần áo ở ngoài cửa, bà hãy đem đốt giùm tôi. Mãi mãi tôi không thể tẩy xóa được mùi hôi thối thấm vào người tôi.
Trở về phòng riêng, cha Ralph mặc chiếc quần đi ngựa và áo sơ mi, bỗng ông nhớ lại phong thư và lời thề của mình.
Phong bì chứa bốn tờ giấy; ông mở từng tờ và nhận ra ngay hai tờ sau là di chúc của Mary Carson. Hai tờ đầu dưới hình thức thư riêng, viết cho ông.
Ralph thân mến của tôi,
Như ông đã nhận ra, văn bản thứ hai chứa đựng trong phong bì này là di chúc của tôi. Tôi có lập một di chúc khác, ký tên và đóng khằn lại hoàn toàn có giá trị, hiện nằm tại văn phòng của Harry Gough ở Gilly. Di chúc trong phong bì này được lập sau đó rất lâu, và tất nhiên nó có giá trị vô hiệu hóa di chúc mà Harry đang giữ.
Thật ra, tôi đã lập di chúc thứ hai chỉ cách đây mấy ngày. Tôi đã yêu cầu Tom và người thợ làm hàng rào ký tên dưới di chúc với tư cách người làm chứng; vì tôi hiểu biết rằng không thể gọi người được thừa hưởng để làm thủ tục này. Văn bản hoàn toàn hợp pháp dù rằng người lập không phải là Harry. Không một tòa án nào trong cả nước, có thể phủ nhận giá trị của bản di chúc sau, tôi cam đoan với ông như thế. Nhưng tại sao tôi không yêu cầu Harry lập di chúc này nếu tôi muốn sửa đổi nội dung của di chúc thứ nhất? Lý do thật đơn giản, Ralph thân mến của tôi. Tôi thật lòng muốn không một ai ngoài tôi và ông sẽ biết là có tờ di chúc này. Đây là bản duy nhất và bản này ở trong tay ông. Không một người nào biết được việc này cả, đây là một phần rất quan trọng trong kế hoạch của tôi.
Ông có nhớ đoạn trong kinh thánh kể lại Xa tăng đưa Chúa Jesus Christ lên núi và cám dỗ Người bằng cách hứa trao cho Người cả thế giới? Thật là thú vị nếu tôi biết được tôi có một quyền lực của Xa tăng và tôi có khả năng cám dỗ người tôi yêu (ông có hoài nghi về chuyện Xa tăng yêu Chúa? Tôi thì không) bằng cách trao cho người ấy cả thế giới. Trường hợp của ông đứng trước hai con đường phải chọn đã luôn kích thích suy nghĩ của tôi trong suốt những năm gần đây và khi tôi càng đến gần cái chết thì những gì tôi hình dung trong đầu lại càng mang đến cho tôi nhiều thích thú.
Sau khi đọc tờ di chúc, ông sẽ hiểu tôi nói với ngụ ý gì. Trong khi tôi bị hỏa thiêu dưới địa ngục, bị loại ra khỏi cái thế giới mà hiện giờ tôi biết thì ông vẫn còn sống, nhưng ông cũng sẽ bị thiêu trong một địa ngục của những ngọn lửa dữ dội hơn các ngọn lửa mà không một thần linh nào có thể tạo ra được. Ralph của tôi! Tôi đã tìm hiểu ông đến tận cùng! Rất có thể tôi chẳng làm được việc gì khác nhưng tôi lại rất biết cách hành hạ những người tôi yêu. Và ông là một con mồi vô cùng hấp dẫn so với người chồng quá cố Michael thân yêu của tôi.
Khi tôi mới biết ông, ông có ý muốn chiếm đoạt Drogheda và tiền bạc của tôi, phải không Ralph? ông coi cả hai là một phương tiện giúp ông mua cái quyền đạt tới giá trị mà ông mong muốn. Nhưng lúc đó, Meggie xuất hiện và ông đã loại ngay trong đầu ông mọi ý nghĩ mua chuộc tôi, phải thế không? Tôi đã trở thành cái bình phong cho các cuộc lui tới của ông ở Drogheda, tạo cơ hội cho ông gặp cô bé ấy. Tôi tự hỏi ông có dễ dàng thay đổi sự trung thành của ông hay không nếu ông biết đích xác tôi có một tài sản lớn như thế nào. Ông hoài nghi phải không Ralph? Tôi nghĩ rằng ông không tin điều đó. Đúng là rất khó coi về phía người để lại di chúc khi phải kê khai giá trị chính xác của di sản, nhưng theo đánh giá của tôi, tôi thấy tốt hơn cứ nêu ra đây giúp ông an tâm biết rằng ông có đủ các dữ kiện để lấy một quyết định khi thời điểm đến. Nếu có sai lệch cũng chỉ khoảng vài trăm ngàn bảng, tài sản của tôi lên tới trên 13 triệu đồng sterling.
Tôi đang viết cuối trang hai và tôi không có ý định nán lại lâu hơn nữa với lá thư này. Hãy đọc di chúc tôi, Ralph. Và khi đã đọc xong, ông cứ quyết định lấy ông sẽ làm gì. Hoặc ông sẽ trao cho Harry Gough để chính thức hóa, hoặc ông đốt nó đi và không nói một lời với bất cứ ai về sự tồn tại của nó? Đây là một quyết định hoàn toàn thuộc quyền của ông. Tôi thấy cần nói thêm rằng di chúc nằm ở văn phòng của Harry đã được tôi thảo ra một năm sau khi Pađy đến đây. Trong di chúc đó, tôi để lại hoàn toàn tài sản cho em trai tôi. Bây giờ thì ông biết chính xác chuyện gì được đặt ra với ông.
Ralph, tôi yêu ông đến mức tôi có thể giết ông vì ông đã xua đuổi tôi, nếu tôi không kịp suy nghĩ lại cách trả thù đó là quá nhẹ nhàng. Tôi không thuộc loại người cao thượng; tôi yêu ông, nhưng tôi muốn ông gào thét lên vì kinh hoàng. Vì rằng, tôi biết rất rõ quyết định mà ông sẽ chọn. Tôi biết một cách chắc chắn như là tôi ở đó đang nhìn ông. Ông sẽ gào thét lên, Ralph, và ông sẽ biết thế nào là nỗi kinh hoàng. Thế thì cứ đọc đi, chàng linh mục đẹp trai đầy tham vọng của tôi! Hãy đọc di chúc của tôi và hãy quyết định số phận của mình.
Lá thư không có chữ ký, kể cả chữ ký tắt. Cha Ralph cảm thấy mồ hôi ướt đẫm trán mình, nhỏ giọt từ gáy xuống lưng. Và ông muốn đứng dậy ngay, đem đốt cả hai văn bản, không cần xem nội dung của tờ di chúc. Nhưng quả thật bà ta hiểu quá nhiều con mồi của mình, cái con nhện già, phục phịch ấy. Tất nhiên rồi linh mục lại tiếp tục đọc văn bản thứ hai. Ông quá tò mò để có thể chống lại sự cám dỗ. Chúa ơi! Ông đã làm gì mà để cho bà ta nhận chìm vào một cơn xoáy kinh khủng như thế? Tại sao phụ nữ lại mang đến cho ông lắm khổ lụy? Tại sao thân xác ông không lùn thấp, tật nguyền, xấu xa? Nếu được như thế, biết đâu ông sẽ hạnh phúc?
Hai tờ giấy kia của di chúc cũng cùng một tuồng chữ nhỏ nhắn và chi li. Cũng ti tiện và hằn thù như lòng dạ đàn bà.
Tôi ký tên dưới đây là Mary Carson, khỏe mạnh và sáng suốt, tuyên bố đây là di chúc của tôi, có giá trị vô hiệu hóa và tiêu hủy các di chúc cũng do tôi lập ra trước đây.
Ngoại trừ các vật di tặng nêu ra dưới đây, tôi để lại toàn bộ động sản và bất động sản cho Tòa thánh La Mã, với những điều kiện sau đây:
Thứ nhất, Tòa thánh La Mã đã nêu trên (dưới đây sẽ gọi tắt là Tòa thánh) phải hiểu rằng tôi đã kính trọng và thương yêu như thế nào người đại diện của Chúa, cha Ralph. Duy nhất vì long nhân đức của cha, do sự biết ơn ở người đã hướng dẫn linh hồn tôi, do sự giúp đỡ mà cha mang đến cho tôi và không bao giờ từ chối, chính vì những lý do ấy mà tôi đã để lại toàn bộ tài sản của tôi cho Tòa thánh.
Thứ hai, Tòa thánh tiếp tục hưởng các quyền lợi của di sản này cho đến khi Tòa Thánh còn thừa nhận phẩm giá và khả năng của cha Ralph nói trên.
Thứ ba, chính cha Ralph đã nêu có trách nhiệm quản lý và điều hành tất cả động sản và bất động sản với tư cách là người quản lý chính của di sản này.
Thứ tư, nếu cha Ralph được nêu trên qua đời thì tờ di chúc của cha sẽ được nhìn nhận về mặt pháp lý liên quan đến sự quản lý tiếp tục tài sản của tôi. Có nghĩa là Tòa thánh vẫn tiếp tục làm chủ tài sản này nhưng linh mục Ralph là người duy nhất có thẩm quyền chỉ định người thay thế cha để quản lý. Không bắt buộc người thay thế cha Ralph phải được chọn trong giáo sĩ hay người ngoài giáo hội, theo đạo Công giáo.
Thứ năm, điền trang Drogheda không được bán hay phân chia.
Thứ sáu, em tôi Padraic Cleary, phải được giữ lại làm người quản lý điền trang Drogheda, được quyền ở lại tòa nhà của tôi và được trả hàng tháng một số tiền lương mà chỉ có cha Ralph biết được mà thôi.
Thứ bảy, trong trường hợp em tôi Padraic Cleary qua đời, thì vợ em tôi và các con em tôi được quyền tiếp tục ở tòa nhà đó và cương vị quản lý điền trang sẽ trao cho các con của em tôi theo thứ tự Rober, John, Hugh, Stuart, James va Patrick; danh sách này loại Francis.
Thứ tám, khi Padraic qua đời và đứa con cuối cùng của em tôi cũng qua đời thì các quyền lợi dành cho Padraic Cleary sẽ được chuyển sang các cháu của em tôi.
Những di tặng riêng.
Để lại cho Padraic Cleary tất cả đồ đạc trong các ngôi nhà nằm trên đất của điền trang Drogheda. Bà Eunice Smith, quản gia của tôi, được quyền ở lại cương vị hiện nay của bà với số lương xứng đáng cho đến khi nào tùy ý muốn của bà, ngoài ra trao ngay cho bà số tiền năm ngàn bảng Anh. Khi bà về hưu, trả cho bà một trợ cấp đầy đủ.
Với Minerva O'' Brien và Catherine Donnelly, cả hai được quyền ở lại cương vị mình cho đến khi nào tùy ý. Trao cho mỗi người một ngàn bảng Anh ngay bây giờ và khi về hưu cả hai nhận một số tiền trợ cấp đầy đủ.
Với cha Ralph, hàng năm hưởng một số tiền là mười ngàn bảng Anh, như thế suốt cả đời, để cho cha sử dụng việc riêng không cần báo cáo.
Tờ di chúc có chữ ký hợp lệ, ghi rõ ngày tháng và có chữ ký người chứng.
Phòng của cha Ralph nhìn ra hướng Tây. Mặt trời đang lặn. Màn bụi mỏng xuất hiện vào mỗi mùa hè phủ lên cả không gian đang chìm trong yên lặng. Các tia mặt trời xuyên qua màn bụi li ti ấy không khác gì những ngón tay, tất cả sáng rực lên màu vàng ánh và màu tía.
- Hoan hô Mary! Ông nói một mình. Bà Mary ơi, tôi phải nhìn nhận là bà đã thắng tôi. Một đòn của bậc sư, tôi là người bị lừa, chứ không phải bà.
Nước mắt rơi xuống từ lúc nào làm cha Ralph không còn nhìn thấy rõ các tờ giấy đang cầm trên tay; ông vội vã đưa ra xa để tránh khỏi bị nhòa.
Mười ba triệu đồng bảng Anh. Mười ba triệu đồng bảng Anh. Đúng lắm, đó là mục tiêu mà ông nhắm đến trước thời gian ông gặp Meggie. Với sự xuất hiện của Meggie, ông đã bỏ rơi kế hoạch vì rằng ông không thể lạnh lùng tiến hành một chiến dịch mà ông biết cuối cùng truất quyền thừa kế của Meggie.
Nhưng nếu ông biết trước chính xác tài sản của con nhện già kếch sù như thế thì ông đã như thế nào? Phản ứng của ông sẽ ra sao? Ông không bao giờ tưởng tượng rằng Mary Carson có thể để lại cho ông một phần mười số tiền này, nói chi mười ba triệu đồng bảng Anh?
Suốt bảy năm, Pađy và gia đình sống âm thầm trong ngôi nhà dành cho viên quản lý. Mọi người trong gia đình làm việc cật lực cho Mary Carson? Vì cái gì? Vì khoản tiền công bủn xỉn của bà ta sao? Chưa một lần cha Ralph chứng kiến Pađy than phiền sự đối xử keo kiệt của người chị, có lẽ Pađy nghĩ rằng ông ta sẽ được đền bù lại khi Mary Carson qua đời. Pađy chịu đựng đến mức quen dần và cuối cùng yêu thương Drogheda như điền trang này cũng sẽ thuộc về ông thôi.
- Mary, bà thật là tinh quái, cha Ralph lặp lại một mình.
Lần đầu tiên kể từ thuở ấu thơ, những giọt nước mắt rơi đầm đìa trên tay ông nhưng không hề rơi lên tờ di chúc.
Mười ba triệu bảng Anh; và còn có cả khả năng trở thành Hồng Y Bricassart. Dĩ nhiên là bằng cách tước đoạt quyền thừa kế của Pađy, vợ ông ta, các con trai ông ta - và Meggie. Trời ơi, hình như bà ta đã hết sức quỷ quái thấy được cả ruột gan của mình! Nếu Mary tước đoạt công sức Pađy, một cách trần trụi, thì con đường của cha Ralph được vạch ra quá rõ ràng: ông ta sẽ cầm ngay tờ di chúc, đứng lên đi xuống bếp, và ném nó vào lò lửa không một chút do dự. Nhưng không, Mary Carson không làm thế, bà lại bảo đảm cho Pađy không túng thiếu, lại có được một cuộc sống dễ thở hơn ở Drogheda sau cái chết của bà ta, mặt khác điền trang này cũng không hẳn truất khỏi tay ông. Thu nhập các loại của điền trang và quyền sở hữu ông không được hưởng, đúng thế, nhưng ông vẫn ở trên đất đó. Vâng, ông không làm chủ cái tài sản kếch sù 13 triệu bảng Anh, nhưng ông vẫn được kính trọng và sống một cách đầy đủ. Meggie không bao giờ đói, không bị tước đoạt tất cả. Có điều là Mary Carson không tạo điều kiện cho Meggie sánh ngang vai với tiểu thư Carmichael và giới thượng lưu thuộc địa. Hoàn toàn được kính trọng, được chấp nhận trong giới giàu sang nhưng không bao giờ thuộc hẳn vào tầng lớp bên trên. Không bao giờ.
Mười ba triệu bảng Anh. Đủ điều kiện để rời bỏ Gillanbone và bóng tối vĩnh cửu, tạo được một vị trí trong hàng chức sắc của Nhà thờ, được lòng những người ngang hàng và cả với các đấng bề trên. Tất cả những điều thuận lợi ấy đến giữa lúc ông còn trẻ, còn có thể tranh thủ những gì bị bỏ dở lâu nay. Mary Carson đã biến Gillanbone thành trung tâm lãnh địa dành riêng cho Đức Tổng giám mục đại diện của Giáo hoàng. Dư âm của sự việc này sẽ vang dội đến Vatican, đó là cách trả thù của bà. Dù cho giáo hội giàu có đến đâu, mười ba triệu bảng Anh vẫn là mười ba triệu bảng Anh. Đó không phải là một số tiền có thể coi nhẹ, dù với giáo hội đi nữa. Và chính cha Ralph là người duy nhất có thể đưa tài sản kếch sù ấy về cho Nhà thờ, ông là người đã được nhìn nhận tờ di chúc; chính bà Mary Carson đoán trước điều đó, cầu Chúa đày mụ già này mục xương dưới địa ngục! Nhưng chắc chắn Pađy sẽ giận dữ, sẽ từ chối nhìn mặt và từ nay chẳng thèm nói một lời nào với ông. Nhưng dù có giận dữ, ông ấy cũng sẽ không kiện được ra tòa.
Thật sự có cần lấy một quyết định không? Quyết định ấy, cha Ralph đã biết rồi. Ngay lúc vừa đọc tờ di chúc ông đã biết sẽ phải phản ứng như thế nào. Nước mắt đã khô ráo. Cha Ralph đứng lên, nhẹ nhàng và gọn gàng như mọi khi, ông xem lại chiếc áo sơ mi bỏ vào quần đã gọn gàng chưa, rồi đến gần cửa. Ông phải đi ngay Gilly, để lấy chiếc áo dòng và các thứ khác để làm lễ tang. Nhưng trước hết, ông phải nhìn mặt Mary lần cuối.
Các cửa sổ vẫn mở toang nhưng mùi hôi thối vẫn xông lên, không có một ngọn gió nhẹ. Đi những bước dứt khoát, ông đến gần giường, nhìn xuống. Những trứng ruồi đẻ đã bắt đầu nở thành dòi, lổn ngổn trên gương mặt có nhiều nơi ẩm ướt. Bàn tay và cánh tay Mary đã sình lên, da nứt ra với những đốm màu xanh tái. Ôi lạy Chúa! Sao con nhện già lại gớm ghiếc như thế. Nhưng mụ sẽ không bao giờ thắng được Meggie của ta, không thể nào tước đoạt ở Meggie những gì không thuộc về mụ. Rất có thể ta cũng bị thiêu ở hỏa ngục kế bên mụ nhưng ta biết trước hỏa ngục dành cho mụ như thế nào: mụ mong muốn vô cùng hai chúng ta sẽ cùng nhau rục xương trong vĩnh cửu nhưng mụ sẽ vẫn thấy ta hết sức dửng dưng trước mụ.
... Cha Ralph trầm ngâm khá lâu, lâu hơn thời gian đi về nhà xứ và trở lại. Trước khi về nhà, ông đã ghé lại nhà của Harry Gough ở Gillanbone.
Harry Gough vừa ngồi vào bàn ăn, đứng dậy và đi thẳng vào phòng khách khi được chị giúp việc báo tin cha Ralph đến.
- Thưa cha, xin mời cha dùng cơm. Có thịt bò nấu nhừ với khoai tây luộc, đặc biệt thịt bò không mặn lắm.
- Không, cảm ơn Harry, tôi không thể dùng cơm với ông được. Tôi ghé qua đây để cho ông biết bà Mary Carson đã mất sáng naỵ
- Chúa ơi! Tôi mới dự buổi tiếp tân của bà tối hôm qua! Bà ta trông khỏe mạnh lắm thưa cha!
- Đúng thế. Bà ta còn rất khỏe khi tôi dìu bà lên cầu thang hồi ba giờ, nhưng hình như bà chết ngay khi nằm xuống. Bà Smith phát hiện điều đó vào lúc sáu giờ chiều hôm nay.
- Ngày mai sẽ chôn?
- Phải, chôn ngày mai.
- Nhờ cha nói cho ông Pađy biết tôi sẽ mang di chúc của bà Mary Carson đến để kịp mở ra đọc ngay sau khi mai táng. Cha cũng là một trong những người được hưởng một phần tài sản, thưa cha. Do đó tôi cũng mời cha chứng kiến lúc đọc di chúc.
- Tôi e rằng chúng ta gặp một chút rắc rối, Harry. Ông có biết không, Mary đã lập một tờ di chúc khác. Tối hôm qua sau khi rời cuộc tiếp tân, bà đã trao lại cho tôi một phong thư được khằn kín và buộc tôi, phải long trọng hứa với bà chỉ mở phong thư ấy ra sau khi tôi biết chắc bà đã qua đời. Tôi đã làm theo ý nguyện của bà và được biết phong thư ấy chứa đựng một di chúc.
- Bà Marry đã lập một di chúc khác? Không có mặt tôi.
- Hình như thế. Theo tôi nghĩ bà ta đã tính việc này từ lâu, nhưng không biết lý do nào đã thúc đẩy bà giữ kín như thế.
- Cha có mang theo di chúc đó không?
- Có.
Cha Ralph đưa tay vào áo rút ra bản di chúc được xếp rất cẩn thận và trao cho Harrỵ
Vị trưởng khế không cần tỏ ra chút tế nhị nào, ông ta đọc ngay tại chỗ. Khi đọc dứt, ông ngước lên nhìn cha Ralph. Linh mục thấy trong mắt ông ta điều mà linh mục chẳng muốn thấy chút nào: sự ngưỡng mộ, sự giận dữ rồi sự khinh bỉ nào đó.
- Thế thì xin có lời chúc mừng cha. Cuối cùng thì cha thừa hưởng trọn tất cả.
Vì không là người công giáo, ông ta tự cho phép mình nhận xét như thế với cha Ralph.
- Này ông Harry, hãy tin tôi, điều này làm cho tôi bất ngờ không kém ông đâu.
- Có phải đây là bản duy nhất?
- Theo tôi biết thì đúng thế.
- Và bà đã trao cho cha lúc khuya đêm qua?
- Vâng.
- Vậy thì tại sao cha không tiêu hủy nó đi để có thể bảo đảm cho Pađy được thừa kế những gì đáng lý thuộc quyền của ông ấy? Nhà thờ không có lý do gì yêu sách tài sản của bà Mary Carson.
Linh mục Ralph nhìn thẳng ông trưởng khế không có chút gì quỷ quyệt:
- Ồ, như thế thì không đúng đắn, Harry! Quyền sử dụng tài sản như thế nào thuộc về bà Mary Carson.
- Tôi sẽ cố vấn cho Pađy đâm đơn kiện chống lại tờ di chúc thứ hai.
- Ông có lý.
Sau câu nói đó hai người chia tay nhau. Sáng hôm sau ngay khi chưa ai đến đưa đám, cả thị trấn Gillanbone và khắp trong vùng đã biết tin tài sản của bà Mary Carson về tay ai. Ván bài đã lật ngửa, hết đường thối lui.
Cha Ralph cho ô tô dừng lại cách dãy phía sau nhà khá xa, ông bước xuống và đi chầm chậm. Các cửa sổ đều có ánh sáng dội ra. Có bóng đen nào đó ở một nơi khuất sau cây đậu tía. Cha Ralph đứng lại, giật mình rởn tóc gáy. Con nhện cái già vẫn có những cái cách riêng của bà ta để gây bất ngờ. Nhưng không, hóa ra là Meggie trong bộ quần áo đi ngựa với đôi giày ống cao đang sốt ruột chờ ông trở lại.
- Con làm cho cha hoảng sợ, ông nói cụt ngủn.
- Con xin lỗi cha. Con không muốn làm thế. Nhưng con cũng không muốn ở trong nhà với ba và các anh con. Mẹ con ở đàng nhà với hai em, đáng lý giờ này con phải cầu kinh với bà Smith, Minnie và Cat, nhưng con không muốn cầu nguyện cho bà Mary. Như thế là có tội phải không cha?
Chính vào lúc ấy cha Ralph không cho phép ông nói điều gì đó làm vui lòng linh hồn của Mary Carson.
- Cha không cho rằng đó là một tội lỗi, Meggie à. Ngược lại, chính sự giả dối mới là có tội. Cha cũng thế, cha không muốn cầu nguyện cho bà ta. Bà ấy... không tốt lắm. Thế thì nếu con mắc tội vì đã nói cho cha biết suy nghĩ của con, thì cha cũng thế, nhưng riêng trong trường hợp của cha thì tội nặng hơn. Tội bắt buộc phải yêu thương mọi người, gánh nặng ấy con không phải gánh như cha.
- Cha có khỏe không?
- Khỏe, tốt lắm, ông vừa nói vừa nhìn lên tòa nhà, sau đó là một tiếng thở dài. Cha cũng không muốn vào trong đó chút nào. Có thế thôi. Cha không muốn ở chung dưới một mái nhà với bà ta cho tới sáng và chờ đợi cho bọn ma quỉ, tối tăm, bị xua đuổi. Nếu ngay bây giờ cha thắng ngựa, con có chịu cùng cha đi dạo cho tới lúc trời sáng không?
Bàn tay của cô gái phớt nhẹ qua tay áo đen rồi để rơi xuống.
- Con cũng vậy, con không muốn vào trong đó.
- Con chờ cha một phút để cha cất chiếc áo chùng vào ôtô.
- Con đi xuống chuồng ngựa.
Lần đầu tiên, cô muốn đối diện với cha Ralph ngay trên tư thế của ông; tư thế của người lớn; còn cha Ralph thì cảm nhận rõ ràng sự thay đổi ở Meggie như cảm nhận hương thơm hoa hồng ngào ngạt trong vười bà Mary Carson. Những hoa hồng. Tro của hoa hồng. Hoa hồng, đâu đâu cũng hoa hồng. Những hoa hồng, về đêm chỉ còn lại hương thơm. Hương thơm của hoa hồng. Meggie thân yêu của ta, ta đã bỏ rơi cô ta. Nhưng cô ta có hiểu không, cô ta đã trở thành một mối đe dọa? Cho nên, ta đã dẫm nát Meggie dưới đế giày tham vọng; Meggie không còn là gì khác hơn là một hoa hồng tan tác trên cỏ. Hương thơm của hoa hồng, mùi ghê tởm của Mary Carson. Hoa hồng và tro của hoa hồng.
- Tro của hoa hồng, ông thì thầm một mình khi ngồi lên lưng ngựa. Chúng ta đi thật xa, mùi thơm của hoa hồng xa cách như mặt trăng. Ngày mai, mùi thơm hoa hồng sẽ ngập tràn cả nhà.
Ông thúc gót giày vào hông ngựa, cho nó đi chầm chậm trước Meggie trên con đường chạy dọc theo bờ suối, lòng nghẹn ngào. Cho đến khi ông nghe mùi hương thơm ngào ngạt của những cụm hồng mà ngày mai đây sẽ phủ kín quan tài của bà Mary Carson, ông vẫn chưa ý thức biến cố sẽ xảy ra thức thời. Ông sẽ phải ra đi ngay. Quá nhiều suy nghĩ, quá nhiều xúc cảm, tất cả không thể dồn nén. Tòa thánh sẽ không để ông mốc meo ở cái xó Gilly này một ngày nào sau khi được biết nội dung tờ di chúc khó có thể tưởng tượng này. Ông sẽ bị gọi về Sydney tức thời. Ngay tức thời! Ông trốn chạy một sự đau khổ; mà lần đầu tiên ông nếm trải. Không phải là chuyện tình cờ nào đó trong tương lai lờ mờ; chuyện này sẽ xảy ra tức khắc. Và ông đã mường tượng ra gương mặt của Pađy, sự ghê tởm hiện lên ở con người tốt bụng ấy, cách né tránh để khỏi phải chạm mặt. Sau đó không bao giờ ông được tiếp đãi nồng hậu tại Drogheda nữa và ông sẽ không bao giờ gặp lại Meggie.
Nhưng rồi tiếng vó ngựa điên cuồng đã mang lại cho cha sự tự tin thường có. Như thế còn hơn, như thế còn hơn, như thế còn hơn. Ngựa phi rồi ngựa lại phi. Đúng vậy, như thế sẽ ít đau khổ hơn, thà ẩn mình trong sự an toàn của một tu phòng nào đó của tòa tổng giám mục và mỗi lúc một ít đau khổ hơn, và càng ít đau khổ hơn cho đến khi nỗi đau trong lòng tan biến. Nên chọn như thế còn hơn là ở lại Gillabone để nhìn thấy Meggie biến thành một con người khác, rồi đến một hôm phải làm phép cưới cho cô ta với một người xa lạ. Hãy để Meggie ra ngoài tầm mắt, ra ngoài suy nghĩ.
... Nhưng vậy thì, ta đang làm gì cho Meggie giữa lúc này, phi ngựa qua các lùm cây và bụi rậm, cách xa con suối? Ông không làm sao hiểu nổi lý do, chỉ nghe trong tim mình nhói đau. Không phải cơn đau so sự phản bội - Meggie không bao giờ làm chuyện đó mà chỉ là nỗi đau của sự chia ly.
- Cha ơi, cha ơi! Con không theo kịp cha! Đừng chạy nhanh quá, thưa cha!
Tiếng gọi của Meggie đứa cha trở về với bổn phận - trở về với thực tế. Cũng như trong một phim quay chậm, ông kéo ngược hàm ngựa để cho nó quay lại và ghìm lại tại chỗ cho đến khi con vật chịu đứng im, cha đứng đó chờ nàng đuổi kịp? Tai họa là thế đó, Meggie đuổi kịp ta không? Hai người dừng lại bên một đầm lớn nước sóng sôi sục mùi lưu huỳnh.
Cha Ralph ngồi trên một khúc gỗ ven bờ, Meggie cũng ngồi xuống theo nhưng cách một khoảng. Cô ta ngồi nghiêng một bên cốt ý có thể quan sát cha Ralph.
- Có chuyện gì đó, thưa cha?
Có cái gì đó hơi lạ, khi nghe một câu mình thường hỏi cô ta. Cha Ralph mỉm cười.
- Cha đã bán con, Meggie nhỏ bé của cha. Bán với giá mười ba triệu bảng Anh.
- Cha đã bán con?
- Một cách hình tượng. Điều đó không quan trọng lắm. Con hãy lại gần đây. Rồi đây chúng ta sẽ không còn kịp để nói chuyện với nhau nữa.
- àcha muốn nói trong suốt thời gian chịu tang chứ gì. Con không thấy có gì khác biệt giữa chuyện có tang và không có tang.
- Cha không nói đến chuyện đó, Meggie ạ.
- Hay là tại con đã lớn và người ta có thể dèm pha chuyện của chúng ta?
- Cũng không đúng như thế đâu. Chẳng qua là cha sẽ ra đi.
Lại thế đấy, thêm một cú định mệnh ngàn cân giáng vào đời cô. Không kêu la, không khóc, không nổi trận cuồng phong phẫn nộ mà chỉ hơi giật nẩy người, giống như cái gánh nặng ngàn cân ấy đặt lệch trên vai khiến Meggie mất thăng bằng. Meggie nén hơi thở, không để buông một tiếng thở dài.
- Khi nào thưa cha?
- Trong vài ngày.
- Cha ơi. Đó là điều khổ tâm cho con hơn cả sự ra đi của Frank.
- Còn với cha thì chưa bao giờ trong đời lại khổ tâm như thế. Cha không có một niềm an ủi nào. Nhưng con, ít ra cũng còn có gia đình.
- Cha có Chúa.
- Con nói hay lắm, Meggia. Con đã thật sự trưởng thành.
Nhưng Meggie thuộc hạng phụ nữ luôn biết mình muốn gì, đeo đẳng bền bỉ một mục đích cho nên cô trở lại một câu hỏi bỏ dở khi hai người phi ngựa trên con đường dài 5 cây số. Ralph ra đi, thật là khó chịu đựng nổi sự vắng mặt ấy, nhưng dù sao Meggie cũng cần đặt ra một câu hỏi.
- Thưa cha, lúc ở chuồng ngựa, cha có nói " tro của hoa hồng". Có phải ý cha muốn nói về màu áo của con?
- Có một phần như thế. Nhưng có lẽ cha muốn nói theo một nghĩa khác.
- Nghĩa nào?
- Thật khó để cho con hiểu, Meggie bé nhỏ của ta. Đó là việc suy nghĩ về một ý tưởng đang chết dần, không được quyền sinh sôi và cũng không được quyền nẩy nở.
- Không có một thứ gì lại không có quyền được sinh ra, kể cả một ý tưởng.
- Nhưng con biết cha định nói gì chứ?
- Có lẽ con biết.
- Không phải tất cả những gì được sinh ra đều tốt, Meggie ạ.
- Không. Cái gì đã sinh ra, thì bản chất nó đã mang cả ý muốn được tồn tại.
- Con nói như một tu sĩ dòng Tên. Con bao nhiêu tuổi rồi nhỉ?
- Một tháng nữa thôi con đã mười bảy tuổi rồi, thưa cha.
- Con trải qua 17 năm khá vất vả. Nhưng thế đấy, những cực nhọc làm cho con người ta trở nên già dặn. Trong những lúc rảnh trí con thường nghĩ gì Meggie?
- Ồ, con nghĩ đến Jimes, Patsy, đến các anh khác của con, đến cha mẹ, nghĩ đến Hal và cô Mary. Đôi khi nghĩ đến chuyện làm sao để có con, con rất thích như thế. Và con nghĩ đến mọi thứ trên đời mà đàn ông thường vẫn đề cập. Rồi thời tiết, mưa, vườn rau, các con gà mái đẻ trứng, và nghĩ đến ngày mai con sẽ làm gì.
- Thế con không nghĩ đến chuyện sẽ lấy chồng à?
- Không, nhưng con lại nghĩ rằng phải có một người chồng nếu con muốn có con. Thật đáng tội nghiệp đứa con không có cha.
Tuy lòng quặn đau, cha Ralph vẫn mỉm cười. Meggie là hiện thân của một sự pha trộn kỳ lạ giữa hiểu biết non nớt và ý thức đạo đức cao cả. Đột nhiên, ông quay lại, nâng cằm Meggie và nhìn thẳng vào mắt cô gái. Làm thế nào đây, phải làm gì đây!
- Con... Meggie chỉ lấp lửng.
Và im lặng.
- Con không nói rằng con đã nghĩ đến cha phải không? Nếu con không cảm thấy điều đó là tội lỗi thì con đã nhắc tên cha cùng một lúc với ba của con. Như vậy, tốt hơn là cha phải đi khỏi nơi đây, con thấy đúng không? Con đã bắt đầu quá cái tuổi để nuôi dưỡng trong đầu một ý thích ngông cuồng kiểu trẻ con mặc dù con rất già dặn so với một cô gái chưa đầy mười bảy tuổi. Cha vui mừng khi thấy con biết gì về những thực tế của cuộc sống, nhưng cha lại hiểu rằng những mối tình vẩn vơ trẻ con cũng gây ra lắm đau khổ. Cha cũng từng trải qua như thế.
Meggie định nói gì nhưng lại thôi, hai con mắt long lanh như muốn khóc, nhìn xuống và lắc đầu.
- Này Meggie, đây chỉ là một chặng đường, một cột mốc dẫn con đến cuộc đời của một người đàn bà. Vài năm nữa con sẽ gặp người nào đó sau này sẽ làm chồng con; con sẽ bận rộn vô cùng để tổ chức cuộc sống. Và khi ấy nếu có nhớ đến cha thì cũng chỉ là nhớ đến như một người bạn trước đây đã giúp mình trải qua cơn khủng hoảng của thời nhỏ. Điều con phải tránh là ước mơ lãng mạn về cha để trở thành thói quen.
Cha không có quyền đối xử với con như một người chồng . Cha không bao giờ nhìn con trong hướng ấy. Meggie, con hiểu lời cha chứ? Khi cha nói cha yêu con, không phải với tư cách một người đàn ông. Vì thế mà con không được mơ mộng về cha. Cha sẽ đi và ít hy vọng có thời giờ trở về Drogheda này, dù là một cuộc thăm viếng bình thường.
Hai vai của cô gái vẫn cụp xuống như thể cái sức nặng từ trên đè xuống quá mức chịu đựng, nhưng Meggie vẫn ngẩng đầu lên nhìn thẳng mặt cha Ralph.
- Con không mơ mộng nữa đâu, cha đừng lo. Con biết cha là linh mục.
- Con biết không, cha không hề nghĩ rằng mình đã chọn lầm sứ mệnh. Nó đã thỏa mãn trong cha một nhu cầu mà không ai có thể làm thỏa mãn được, kể cả con.
- Con biết. Con nhận ra điều đó khi chứng kiến cha hành lễ. Cha có quyền lực. Con tin rằng lúc ấy cha cảm nhận hoàn toàn rằng mình hòa đồng với Đức Chúa Trời.
- Ta nghe rõ từng hơi thở nín lại trong nhà thờ, Meggie ạ. Mỗi ngày, ta chết đi và mỗi sáng ta sống lại khi làm lễ. Có phải chăng chính vì ta là một đấng chăn chiên được Chúa lựa chọn hay vì ta cảm nhận được từng hơi thở bị nén lại và ta đoán được uy quyền của ta đối với những linh hồn tồn tại?
- Điều ấy có gì là quan trọng đâu cha? Như thế đó và chỉ thế thôi?
- Rất có thể điều đó không quan trọng đối với con nhưng với ta thì khác. Ta hoài nghi, hoài nghi.
Nhưng rồi Meggie trở lại điều cô tha thiết nhất.
- Con không biết thiếu cha con sẽ sống ra sao. Bắt đầu là Frank, bây giờ đến cha. Với Hal thì khác, ít ra con biết rằng Hal đã chết và sẽ không bao giờ trở lại. Nhưng cha và Frank đều còn sống! Con sẽ luôn tự hỏi hai người thân thiết nhất đời con ra sao, đang làm gì, mọi chuyện có tốt đẹp cả không, con có giúp gì cho họ không? Con cũng cần biết cha có còn sống không nữa chứ.
- Cha cũng có những băn khoăn ấy Meggie ạ, và cha biết rằng Frank cũng thế thôi.
- Ồ không đâu! Frank đã quên chúng ta. Rồi cha cũng thế thôi, cha sẽ quên chúng con.
- Cha mãi mãi không bao giờ quên con, Meggie, mãi mãi cho đến khi cha còn sống trên cõi đời này. Và đó sẽ là một hình phạt cho cha khi được sống lâu, thật lâu. Đã đến lúc chúng ta từ biệt nhau, Meggie. Chúng ta sẽ không còn có dịp gặp riêng như thế này nữa.
- Nếu cha không phải là linh mục, cha có lấy con làm vợ không?
Nghe nhắc nhở lại tâm trạng cũ, cha Ralph xao xuyến lạ lùng:
- Đừng có lúc nào cũng gọi ta luôn miệng là cha! Meggie có thể gọi ta là Ralph.
Lời nhắc nhở ấy của cha Ralph không là câu trả lời mà Meggie chờ đợi.
Mặc dù áp sát người vào Meggie, ông vẫn không có ý định ôm hôn. Meggie ngước lên nhìn ông đang chìm dần trong bóng đêm dày đặc; trăng đã khuất từ bao giờ. Ralph cảm giác hai đầu nhọn nhỏ nhắn trên ngực Meggie chạm nhẹ vào người ông; một thứ cảm giác kỳ lạ, bối rối. Càng bối rối hơn nữa là Meggie đã áp sát người vào Ralph một cách buông thả của người vợ hằng đêm âu yếm chồng. Rất tự nhiên, hai tay Meggie bấm vào cổ Ralph và ôm Ralph siết mạnh.
Chưa bao giờ cha Ralph đặt lên môi phụ nữ một cái hôn yêu đương nào, ngay cả lúc này đây cũng không muốn như thế. Một chạm nhẹ dịu dàng trên má, một cái siết vội vã giống như những điều mà Meggie thường chờ đợi ở cha ruột mình trước khi ông đi xa. Meggie vừa nhạy cảm lại vừa kiêu hãnh. Cha Ralph vô tình xúc phạm đến cô khi đón nhận một cách lạnh lùng những ước mơ sâu kín nhất mà cô hằng ôm ấp. Đúng thế, cũng như cha Ralph, Meggie mong chấm dứt ngay cái giây phút từ biệt này. Liệu rằng mình có được chút an ủi nào không khi biết được cha Ralph còn chịu nhiều đau khổ hơn trong phút giây này? Khi ông nghiêng đầu xuống hôn lên má Meggie, cô đã nhón chân lên và phải chăng là do tình cờ, môi của Meggie chạm qua môi của Ralph. Đầu cha bật ngược ra sau như vừa nếm phải nọc độc của con nhện; nhưng rồi nhớ sực lại rằng mình sẽ mất Meggie vĩnh viễn, cha Ralph lại cúi đầu sát Meggie, định nói điều gì đó với đôi môi dễ thương và mím chặt ấy. Còn Meggie cố gắng để trả lời, đôi môi hé mở. Cái cơ thể trẻ trung ấy bỗng nhiên như mất đi tất cả những xương thịt, biến thành một thứ chất lỏng, một phần của những bóng đêm ấm áp và tan biến vào đó. Một tay Ralph choàng qua thân người Meggie, bàn tay còn lại, Ralph vuốt ve mái tóc và gáy, giữ cho gương mặt cô ngước nhìn lên, như sợ rằng Meggie có thể thoát đi mất vào ngay giây phút ngắn ngủi này trước khi ông kịp khắc ghi vào tâm khảm sự hiện diện kỳ ảo của Meggie.
Meggie đó nhưng không phải là Meggie, quá xa lạ để mà quen thuộc vì rằng Meggie của cha Ralph chưa là phụ nữ, chưa mang đến cái cảm giác của người phụ nữ và không bao giờ là một phụ nữ đối với ông. Cũng như không thể nào ông là đàn ông đối với cô.
ànghĩ đã chiến thắng những giác quan đang bối rối. Cha Ralph gỡ hai tay đang choàng cổ ông, đẩy nhẹ Meggie ra và tìm cách nhìn vào đôi mắt của cô trong bóng đêm. Nhưng Meggie cúi mặt xuống, từ chối nhìn cha Ralph.
- Đã đến lúc chúng mình phải rời khỏi đây.
Không một lời, Meggie bước đến gần con ngựa, leo lên lưng ngồi chờ; thường khi thì cha Ralph ngồi sẵn để chờ Meggie.
Đúng như cha tiên đoán, tòa nhà ở Drogheda ngập tràn hoa hồng. Các vườn hồng chung quanh đều tập trung hoa về đây. Cha Ralph đã làm lễ Misa với những lời lẽ mà người này thì cho rằng ông đã mỉa mai, người khác thì cho rằng giọng nói ấy chứa đựng đau xót chân thành.
Sau đó chiếc quan tài được đặt lên chiếc xe đẩy thấp. Không ai chịu đưa vai vào khiêng thi hài của bà Mary Carson. Và cũng không có ai tiếc thương khi nhìn thấy hai cánh cửa hầm mộ khép kín lại. Thế là mọi người có thể hít thở tự nhiên.
Trong khi khách khứa tập trung ở gian phòng lớn để ăn lót dạ hay trò chuyện, ông chưởng khế Harry Gough mời Pađy và gia đình, cha Ralph, bà Smith và hai chị giúp việc đến phòng khách.
Vốn người nhân từ tốt bụng, Pađy đã khóc chị, còn bà Fiona, vợ Pađy, thì nét mặt vẫn không thay đổi, như thể kkhông chú ý đến chuyện gì đã xảy ra.
- Pađy, tôi đề nghị ông phản đối tờ di chúc - Harry Gough tuyên bố sau khi đọc trọn văn bản bằng một giọng khô khan và bất mãn.
- Đúng là một con mụ già thối tha và quỷ quái! Bà Smith buột miệng kêu lên.
Mặc dù bà thương cha Ralph nhưng tình cảm của bà Smith vẫn nghiêng về phía gia đình họ Cleary. Dòng họ này đã mang đến cho đời bà niềm vui rộn rã.
Pađy lắc đầu.
- Không, ông Harry! Tôi không làm gì cả. Tài sản này là của chị tôi và chị tôi có toàn quyền quyết định theo ý bà. Nếu chị tôi muốn để lại tất cả cho Nhà thờ thì chúng tôi phải cúi đầu trước ý muốn của bà. Tôi không thể nói dối rằng tôi hoàn toàn không hề thất vọng nhưng tôi chỉ là một người chất phác, cho nên như vậy lại tốt hơn. Tôi thành thật nói rằng tôi không ham nhận trách nhiệm nặng nề cai quản một điền trang rộng bao la như Drogheda.
- Ông không hiểu gì hết Pađy ạ - Harry Gough nói lại bằng cách nhấn mạnh từng lời một như nói với trẻ con - Không phải chỉ có Drogheda, điền trang chỉ là một phần rất nhỏ trong số tài sản mà chị của ông đã để lại. Bà ấy là cổ đông có quyền kiểm soát cả trăm công ty loại lớn; bà còn có những nhà máy đúc thép, những mỏ vàng, hãng Michar Limited mà trụ sở là một tòa nhà chín tầng ở Sydney. Bà chị ông là người giàu có nhất ở Úc! Thật kỳ lạ, chính bà đã nhờ tôi liên hệ với các giám đốc Michar Limited ở Sydney chỉ mới cách đây không đầy một tháng với mục đích xem lại tiền bạc của bà hiện có là bao nhiêu. Vào lúc bà qua đời, tài sản của bà lên tới mười ba triệu bảng Anh.
- Mười ba triệu bảng! Pađy lặp lại con số với giọng xa xôi như khi người ta nhắc tới cái khoảng cách từ mặt đất tới mặt trời, một sự đánh giá không tài nào hình dung nổi. Thế đấy, coi như vấn đề đã giải quyết, Harry. Tôi dứt khoát không muốn đảm trách những công việc quá to lớn ấy.
- Không có công việc to lớn nào phải đảm trách, Pađy! Ông không hiểu à? Với những tài sản như thế sẽ tự quản lý lấy! Ông hoàn toàn khỏi phải quan tâm tới, có hàng trăm nhân viên để lo việc này. Pađy, ông hãy kiện lại tờ di chúc này, tôi tha thiết đề nghị với ông như vậy. Tôi sẽ giới thiệu với ông những luật sư giỏi nhất nước và tôi sẽ hỗ trợ đến cùng, dù phải đến đến tận Hội đồng cơ mật.
Pađy bỗng nhớ lại rằng gia đình ông cũng có quyền phát biểu trong việc này, ông quay sang Bob và Jack, đang há hốc miệng, ngồi cạnh nhau trên một chiếc ghế dài cẩm thạch Ý.
- Này các con, các con nghĩ thế nào? Các con có muốn tìm cách túm lấy cái món béo bở... mười ba triệu bảng của cô Mary không? Nếu các con muốn, ba sẽ kiện phản đối di chúc này, còn không thì ba sẽ rút lui.
- Nhưng dù thế nào thì chúng ta vẫn được quyền tiếp tục sống ở Drogheda, trong di chúc cũng có nói rõ điều đó phải không ba? - Bob hỏi.
- Không ai có quyền đuổi các cậu ra khỏi Drogheda cho đến khi nào ba các cậu còn một người con người cháu ở đây, Harry giải thích.
- Chúng ta sẽ ở đây, trong ngôi nhà lớn với bà Smith và Minnie, Cat. Những người này phục vụ chúng ta và chúng ta lại nhận một số tiền lương cao - Pađy thêm vào, quá sung sướng và hài lòng về sự may mắn của mình và quên đi nỗi bất hạnh.
- Vậy thì còn đòi hỏi gì hơn nữa? Bob hỏi em mình. Em có đồng ý không?
- Với em, như thế là vừa. Jack trả lời ngắn gọn.
Cha Ralph lòng dạ bồn chồn. Không kịp thay bộ đồ làm lễ, ông cũng không kịp ngồi; không khác một pháp sư đẹp và hắc ám; ông đứng trong bóng tối ở cuối phòng, hai tay đút vào áo choàng màu đen; nét mặt sững sờ. Trong tận đáy sâu của tôi mắt xanh xa xôi, đang dồn sự phiền muộn và nỗi kinh hoàng. Sự trừng phạt mà ông chờ đợi một cách giận dữ và khinh bỉ, cuối cùng đã không xảy ra. Pađy đã đặt tất cả trên một mâm bạc, đầy thiện chí, dâng tặng ông lời cảm ơn ông đã lo giùm gánh nặng cho dòng họ Cleary.
- Còn bà Fiona và Meggie thì sao? Linh mục xen vào, lời nói khô khan hướng về phía Pađỵ Phải chăng ông không coi trọng lắm phụ nữ trong gia đình nên không hỏi ý kiến của những người ấy?
- Vậy Fiona, em có ý kiến gì? Pađy lo lắng hỏi.
- Em tuân theo ý kiến của anh, Pađy. Phần em thì sao cũng được.
- Con không cần 13 triệu bảng của bà ta, Meggie trả lời, mắt nhìn chăm chăm cha Ralph.
- Như thế, coi như kết thúc vụ này, Harry - Pađy quay lại nói với viên chưởng khế - Chúng tôi không muốn kiện chống lại tờ di chúc. Tòa thánh cứ thừa hưởng tiền của bà Marry, như thế là rất tốt.
Harry đập hai tay vào nhau.
- Trời đất ơi, tôi đau tận ruột gan khi nhìn thấy ông bị trấn lột.
- Tôi cảm ơn ngôi sao bổn mạng của tôi, Pađy nhỏ nhẹ nói. Nếu không có chị Mary của tôi, thì bây giờ tôi còn phải làm thuê làm mướn cho người này, người nọ để sống ở Tân Tây Lan.
Trước khi rời phòng khách, Pađy gặp cha Ralph, bắt tay linh mục trước bao nhiêu người chăm chú theo dõi từ nãy giờ.
- Thưa cha, xin cha đừng nghĩ rằng chúng tôi có ý nghĩ bất bình gì đối với cha. Suốt cả chiều dài của cuộc đời bà, Mary không hề để cho một ai ảnh hưởng mình, dù người đó là linh mục, em hay chồng. Cha hãy tin tôi và cha cũng rất tốt đối với chúng tôi. Chúng tôi không bao giờ quên.
Mặc cảm tội lỗi. Gánh nặng. Suýt chút nữa cha Ralph quên nằm bàn tay sần sùi mà Pađy đã chìa ra nhưng bộ óc của cha đã kịp giành lại phần thắng; cha Ralph bắt tay và siết thật mạnh, mỉm cười khó nhọc.
- Cám ơn Pađy. Hãy tin chắc rằng tôi sẽ theo dõi sát không để cho gia đình ông thiếu hụt bất cứ thứ gì.
Cha Ralph đi ngay trong tuần lễ ấy và không hề trở lại thăm Drogheda. Ông dành vài ngày để sắp xếp một vài thứ lặt vặt và đi thăm các gia đình công giáo trong vùng, ngoại trừ Drogheda.
Linh mục Watkin Thomas từ xứ Wales tới, thay thế đảm trách giáo xứ Gillanbone, còn cha Ralph de Bricassart trở thành thư ký riêng của tổng giám mục Gluny Dark. Nhưng công việc của cha rất ít; cha có hai người trợ lý. Cha được giao nhiệm vụ xem lại sản nghiệp của bà Mary Carson gồm những gì và giá trị thật sự bao nhiêu vì lợi ích của Tòa thánh
Title: Re: Tiếng chim hót trong bụi mận gai - Colleen McCullough. Bestseller năm 1977
Post by: Serenade24 on 03/05/07, 08:21
Post by: Serenade24 on 03/05/07, 08:21
Chương 14
Năm mới đã đến, cùng lúc với đêm khiêu vũ Saint Sylvestre do gia đình Angus Mac Queen tổ chức hàng năm ở Rudna Hinish, trong khi đó thì gia đình Cleary vẫn chưa chuyển qua ở tòa nhà lớn vì việc sắp xếp theo ý của Fiona còn kéo dài.
Cha Ralph có gởi cho Pađy một ngân phiếu năm ngàn bảng từ đầu tháng 12, để chi dùng ban đầu theo cách giải thích trong thư của ông. Pađy đưa thư cho Fiona xem với thái độ kinh ngạc.
- Trời ơi, làm việc suốt đời, tôi cũng không làm sao đào ra được một số tiền như thế này?
- Với số tiền này mình làm gì? Fiona hỏi sau khi liếc qua vào tấm ngân phiếu rồi đôi mắt long lanh nhìn chồng. Thế là chúng ta đã có tiền? Anh có thấy không? Ồ, em không cần số tiền 13 triệu bảng của cô Mary... một số tiền như thế không thật. Nhưng còn tiền này, thì thật đó. Chúng ta sẽ làm gì bây giờ?
- Chi xài, Pađy trả lời đơn giản. Mua quần áo mới cho con cái... Còn em? Có lẽ em thích mua sắm đồ đạc cho ngôi nhà lớn phải không? Về phần anh thì chẳng thấy cần thứ gì cả.
- Ngốc thật. Chính em cũng không biết chi xài chuyện gì (bà đứng lên, rời bàn ăn và gọi Meggie với một giọng quyền uy). Con đến đây! Chúng ta qua nhà lớn xem ở đó cần gì.
Đã ba tuần trôi qua kể từ ngày sóng gió tiếp theo cái chết của Mary Carson, thế mà chưa có một thành viên nào của gia đình Cleary đặt chân đến tòa nhà lớn. Nhưng bây giờ cuộc viếng thăm của Fiona đã bù lại thời gian họ gớm ghiếc xa lánh ngôi nhà này.
Bà đi từ phòng này sang phòng khác, phía sau có cả một đoàn tùy tùng gồm Meggie, và Smith, Cat và Minnie. Bà làm cho con gái bà ngạc nhiên về sự sống động mà từ lâu không thấy ở bà. Bà luôn luôn nói một mình, khi thì chê thứ này đáng tởm, khi thì chê thứ kia quá xấu xí, phải chăng chị Mary bị bệnh mà mất hay chị ấy chẳng có chút óc thẩm mỹ nào cả!
Bàn viết của Mary Carson, theo kiểu xấu xí thời Victoria, bên trên có đặt máy điện thoại. Fiona đến gần, nhìn màu gỗ buồn hiu với vẻ chê bai.
- Bàn viết của tôi đặt vào đây thì hợp quá, bà nói. Tôi bắt đầu sửa sang, sắp xếp lại từ căn phòng này. Chúng ta chỉ dọn nhà sang khi mọi việc xong xuôi. Chưa xong thì không dọn. Như thế chúng ta bố trí được một nơi có thể họp mặt nhau mà không thấy buồn tẻ - vừa nói bà vừa ngồi xuống coi lại chiếc điện thoại.
Sau khi sửa điện thoại xong, Fiona ra lệnh cho ba người phụ nữ tháo gỡ ngay các bức màn nhung màu nâu và ném tất cả và một chỗ dành riêng cho các thứ không còn dùng nữa. Và Fiona đốt cùng với rác rến.
- Chúng ta không cần những thứ này, bà khẳng định. Và tôi cũng không muốn cho người nghèo ở Gillanbone dùng những thứ này.
- Đúng thế, mẹ, Meggie tán đồng nhưng hơi sửng sốt.
- Chúng ta không rèm màn, Fiona nói, không băn khoăn chút nào khi làm trái lại các qui tắc trang hoàng trong nhà của thời đại này. Hành lang rất rộng, khó cho ánh nắng chiếu thẳng vào bên trong nhà, vậy thì rèm màn có ích gì? Mẹ muốn để trống cho mọi người nhìn thấy được phòng khách.
Vào tuần lễ thứ hai của tháng giêng, tất cả đã hoàn chỉnh, tiếng đồn lan rộng ra qua liên lạc của các máy điện thoại địa phương. Bà Cleary Fiona đã biến phòng khách của Drogheda thành một cung điện. Không ai nghi ngờ sự thành công của Fionạ
Ba ngày trước khi dọn sang nhà lớn khi mặt trời chưa lên, mấy con gà trống đã chào đón một ngày mới bằng những tiếng gáy rộn rã vui tươi.
- Đồ tốt mã nhưng chẳng làm ăn ra gì, Fiona cáu gắt. Mẹ không biết chúng nó tự hào về cái gì. Không có lấy một trứng cho buổi ăn sáng, trong khi bao nhiêu đàn ông đang tập trung ở nhà để chờ dọn đồ. Meggie, con phải ra chuồng gà xem thử, mẹ đang quá bận rộn. Mẹ tự hỏi ba mua dài hạn tất cả các loại báo này làm gì; không ai có thời giờ để đọc. Nó cao lên nhanh quá mẹ không đốt kịp. Con xem, tờ này xuất bản vào cái ngày chúng ta mới đến đây! Nhưng ít ra những tờ báo ấy cũng có công dụng gói bọc chén dĩa.
Thật là dễ chịu khi thấy mẹ vui vẻ, Meggie nghĩ thầm, nhanh nhẹn bước xuống các bật thang.
Chuồng gà rộng thênh thang, có bốn gà trống và hơn bốn chục gà mái. Khi Meggie đẩy cửa bước vào trong, mấy con gà mái nhao nhao lên, tưởng rằng Meggie đến cho ăn.
- Thật tình chúng bay chẳng ra làm sao cả. Giọng của Meggie nghiêm nghị trong khi duyệt qua các máng dùng để hứng trứng! Không đủ cho ăn buổi sáng chứ đừng nói tới chuyện làm bánh! Thế này nhé, tôi cần báo trước cho các cô cậu biết để khỏi than van, nếu các cô cậu không nhanh chóng vào nề nếp, các cô cậu sẽ kết thúc tất cả trong... nồi. Tất cả không trừ một đứa nào. Lời cảnh cáo này có giá trị cho các mày râu cũng như cho các bậc phu nhân. Này các ngài, đừng có xòe đuôi ưỡn ngực như thể chuyện này không dính dấp đến các ngài!
Trứng gà được đặt kỹ lưỡng trong tạp dề, Meggie trở lại bếp vừa đi vừa hát nho nhỏ. Bước vào nhà Meggie bắt gặp mẹ đang ngồi trên chiếc ghế bành của cha, mắt nhìn chăm chú vào tờ tuần báo Smith'' s Weekly, mặt tái xanh, môi run run. Meggie nghe tiếng nói các anh cùng cha mình bên kia vách và tiếng cười của Jims và Patsy vừa được 6 tuổi. Hai đứa em không được thức dậy trước khi người lớn đi làm.
- Có chuyện gì thế, thưa mẹ? - Meggie hỏi. Fiona không trả lời; và vẫn bất động, những giọt mồ hôi đọng lại trên môi dưới, đôi mắt sững sờ trong đau đớn như thể bà đang gom hết sức lực mình để ngăn lại tiếng thét phát ra từ trong lòng.
- Ba ơi! Ba ơi! Meggie gọi to, giọng hốt hoảng.
Tiếng gọi khiếp đảm của Meggie kéo Pađy khỏi phòng, giữa lúc ông vừa mặc chiếc áo gilê. Bob, Jack, Hughie và Stuart chạy theo cha. Không nói lời nào, Megie chỉ mẹ.
Xúc động đến tắc nghẽn cổ họng vì âu lo, Pađy cúi xuống sát vợ mình, nắm lấy cổ tay mềm nhũn.
- Có chuyện gì thế, em thương yêu? ông hỏi.
Giọng nói thật dịu dàng của Pađy gần như hoàn toàn xa lạ đối với các con ông, đó là giọng nói mà chúng biết cha mẹ chúng vẫn dùng đến khi không có mặt con cái.
Hình như giọng nói đặc biệt ấy, đã kéo Fiona ra khỏi vực thẳm mà bà đang chới với; đôi mắt to, màu nâu nhìn lên gương mặt hiền hậu của chồng đầy âu lo, và mỏi mệt.
- Đấy, bà vừa nói vừa chỉ tờ báo nằm ở phía cuối trang.
Stuart đến sau lưng mẹ, dịu dàng đặt bàn tay lên vai; trước khi đọc bài báo, Pađy nhìn vào mặt con trai ông rồi vợ ông; và ra vẻ bằng lòng. Ông không có thái độ ghen tức như đối với Frank trước đây. Tình yêu mà cả hai dành cho Fiona đã làm hai cha con gần gũi nhau hơn.
Pađy đọc bài báo to lên, giọng chầm chậm càng lúc càng đượm buồn. Tựa bài báo:
"Một võ sĩ bị kết án chung thân.
Francis Amstrong Cleary, 26 tuổi, võ sĩ nhà nghề, hôm nay đã bị tòa án ở Goulburn kết tội cố sát Ronald Cummings, thợ trồng trọt 32 tuổi, vụ án xảy ra hồi tháng bảy vừa qua. Bồi thẩm đoàn đã đưa ra kết quả chỉ sau mười phút hợp riêng, đề nghị áp dụng hình phạt nặng nhất. Theo lời phán xử của quan tòa Fitz Hugh Cunneally thì đây là một trường hợp hiển nhiên và không còn nghi ngờ. Cummings và Cleary gây gổ với nhau dữ dội trong quán rượu của khách sạn Harbor ngày 23 tháng 7. Cũng vào chiều hôm đó, trung sĩ Tom Bearsmore, cảnh sát ở Goulburn, có hai nhân viên đi theo, đã đến đấy, theo yêu cầu của chủ nhân khách sạn này, ông James Ogilvie. Trong một ngõ hẻm bẩn thỉu sau khách sạn, các viên cảnh sát đã bắt gặp Cleary đang đá túi bụi vào đầu Cummings, anh này đang nằm dài dưới đất, bất tỉnh. Hai nắm tay của Cleary đầy máu, có cả những chùm tóc rút ra từ trên đầu của Cummings. Trong lúc bị bắt, Cleary say mèm nhưng vẫn còn sáng suốt. Lúc đầu hắn chỉ bị truy tố tội đánh người và gây thương tích nhưng sau đó hắn phải trả lời về tội cố sát vì Cummings bị chấn thương sọ não đã chết ở bệnh viện Goulburn ngày hôm sau.
Luật sư Arthur Whyte, biện hộ cho bị can, cho rằng thân chủ của mình vô tội bằng cách lập luận hắn bị bênh tâm thần, nhưng bốn giám định khoa tâm thần, được chỉ định tuyên bố một cách dứt khoát, chiếu theo luật M'' Naghten, Cleary không thể coi như không có trách nhiệm đối với hành vi của mình. Khi ngỏ lời với các vị bồi thẩm, quan tòa Fitz Cunneally tuyên bố vấn đề không phải là xác định bị can có tội hay vô tội vì rằng sự phán xét không thể khác hơn là có tội, nhưng ông yêu cầu các bồi thẩm suy nghĩ trước khi kết luận nên khoan hồng hay nên nghiêm khắc vì rằng tất cả tùy thuộc ở ý kiến của các vị. Khi kết án Cleary, quan tòa Fitz Cunneally gọi hành động của bị can là dã man mất tính người nhưng lại cho rằng hành động ấy không có dự tính trước và đã phạm trong tình trạng say rượu nên tránh được án tử hình. ông cho rằng hai quả đấm của Cleary cũng là những vũ khí nguy hiểm không khác súng hay dao. Cleary bị kết án chung thân khổ sai, chịu hành phạt tại nhà tù Goulburn - nơi đây được xây để giam giữ những loại tù bản chất đặc biệt hung dữ. Khi tòa hỏi bị can có điều gì muốn nói không, Cleary đáp: " Tôi chỉ yêu cầu đừng cho mẹ tôi hay biết gì sự việc này."
Pađy nhìn lên đầu trang để xem ngày tháng tờ báo: ngày 6 tháng 12 năm 1925.
- Tờ báo này đã ba năm mới đến đây, ông thì thầm, người rụng rời.
Không ai đáp lại một lời hay có bất cứ cử chỉ nào bởi vì không biết phải làm gì; phía trước nhà vọng vào tiếng cười hồn nhiên của cặp song sinh, càng lúc ồn ào vì cả hai nói chuyện với nhau rộn rã.
- Tôi... chỉ yêu cầu... đừng cho mẹ tôi hay biết gì Fiona thều thào giọng uể oải. Và người ta đã tôn trọng một cách triệt để ý nguyện của nó! Trời ơi! Frank rất đáng thương của tôi!
Pađy lau nước mắt bằng tay áo, rồi ngồi xổm bên cạnh vợ, vuốt nhẹ đầu gối của bà - Fiona thương yêu của anh, hãy sửa soạn quần áo. Chúng ta sẽ đi thăm Frank.
Bà định đứng lên nhưng nửa chừng bật ngửa ra sau lưng ghế. Trên gương mặt nhợt nhạt đầy mỏi mệt, hai mắt lấp lánh và nhìn thẳng như người đã chết, hai mí mắt sưng húp, con ngươi vàng bệch.
- Em không thể đến đó! Bà nói.
Trong giọng nói của bà không có vẻ gì thất vọng nhưng ai cũng đều cảm thấy nỗi lo âu đang giày xéo bà.
- Nếu nó gặp lại em, nó sẽ chết ngay - sau một lúc im lặng, bà lại nói. Pađy ơi! Nó sẽ chết ngay nếu gặp em. Em quá biết lòng kiêu hãnh, tham vọng và sự quyết tâm của nó muốn trở thành một người có tên tuổi trong xã hội. Cứ để cho nó chịu đựng một mình nỗi đau khổ vì đó là ý muốn của nó. Anh có đọc thấy những lời của nó chưa: Tôi chỉ yêu cầu đừng cho mẹ tôi hay biết gì hết. Chúng ta cần gíup nó để giữ trọn vẹn bí mật của nó. Có gì tốt lành đâu cho cuộc gặp mặt như thế về phía nó và cả phía chúng ta.
Pađy tiếp tục khóc, không phải vì Frank; mà vì rằng cái chất sống đã biến đi trên gương mặt của Fiona, và trong đôi mắt không còn sinh khí của bà. Thằng con trai ấy như một con chim đáng thương; suốt đời gặp tai họa, những tai họa đã làm Fiona không thể cởi mở được với chồng. Mỗi khi bóng dáng hạnh phúc ló dạng thì Frank xuất hiện, gieo sự đau khổ cho Pađy. Nhưng tình yêu mà Pađy dành cho Fiona sâu đậm và không gì lay chuyển được, không khác tình yêu mà Fiona dành cho Frank. Ông không thể phiền trách gì ở chàng thanh niên, từ chuyện xảy ra vào cái đêm tại nhà xứ. Ông nói:
- Thôi vậy. Nếu em thấy rằng tốt hơn là đừng gặp Frank thì chúng ta không đi. Tuy nhiên anh rất muốn biết con ra sao và nhất là chúng ta có giúp ích được gì cho nó không. Theo em, anh có nên viết thư cho cha Ralph để nhờ cha chăm sóc Frank?
Đôi mắt còn đờ đẫn nhưng trên gương mặt Fiona thoáng có một chút màu hồng.
- Đúng thế Pađy ạ, anh viết thư đi. Nhưng anh nhớ nói với cha thế nào để cha không cho Frank hay là chúng ta đã biết sự việc. Frank sẽ dễ chịu hơn nếu nó tin chắc rằng cả nhà không ai hay biết gì.
Vài ngày sau, Fiona tìm lại được gần trọn vẹn phong độ và chú ý lại trong việc trang hoàng ngôi nhà. Nhưng sự im lặng lại xâm chiếm, bà tiếp tục lạnh lùng tuy có bớt đi nét khắc khổ.
Cuộc sống trong ngôi nhà lớn thay đổi rất nhiều. Đầu tiên ai cũng thấy hơi khác thường khi mỗi người ở một phòng riêng, còn phụ nữ - Fiona và Meggie - thì từ nay không còn lo công việc nội trợ. Trong cũng như ngoài, đã có Minnie, Cat và bà Smith lo tất cả, từ việc giặt ủi quần áo cho đến bếp núc, lau dọn; những người này kinh hoảng lên khi thấy có người tỏ ý định tiếp tay họ.
Pađy đã có tin tức của cha Ralph.
Thu nhập của bà Mary hằng năm lên đến khoảng bốn triệu bảng Anh, nhờ vào Michar Limited là một công ty tư nhân mà đa số các dự án đầu tư đều nhắm vào thép, trang bị tàu bè và các mỏ. Cha Ralph viết:
Số tiền mà tôi gởi đến ông chỉ là một giọt nước biển và không đến mười phần trăm thu thập hằng năm của riêng Drogheda. Ông đừng lo về những năm khó khăn. Các tài khoản của Drogheda rất là lạc quan, tôi có thể trả lương cho ông suốt đời chỉ cần dựa vào thu nhập của điền trang. Do đó tiền mà ông nhận là của ông và không thâm và một đồng nào của Michar Limited. Tiền ấy từ nguồn của điền trang chớ không phải của công ty. Tôi chỉ yêu cầu giữ sao cho sổ sách luôn kịp thời và chặt chẽ dự phòng có một cuộc kiểm tra tới đây.
Chỉ sau khi nhận lá thư trên, Pađy tập hợp cả gia đình vào một buổi tối tại phòng khách lộng lẫy. Ông chủ trì, trên mũi ông có cặp kiếng gọng thép, ông ngồi trong chiếc ghế bành lớn màu kem, hai chân êm ái đặt trên một ghế dài cùng màu, còn cái ống vố đặt trên gạt tàn thủy tinh Waterford.
- Thật là dễ chịu làm sao, ông nói với nụ cười cùng lúc đảo mắt nhìn chung quanh. Ba nghĩ chúng ta nên biểu quyết hoan hô sự thành công của mẹ. Các con nghĩ sao?
Đề nghị của Pađy được hưởng ứng bằng những tiếng thì thầm đồng tình của các con trai; Fiona nghiêng đầu sang bên, trở mình trên chiếc ghế bành trước kia của Mary Carson, bây giờ được bọc lại vải lụa lóng lánh màu kem. Còn Meggie thì thích nằm thu mình như con mèo trên cái ghế dài.
- Cha Ralph đã làm rõ tất cả, và tỏ ra rất rộng rãi, Pađy tiếp tục nói. Ông ta đã gởi vào ngân hàng bảy ngàn bảng đứng tên ba và mở các sổ tiết kiệm hai ngàn bảng cho mỗi đứa trong các con. Với tư cách giám đốc điền trang, ba lãnh bốn ngàn bảng mỗi năm, Bob lãnh ba ngàn bảng với chức vụ phó giám đốc. Tất cả các con trai của ba đến tuổi lao động, Jack, Hughie, Stuart đều lãnh hai ngàn mỗi năm, riêng Jims và Patsy được một ngàn cho đến khi nào hai đứa đủ tuổi đi làm. Sau này, điền trang sẽ bảo đảm cho Jims và Patsy mỗi đứa một thu nhập ngang bằng với các thành viên Cleary khác làm việc tại Drogheda, dù cho hai đứa có chọn một nghề nào khác đi nữa. Khi Jims và Patsy được 12 tuổi, cả hai sẽ được gởi học nội trú tại trung học Riverview ở Sydney, mọi chi phí do điền trang chịu.
"Mẹ nhận hai ngàn bảng hàng năm để chi dụng riêng, Meggie cũng thế. Tiền dùng để bảo quản tòa nhà là năm ngàn bảng, mặc dầu chính ba phải tự hỏi tại sao cha Ralph tưởng tượng ra một khoản tiền nhiều thế cho công việc này".
"Quyết định đầu tiên của ba trong nhiệm vụ mới giám đốc là thuê thêm ít nhất sáu người chăn nuôi để việc quản lý Drogheda có nề nếp hơn; cơ ngơi của Drogheda quá rộng, không thể cáng đáng với một nhúm người?".
Đây là chi tính gián tiếp duy nhất của Pađy liên quan đến vấn đề quản lý của chị ông.
Fiona và Meggie tập lái chiếc xe hơi mới hiệu Rolls Royce đã được giao trước một tuần lễ Mary Carson qua đời. Meggie tập điều khiển các con chó trong khi Fiona lo sổ sách.
Đúng ra Meggie rất hạnh phúc nếu không phải chịu đựng sự vắng mặt dai dẳng của cha Ralph. Cuộc sống này phù hợp với mong ước từ lâu của cô: có mặt ở những khu đất rào nuôi cừu, cỡi ngựa, làm công việc của người chăn nuôi. Tuy nhiên sự thiếu vắng cha Ralph vẫn gây go cho Meggie một nỗi đau buồn âm ỉ, kỷ niệm của cái hôn được lồng vào những giấc mơ âu yếm mà đã sống trở lại trong tưởng tượng của Meggie cả nghìn lần. Nhưng ký ức không thể thay thế thực tế, Meggie có cố gắng thế nào, cảm giác thật sự cũng không tìm lại được mà chỉ còn là cái bóng mờ, như một áng mây nhẹ và buồn.
Khi cha Ralph viết thư báo cho gia đình biết tin về Frank, cũng là lúc ông đã cắt đứt hy vọng cuối cùng mà Meggie nuôi dưỡng lâu nay là cha Ralph sẽ mượn cớ chuyện này để đích thân đến Drogheda. Sự tường thuật của ông về cuộc hành trình đến nhà tù Goulburn để thăm Frank được ghi lại tỉ mỉ nhưng không để lộ sự đau xót đã gợi ra, không gây nghi ngờ về tình trạng tâm thần ngày càng sa sút của Frank. Ông tìm cách, nhưng không thành công, chuyển Frank qua bệnh viện thần kinh Morisset nơi người ta giam những tội nhân giết người mắc bệnh tâm thần. Ông chỉ phác họa chân dung lý tưởng của một Frank chịu đựng, ngoan ngoãn chấp nhận trả giá các lỗi lầm của mình với xã hội và ở một đoạn được gạch đậm dưới hàng chữ, ông cam đoan là Frank không chút nghi ngờ khi được ông cho biết là gia đình hoàn toàn không hay chuyện của Frank. Ông bảo rằng tình cờ mà ông biết được tên Frank nhờ đọc một bài báo ở Sydney. Sau đó thì Frank dịu lại - cha Ralph viết - và các sự kiện tạm dừng ở đó.
Pađy có ý định bán con ngựa hồng của cha Ralph trước kia. Nhưng Meggie không đồng ý.
- Ba ơi, con van xin ba - đừng bán. Con có thể cỡi con ngựa hồng mà! Ba hãy tưởng tượng xem mình sẽ ăn nói ra sao, nếu sau bao nhiêu việc cư xử tốt của cha Ralph, một hôm cha trở về thăm nơi đây và biết được chúng ta đã bán con ngựa của cha rồi.
Pađy nhìn con gái chăm chăm, có vẻ suy nghĩ:
- Meggie, ba không tin là cha Ralph sẽ trở về đây.
- Cha Ralph có thể về đây chứ! Làm sao biết trước được.
Đôi mắt của Meggie sao mà giống mẹ thế, Pađy không nỡ nói gì thêm; ông không muốn gây thêm đau khổ cho đứa con gái đáng thương của mình.
- Thôi thì ba đồng ý vậy, Meggie, chúng ta sẽ giữ lại con ngựa hồng. Nhưng con nhớ cỡi nó thường như con kia, ba không thích ở Drogheda có ngựa phát phì, con nghe ba chứ?
Cho tới nay, Meggie chẳng muốn cỡi con ngựa cái của cha Ralph nhưng từ nay Meggie sẽ cỡi luân phiên hai con để cả hai đều lãnh phần thức ăn của nó xứng đáng.
Mùa đông khô và các trận mưa mùa hè không đến. Cỏ mọc cao lên tới đầu gối, um tùm, chịu những trận nắng dữ dội, khiến cho từng cọng cỏ trở nên khô dòn. Từ trong các khu đất rào nuôi cừu nhìn ra xa phải nheo mắt lại và kéo sụp vành nón rộng xuống trán. Đồng cỏ - như mặt gương màu vàng óng ánh - cuốn thành hình trôn ốc trước từng cơn lốc tạo ra những ảo giác xanh, sáng nhoáng; lá vàng và những cành khô nhỏ bay lên, từ đống này sang đống khác.
Khô hạn dữ dội! Ngay cả những cây lớn cũng khô héo, vỏ tróc ra từng vạt cứng dòn. Những con cừu không bị ảnh hưởng gì vì cỏ còn đó ít nhất một năm hay lâu hơn, nhưng con người thì không tránh khỏi bị ảnh hưởng nặng bởi thời tiết khô cằn này. Người ta vẫn hy vọng năm sau hay năm sau nữa mưa sẽ đến. Trong những năm may mắn, người ta được hưởng từ ba mươi đến bốn mươi centimet lượng mưa; còn những năm thời tiết xấu chỉ còn năm centimet hay không có gì cả.
Mặc cho cái nóng thiêu đối và ruồi, Meggie vẫn yêu sống ở những bãi chăn cừu. Vào những lúc rỗi rảnh, Meggie nghiên cứu thiên nhiên, và nhớ đến Ralph như thường lệ. Trong đáy lòng mình, Meggie không bao giờ coi tình cảm dành cho Ralph như một thứ tình cảm hết sức vẩn vơ của trẻ con; Meggie vẫn coi đó hết sức đơn giản là tình yêu, tình yêu như trong các cuốn sách. Thật là bất công, cái hàng rào giả tạo dựng lên bởi chiếc áo dòng đã chắn giữa Meggie và điều mà cô chờ đợi ở Ralph: trở thành người vợ ông: Meggie ao ước được sống với Ralph như cha mẹ cô sống với nhau và đạt tới một sự hòa hợp mà ông sẽ yêu Meggie như ba đã yêu mẹ. Lúc đó Ralph sẽ nhanh chóng nhận ra rằng cuộc sống chung với Meggie sẽ đáng sống hơn biết bao so với cuộc sống đơn độc. Meggie không biết rằng Ralph không thể từ bỏ chiếc áo dòng bất cứ lý do nào.
Vâng, Meggie biết một linh mục không thể là chồng hay là người tình được nhưng cô đã có thói quen vượt qua điều cấm kỵ ấy bằng cách phớt lờ chức năng tôn giáo của Ralph. Những hiểu biết ít ỏi về đức tin công giáo chưa bao giờ giúp Meggie có thể bàn đến những lời nguyện của một linh mục; vả lại bản thân cũng không có nhu cầu bức thiết về tôn giáo và Meggie đã gạt ra ngoài những suy nghĩ sâu xa. Chưa bao giờ thấy được an ủi với các lần cầu kinh, Meggie tuân theo các lề luật của Nhà thờ chẳng qua vì sợ rằng nếu vi phạm sẽ bị đày xuống địa ngục vĩnh viễn.
Lúc này đây, Meggie tưởng tượng đến hạnh phúc được sống chung, ngủ bên cạnh cha Ralph. Nhưng chính ý nghĩ được gần gũi ấy bỗng làm Meggie bực bội rồi trở nên khó chịu, bồn chồn. Ngồi trên lưng ngựa Meggie nghĩ đến vô số những nụ hôn mà không hề biết rằng sự khó chịu bồn chồn kia xuất phát từ một đòi hỏi khác.
Những lần phi ngựa qua các bãi chăn cừu đã không giúp Meggie hiểu biết thêm chút nào về vấn đề sinh lý vì rằng mùi chó săn từ xa đã cắt đứt ngay mọi thèm muốn cặp đôi giữa những con cừu. Ngoài ra cũng như tất cả các trại chăn nuôi khác, người ta không bao giờ để việc nhảy giống không tính toán trước xảy ra... Khi các con cừu đực được thả chung với các con cừu cái trong một khu đất rào thì Meggie được lệnh của cha phải đi nơi khác. Còn khi gặp một con chó nhảy lên một con khác, phản ứng tự nhiên của Meggie là vung roi lên ngăn cản chúng... đùa giỡn.
Chưa chắc ai đã giải thích được trong hai điều sau đây điều nào tai hại hơn: một là đòi hỏi lờ mờ, bồn chồn trong dạ rồi bực bội nổi lên, và một thèm muốn cụ thể kèm theo nhu cầu rõ ràng được thỏa mãn. Meggie thì khắc khoải mà không hiểu rõ đòi hỏi sau đó là gì, nhưng sự nổi dậy trong lòng thì rõ ràng là có và những lúc như thế Meggie nghĩ đến Ralph một cách cuồng nhiệt, mơ tưởng, buồn khổ và thèm muốn. Cuối cùng thì Meggie buồn phiền vì dù cho Ralph đã thú nhận yêu mình, trên thực tế chẳng là gì cả trong lòng Ralph, cho nên chẳng bao giờ cha trở về thăm Meggie.
Giữa lúc Meggie miên man suy nghĩ, thì Pađy phi ngựa tới, ông cũng đang trên con đường về nhà. Thấy con mỉm cười, Pađy ghìm ngựa lại và chờ.
- Một bất ngờ thú vị! Ông nói to và cho con ngựa già màu xám đi sát bên con ngựa hồng của con gái.
- Vâng, thú vị lắm, ba ạ. Ở các bãi xa có khô hạn không ba?
- Còn hơn ở đây. Chưa bao giờ ba thấy nhiều con căngguru như thế! Có lẽ chúng không còn tìm thấy cái gì để ăn phía Milpariaka. Martin King dự định sẽ giết chúng hàng loạt nhưng ba cho rằng như vậy cũng không có cách nào làm bớt đi những con thú ấy, dù cho chúng ta có dùng đến súng máy đi nữa.
Ông rất tốt, rất ân cần, thông cảm và đáng yêu. Meggie rất ít khi gặp cha một mình. Không để mất thì giờ suy nghĩ, Meggie hỏi cha ngay một băn khoăn đang cháy bỏng trên môi, mặc dù cô đã cố gắng tự trấn an:
- Ba ơi, tại sao cha Bricassart không trở lại thăm chúng ta nữa?
- Cha bận đấy con à, Pađy trả lời bằng một giọng thận trọng.
- Nhưng các linh mục cũng nghỉ hè chứ ba? Cha rất yêu Drogheda. Con tin rằng cha cũng thích đến nghỉ hè ở đây chứ.
- Về mặt nào đó, đúng là các linh mục cũng nghỉ hè, Meggie. Tuy nhiên họ luôn luôn ràng buộc với nhiệm vụ. Thí dụ ngày nào trong cuộc đời của các cha cũng phải làm lễ, cho dù chỉ có một mình. Ba tin rằng cha Bricassart rất chín chắn, cha biết rằng không thể nào trở lui lại lối sống trước đây. Đối với cha Ralph, Drogheda gần như đã thuộc về quá khứ, Meggie, ba nghĩ, nếu có trở về đây cha cũng không tìm lại được niềm vui xưa kia.
- Có phải ý ba muốn nói là cha đã quên chúng ta? Meggie hỏi, giọng buồn buồn.
- Không hoàn toàn như thế. Nếu đúng là cha Ralph đã thật sự quên chúng ta, thì cha đã không viết thư thường xuyên và hỏi thăm từng người. Ba nghĩ rằng tốt hơn là cha Ralph không nên trở lại đây nữa!
- Ba nói sao?
Pađy đã nhất quyết giải thích một điều mà ông thấy trước sẽ không đơn giản.
- Con nghe đây Meggie, thật không hay chút nào nếu con cứ mơ tưởng đến một linh mục, con phải hiểu điều đó. Cho đến nay con đã giữ được những bí mật của con. Ba không nghĩ rằng đã có ai đó biết được chuyện của con; nhưng nay con đặt một số câu hỏi thẳng với ba phải không? Câu hỏi đặt ra không nhiều, nhưng ba cho rằng như thế tạm đủ. Bây giờ con nghe và phải tin ba nhé. Con phải chấm dứt ngay. Cha Ralph đã có những lời nguyền thiêng liêng mà cha không bao giờ muốn làm ngược lại. Nếu còn tiếp tục như trước, con không xứng đáng với tình cảm trong sáng mà cha Ralph đã dành cho con. Cha Ralph biết con lúc con còn bé tí, nay cũng với hình ảnh và tình cảm đó, cha đã xử sự với con như thế thôi Meggie à.
Meggie không trả lời và trên gương mặt vẫn không để lộ một xúc động nào. Pađy nghĩ: đúng là con gái của Fiona.
Một lúc sau, bằng giọng bực dọc, Meggie nói:
- Nhưng ông ấy có thể thôi làm linh mục; ông ấy sẽ hiểu ngay nếu con có dịp nói chuyện đó.
Nét mặt Pađy trở nên hốt hoảng khiến Meggie hiểu ngay những gì chứa đựng bên trong suy nghĩ của ba mình. Lời lẽ chắc không còn cần thiết nữa, Meggie không dám nói thêm.
- Meggie ơi! Lạy Chúa! Đây là cái giá đắt nhất và tai hại nhất mà cuộc sống biệt lập của chúng ta phải trả! Đáng lý con phải đến trường học, con gái của ba; nếu cô Mary chết sớm hơn thì ba đã gởi con đi học ở Sydney, ở trường ít nhất hai năm nữa. Bây giờ con đã quá tuổi rồi. Ba không muốn người ta chế nhạo con. Cha Ralph là một linh mục, Meggie. Ông không bao giờ, mãi mãi không bao giờ dứt bỏ được chiếc áo dòng, con có hiểu không? Những lời khấn nguyện của cha là thiêng liêng, quá long trọng và không thể bội phản. Khi một người đã khoác áo linh mục, người đó không thể trở lại được; trước đó các đấng bề trên ở tu viện cũng phải biết chắc người mới vào tu có hiểu được vì sao họ chọn con đường phụng sự Chúa hay không. Người đã khấn nguyện không mơ hồ một chút nào rằng ngay cả cái chết cũng không thể lay chuyển được sự chọn lựa của mình. Cha De Bricassart đã khấn nguyện và cha sẽ không bao giờ dứt khoát được với lời nguyền ấy. Bây giờ con đã biết, Meggie. Từ nay, nếu tiếp tục mơ tưởng cha De Bricassart thì đó là điều không thể tha thứ được.
Năm mới đã đến, cùng lúc với đêm khiêu vũ Saint Sylvestre do gia đình Angus Mac Queen tổ chức hàng năm ở Rudna Hinish, trong khi đó thì gia đình Cleary vẫn chưa chuyển qua ở tòa nhà lớn vì việc sắp xếp theo ý của Fiona còn kéo dài.
Cha Ralph có gởi cho Pađy một ngân phiếu năm ngàn bảng từ đầu tháng 12, để chi dùng ban đầu theo cách giải thích trong thư của ông. Pađy đưa thư cho Fiona xem với thái độ kinh ngạc.
- Trời ơi, làm việc suốt đời, tôi cũng không làm sao đào ra được một số tiền như thế này?
- Với số tiền này mình làm gì? Fiona hỏi sau khi liếc qua vào tấm ngân phiếu rồi đôi mắt long lanh nhìn chồng. Thế là chúng ta đã có tiền? Anh có thấy không? Ồ, em không cần số tiền 13 triệu bảng của cô Mary... một số tiền như thế không thật. Nhưng còn tiền này, thì thật đó. Chúng ta sẽ làm gì bây giờ?
- Chi xài, Pađy trả lời đơn giản. Mua quần áo mới cho con cái... Còn em? Có lẽ em thích mua sắm đồ đạc cho ngôi nhà lớn phải không? Về phần anh thì chẳng thấy cần thứ gì cả.
- Ngốc thật. Chính em cũng không biết chi xài chuyện gì (bà đứng lên, rời bàn ăn và gọi Meggie với một giọng quyền uy). Con đến đây! Chúng ta qua nhà lớn xem ở đó cần gì.
Đã ba tuần trôi qua kể từ ngày sóng gió tiếp theo cái chết của Mary Carson, thế mà chưa có một thành viên nào của gia đình Cleary đặt chân đến tòa nhà lớn. Nhưng bây giờ cuộc viếng thăm của Fiona đã bù lại thời gian họ gớm ghiếc xa lánh ngôi nhà này.
Bà đi từ phòng này sang phòng khác, phía sau có cả một đoàn tùy tùng gồm Meggie, và Smith, Cat và Minnie. Bà làm cho con gái bà ngạc nhiên về sự sống động mà từ lâu không thấy ở bà. Bà luôn luôn nói một mình, khi thì chê thứ này đáng tởm, khi thì chê thứ kia quá xấu xí, phải chăng chị Mary bị bệnh mà mất hay chị ấy chẳng có chút óc thẩm mỹ nào cả!
Bàn viết của Mary Carson, theo kiểu xấu xí thời Victoria, bên trên có đặt máy điện thoại. Fiona đến gần, nhìn màu gỗ buồn hiu với vẻ chê bai.
- Bàn viết của tôi đặt vào đây thì hợp quá, bà nói. Tôi bắt đầu sửa sang, sắp xếp lại từ căn phòng này. Chúng ta chỉ dọn nhà sang khi mọi việc xong xuôi. Chưa xong thì không dọn. Như thế chúng ta bố trí được một nơi có thể họp mặt nhau mà không thấy buồn tẻ - vừa nói bà vừa ngồi xuống coi lại chiếc điện thoại.
Sau khi sửa điện thoại xong, Fiona ra lệnh cho ba người phụ nữ tháo gỡ ngay các bức màn nhung màu nâu và ném tất cả và một chỗ dành riêng cho các thứ không còn dùng nữa. Và Fiona đốt cùng với rác rến.
- Chúng ta không cần những thứ này, bà khẳng định. Và tôi cũng không muốn cho người nghèo ở Gillanbone dùng những thứ này.
- Đúng thế, mẹ, Meggie tán đồng nhưng hơi sửng sốt.
- Chúng ta không rèm màn, Fiona nói, không băn khoăn chút nào khi làm trái lại các qui tắc trang hoàng trong nhà của thời đại này. Hành lang rất rộng, khó cho ánh nắng chiếu thẳng vào bên trong nhà, vậy thì rèm màn có ích gì? Mẹ muốn để trống cho mọi người nhìn thấy được phòng khách.
Vào tuần lễ thứ hai của tháng giêng, tất cả đã hoàn chỉnh, tiếng đồn lan rộng ra qua liên lạc của các máy điện thoại địa phương. Bà Cleary Fiona đã biến phòng khách của Drogheda thành một cung điện. Không ai nghi ngờ sự thành công của Fionạ
Ba ngày trước khi dọn sang nhà lớn khi mặt trời chưa lên, mấy con gà trống đã chào đón một ngày mới bằng những tiếng gáy rộn rã vui tươi.
- Đồ tốt mã nhưng chẳng làm ăn ra gì, Fiona cáu gắt. Mẹ không biết chúng nó tự hào về cái gì. Không có lấy một trứng cho buổi ăn sáng, trong khi bao nhiêu đàn ông đang tập trung ở nhà để chờ dọn đồ. Meggie, con phải ra chuồng gà xem thử, mẹ đang quá bận rộn. Mẹ tự hỏi ba mua dài hạn tất cả các loại báo này làm gì; không ai có thời giờ để đọc. Nó cao lên nhanh quá mẹ không đốt kịp. Con xem, tờ này xuất bản vào cái ngày chúng ta mới đến đây! Nhưng ít ra những tờ báo ấy cũng có công dụng gói bọc chén dĩa.
Thật là dễ chịu khi thấy mẹ vui vẻ, Meggie nghĩ thầm, nhanh nhẹn bước xuống các bật thang.
Chuồng gà rộng thênh thang, có bốn gà trống và hơn bốn chục gà mái. Khi Meggie đẩy cửa bước vào trong, mấy con gà mái nhao nhao lên, tưởng rằng Meggie đến cho ăn.
- Thật tình chúng bay chẳng ra làm sao cả. Giọng của Meggie nghiêm nghị trong khi duyệt qua các máng dùng để hứng trứng! Không đủ cho ăn buổi sáng chứ đừng nói tới chuyện làm bánh! Thế này nhé, tôi cần báo trước cho các cô cậu biết để khỏi than van, nếu các cô cậu không nhanh chóng vào nề nếp, các cô cậu sẽ kết thúc tất cả trong... nồi. Tất cả không trừ một đứa nào. Lời cảnh cáo này có giá trị cho các mày râu cũng như cho các bậc phu nhân. Này các ngài, đừng có xòe đuôi ưỡn ngực như thể chuyện này không dính dấp đến các ngài!
Trứng gà được đặt kỹ lưỡng trong tạp dề, Meggie trở lại bếp vừa đi vừa hát nho nhỏ. Bước vào nhà Meggie bắt gặp mẹ đang ngồi trên chiếc ghế bành của cha, mắt nhìn chăm chú vào tờ tuần báo Smith'' s Weekly, mặt tái xanh, môi run run. Meggie nghe tiếng nói các anh cùng cha mình bên kia vách và tiếng cười của Jims và Patsy vừa được 6 tuổi. Hai đứa em không được thức dậy trước khi người lớn đi làm.
- Có chuyện gì thế, thưa mẹ? - Meggie hỏi. Fiona không trả lời; và vẫn bất động, những giọt mồ hôi đọng lại trên môi dưới, đôi mắt sững sờ trong đau đớn như thể bà đang gom hết sức lực mình để ngăn lại tiếng thét phát ra từ trong lòng.
- Ba ơi! Ba ơi! Meggie gọi to, giọng hốt hoảng.
Tiếng gọi khiếp đảm của Meggie kéo Pađy khỏi phòng, giữa lúc ông vừa mặc chiếc áo gilê. Bob, Jack, Hughie và Stuart chạy theo cha. Không nói lời nào, Megie chỉ mẹ.
Xúc động đến tắc nghẽn cổ họng vì âu lo, Pađy cúi xuống sát vợ mình, nắm lấy cổ tay mềm nhũn.
- Có chuyện gì thế, em thương yêu? ông hỏi.
Giọng nói thật dịu dàng của Pađy gần như hoàn toàn xa lạ đối với các con ông, đó là giọng nói mà chúng biết cha mẹ chúng vẫn dùng đến khi không có mặt con cái.
Hình như giọng nói đặc biệt ấy, đã kéo Fiona ra khỏi vực thẳm mà bà đang chới với; đôi mắt to, màu nâu nhìn lên gương mặt hiền hậu của chồng đầy âu lo, và mỏi mệt.
- Đấy, bà vừa nói vừa chỉ tờ báo nằm ở phía cuối trang.
Stuart đến sau lưng mẹ, dịu dàng đặt bàn tay lên vai; trước khi đọc bài báo, Pađy nhìn vào mặt con trai ông rồi vợ ông; và ra vẻ bằng lòng. Ông không có thái độ ghen tức như đối với Frank trước đây. Tình yêu mà cả hai dành cho Fiona đã làm hai cha con gần gũi nhau hơn.
Pađy đọc bài báo to lên, giọng chầm chậm càng lúc càng đượm buồn. Tựa bài báo:
"Một võ sĩ bị kết án chung thân.
Francis Amstrong Cleary, 26 tuổi, võ sĩ nhà nghề, hôm nay đã bị tòa án ở Goulburn kết tội cố sát Ronald Cummings, thợ trồng trọt 32 tuổi, vụ án xảy ra hồi tháng bảy vừa qua. Bồi thẩm đoàn đã đưa ra kết quả chỉ sau mười phút hợp riêng, đề nghị áp dụng hình phạt nặng nhất. Theo lời phán xử của quan tòa Fitz Hugh Cunneally thì đây là một trường hợp hiển nhiên và không còn nghi ngờ. Cummings và Cleary gây gổ với nhau dữ dội trong quán rượu của khách sạn Harbor ngày 23 tháng 7. Cũng vào chiều hôm đó, trung sĩ Tom Bearsmore, cảnh sát ở Goulburn, có hai nhân viên đi theo, đã đến đấy, theo yêu cầu của chủ nhân khách sạn này, ông James Ogilvie. Trong một ngõ hẻm bẩn thỉu sau khách sạn, các viên cảnh sát đã bắt gặp Cleary đang đá túi bụi vào đầu Cummings, anh này đang nằm dài dưới đất, bất tỉnh. Hai nắm tay của Cleary đầy máu, có cả những chùm tóc rút ra từ trên đầu của Cummings. Trong lúc bị bắt, Cleary say mèm nhưng vẫn còn sáng suốt. Lúc đầu hắn chỉ bị truy tố tội đánh người và gây thương tích nhưng sau đó hắn phải trả lời về tội cố sát vì Cummings bị chấn thương sọ não đã chết ở bệnh viện Goulburn ngày hôm sau.
Luật sư Arthur Whyte, biện hộ cho bị can, cho rằng thân chủ của mình vô tội bằng cách lập luận hắn bị bênh tâm thần, nhưng bốn giám định khoa tâm thần, được chỉ định tuyên bố một cách dứt khoát, chiếu theo luật M'' Naghten, Cleary không thể coi như không có trách nhiệm đối với hành vi của mình. Khi ngỏ lời với các vị bồi thẩm, quan tòa Fitz Cunneally tuyên bố vấn đề không phải là xác định bị can có tội hay vô tội vì rằng sự phán xét không thể khác hơn là có tội, nhưng ông yêu cầu các bồi thẩm suy nghĩ trước khi kết luận nên khoan hồng hay nên nghiêm khắc vì rằng tất cả tùy thuộc ở ý kiến của các vị. Khi kết án Cleary, quan tòa Fitz Cunneally gọi hành động của bị can là dã man mất tính người nhưng lại cho rằng hành động ấy không có dự tính trước và đã phạm trong tình trạng say rượu nên tránh được án tử hình. ông cho rằng hai quả đấm của Cleary cũng là những vũ khí nguy hiểm không khác súng hay dao. Cleary bị kết án chung thân khổ sai, chịu hành phạt tại nhà tù Goulburn - nơi đây được xây để giam giữ những loại tù bản chất đặc biệt hung dữ. Khi tòa hỏi bị can có điều gì muốn nói không, Cleary đáp: " Tôi chỉ yêu cầu đừng cho mẹ tôi hay biết gì sự việc này."
Pađy nhìn lên đầu trang để xem ngày tháng tờ báo: ngày 6 tháng 12 năm 1925.
- Tờ báo này đã ba năm mới đến đây, ông thì thầm, người rụng rời.
Không ai đáp lại một lời hay có bất cứ cử chỉ nào bởi vì không biết phải làm gì; phía trước nhà vọng vào tiếng cười hồn nhiên của cặp song sinh, càng lúc ồn ào vì cả hai nói chuyện với nhau rộn rã.
- Tôi... chỉ yêu cầu... đừng cho mẹ tôi hay biết gì Fiona thều thào giọng uể oải. Và người ta đã tôn trọng một cách triệt để ý nguyện của nó! Trời ơi! Frank rất đáng thương của tôi!
Pađy lau nước mắt bằng tay áo, rồi ngồi xổm bên cạnh vợ, vuốt nhẹ đầu gối của bà - Fiona thương yêu của anh, hãy sửa soạn quần áo. Chúng ta sẽ đi thăm Frank.
Bà định đứng lên nhưng nửa chừng bật ngửa ra sau lưng ghế. Trên gương mặt nhợt nhạt đầy mỏi mệt, hai mắt lấp lánh và nhìn thẳng như người đã chết, hai mí mắt sưng húp, con ngươi vàng bệch.
- Em không thể đến đó! Bà nói.
Trong giọng nói của bà không có vẻ gì thất vọng nhưng ai cũng đều cảm thấy nỗi lo âu đang giày xéo bà.
- Nếu nó gặp lại em, nó sẽ chết ngay - sau một lúc im lặng, bà lại nói. Pađy ơi! Nó sẽ chết ngay nếu gặp em. Em quá biết lòng kiêu hãnh, tham vọng và sự quyết tâm của nó muốn trở thành một người có tên tuổi trong xã hội. Cứ để cho nó chịu đựng một mình nỗi đau khổ vì đó là ý muốn của nó. Anh có đọc thấy những lời của nó chưa: Tôi chỉ yêu cầu đừng cho mẹ tôi hay biết gì hết. Chúng ta cần gíup nó để giữ trọn vẹn bí mật của nó. Có gì tốt lành đâu cho cuộc gặp mặt như thế về phía nó và cả phía chúng ta.
Pađy tiếp tục khóc, không phải vì Frank; mà vì rằng cái chất sống đã biến đi trên gương mặt của Fiona, và trong đôi mắt không còn sinh khí của bà. Thằng con trai ấy như một con chim đáng thương; suốt đời gặp tai họa, những tai họa đã làm Fiona không thể cởi mở được với chồng. Mỗi khi bóng dáng hạnh phúc ló dạng thì Frank xuất hiện, gieo sự đau khổ cho Pađy. Nhưng tình yêu mà Pađy dành cho Fiona sâu đậm và không gì lay chuyển được, không khác tình yêu mà Fiona dành cho Frank. Ông không thể phiền trách gì ở chàng thanh niên, từ chuyện xảy ra vào cái đêm tại nhà xứ. Ông nói:
- Thôi vậy. Nếu em thấy rằng tốt hơn là đừng gặp Frank thì chúng ta không đi. Tuy nhiên anh rất muốn biết con ra sao và nhất là chúng ta có giúp ích được gì cho nó không. Theo em, anh có nên viết thư cho cha Ralph để nhờ cha chăm sóc Frank?
Đôi mắt còn đờ đẫn nhưng trên gương mặt Fiona thoáng có một chút màu hồng.
- Đúng thế Pađy ạ, anh viết thư đi. Nhưng anh nhớ nói với cha thế nào để cha không cho Frank hay là chúng ta đã biết sự việc. Frank sẽ dễ chịu hơn nếu nó tin chắc rằng cả nhà không ai hay biết gì.
Vài ngày sau, Fiona tìm lại được gần trọn vẹn phong độ và chú ý lại trong việc trang hoàng ngôi nhà. Nhưng sự im lặng lại xâm chiếm, bà tiếp tục lạnh lùng tuy có bớt đi nét khắc khổ.
Cuộc sống trong ngôi nhà lớn thay đổi rất nhiều. Đầu tiên ai cũng thấy hơi khác thường khi mỗi người ở một phòng riêng, còn phụ nữ - Fiona và Meggie - thì từ nay không còn lo công việc nội trợ. Trong cũng như ngoài, đã có Minnie, Cat và bà Smith lo tất cả, từ việc giặt ủi quần áo cho đến bếp núc, lau dọn; những người này kinh hoảng lên khi thấy có người tỏ ý định tiếp tay họ.
Pađy đã có tin tức của cha Ralph.
Thu nhập của bà Mary hằng năm lên đến khoảng bốn triệu bảng Anh, nhờ vào Michar Limited là một công ty tư nhân mà đa số các dự án đầu tư đều nhắm vào thép, trang bị tàu bè và các mỏ. Cha Ralph viết:
Số tiền mà tôi gởi đến ông chỉ là một giọt nước biển và không đến mười phần trăm thu thập hằng năm của riêng Drogheda. Ông đừng lo về những năm khó khăn. Các tài khoản của Drogheda rất là lạc quan, tôi có thể trả lương cho ông suốt đời chỉ cần dựa vào thu nhập của điền trang. Do đó tiền mà ông nhận là của ông và không thâm và một đồng nào của Michar Limited. Tiền ấy từ nguồn của điền trang chớ không phải của công ty. Tôi chỉ yêu cầu giữ sao cho sổ sách luôn kịp thời và chặt chẽ dự phòng có một cuộc kiểm tra tới đây.
Chỉ sau khi nhận lá thư trên, Pađy tập hợp cả gia đình vào một buổi tối tại phòng khách lộng lẫy. Ông chủ trì, trên mũi ông có cặp kiếng gọng thép, ông ngồi trong chiếc ghế bành lớn màu kem, hai chân êm ái đặt trên một ghế dài cùng màu, còn cái ống vố đặt trên gạt tàn thủy tinh Waterford.
- Thật là dễ chịu làm sao, ông nói với nụ cười cùng lúc đảo mắt nhìn chung quanh. Ba nghĩ chúng ta nên biểu quyết hoan hô sự thành công của mẹ. Các con nghĩ sao?
Đề nghị của Pađy được hưởng ứng bằng những tiếng thì thầm đồng tình của các con trai; Fiona nghiêng đầu sang bên, trở mình trên chiếc ghế bành trước kia của Mary Carson, bây giờ được bọc lại vải lụa lóng lánh màu kem. Còn Meggie thì thích nằm thu mình như con mèo trên cái ghế dài.
- Cha Ralph đã làm rõ tất cả, và tỏ ra rất rộng rãi, Pađy tiếp tục nói. Ông ta đã gởi vào ngân hàng bảy ngàn bảng đứng tên ba và mở các sổ tiết kiệm hai ngàn bảng cho mỗi đứa trong các con. Với tư cách giám đốc điền trang, ba lãnh bốn ngàn bảng mỗi năm, Bob lãnh ba ngàn bảng với chức vụ phó giám đốc. Tất cả các con trai của ba đến tuổi lao động, Jack, Hughie, Stuart đều lãnh hai ngàn mỗi năm, riêng Jims và Patsy được một ngàn cho đến khi nào hai đứa đủ tuổi đi làm. Sau này, điền trang sẽ bảo đảm cho Jims và Patsy mỗi đứa một thu nhập ngang bằng với các thành viên Cleary khác làm việc tại Drogheda, dù cho hai đứa có chọn một nghề nào khác đi nữa. Khi Jims và Patsy được 12 tuổi, cả hai sẽ được gởi học nội trú tại trung học Riverview ở Sydney, mọi chi phí do điền trang chịu.
"Mẹ nhận hai ngàn bảng hàng năm để chi dụng riêng, Meggie cũng thế. Tiền dùng để bảo quản tòa nhà là năm ngàn bảng, mặc dầu chính ba phải tự hỏi tại sao cha Ralph tưởng tượng ra một khoản tiền nhiều thế cho công việc này".
"Quyết định đầu tiên của ba trong nhiệm vụ mới giám đốc là thuê thêm ít nhất sáu người chăn nuôi để việc quản lý Drogheda có nề nếp hơn; cơ ngơi của Drogheda quá rộng, không thể cáng đáng với một nhúm người?".
Đây là chi tính gián tiếp duy nhất của Pađy liên quan đến vấn đề quản lý của chị ông.
Fiona và Meggie tập lái chiếc xe hơi mới hiệu Rolls Royce đã được giao trước một tuần lễ Mary Carson qua đời. Meggie tập điều khiển các con chó trong khi Fiona lo sổ sách.
Đúng ra Meggie rất hạnh phúc nếu không phải chịu đựng sự vắng mặt dai dẳng của cha Ralph. Cuộc sống này phù hợp với mong ước từ lâu của cô: có mặt ở những khu đất rào nuôi cừu, cỡi ngựa, làm công việc của người chăn nuôi. Tuy nhiên sự thiếu vắng cha Ralph vẫn gây go cho Meggie một nỗi đau buồn âm ỉ, kỷ niệm của cái hôn được lồng vào những giấc mơ âu yếm mà đã sống trở lại trong tưởng tượng của Meggie cả nghìn lần. Nhưng ký ức không thể thay thế thực tế, Meggie có cố gắng thế nào, cảm giác thật sự cũng không tìm lại được mà chỉ còn là cái bóng mờ, như một áng mây nhẹ và buồn.
Khi cha Ralph viết thư báo cho gia đình biết tin về Frank, cũng là lúc ông đã cắt đứt hy vọng cuối cùng mà Meggie nuôi dưỡng lâu nay là cha Ralph sẽ mượn cớ chuyện này để đích thân đến Drogheda. Sự tường thuật của ông về cuộc hành trình đến nhà tù Goulburn để thăm Frank được ghi lại tỉ mỉ nhưng không để lộ sự đau xót đã gợi ra, không gây nghi ngờ về tình trạng tâm thần ngày càng sa sút của Frank. Ông tìm cách, nhưng không thành công, chuyển Frank qua bệnh viện thần kinh Morisset nơi người ta giam những tội nhân giết người mắc bệnh tâm thần. Ông chỉ phác họa chân dung lý tưởng của một Frank chịu đựng, ngoan ngoãn chấp nhận trả giá các lỗi lầm của mình với xã hội và ở một đoạn được gạch đậm dưới hàng chữ, ông cam đoan là Frank không chút nghi ngờ khi được ông cho biết là gia đình hoàn toàn không hay chuyện của Frank. Ông bảo rằng tình cờ mà ông biết được tên Frank nhờ đọc một bài báo ở Sydney. Sau đó thì Frank dịu lại - cha Ralph viết - và các sự kiện tạm dừng ở đó.
Pađy có ý định bán con ngựa hồng của cha Ralph trước kia. Nhưng Meggie không đồng ý.
- Ba ơi, con van xin ba - đừng bán. Con có thể cỡi con ngựa hồng mà! Ba hãy tưởng tượng xem mình sẽ ăn nói ra sao, nếu sau bao nhiêu việc cư xử tốt của cha Ralph, một hôm cha trở về thăm nơi đây và biết được chúng ta đã bán con ngựa của cha rồi.
Pađy nhìn con gái chăm chăm, có vẻ suy nghĩ:
- Meggie, ba không tin là cha Ralph sẽ trở về đây.
- Cha Ralph có thể về đây chứ! Làm sao biết trước được.
Đôi mắt của Meggie sao mà giống mẹ thế, Pađy không nỡ nói gì thêm; ông không muốn gây thêm đau khổ cho đứa con gái đáng thương của mình.
- Thôi thì ba đồng ý vậy, Meggie, chúng ta sẽ giữ lại con ngựa hồng. Nhưng con nhớ cỡi nó thường như con kia, ba không thích ở Drogheda có ngựa phát phì, con nghe ba chứ?
Cho tới nay, Meggie chẳng muốn cỡi con ngựa cái của cha Ralph nhưng từ nay Meggie sẽ cỡi luân phiên hai con để cả hai đều lãnh phần thức ăn của nó xứng đáng.
Mùa đông khô và các trận mưa mùa hè không đến. Cỏ mọc cao lên tới đầu gối, um tùm, chịu những trận nắng dữ dội, khiến cho từng cọng cỏ trở nên khô dòn. Từ trong các khu đất rào nuôi cừu nhìn ra xa phải nheo mắt lại và kéo sụp vành nón rộng xuống trán. Đồng cỏ - như mặt gương màu vàng óng ánh - cuốn thành hình trôn ốc trước từng cơn lốc tạo ra những ảo giác xanh, sáng nhoáng; lá vàng và những cành khô nhỏ bay lên, từ đống này sang đống khác.
Khô hạn dữ dội! Ngay cả những cây lớn cũng khô héo, vỏ tróc ra từng vạt cứng dòn. Những con cừu không bị ảnh hưởng gì vì cỏ còn đó ít nhất một năm hay lâu hơn, nhưng con người thì không tránh khỏi bị ảnh hưởng nặng bởi thời tiết khô cằn này. Người ta vẫn hy vọng năm sau hay năm sau nữa mưa sẽ đến. Trong những năm may mắn, người ta được hưởng từ ba mươi đến bốn mươi centimet lượng mưa; còn những năm thời tiết xấu chỉ còn năm centimet hay không có gì cả.
Mặc cho cái nóng thiêu đối và ruồi, Meggie vẫn yêu sống ở những bãi chăn cừu. Vào những lúc rỗi rảnh, Meggie nghiên cứu thiên nhiên, và nhớ đến Ralph như thường lệ. Trong đáy lòng mình, Meggie không bao giờ coi tình cảm dành cho Ralph như một thứ tình cảm hết sức vẩn vơ của trẻ con; Meggie vẫn coi đó hết sức đơn giản là tình yêu, tình yêu như trong các cuốn sách. Thật là bất công, cái hàng rào giả tạo dựng lên bởi chiếc áo dòng đã chắn giữa Meggie và điều mà cô chờ đợi ở Ralph: trở thành người vợ ông: Meggie ao ước được sống với Ralph như cha mẹ cô sống với nhau và đạt tới một sự hòa hợp mà ông sẽ yêu Meggie như ba đã yêu mẹ. Lúc đó Ralph sẽ nhanh chóng nhận ra rằng cuộc sống chung với Meggie sẽ đáng sống hơn biết bao so với cuộc sống đơn độc. Meggie không biết rằng Ralph không thể từ bỏ chiếc áo dòng bất cứ lý do nào.
Vâng, Meggie biết một linh mục không thể là chồng hay là người tình được nhưng cô đã có thói quen vượt qua điều cấm kỵ ấy bằng cách phớt lờ chức năng tôn giáo của Ralph. Những hiểu biết ít ỏi về đức tin công giáo chưa bao giờ giúp Meggie có thể bàn đến những lời nguyện của một linh mục; vả lại bản thân cũng không có nhu cầu bức thiết về tôn giáo và Meggie đã gạt ra ngoài những suy nghĩ sâu xa. Chưa bao giờ thấy được an ủi với các lần cầu kinh, Meggie tuân theo các lề luật của Nhà thờ chẳng qua vì sợ rằng nếu vi phạm sẽ bị đày xuống địa ngục vĩnh viễn.
Lúc này đây, Meggie tưởng tượng đến hạnh phúc được sống chung, ngủ bên cạnh cha Ralph. Nhưng chính ý nghĩ được gần gũi ấy bỗng làm Meggie bực bội rồi trở nên khó chịu, bồn chồn. Ngồi trên lưng ngựa Meggie nghĩ đến vô số những nụ hôn mà không hề biết rằng sự khó chịu bồn chồn kia xuất phát từ một đòi hỏi khác.
Những lần phi ngựa qua các bãi chăn cừu đã không giúp Meggie hiểu biết thêm chút nào về vấn đề sinh lý vì rằng mùi chó săn từ xa đã cắt đứt ngay mọi thèm muốn cặp đôi giữa những con cừu. Ngoài ra cũng như tất cả các trại chăn nuôi khác, người ta không bao giờ để việc nhảy giống không tính toán trước xảy ra... Khi các con cừu đực được thả chung với các con cừu cái trong một khu đất rào thì Meggie được lệnh của cha phải đi nơi khác. Còn khi gặp một con chó nhảy lên một con khác, phản ứng tự nhiên của Meggie là vung roi lên ngăn cản chúng... đùa giỡn.
Chưa chắc ai đã giải thích được trong hai điều sau đây điều nào tai hại hơn: một là đòi hỏi lờ mờ, bồn chồn trong dạ rồi bực bội nổi lên, và một thèm muốn cụ thể kèm theo nhu cầu rõ ràng được thỏa mãn. Meggie thì khắc khoải mà không hiểu rõ đòi hỏi sau đó là gì, nhưng sự nổi dậy trong lòng thì rõ ràng là có và những lúc như thế Meggie nghĩ đến Ralph một cách cuồng nhiệt, mơ tưởng, buồn khổ và thèm muốn. Cuối cùng thì Meggie buồn phiền vì dù cho Ralph đã thú nhận yêu mình, trên thực tế chẳng là gì cả trong lòng Ralph, cho nên chẳng bao giờ cha trở về thăm Meggie.
Giữa lúc Meggie miên man suy nghĩ, thì Pađy phi ngựa tới, ông cũng đang trên con đường về nhà. Thấy con mỉm cười, Pađy ghìm ngựa lại và chờ.
- Một bất ngờ thú vị! Ông nói to và cho con ngựa già màu xám đi sát bên con ngựa hồng của con gái.
- Vâng, thú vị lắm, ba ạ. Ở các bãi xa có khô hạn không ba?
- Còn hơn ở đây. Chưa bao giờ ba thấy nhiều con căngguru như thế! Có lẽ chúng không còn tìm thấy cái gì để ăn phía Milpariaka. Martin King dự định sẽ giết chúng hàng loạt nhưng ba cho rằng như vậy cũng không có cách nào làm bớt đi những con thú ấy, dù cho chúng ta có dùng đến súng máy đi nữa.
Ông rất tốt, rất ân cần, thông cảm và đáng yêu. Meggie rất ít khi gặp cha một mình. Không để mất thì giờ suy nghĩ, Meggie hỏi cha ngay một băn khoăn đang cháy bỏng trên môi, mặc dù cô đã cố gắng tự trấn an:
- Ba ơi, tại sao cha Bricassart không trở lại thăm chúng ta nữa?
- Cha bận đấy con à, Pađy trả lời bằng một giọng thận trọng.
- Nhưng các linh mục cũng nghỉ hè chứ ba? Cha rất yêu Drogheda. Con tin rằng cha cũng thích đến nghỉ hè ở đây chứ.
- Về mặt nào đó, đúng là các linh mục cũng nghỉ hè, Meggie. Tuy nhiên họ luôn luôn ràng buộc với nhiệm vụ. Thí dụ ngày nào trong cuộc đời của các cha cũng phải làm lễ, cho dù chỉ có một mình. Ba tin rằng cha Bricassart rất chín chắn, cha biết rằng không thể nào trở lui lại lối sống trước đây. Đối với cha Ralph, Drogheda gần như đã thuộc về quá khứ, Meggie, ba nghĩ, nếu có trở về đây cha cũng không tìm lại được niềm vui xưa kia.
- Có phải ý ba muốn nói là cha đã quên chúng ta? Meggie hỏi, giọng buồn buồn.
- Không hoàn toàn như thế. Nếu đúng là cha Ralph đã thật sự quên chúng ta, thì cha đã không viết thư thường xuyên và hỏi thăm từng người. Ba nghĩ rằng tốt hơn là cha Ralph không nên trở lại đây nữa!
- Ba nói sao?
Pađy đã nhất quyết giải thích một điều mà ông thấy trước sẽ không đơn giản.
- Con nghe đây Meggie, thật không hay chút nào nếu con cứ mơ tưởng đến một linh mục, con phải hiểu điều đó. Cho đến nay con đã giữ được những bí mật của con. Ba không nghĩ rằng đã có ai đó biết được chuyện của con; nhưng nay con đặt một số câu hỏi thẳng với ba phải không? Câu hỏi đặt ra không nhiều, nhưng ba cho rằng như thế tạm đủ. Bây giờ con nghe và phải tin ba nhé. Con phải chấm dứt ngay. Cha Ralph đã có những lời nguyền thiêng liêng mà cha không bao giờ muốn làm ngược lại. Nếu còn tiếp tục như trước, con không xứng đáng với tình cảm trong sáng mà cha Ralph đã dành cho con. Cha Ralph biết con lúc con còn bé tí, nay cũng với hình ảnh và tình cảm đó, cha đã xử sự với con như thế thôi Meggie à.
Meggie không trả lời và trên gương mặt vẫn không để lộ một xúc động nào. Pađy nghĩ: đúng là con gái của Fiona.
Một lúc sau, bằng giọng bực dọc, Meggie nói:
- Nhưng ông ấy có thể thôi làm linh mục; ông ấy sẽ hiểu ngay nếu con có dịp nói chuyện đó.
Nét mặt Pađy trở nên hốt hoảng khiến Meggie hiểu ngay những gì chứa đựng bên trong suy nghĩ của ba mình. Lời lẽ chắc không còn cần thiết nữa, Meggie không dám nói thêm.
- Meggie ơi! Lạy Chúa! Đây là cái giá đắt nhất và tai hại nhất mà cuộc sống biệt lập của chúng ta phải trả! Đáng lý con phải đến trường học, con gái của ba; nếu cô Mary chết sớm hơn thì ba đã gởi con đi học ở Sydney, ở trường ít nhất hai năm nữa. Bây giờ con đã quá tuổi rồi. Ba không muốn người ta chế nhạo con. Cha Ralph là một linh mục, Meggie. Ông không bao giờ, mãi mãi không bao giờ dứt bỏ được chiếc áo dòng, con có hiểu không? Những lời khấn nguyện của cha là thiêng liêng, quá long trọng và không thể bội phản. Khi một người đã khoác áo linh mục, người đó không thể trở lại được; trước đó các đấng bề trên ở tu viện cũng phải biết chắc người mới vào tu có hiểu được vì sao họ chọn con đường phụng sự Chúa hay không. Người đã khấn nguyện không mơ hồ một chút nào rằng ngay cả cái chết cũng không thể lay chuyển được sự chọn lựa của mình. Cha De Bricassart đã khấn nguyện và cha sẽ không bao giờ dứt khoát được với lời nguyền ấy. Bây giờ con đã biết, Meggie. Từ nay, nếu tiếp tục mơ tưởng cha De Bricassart thì đó là điều không thể tha thứ được.
Title: Re: Tiếng chim hót trong bụi mận gai - Colleen McCullough. Bestseller năm 1977
Post by: Serenade24 on 03/05/07, 08:27
Post by: Serenade24 on 03/05/07, 08:27
Chương 15
Cha Ralph De Bricassart nói bằng một giọng lạnh lùng nhưng không gay gắt lắm trong khi mắt vẫn chăm chăm nhìn vào gương mặt xanh xao của vị linh mục trẻ tuổi. Từng lời rõ ràng và cứng rắn, Ralph nói:
- Cha hành động không xứng đáng với những gì mà Chúa đòi hỏi ở các linh mục. Tôi tin rằng cha ý thức được điều đó hơn cả chúng tôi, những người khiển trách cha. Dù thế, nhân danh Đức Tổng Giám Mục bề trên của chúng ta, tôi vẫn phải lên án cha. Cha phải vâng lời Ngài tuyệt đối, cha không được cãi lại những lời khuyên bảo và các quyết định của Ngài.
Chắc cha đã ý thức việc cha tự chôn vùi uy tín của mình, uy tín của xứ đạo và của giáo hội mà đáng lý cha phải yêu thương và bảo vệ trên hết. Lời nguyện của cha giữ mình trong sạch là thiêng liêng và không thể vi phạm; vi phạm lời nguyện đó là một tội lỗi hết sức nặng. Tất nhiên cha sẽ không bao giờ gặp lại người phụ nữ đó; chúng tôi sẽ giúp cha phấn đấu vượt qua sự cám dỗ. Chúng tôi đã lo liệu tất cả để cha có thể lên đường đi nhận nhiệm vụ mới tại xứ đạo Darwin, ở miền Bắc. Ngay tối nay cha đến Brisbane bằng chuyến tàu tốc hành và từ đây cha tiếp tục đi cũng bằng tàu hỏa đến Longreach. Ở đó, cha lên máy bay hãng Quatas đi Darwin. Hành lý của cha đang được đóng gói và sẽ giao lại cho cha trên chuyến tàu tốc hành. Do đó cha khỏi cần phải quay trở lại xứ đạo của cha.
Bây giờ cha hãy đến nhà thờ cùng với cha John và cầu nguyện. Cha ở đó cho đến giờ ra ga để tìm lại sự ổn định và an ủi tinh thần. Cha John sẽ đi theo cha đến Darwin. Bây giờ thì cha có thể rời khỏi đây rồi.
Sau khi vị linh mục trẻ tuổi cùng với người được chỉ định đi theo canh giữ đã đi, cha Ralph rời phòng làm việc và sang một phòng khác. Tổng giám mục Chiny Dark đang ngồi trong chiếc ghế bành của Ngài như mọi khi, kế bên là một giáo sĩ mang thắt lưng và mũ nhỏ bằng vải đều màu tím. Tổng giám mục là một người tầm vóc cao lớn, mái tóc bạc trắng, mắt màu xanh thật sáng, rất yêu đời, có óc khôi hài ý nhị và thích ăn ngon. Người khách của Tổng giám mục lại là một mẫu người hoàn toàn trái ngược lại: nhỏ bé, mảnh khảnh, vài chúm tóc lưa thưa xuất hiện dưới cái mũ nhỏ bằng vải; gương mặt gầy, khắc khổ, đôi mắt to không được vui, da sậm. Người ta có thể đoán tuổi của người này từ ba mươi tới năm mươi, nhưng tuổi thật là ba mươi chín, hơn cha Ralph ba tuổi.
- Con hãy ngồi xuống đây và nhấp một tách trà với chúng tôi, Tổng giám mục nói bằng giọng hiền lành. Tôi đã chuẩn bị một bình trà khác. Con đã giải quyết xong vụ linh mục trẻ với những lời răn dạy đúng mức để cho anh ta hối cải chứ?
- Thưa Đức cha, vâng. Ralph trả lời ngắn gọn.
Linh mục Ralph ngồi xuống chiếc ghế thứ ba gần bàn để đầy những bánh xăng uých với dưa chuột, bánh có kem lạnh màu hồng và trắng, bánh bột chiên nóng phết bơ và những lọ thủy tinh đựng mứt, kem hột gà đánh nổi lên. Một bộ đồ uống trà bằng bạc và những chiếc tách bằng sứ Aynsley bịt vàng bên trên làm khung cảnh trở nên ấm cúng.
- Những chuyện không hay ấy rất đáng tiếc, ông bạn thân ạ, và mặc dù trong cương vị những kẻ phụng thờ Chúa như chúng ta, vẫn phải nhìn nhận rằng chúng ta chỉ là những sinh vật yếu đuối - người khách nói. Tối nay tôi sẽ cầu nguyện để Chúa giúp cho anh ta đủ nghị lực tránh khỏi rơi vào những lầm lỗi cũ.
Người khách có giọng nói nhẹ nhàng của người nước ngoài quốc tịch Ý, hiện ông đang giữ cương vị Tổng giám mục, Khâm Mạng Giáo Hoàng ở Úc, tên là Vitorio Scarbanza Di Contini Verchese. Vai trò tế nhị của ông là làm gạch nối giữa giới chức Nhà thờ ở Úc và Tòa thánh Vatican, do đó ông là giáo sĩ quan trọng nhất ở phần đất này của thế giới.
Vị đại diện Giáo Hoàng cũng là một người hết sức tinh tế; cầm chiếc tách trên tay, ông nhìn chăm chú về hướng, không phải Tổng giám mục Chiny Dark, mà là cha Bricassart, theo dự tính sẽ trở thành thư ký riêng của ông. Với Tổng giám mục Dark thì cha Ralph rõ ràng là một người rất đáng mến nhưng vị đại diện giáo hoàng vẫn tự hỏi, về phần ông thì ông sẽ đánh giá ra sao con người này? Cách cư xử của cha Ralph đối với bề trên trực tiếp hiện giờ không có gì để bàn cãi. Đó là một người tế nhị, nhẹ nhàng, thoải mái biết tôn kính nhưng không đi đến mức ngoan ngoãn vâng lời. Linh mục lại có óc hài hước. Làm thế nào linh mục có thể thích ứng với một người bề trên mới rất khác về tính tình so với người hiện nay? Theo thông lệ, thư ký riêng của Khâm mạng Tòa thánh đều được chọn trong hàng ngữ giáo sĩ của Nhà thờ ànhưng Vatican hiện rất quan tâm đến linh mục Ralph. Cha Ralph được chú ý không chỉ do tài sản riêng của ông (trái với dư luận chung, Tòa thánh không có quyền chiếm đoạt tài sản của ông, ngược lại về phần mình, ông cũng không có ý định giao lại tài sản cho Tòa thánh), nhưng do lòng tự nguyện, ông đã mang lại rất nhiều của cải cho Nhà thờ. Chính vì thế Vatican đã ra lệnh cho Khâm mạng của giáo hoàng nhận linh mục De Bricassart làm thư ký riêng để thử thách và đánh giá giá trị vị giáo sĩ trẻ tuổi này. Lòng đầy biết ơn, cha Ralph nhấp từng ngụm trà trong im lặng - một sự im lặng không bình thường. Vì đại diện giáo hoàng nhận thấy ông chỉ ăn một miếng bánh mì xăng-uých nhỏ, không kèm theo thứ gì hết, uống luôn bốn tách trà mà không cần thêm sữa hay đường. Thế là mọi chi tiết đều rất khớp với báo cáo mà vị đại diện Vatican đã nhận được. Trong các thói quen, cha Ralph đã tỏ ra hết sức giản dị, thanh bạch; khuyết điểm duy nhất là ông đang sử dụng chiếc ô tô đẹp, chạy rất nhanh.
- Con đi rồi, cha sẽ thấy rất trống trải - Tổng giám mục Chiny Dark vừa nói vừa phủ một lớp dày mứt và kem trên miếng bánh nướng rồi bỏ hết vào miệng.
Linh mục Ralph cười.
- Trình Đức cha, Đức cha đã đặt cho con vào một thế lưỡng nan! Một bên là đấng bề trên hiện tại và một bên là đấng bề trên tương lai của con. Nếu con trả lời làm vui lòng một bên thì con sẽ làm mất lòng bên khác. Vậy liệu con có nên trả lời rằng xa Đức cha con sẽ cảm thấy trống vắng vô cùng, nhưng đồng thời con rất vui mừng trước nhiệm vụ sắp tới: phục vụ Đức cha Di Contini.
Một cách nói rất khéo. Đúng là một câu trả lời của nhà ngoại giao. Tổng giám mục Di Contini Verchese bắt đầu nghĩ rằng một thư ký riêng như thế rất hợp đối với ông mặc dù Ralph quá đẹp trai với nét mặt thanh tú, nước da sáng và thân hình cân đối.
Bỗng nhiên cha Ralph im lặng, mắt nhìn xa xôi. Ông hồi tưởng đến hình ảnh linh lục trẻ vừa bị quở trách, đôi mắt đầy âu lo khi nghĩ đến con người trẻ tuổi này biết rằng anh ta sẽ không được trở lại giã từ người mình yêu. Lạy Chúa toàn năng, nếu trường hợp này là chính ông và Meggie thì ra sao? Người ta có thể bảo vệ được uy tín trong sáng ở một thời gian nhất định nào đó, nếu giữ được sự kín đáo; rất có thể uy tín đó sẽ lâu hơn nếu chỉ quan hệ với phụ nữ trong dịp nghỉ hè và dịp xa xứ đạo của mình. Nhưng một quan hệ tình cảm đúng nghĩa và kéo dài thì không thể nào không bị người khác khám phá.
Có những lúc cha chỉ còn cách duy nhất là quỳ gối trên nền đá cẩm thạch trong nhà nguyện cho đến tê dại vì sự đau đớn của thể xác. Chỉ có cách đó cha Ralph mới tự ngăn mình nhảy lên chuyến tàu hỏa đi Gillanbone và từ đó lao thẳng về Drogheda. Cha Ralph phải tự thuyết phục lòng mình rằng cha chỉ là nạn nhân của sự cô độc, cha thiếu tình cảm con người dù cha đã được mời mọc săn đón ở Drogheda. Cha đã nói đi nói lại với chính mình rằng không có gì thay đổi sau lần cha đầu hàng trước sự yếu đuối trong chốc lát vì đã hôn trả lại Meggie, rằng tình yêu mà mình đã dành cho Meggie còn là trong tưởng tượng, chưa đi vào một thế giới khác đầy đủ những hiểm nguy cụ thể. Vì rằng linh mục Ralph không chịu nhận có điều gì thay đổi trong quan hệ giữa ông và Meggie và coi như ông vẫn giữ trong đầu mình hình ảnh Meggie lúccòn là cô bé; tự cấm mình không được quyền phá vỡ hình ảnh đó.
Nhưng ông đã lầm. Sự đau khổ không vơi bớt đi. Ngược lại ngày càng sâu nặng hơn và ghê gớm hơn. Trước kia sự cô đơn của ông còn trừu tượng và ông hoàn toàn không nghĩ rằng có thể vơi đi bởi một con người bằng xương bằng thịt khác. Nhưng giờ đây, nỗi cô đơn đang đã mang một cái tên: Meggie, Meggie, Meggie... được lặp lại nhiều lần.
Khi vừa tỉnh khỏi cơn mơ, ông nhận ra Tổng giám mục Di Contini Verchese đang nhìn ông chăm chăm, đôi mắt sâu thẳm tỏ ra minh mẫn hơn đôi mắt nhanh nhẹn của Tổng giám mục Chiny Dark. Cha Ralph đủ thông minh để hiểu rằng mình không thể che giấu tâm trạng u buồn, nên ông đã đáp lại đấng bề trên đầy quyền lực của mình bằng cái nhìn sắc không kém. Ông nở một nụ cười đồng thời khẽ nhún vai như thể muốn nói: mỗi con người đều ẩn chứa một nỗi buồn và không phải là tội lỗi khi nhớ đến nỗi buồn riêng ấy.
- Này con, tình hình kinh tế suy sụp bất ngờ có ảnh hưởng gì đến những công việc mà con đang đảm trách không? - vị đại diện Tòa thánh hỏi bằng một giọng dịu dàng.
- Cho đến nay chúng ta không có gì đáng phải lo âu thưa Đức cha. Công ty Michar Limited không bị ảnh hưởng nhiều vào các biến động thị trường. Theo con nghĩ chỉ có những phương án đầu tư không được chín chắn như bà Mary Carson mới bị thiệt hại. Dĩ nhiên lợi tức của trang trại Drogheda có thể không như trước đây vì giá len có giảm. Bà Mary Carson là người thấy xa nên không chỉ đầu tư trong chăn nuôi. Bà thích sự chắc chắn của kim loại hơn. Theo con, thời buổi này rất thuận lợi để mua bất động sản, không chỉ đất đai ở nông thôn, mà cả nhà và các bất động sản trong những thành phố lớn. Giá cả hiện nay xuống thấp một cách kỳ lạ, vì thế chắc chắn rồi đây các loại bất động sản sẽ lên. Do đó con không thể nào tưởng tượng được mình lại bị thua lỗ nếu đầu tư vào bất động sản. Cuộc khủng hoảng phải chấm dứt một ngày nào đó.
- Đúng thế, vị Khâm mạng tòa thánh tán đồng.
Vậy thì cha Ralph không chỉ sinh ra là một nhà ngoại giao mà còn cho thấy ông là một nhà kinh doanh sắc bén! Đúng vậy, Tòa thánh La Mã không thể không sử dụng một người như thế.
Năm 1930, Drogheda cũng trải qua cơn khủng hoảng. Nạn thất nghiệp đang hoành hành khắc nước Úc. Giá thực phẩm rất thấp nên Pađy mua trữ đầy nhà kho. Bất cư ai bị khó khăn Pađy đều chia sẽ từng miếng cơm manh áo. Những kẻ lang thang không nhà, thất nghiệp lũ lượt kéo nhau đến Drogheda. Rồi họ lại tiếp tục lang thang. Có một số sống sót, một số khác chết bờ chết bụi vì đói.
Trong tình hình như thế, Stuart phải trở lại lo việc nhà, luôn thủ cây súng kế bên. Các tay chăn nuôi giỏi rất dễ mướn. Pađy có tất cả chín người độc thân phụ việc, họ ở một căn nhà cũ trước đây vẫn dành riêng cho đàn ông.
Mùa đông năm đó khi thì giông bão dữ dội, khi thì khô ráo, khi thì ẩm ướt; tiếp đó sang mùa xuân và mùa hè mưa nhiều đến đỗi cỏ ở Drogheda mọc cao chưa từng thấy, rậm rạp và xanh tươi.
Jims và Patsy học hàm thụ, ngồi trước bàn ở nhà bếp nói chuyện với nhau không dứt về cuộc sống nội trú ở trường Riverview tại Sydney.
Rồi thời tiết khô ráo lại trở về, cỏ cao quá đầu gối trở nên khô khốc, dễ gẫy, từ xa nhìn trắng bạc. Không ai đoán được khi nào lại có mưa, nhưng ít ai quan tâm đến chuyện đó, dân Drogheda quen sống chịu đựng với những bất thường và khắc nghiệt của trời đất.
Mùa đông năm 1932, những cơn giông bão kèm theo những đợt lạnh buốt xương, nhưng cỏ vẫn còn um tùm và xanh do đó tránh được những cơn bụi tốc lên. Ruồi cũng ít hơn mọi năm... Và một ngày tháng tám Pađy đi thăm một bãi chăn xa. Một cơn giông ập tới. Ông bước xuống đất, cột ngựa thật kỹ vào một thân cây rồi ngồi dưới tán của cây wilga chờ cho trời sáng tỏ. Năm con chó theo Pađy run sợ, nằm sát vào nhau bên chủ, còn các con cừu mà Pađy định dời qua một bãi chăn khác thì tản ra từng nhóm nhỏ hoảng sợ nhảy lung tung. Trận giông thật khủng khiếp chứa đựng sự cuồng nộ tột độ của trời đất. Đột ngột trung tâm của cơn gió lốc chuyển đến ngay trên đầu Pađỵ ông bịt cả hai tai, nhắm mắt và cầu nguyện.
Không xa lắm nơi ông ngồi núp dưới những cành lá thấp của cây wilga có một đống củi khô, xung quanh cỏ mọc rất cao. Giữa đống củi khô ấy có một cây khuynh diệp khẳng khiu, chỉ còn lại thân trơ trụi cao hơn 12 mét chĩa thẳng lên những đám mây đen như mực đang vần vũ.
Một ánh lửa xanh chớp lên như xé toạc hai mí mắt đã nhắm của Pađy khiến cho ông tự nhiên phải bật dậy. Liền đó một tiếng nổ long trời hất ông ngã lăn xuống đất như một con rối. Mặt phủ đầy bụi nhưng ông vẫn kịp thấy chùm ánh chớp tạo ra một cảnh sắc chưa từng thấy. Dọc theo thân cây chết đứng sừng sững như một ngọn giáo, tỏa ra những vầng sáng xanh và đỏ rực làm chóa mắt. Rồi tiếp đó trước khi Pađy ý thức được chuyện gì đã xảy ra thì lửa đã cháy bùng lên. Giọt nước cuối cùng đã bốc hơi từ lâu trên đống củi chết, cỏ mọc cao và khô ran như giấy. Như một thách thức của đất đối với trời, thân cây khổng lồ biến thành một cột lửa cháy thật cao, vượt cả chiều cao của cây rất xa. Không mấy chốc các cành chết và các gốc cây gần đó cũng bốc cháy. Dưới cơn gió xoáy, vòng lửa lan ra thật nhanh, càng lúc càng rộng. Pađy không kịp tháo dây thả ngựa ra.
Cây wilga khô cằn cũng cháy, chất nhựa bên trong làm nổ thân cây. Đâu đâu Pađy cũng thấy lửa, khắp nơi trước mắt ông dựng lên những bức tường đỏ rực. Cây cối biến thành những bó đuốc không lồ, còn cỏ dưới chân ông như những con thú dữ vừa bắt vừa gầm lên. Ông nghe tiếng hí thảm thiết của con ngựa, tim ông nhói đau. ông không thể nào cứ để cho con vật đáng thương bị cột bất lực chờ chết. Một con chó rống lên, tiếng rống ấy biến thành tiếng kêu hấp hối gần hệt như tiếng người. Bỗng chốc, con vật từ đâu vọt ra, tưởng như nhảy múa, đúng là một cây đuốc sống. Không bao lâu nó ngã lăn xuống cỏ đang cháy, yên lặng. Những tiếng rống của mấy con chó khác vang dội lên, chúng tìm cách thoát thân trong tuyệt vọng; lửa bắt nhanh giữa cơn gió giận dữ, nhanh hơn bất cứ sinh vật nào có chân và có cánh. Đang tự hỏi trong khoảnh khắc mình nên chọn phương án nào tốt nhất để cứu con ngựa thì một ánh lửa vụt đến nhu sao xẹt ngang đầu Pađy, cháy xém tóc ông. Nhìn xuống ông thấy một con vẹt to tướng bị thui sống dưới chân.
Bỗng chốc, Pađy hiểu ra rằng thế là hết. Không còn cách nào thoát ra khỏi cái địa ngục này, cả ông và con ngựa. Giữa lúc ý nghĩ ấy đến trong đầu ông thì một cây khô gần đấy, cháy rực lên, ngọn lửa phát ra đủ hướng, chất nhựa bên trong nổ bùng. Da tay của Pađy nhúm lại, đen sì, màu tóc sáng chói của ông như phai nhợt đi dưới ánh lửa rực sáng hơn gấp bội. Một cái chết như thế không thể nào tả xiết. Quần áo cháy bừng bừng, Pađy giẫy giụa giữa lò thiêu sống. Và mỗi tiếng hét lên thảm thiết đều chỉ gọi một cái tên: tên vợ của ông, Fiona.
Chương 16
Tất cả những người khác đều kịp về Drogheda trước khi cơn bão đến, họ bỏ ngựa ở ngoài sân và hối hả hoặc chạy vào ngôi nhà lớn hoặc vào căn nhà dành cho những người đàn ông độc thân.
Trong phòng khách được Fiona trang hoàng, đèn sáng rực. Anh em gia đình Cleary ngồi quanh lò sưởi lắng nghe tiếng gió gào thét. Không ai có ý định ra ngoài để chứng kiến cơn phẫn nộ của trời đất. Mùi củi khuynh diệp cháy thật dễ chịu. Bánh xăng-uých và bánh ngọt bày đầy trên chiếc bàn nhỏ ở đó có sẵn ấm trà. Tất cả đã giữ họ lại trong thứ không khí êm đềm. Cả gia đình không hề chờ đợi Pađy trở về vào lúc này.
Khoảng bốn giờ, các đám mây kéo về hướng tây, bất giác mọi người đều thấy dễ thở hơn. Thật ra chẳng ai có thể yên tâm được giữa lúc cơn bão khô đang hoành hành, dù mỗi nhà ở Drogheda đều có cột thu lôi. Jack và Bob đứng lên, lấy cớ ra ngoài để hít thở không khí, nhưng thật ra là để trút bỏ những lo âu vây hãm.
- Xem kìa! Bob đưa tay chỉ về hướng tây.
Sau những ngọn cây bao quanh bãi chăn chính, một màn khói vàng sậm thật dày phủ cả một góc chân trời và càng lúc càng lan rộng mà nhìn từ xa như những tấm biểu ngữ khổng lồ rách tơi tả vì gió.
- Trời ơi! Jack chỉ kịp kêu lên rồi chạy đến máy điện thoại.
- Cháy! Cháy! Jack hét lớn, trong khi những người khác sau phút bàng hoàng cũng ùa chạy ra ngoài. Jack tiếp tục hét: cháy dữ dội ở Drogheda!
Rồi Jack bỏ máy xuống. Anh không cần nói gì thêm với người trực tổng đài ở Gilly. Mặc dù gia đình Cleary từ khi đến đây chưa hề chứng kiến một vụ cháy nào nhưng ai cũng đều biết mình phải làm gì. Đám con trai chạy tìm ngựa, những người làm thuê nhanh chóng rời lán trại, trong khi ấy bà Smith mở cửa một trong những kho, phân phát ngay mấy chục chiếc bao tải bằng vải.
Cột khói càng ngày càng cao ở phía tây và gió lại thổi từ hướng này, đám cháy đe dọa tiến vào trung tâm vùng Drogheda. Fiona thay chiếc váy, lấy quần của Pađy mặc vào rồi theo Meggie chạy ra chuồng ngựa. Tất cả người trong gia đình này ai cũng biết sử dụng chiếc bao tải để dập lửa.
Giữa cơn giông bão lại đánh hơi mùi khói mấy con ngựa lồng lên không chịu để thắng yên dễ dàng.
Bob và mấy người làm thuê đi được năm phút. Fiona và Meggie phi nước đại dọc theo con suối rồi tiến thẳng về phía màn khói dày đặc đang cuồn cuộn bốc cao. Phía sau Tom và người làm vườn, vừa bơm đầy nước vào chiếc xe xitéc và nổ máy ngay. Trước một đám cháy rừng như thế này, việc tiếp nước như vậy chẳng thấm vào đâu; thật ra số nước này chỉ để giữ cho các bao vải luôn luôn ướt và cũng như để tưới lên người cho những ai có nhiệm vụ xông vào đàn áp lửa. Trên con đường về hướng tây, đi ngang qua dãy nhà ở mép ngoài nơi có khả năng bị cháy trước tiên, Tom bỗng nảy ra ý kiến xịt vòi rồng tưới ướt trước ba căn nhà này, trong đó có căn nhà của người quản lý.
Trong lúc Meggie phi ngựa bên cạnh Fiona, màn khói ở phía tây càng bừng lên dữ dội, một mùi cháy khét gay gắt. Bóng tối bắt đầu phủ trùm; các loại thú chạy tán loạn về hướng đông, băng qua khu đất kết thành từng đoàn dày đặc; nào là căngguru, heo rừng, cừu, đà điểu, gấu có túi và hàng ngàn thỏ. Meggie nói với mẹ "Bob đã mở các cổng". Lúc này hai mẹ con đang từ khu đất rào nuôi cừu mang tên Borehead đi đến khu đất Billa - Billa. Giống cừu thật đần độn. Khi chạm mặt vào hàng rào thì dù cho cách đó không bao xa có một cái cổng đã mở, chúng vẫn không biết làm sao chạy thoát ra được. Cánh đàn ông đến nơi thì đám cháy đã di chuyển đến 15 cây số, trải rộng theo chiều ngang và lan ra từng giây một. Trước cảnh tượng lửa cháy từ lùm cây này sang lùm cây khác, gió thổi mạnh bắt mồi khắp các đám cỏ mọc cao, cánh đàn ông như bị chết cứng trên ngựa, họ nhìn về hướng tây bất lực. Những con ngựa, tỏ ra hoảng sợ và họ không thể điều khiển được nữa. Đừng mong gì khoanh đám cháy lại ở mỗi chỗ này; cả một đội quân đông đảo cũng không mong làm được. Chỉ còn cách là trở về khu nhà ở và dốc hết sức mà bảo vệ khu này. Chiều rộng của đám cháy đang lan dần, khoảng bảy cây số. Nếu họ không thúc ngay mấy con ngựa mệt mỏi quay trở về thì không còn kịp thoát thân nữa. Tiếc thay những con cừu. Tiếc quá nhưng họ không thể làm gì để cứu chúng.
Nhiều xe hơi đậu gần nhà và trên đường từ Gilly đến, nhiều ánh đèn pha nối nhau chói sáng trong đêm. Khi Bob vừa vào tới sân nhà, thì một đám đông đang chờ sẵn anh tạ
- Tình hình thế nào Bob? Martin King hỏi.
Bob trả lời với vẻ thất vọng.
- Theo tôi, đám cháy quá lớn, khó mà dập tắt được. Chiều ngang đến bảy cây số và gió như thế này thì lửa bắt tới nhanh còn hơn cả ngựa phi nước đại. Tôi không biết chúng ta có thể cứu trang trại không, nhưng về phần Horry chắc chắn ông ấy phải chuẩn bị bảo vệ sản nghiệp vì lửa đã sắp đến đó. Tôi không nghĩ ra cách nào để có thể ngăn chặn.
Martin King được giao quyền chỉ huy ba trăm người chủ yếu để bảo vệ Drogheda. Ông là người chăn nuôi lâu năm nhất trong vùng và từng chiến đấu với các vụ cháy rừng năm mươi năm qua.
- Tôi có sáu chục ngàn mẫu ở Bugela - ông ta nói. Vào năm 1905, tôi bị trắng tay, hết sạch cừu và cả cây cối trong trang trại. Mười lăm năm sau tôi mới gầy dựng lại được; có lúc tôi tưởng phải bó tay vì giá len chẳng là bao và cả thịt bò cũng thế.
Bên ngoài những trận cuồng phong vẫn ào ào thét, mùi cháy khét khắp nơi. Vào nửa đêm, phía tây vẫn đỏ rực một thứ ánh sáng của địa ngục, khói và tro từ trên cao phủ xuống khiến mọi người phải ho sặc sụa. Một lúc sau, mọi người nhìn thấy những ngọn lửa đầu tiên như những cái lưỡi khổng lồ nhảy múa uốn khúc. Sau màn khói khoảng 30 mét; rồi một tiếng gào thét ầm ĩ nổi lên không khác tiếng gào thét của một cầu trường đông nghẹt khán giả điên cuồng hò hét. Hàng cây bọc quanh khu đất rào nuôi cừu ở hướng tây bốc cháy và biến thành một bức tường lửa dày đặc, rực sáng.
Đứng trên hành lang của ngôi nhà lớn, hai mắt mở to kinh hãi; Meggie sửng sốt nhìn thấy rõ từng bóng người li ti in trên lửa, nhảy tới nhảy lui, tay chân cử động hỗn loạn.
Hai tiếng đồng hồ sau, cánh đàn ông đầu tiên quay về. Mệt nhừ, họ ngả nghiêng lục tìm bất cứ thứ gì có thể ăn được để lấy lại sức rồi trở về biển lửa tiếp tục chiến đấu. Phụ nữ ở nhà được huy động để lo việc tiếp tế, ăn uống, làm sao luôn có đầy đủ món ragu cừu, bánh mì, trà nóng, rượu Rhum và bia cho ba trăm người. Khi một vụ cháy lớn xảy ra, ai ai cũng có nhiệm vụ của mình.
Giữa hai đợt vào bếp lấy thức ăn tiếp tế cho cánh đàn ông Meggie quan sát đám cháy, lòng ngập tràn một thứ kính cẩn lạ lùng đối với sức mạnh vô hình trong đó lẫn lộn sự âu lo và kinh hãi. Điều ghê gớm đang diễn ra lại ẩn chứa cái đẹp hơn hẳn bất cứ kỳ quan nào đang có trên trái đất này, vì rằng cái đẹp đó thuộc về trời đất, thuộc về những thái dương thật xa xăm đến nỗi ánh sáng của nó đến đây đã giá lạnh. Đó là cái đẹp từ thượng đế và từ quỷ mà ra. Bây giờ trận biển lửa ấy nổi lên màu đen, màu cam, màu đỏ, màu vàng và màu trắng. Một thân cây thật to đen sì hiện rõ lớp vỏ ánh lên màu cam rực lửa, than hồng vừa tách ra khỏi thân bay chập chờn như những bóng ma tinh quái. Thật thế, một cảnh tượng vĩ đại giữa đêm đen. Meggie sẽ nhớ mãi suốt đời.
Trung tâm sống còn của Drogheda chỉ cách ranh giới phía đông của trang trại năm cây số, nơi gần Gilly nhất. Beel Beel tiếp nối liền với trang trại và xa hơn nữa về phía đông là Narrengang. Khi trận cuồng phong ào ào với tốc độ tám mươi cây số giờ, thì cả vùng đều hiểu rằng, ngoại trừ một cơn mưa to ập xuống đúng lúc, không có cách nào tránh được lửa tiếp tục cháy trong nhiều tuần, biến hàng trăm cây số đất đai màu mở trở thành sa mạc. Giữa lúc nguy ngập như thế thì nhờ Tom mà nhà cửa gần con suối vẫn còn nguyên. Ông ta như người bị quỷ ám, cứ mang xe bồn đi đổ đầy nước, rồi tưới ào ào vào tường nhà, rồi lại đi lấy nước và lại phun liên tục. Nhưng khi cơn gió nổi lên dữ dội, Tom đành phải tháo lui đầu hàng, nước mắt ràn rụa. Nhà cửa ở đó không thể cứu được nữa rồi.
- Đáng lý ra ông bạn nên quỳ gối xuống và tạ ơn Chúa, tốc độ gió phía trước đám cháy đã không gia tăng - Martin King phân tích - Nếu không, tất cả nhà cửa ở trang trại này đều cháy sạch và cả chúng ta cũng thành tro bụi. Cầu Chúa cho những người ở Beel Beel được thoát chết.
Fiona trao cho Martin King một ly rượu rhum thật lớn. Không còn là một thanh niên nữa nhưng ông ta vẫn đủ sức chiến đấu đến phút cuối cùng khi cần thiết, ông ta đã chỉ huy nhiều cuộc chữa cháy một cách thành thạo.
- Thật là vớ vẩn - Fiona nói - vào cái lúc mà tôi tưởng rằng tất cả sẽ mất hết thì những suy nghĩ kỳ cục nhất lại xuất hiện trong đầu. Tôi không hề nghĩ đến cái chết, cũng không nghĩ đến con cái hay ngôi nhà nguy nga đẹp đẽ này sẽ bị thiêu hủy. Tôi hoàn toàn không thể nghĩ đến cái gì khác hơn là cái giỏ may vá của tôi, cái áo len mà tôi đang đan, cái hộp đựng nút mà tôi để dành nhiều năm, nhớ đến cái khuôn bánh hình trái tim mà Frank đã tự tay làm lâu rồi. Làm sao tôi có thể tiếp tục sống nếu thiếu tất cả những món ấy? Tất cả những thứ nhỏ nhặt đều không thể tìm mua ở tiệm.
- Đó là những suy nghĩ đã đến trong đầu của hầu hết phụ nữ - Martin King tán đồng - Tôi còn nhớ vụ cháy năm 1905, trong khi tôi vỡ phổi để lo ngăn chặn lửa thì vợ tôi hoảng hốt chạy vào nhà để lo cứu... cái công trình dở dang của bà, đó là một mẫu thêu còn nằm trên bàn căng. Khi cất xong căn nhà mới, vợ tôi hoàn thành liền mẫu thiêu đó, một trong những mẫu thêu để ngợi ca kỷ niệm của ngôi nhà. Ngôi nhà - ngôi nhà thân yêu bà hiểu ý của tôi muốn nói chứ. Thôi, tôi phải đi đây. Gareth Davie ở Narrengang có lẽ cần chúng tôi tiếp tay và nếu tôi không lầm thì chẳng bao lâu nữa Angus ở Hunish cũng sẽ rơi vào một tình thế tương tự
Fiona tái mặt:
- Ồ, Martin! Chẳng lẽ lửa lại lan xa đến thế?
- Chúng tôi vừa hay tin Booroo và Bourke đã bị đe dọa bà Fiona ạ.
Ba ngày liền sau đó, lửa tiếp tục lan về hướng đông trên chiều ngang cứ mở rộng ra. Nhưng rồi đột ngột một cơn mưa thật lớn trút xuống như thác, liên tiếp gần bốn ngày và dập tắt đi những ngọn lửa cuối cùng. Nhưng bấy giờ đám cháy đã lan ra một trăm sáu chục cây số, để lại đằng sau một vùng đất rất rộng đen sì chiều ngang 30 cây số, từ trung tâm Drogheda cho đến ranh giới cuối cùng của thị trấn Gillanbone là Rudna Hunish.
Cho đến khi mưa trút xuống, không ai chờ đợi sẽ được tin tức của Pađy vì rằng mọi người nghĩ Pađy đang an toàn ở đâu đó bên kia biển lửa. Ai cũng nghĩ ông mất liên lạc với gia đình vì cái nóng vẫn còn thiêu đốt và cây cối vẫn tiếp tục cháy âm ỉ. Nếu đám cháy không làm hư hỏng đường dây điện thoại, thì có lẽ sẽ gọi được về nhà. Chắc là Pađy đã phi ngựa về hướng tây và tìm chỗ ẩn trú ở Bugela.
Nhưng trong sáu giờ liền mưa đổ xuống, vẫn không có tin tức, bấy giờ cả gia đình có phần âu lo. Rồi luôn trong bốn ngày sau đó, họ vẫn nói với nhau là không có gì phải băn khoăn. Pađy không thể về nhà trong thời tiết này và có lẽ ông ta quyết định ở lại đó chờ cho đến khi nào có thể về thẳng Drogheda chứ không phải đến chỗ của Martin King.
- Đáng lý giờ này ba phải về rồi, Bob bồn chồn nói. Anh đi tới đi lui trong phòng khách dưới những cặp mắt đầy âu lo.
Cái oái ăm là mưa đã mang lại một không gian mát mẻ đột ngột và trong lò sưởi ánh lửa lại bập bùng.
- Bây giờ anh tính thế nào hở Bob? - Jack hỏi.
- Theo anh, đã đến lúc chúng ta chia nhau đi tìm ba. Biết đâu ba bị thương hoặc đi bộ và phải băng qua một đoạn đường dài để trở về nhà. Cũng có thể, con ngựa của ba quá sợ hãi và hất ba ngã nhào, thế là ba phải nằm đâu đó, không đi được. Ba chỉ mang đủ lương thực ăn trong một hoặc hai ngày mà thôi, tuy nhiên anh không nghĩ rằng ba bị chết đói. Nhưng bây giờ chúng ta không có cách nào để báo động cho mọi người biết, anh sẽ không kêu gọi những người ở Narrengang tiếp tay, nhưng nếu từ đây đến tối không tìm ra ba, anh sẽ đến trang trại Dominic và ngay sáng mai thì tất cả những người dân trong vùng sẽ cùng chúng ta đi tìm ba. Trời ơi, phải chi đường dây điện thoại được phục hồi ngay.
Fiona run lên, mắt đỏ ngầu như đang trong cơn sốt không khác một con vật đang bị săn đuổi.
- Tôi đi mặc quần dài vào ngay, bà nói. Tôi không thể nào ở nhà chờ được.
- Mẹ ơi, mẹ nên ở nha! Bob van xin.
- Nếu ba con bị thương, ba có thể nằm tại đâu đó, Bob ạ. Có gì bảo đảm ba con không bị thương nặng. Con đã cho tất cả anh em công nhân đi Narrengang để tiếp tay ở đó rồi, chúng ta đâu còn bao nhiêu người để đi tìm ba con. Mẹ sẽ đi với Meggie, như thế Meggie và mẹ sẽ đủ sức đối phó với mọi bất trắc. Còn nếu Meggie đi một mình thì nó lại cần thêm một người khác đi với nó, như thế lại mất bớt người.
Bob đành chìu theo ý mẹ.
- Thôi được, thưa mẹ. Mẹ có thể cỡi con ngựa thiến của Meggie. Mọi người nên mang súng đạn đầy đủ.
Trên lưng ngựa, họ băng qua con suối và đi sâu vào vùng đất điêu tàn. Không còn lại một dấu vết nào của màu xanh hay cả màu xám của đất, không còn một thứ gì cả trên khoảng bao la của đất đai cháy thành tro, đen sì và ẩm ướt. Lạ lùng thay, đến giờ này sau bốn ngày mưa liên tục mà khói vẫn còn bốc. Mỗi một chiếc lá trên cây đều biến thành một mảnh khô cháy co rúm lại và cứ nơi nào trước kia có cỏ thi người ta thấy rải rác những đống nhỏ đen thui, đó là những con cừu bị chết cháy. Thỉnh thoảng chợt thấy những đống to hơn, đó là bò hay heo rừng. Trên gò má từng người, nước mắt trộn lẫn với nước mưa.
Bob và Meggie đi đầu, tiếp đó là Jack và Hughie, Fiona và Stuart đi phía sau. Thỉnh thoảng mấy con ngựa hí vang, khịt mũi vì đối đầu thêm một cảnh tượng hãi hùng, nhưng Fiona và Meggie thì thản nhiên vì đầu óc chỉ nghĩ đến Pađy. Mặt đấy lầy lội khiến họ tiến rất chậm và khó khăn nhưng rất may có cháy lớp lớp dưới chân làm thành một tấm thảm bằng sợi có chỗ cho chân ngựa bám vào. Đi được một đoạn, họ lại cứ nghĩ Pađy đã xuất hiện ở đàng xa nhưng thời gian cứ trôi qua mà chẳng thấy Pađy đâu cả.
Tim họ nhói lên khi nhận ra đám cháy đã lan rộng nhiều hơn là họ nghĩ, đến tận đất nuôi cừu ở Wilga. Có lẽ những đám mây trong cơn giông vừa qua đã che khuất khói cho đến khi ngọn lửa đến gần một khoảng cách nào đó thì từ Drogheda mới thấy được. Những ranh giới của đám cháy làm cho tất cả bàng hoàng. Một phía là đường chân trời nổi rõ lên màu đen sì như một thứ hắc in bóng loáng, còn bên kia là một màu xanh và màu hung quen thuộc, buồn tẻ dưới cơn mưa. Bob dừng ngựa lại nói với Fiona:
- Bắt đầu từ đây, chúng ta sẽ chia nhau đi tìm ba. Con sẽ đi về hướng tây, đó là hướng có khả năng nhất để tìm ra ba, con được trang bị đầy đủ để đối phó mọi bất trắc. Tất cả chúng ta đều đem đủ đạn chứ. Rất tốt. Bất cứ ai phát hiện được một vết tích gì, cứ bắn lên trời ba phát súng, còn ai nghe được thì chỉ trả lời bằng một phát rồi chờ. Ai đã bắn ba phát thì cứ tiếp tục bắn như thế sau năm phút, còn những ai nghe thì đáp lại một phát.
Bob nói tiếp:
- Jack, em hãy đi xuống hướng nam, dọc theo đường cháy. Hughie, em đi hướng tây nam, còn anh hướng tây. Mẹ và Meggie cứ đi về hướng tây bắc. Stuart, em lần theo phía rìa đám cháy thẳng phía bắc. Và hãy nghe lời dặn này, phải tiến thật chậm. Mưa làm mắt chúng ta không nhìn rõ ở xa, cây bị cháy nằm ngả nghiêng rất nhiều. Hãy gọi nhau thường xuyên, có thể ba không thấy chúng ta nhưng nghe được tiếng gọi. Đừng có bắn súng nếu không phát hiện chuyện gì đặc biệt. Ba không có mang theo súng, do đó nếu ba nghe súng nổ mà không thể lên tiếng được thì sẽ rơi vào một tâm trạng rất hoang mang.
"Chúc tất cả may mắn. Chúa phù hộ chúng ta."
Không khác những người hành hương chia tay nhau ở ngã tư cuối cùng, từng người mất hút dưới màn mưa, tiến sâu về hướng đã được phân công. Đi chưa đầy một cây số, Stuart chú ý một lùm cây cháy đen ở gần đường ranh của đám cháy. Cậu ta chú đến một cây wilga thấp, đen sì và nhăn nheo như chùm tóc xoắn của một chú bé da đen, bên cạnh đó một thân cây cao to bị thiêu rụi còn đứng ở ngoài rìa tuyến lửa. Rồi Stuart lại phát hiện thêm dấu vết còn lại xác con ngựa của Pađy cháy nám và một gốc lớn của cây gôm. Hai con chó của Pađy chỉ còn là những đống đen thui, bốn cẳng chĩa thẳng lên trời, cứng đơ như bốn cây gậy. Cậu ta xuống ngựa, đôi giày bốt ngập bùn đến cổ chân, thế rồi cậu ta rút cây súng ra khỏi yên ngựa, hai môi mấp máy cầu nguyện, lần tìm đường đi giữa những vũng bùn trơn trợt. Nếu không tìm thấy những gì còn lại của con ngựa và hai con chó, Stuart vẫn có thể thầm hy vọng nạn nhân có thể là một kẻ lang thang nào đó. Nơi này nằm quá sâu giữa trung tam Drogheda, do đó cũng khó nghĩ đến nạn nhân là một người chăn bò hay chăn cừu đến từ Bugelạ Xa một chút, Stuart phát hiện xác của ba con chó còn lại; Pađy đem theo năm con chó tất cả. Cậu ta biết sẽ không có xác con chó thứ sáu, và cậu ta đã đoán không sai.
Cách xác con ngựa không xa, khuất sau một thân cây nằm ngang là những phần còn lại của một xác người. Không thể nào lầm được. Ướt đẫm dưới cơn mưa, cái hình thù màu đen nằm ngửa, cong theo vòng cung, hai mông và hai tay chấm đất. Hay tay dang rộng ra, mấy ngón tay lộ xương vì thịt đã rã, co rút lại như đang bấu víu vào khoảng không. Hai chân cũng hơi dang ra, hơi co lại ở đầu gối, còn ở nơi mà trước kia là cái đầu thì chỉ còn hai hố mắt trống trơn!
Trong một lúc, ánh mắt trong và sáng quắc của Stuart hướng thẳng vào cha cậu. Stuart không thấy đó là thân xác đã bị thiêu rụi mà thấy cha mình vẫn nguyên vẹn như khi còn sống. Cậu ta chĩa súng lên trời và bắn, rồi lại nạp đạn và bắn phát thứ hai, rồi phát thứ ba. Có tiếng súng nổ vọng lại từ xa; thêm một tiếng súng khác xa hơn nghe văng vẳng. Lúc đó Stuart đoán ra rằng tiếng súng gần hơn hết có lẽ là của mẹ hay của Meggie. Cả hai đi về hướng tây bắc, còn cậu ta ở hướng bắc. Không chờ đúng năm phút đúng như Bob đã dặn, Stuart lại nạp đạn và chĩa súng hướng nam bóp cò. Lại nạp đạn, bắn phát thứ hai rồi thứ ba. Stuart đặt súng xuống đất nhón người lên nhìn về phía nam, đầu hơi nghiêng, ngóng nghe chờ đợi. Lần này có tiếng súng đáp lại của Bob từ phía tây, tiếng súng kế tiếp của Jack hoặc Hughie và tiếng thứ ba của mẹ. Cậu ta thở ra nhẹ nhõm; Stuart không muốn những người đến trước tiên là mẹ và Meggie.
Mãi suy nghĩ Stuart không thấy con heo rừng thật lớn xuất hiện từ hướng bắc sau những thân cây cháy, dù cậu ta đã nhận ra cái mùi của nó trước vài giây. To gần bằng một con bò cái, cái khối thịt ấy rung rinh di chuyển trên bốn chân ngắn ngủn và thật khỏe; nó vừa đi đầu lủi xuống đất, mõm bới tìm cái gì đó trong đất đen và ẩm. Tiếng súng làm cho nó phải động đậy, thật sự con heo rừng cũng đang chịu đựng một số đau đớn kinh khủng, lớp lông đen thưa thớt một bên bị cháy làm lòi da thịt đỏ tươi. Cái mùi Stuart nghe được khi cậu ta đang còn nhìn về hướng nam đúng là mùi dễ chịu của da con heo đang quay trong lò. Đột ngột bị kéo ra khỏi trạng thái u buồn đeo bám, Stuart quay đầu lại và có cảm giác hình như đã đến đây một lần nào rồi; cái nơi đen sẫm và nhớp nhúa này như đã in sâu trong đầu Stuart từ ngày mở mắt chào đời.
Stuart nhìn xuống kiếm khẩu súng và nhớ ra súng chưa nạp đạn. Con heo rừng dừng lại, hai mắt đỏ ngầu như đang chịu đựng nỗi đau đớn dữ dội. Hai chiếc nanh dài màu vàng, nhọn hoắc hất lên cao một nửa vòng tròn. Con ngựa của Stuart hí vang vì ngửi thấy mùi thú dữ. Con heo rừng quay chiếc đầu to tướng về phía con ngựa rồi cúi xuống với ý định tấn công. Stuart hiểu rằng hy vọng duy nhất để cậu ta thoát thân là con heo rừng chú ý đến con ngựa. Stuart khom xuống lấy súng, một tay kéo nòng súng, còn tay kia cho vào túi áo vét để tìm viên đạn. Chung quanh mưa vẫn rơi làm át đi mọi tiếng động đó, nó đột ngột đổi hướng, lao thẳng vào Stuart. Con vật đã gầm chạm vào cậu ta thì tiếng súng nổ tuy trúng ngay ngực nó nhưng không làm giảm tốc độ lao vào người Stuart. Hai cái nhanh hất ngược lên, cày nát phần ở giữa hai chân của Stuart. Cậu ta ngã xuống, máu phun ra đầy quần áo và ướt cả đất.
Con heo rừng quay mòng mòng đau đớn vì trúng đạn, muốn tấn công đối thủ một lần nữa nhưng nó chệnh choạng sụm xuống. Cả cái khối thịt 600 kilô nằm lên người Stuart ép chặt đầu cậu ta xuống bùn đen. Trong khoảnh khắc, hai bàn tay của Stuart bấu xuống đất, thân người run rẩy, cố vùng lên trong tuyệt vọng.
Thế là Stuart nhận ra điều mình vẫn biết trước từ lâu, tại sao mình không bao giờ hy vọng, không bao giờ vạch ra một kế hoạch nào cho cuộc đời mà chỉ chờ đợi bằng cách đắm chìm vào cái thế giới sống động, cậu ta không còn thì giờ để thương hại cho số phận chờ đợi mình. Mẹ ơi, mẹ! Mẹ ơi! Con không thể ở lại với mẹ! Đó là ý nghĩ cuối cùng vào giây phút tim của cậu ta vỡ trong lòng ngực.
- Tại sao Stuart lại không nổ súng nữa? - Meggie hỏi mẹ.
Hai mẹ con đi ngựa về hướng đã nổ hai loạt súng nhưng không thể hối thúc con ngựa đi nhanh hơn trên bùn lầy; tim thắt lại vì âu lo.
- Có lẽ Stuart nghĩ tất cả chúng ta đều nghe rồi, Fiona trả lời Meggie.
Nói thế nhưng trong tậy đáy lòng bà vẫn nhớ gương mặt của Stuart lúc chia tay nhau mỗi người đi một hướng, nhớ cái cách mà Stuart đã siết tay bà và nụ cười của Stuart khi nhìn bà.
- Chúng ta không còn cách bao xa nữa - bà ta nói vừa thúc con ngựa chạy nhanh hơn.
Nhung Jack đã đến nơi trước, có cả Bob. Họ chặn không cho hai phụ nữ đến gần khi vượt qua phần đất còn nguyên vẹn đi đến vùng đám cháy.
- Mẹ đừng đi xa hơn nữa! Bob nói khi Fiona vừa đặt chân xuống đất.
Jack vội vàng chạy đến bên Meggie nắm lấy tay em gái mình.
Hai cặp mắt màu nâu đều nhìn đi chỗ khác, không phải không chịu đựng nổi sự kinh hãi và lo âu mà chính vì đã biết chắc chuyện gì đã xảy ra. Fiona và Meggie đã hiểu.
- Có phải ba không! - Fiona hỏi trong hơi thở.
- Thưa phải. Và cả Stuart nữa.
Không một người con nào có đủ can đảm để nhìn mặt mẹ lúc ấy.
- Stuart? Stuart? Chuyện gì xảy ra với Stuart? Trời ơi! Chuyện gì đã xảy ra? Tại sao lại cả hai. Không thể nào như thế được. Không! Không!
- Ba bị kẹt giữa đám cháy. Ba đã chết. Còn Stuart có lẽ đã làm gì đó khiến cho con heo rừng tấn công nó. Nó đã bắn chết con vật nhưng con vật đã ngã đè lên Stuart khiến cho nó bị nghẹt thở, Stuart cũng đã chết rồi, thưa mẹ.
Meggie hét lên, vùng vẫy, cố vuột ra khỏi sự kìm giữa của Jack, nhưng Fiona thì đứng bất động trong vòng tay dơ bẩn, vấy máu của Bob. Bà như bức tượng đá với đôi mắt trống vắng.
- Quá sức chịu đựng - bà nói rồi quay qua nhìn Bob (nước mắt chảy trên mặt bà, nhỏ giọt xuống tóc bết dính vào cổ). Hãy để mẹ yên. Mẹ cần phải nhìn mặt ba con, Bob. Một người là chồng của mẹ, một người là con của mẹ. Con không thể cản ngăn mẹ. Con không có quyền.
Meggie đã dịu cơn xúc động và đứng yên trong vòng tay của Jack, đầu áp vào ngực anh. Fiona bắt đầu đi chậm lại, Bob đi bên cạnh đỡ mẹ, Meggie im lặng nhìn, không có một động tác nào tỏ ý đi theo. Hughie xuất hiện sau màn mưa vốn làm mờ nhạt cả người lẫn cảnh vật. Ra dấu bằng đầu Jack có ý bảo Hughie nhìn về hướng mẹ và Bob.
- Em hãy đi theo mẹ và anh Bob, và hãy ở lại bên cạnh hai người. Meggie và anh quay lại Drogheda để tìm phương tiện đưa ba và Stuart về (cậu ta buông Meggie và giúp em gái leo lên lưng ngựa). Đi Meggie. Trời bắt đầu tối. Chúng mình không thể để mọi người ở lại đây suốt đêm. Mẹ và các anh sẽ không rời khỏi nơi đây nếu chúng mình chưa trở lại.
Ở vùng bùn lầy này, không có một loại xe có bánh nào có thể vào được; cuối cùng Jack và ông già Tom đã nghĩ ra cách dùng một tấm tôn dợn sóng cột bằng dây xích vào hai con ngựa kéo xe. ông già làm vườn dắt hai con ngựa, còn Jack đi trước soi đường bằng cây đèn bão thật lớn.
Cha Ralph De Bricassart nói bằng một giọng lạnh lùng nhưng không gay gắt lắm trong khi mắt vẫn chăm chăm nhìn vào gương mặt xanh xao của vị linh mục trẻ tuổi. Từng lời rõ ràng và cứng rắn, Ralph nói:
- Cha hành động không xứng đáng với những gì mà Chúa đòi hỏi ở các linh mục. Tôi tin rằng cha ý thức được điều đó hơn cả chúng tôi, những người khiển trách cha. Dù thế, nhân danh Đức Tổng Giám Mục bề trên của chúng ta, tôi vẫn phải lên án cha. Cha phải vâng lời Ngài tuyệt đối, cha không được cãi lại những lời khuyên bảo và các quyết định của Ngài.
Chắc cha đã ý thức việc cha tự chôn vùi uy tín của mình, uy tín của xứ đạo và của giáo hội mà đáng lý cha phải yêu thương và bảo vệ trên hết. Lời nguyện của cha giữ mình trong sạch là thiêng liêng và không thể vi phạm; vi phạm lời nguyện đó là một tội lỗi hết sức nặng. Tất nhiên cha sẽ không bao giờ gặp lại người phụ nữ đó; chúng tôi sẽ giúp cha phấn đấu vượt qua sự cám dỗ. Chúng tôi đã lo liệu tất cả để cha có thể lên đường đi nhận nhiệm vụ mới tại xứ đạo Darwin, ở miền Bắc. Ngay tối nay cha đến Brisbane bằng chuyến tàu tốc hành và từ đây cha tiếp tục đi cũng bằng tàu hỏa đến Longreach. Ở đó, cha lên máy bay hãng Quatas đi Darwin. Hành lý của cha đang được đóng gói và sẽ giao lại cho cha trên chuyến tàu tốc hành. Do đó cha khỏi cần phải quay trở lại xứ đạo của cha.
Bây giờ cha hãy đến nhà thờ cùng với cha John và cầu nguyện. Cha ở đó cho đến giờ ra ga để tìm lại sự ổn định và an ủi tinh thần. Cha John sẽ đi theo cha đến Darwin. Bây giờ thì cha có thể rời khỏi đây rồi.
Sau khi vị linh mục trẻ tuổi cùng với người được chỉ định đi theo canh giữ đã đi, cha Ralph rời phòng làm việc và sang một phòng khác. Tổng giám mục Chiny Dark đang ngồi trong chiếc ghế bành của Ngài như mọi khi, kế bên là một giáo sĩ mang thắt lưng và mũ nhỏ bằng vải đều màu tím. Tổng giám mục là một người tầm vóc cao lớn, mái tóc bạc trắng, mắt màu xanh thật sáng, rất yêu đời, có óc khôi hài ý nhị và thích ăn ngon. Người khách của Tổng giám mục lại là một mẫu người hoàn toàn trái ngược lại: nhỏ bé, mảnh khảnh, vài chúm tóc lưa thưa xuất hiện dưới cái mũ nhỏ bằng vải; gương mặt gầy, khắc khổ, đôi mắt to không được vui, da sậm. Người ta có thể đoán tuổi của người này từ ba mươi tới năm mươi, nhưng tuổi thật là ba mươi chín, hơn cha Ralph ba tuổi.
- Con hãy ngồi xuống đây và nhấp một tách trà với chúng tôi, Tổng giám mục nói bằng giọng hiền lành. Tôi đã chuẩn bị một bình trà khác. Con đã giải quyết xong vụ linh mục trẻ với những lời răn dạy đúng mức để cho anh ta hối cải chứ?
- Thưa Đức cha, vâng. Ralph trả lời ngắn gọn.
Linh mục Ralph ngồi xuống chiếc ghế thứ ba gần bàn để đầy những bánh xăng uých với dưa chuột, bánh có kem lạnh màu hồng và trắng, bánh bột chiên nóng phết bơ và những lọ thủy tinh đựng mứt, kem hột gà đánh nổi lên. Một bộ đồ uống trà bằng bạc và những chiếc tách bằng sứ Aynsley bịt vàng bên trên làm khung cảnh trở nên ấm cúng.
- Những chuyện không hay ấy rất đáng tiếc, ông bạn thân ạ, và mặc dù trong cương vị những kẻ phụng thờ Chúa như chúng ta, vẫn phải nhìn nhận rằng chúng ta chỉ là những sinh vật yếu đuối - người khách nói. Tối nay tôi sẽ cầu nguyện để Chúa giúp cho anh ta đủ nghị lực tránh khỏi rơi vào những lầm lỗi cũ.
Người khách có giọng nói nhẹ nhàng của người nước ngoài quốc tịch Ý, hiện ông đang giữ cương vị Tổng giám mục, Khâm Mạng Giáo Hoàng ở Úc, tên là Vitorio Scarbanza Di Contini Verchese. Vai trò tế nhị của ông là làm gạch nối giữa giới chức Nhà thờ ở Úc và Tòa thánh Vatican, do đó ông là giáo sĩ quan trọng nhất ở phần đất này của thế giới.
Vị đại diện Giáo Hoàng cũng là một người hết sức tinh tế; cầm chiếc tách trên tay, ông nhìn chăm chú về hướng, không phải Tổng giám mục Chiny Dark, mà là cha Bricassart, theo dự tính sẽ trở thành thư ký riêng của ông. Với Tổng giám mục Dark thì cha Ralph rõ ràng là một người rất đáng mến nhưng vị đại diện giáo hoàng vẫn tự hỏi, về phần ông thì ông sẽ đánh giá ra sao con người này? Cách cư xử của cha Ralph đối với bề trên trực tiếp hiện giờ không có gì để bàn cãi. Đó là một người tế nhị, nhẹ nhàng, thoải mái biết tôn kính nhưng không đi đến mức ngoan ngoãn vâng lời. Linh mục lại có óc hài hước. Làm thế nào linh mục có thể thích ứng với một người bề trên mới rất khác về tính tình so với người hiện nay? Theo thông lệ, thư ký riêng của Khâm mạng Tòa thánh đều được chọn trong hàng ngữ giáo sĩ của Nhà thờ ànhưng Vatican hiện rất quan tâm đến linh mục Ralph. Cha Ralph được chú ý không chỉ do tài sản riêng của ông (trái với dư luận chung, Tòa thánh không có quyền chiếm đoạt tài sản của ông, ngược lại về phần mình, ông cũng không có ý định giao lại tài sản cho Tòa thánh), nhưng do lòng tự nguyện, ông đã mang lại rất nhiều của cải cho Nhà thờ. Chính vì thế Vatican đã ra lệnh cho Khâm mạng của giáo hoàng nhận linh mục De Bricassart làm thư ký riêng để thử thách và đánh giá giá trị vị giáo sĩ trẻ tuổi này. Lòng đầy biết ơn, cha Ralph nhấp từng ngụm trà trong im lặng - một sự im lặng không bình thường. Vì đại diện giáo hoàng nhận thấy ông chỉ ăn một miếng bánh mì xăng-uých nhỏ, không kèm theo thứ gì hết, uống luôn bốn tách trà mà không cần thêm sữa hay đường. Thế là mọi chi tiết đều rất khớp với báo cáo mà vị đại diện Vatican đã nhận được. Trong các thói quen, cha Ralph đã tỏ ra hết sức giản dị, thanh bạch; khuyết điểm duy nhất là ông đang sử dụng chiếc ô tô đẹp, chạy rất nhanh.
- Con đi rồi, cha sẽ thấy rất trống trải - Tổng giám mục Chiny Dark vừa nói vừa phủ một lớp dày mứt và kem trên miếng bánh nướng rồi bỏ hết vào miệng.
Linh mục Ralph cười.
- Trình Đức cha, Đức cha đã đặt cho con vào một thế lưỡng nan! Một bên là đấng bề trên hiện tại và một bên là đấng bề trên tương lai của con. Nếu con trả lời làm vui lòng một bên thì con sẽ làm mất lòng bên khác. Vậy liệu con có nên trả lời rằng xa Đức cha con sẽ cảm thấy trống vắng vô cùng, nhưng đồng thời con rất vui mừng trước nhiệm vụ sắp tới: phục vụ Đức cha Di Contini.
Một cách nói rất khéo. Đúng là một câu trả lời của nhà ngoại giao. Tổng giám mục Di Contini Verchese bắt đầu nghĩ rằng một thư ký riêng như thế rất hợp đối với ông mặc dù Ralph quá đẹp trai với nét mặt thanh tú, nước da sáng và thân hình cân đối.
Bỗng nhiên cha Ralph im lặng, mắt nhìn xa xôi. Ông hồi tưởng đến hình ảnh linh lục trẻ vừa bị quở trách, đôi mắt đầy âu lo khi nghĩ đến con người trẻ tuổi này biết rằng anh ta sẽ không được trở lại giã từ người mình yêu. Lạy Chúa toàn năng, nếu trường hợp này là chính ông và Meggie thì ra sao? Người ta có thể bảo vệ được uy tín trong sáng ở một thời gian nhất định nào đó, nếu giữ được sự kín đáo; rất có thể uy tín đó sẽ lâu hơn nếu chỉ quan hệ với phụ nữ trong dịp nghỉ hè và dịp xa xứ đạo của mình. Nhưng một quan hệ tình cảm đúng nghĩa và kéo dài thì không thể nào không bị người khác khám phá.
Có những lúc cha chỉ còn cách duy nhất là quỳ gối trên nền đá cẩm thạch trong nhà nguyện cho đến tê dại vì sự đau đớn của thể xác. Chỉ có cách đó cha Ralph mới tự ngăn mình nhảy lên chuyến tàu hỏa đi Gillanbone và từ đó lao thẳng về Drogheda. Cha Ralph phải tự thuyết phục lòng mình rằng cha chỉ là nạn nhân của sự cô độc, cha thiếu tình cảm con người dù cha đã được mời mọc săn đón ở Drogheda. Cha đã nói đi nói lại với chính mình rằng không có gì thay đổi sau lần cha đầu hàng trước sự yếu đuối trong chốc lát vì đã hôn trả lại Meggie, rằng tình yêu mà mình đã dành cho Meggie còn là trong tưởng tượng, chưa đi vào một thế giới khác đầy đủ những hiểm nguy cụ thể. Vì rằng linh mục Ralph không chịu nhận có điều gì thay đổi trong quan hệ giữa ông và Meggie và coi như ông vẫn giữ trong đầu mình hình ảnh Meggie lúccòn là cô bé; tự cấm mình không được quyền phá vỡ hình ảnh đó.
Nhưng ông đã lầm. Sự đau khổ không vơi bớt đi. Ngược lại ngày càng sâu nặng hơn và ghê gớm hơn. Trước kia sự cô đơn của ông còn trừu tượng và ông hoàn toàn không nghĩ rằng có thể vơi đi bởi một con người bằng xương bằng thịt khác. Nhưng giờ đây, nỗi cô đơn đang đã mang một cái tên: Meggie, Meggie, Meggie... được lặp lại nhiều lần.
Khi vừa tỉnh khỏi cơn mơ, ông nhận ra Tổng giám mục Di Contini Verchese đang nhìn ông chăm chăm, đôi mắt sâu thẳm tỏ ra minh mẫn hơn đôi mắt nhanh nhẹn của Tổng giám mục Chiny Dark. Cha Ralph đủ thông minh để hiểu rằng mình không thể che giấu tâm trạng u buồn, nên ông đã đáp lại đấng bề trên đầy quyền lực của mình bằng cái nhìn sắc không kém. Ông nở một nụ cười đồng thời khẽ nhún vai như thể muốn nói: mỗi con người đều ẩn chứa một nỗi buồn và không phải là tội lỗi khi nhớ đến nỗi buồn riêng ấy.
- Này con, tình hình kinh tế suy sụp bất ngờ có ảnh hưởng gì đến những công việc mà con đang đảm trách không? - vị đại diện Tòa thánh hỏi bằng một giọng dịu dàng.
- Cho đến nay chúng ta không có gì đáng phải lo âu thưa Đức cha. Công ty Michar Limited không bị ảnh hưởng nhiều vào các biến động thị trường. Theo con nghĩ chỉ có những phương án đầu tư không được chín chắn như bà Mary Carson mới bị thiệt hại. Dĩ nhiên lợi tức của trang trại Drogheda có thể không như trước đây vì giá len có giảm. Bà Mary Carson là người thấy xa nên không chỉ đầu tư trong chăn nuôi. Bà thích sự chắc chắn của kim loại hơn. Theo con, thời buổi này rất thuận lợi để mua bất động sản, không chỉ đất đai ở nông thôn, mà cả nhà và các bất động sản trong những thành phố lớn. Giá cả hiện nay xuống thấp một cách kỳ lạ, vì thế chắc chắn rồi đây các loại bất động sản sẽ lên. Do đó con không thể nào tưởng tượng được mình lại bị thua lỗ nếu đầu tư vào bất động sản. Cuộc khủng hoảng phải chấm dứt một ngày nào đó.
- Đúng thế, vị Khâm mạng tòa thánh tán đồng.
Vậy thì cha Ralph không chỉ sinh ra là một nhà ngoại giao mà còn cho thấy ông là một nhà kinh doanh sắc bén! Đúng vậy, Tòa thánh La Mã không thể không sử dụng một người như thế.
Năm 1930, Drogheda cũng trải qua cơn khủng hoảng. Nạn thất nghiệp đang hoành hành khắc nước Úc. Giá thực phẩm rất thấp nên Pađy mua trữ đầy nhà kho. Bất cư ai bị khó khăn Pađy đều chia sẽ từng miếng cơm manh áo. Những kẻ lang thang không nhà, thất nghiệp lũ lượt kéo nhau đến Drogheda. Rồi họ lại tiếp tục lang thang. Có một số sống sót, một số khác chết bờ chết bụi vì đói.
Trong tình hình như thế, Stuart phải trở lại lo việc nhà, luôn thủ cây súng kế bên. Các tay chăn nuôi giỏi rất dễ mướn. Pađy có tất cả chín người độc thân phụ việc, họ ở một căn nhà cũ trước đây vẫn dành riêng cho đàn ông.
Mùa đông năm đó khi thì giông bão dữ dội, khi thì khô ráo, khi thì ẩm ướt; tiếp đó sang mùa xuân và mùa hè mưa nhiều đến đỗi cỏ ở Drogheda mọc cao chưa từng thấy, rậm rạp và xanh tươi.
Jims và Patsy học hàm thụ, ngồi trước bàn ở nhà bếp nói chuyện với nhau không dứt về cuộc sống nội trú ở trường Riverview tại Sydney.
Rồi thời tiết khô ráo lại trở về, cỏ cao quá đầu gối trở nên khô khốc, dễ gẫy, từ xa nhìn trắng bạc. Không ai đoán được khi nào lại có mưa, nhưng ít ai quan tâm đến chuyện đó, dân Drogheda quen sống chịu đựng với những bất thường và khắc nghiệt của trời đất.
Mùa đông năm 1932, những cơn giông bão kèm theo những đợt lạnh buốt xương, nhưng cỏ vẫn còn um tùm và xanh do đó tránh được những cơn bụi tốc lên. Ruồi cũng ít hơn mọi năm... Và một ngày tháng tám Pađy đi thăm một bãi chăn xa. Một cơn giông ập tới. Ông bước xuống đất, cột ngựa thật kỹ vào một thân cây rồi ngồi dưới tán của cây wilga chờ cho trời sáng tỏ. Năm con chó theo Pađy run sợ, nằm sát vào nhau bên chủ, còn các con cừu mà Pađy định dời qua một bãi chăn khác thì tản ra từng nhóm nhỏ hoảng sợ nhảy lung tung. Trận giông thật khủng khiếp chứa đựng sự cuồng nộ tột độ của trời đất. Đột ngột trung tâm của cơn gió lốc chuyển đến ngay trên đầu Pađỵ ông bịt cả hai tai, nhắm mắt và cầu nguyện.
Không xa lắm nơi ông ngồi núp dưới những cành lá thấp của cây wilga có một đống củi khô, xung quanh cỏ mọc rất cao. Giữa đống củi khô ấy có một cây khuynh diệp khẳng khiu, chỉ còn lại thân trơ trụi cao hơn 12 mét chĩa thẳng lên những đám mây đen như mực đang vần vũ.
Một ánh lửa xanh chớp lên như xé toạc hai mí mắt đã nhắm của Pađy khiến cho ông tự nhiên phải bật dậy. Liền đó một tiếng nổ long trời hất ông ngã lăn xuống đất như một con rối. Mặt phủ đầy bụi nhưng ông vẫn kịp thấy chùm ánh chớp tạo ra một cảnh sắc chưa từng thấy. Dọc theo thân cây chết đứng sừng sững như một ngọn giáo, tỏa ra những vầng sáng xanh và đỏ rực làm chóa mắt. Rồi tiếp đó trước khi Pađy ý thức được chuyện gì đã xảy ra thì lửa đã cháy bùng lên. Giọt nước cuối cùng đã bốc hơi từ lâu trên đống củi chết, cỏ mọc cao và khô ran như giấy. Như một thách thức của đất đối với trời, thân cây khổng lồ biến thành một cột lửa cháy thật cao, vượt cả chiều cao của cây rất xa. Không mấy chốc các cành chết và các gốc cây gần đó cũng bốc cháy. Dưới cơn gió xoáy, vòng lửa lan ra thật nhanh, càng lúc càng rộng. Pađy không kịp tháo dây thả ngựa ra.
Cây wilga khô cằn cũng cháy, chất nhựa bên trong làm nổ thân cây. Đâu đâu Pađy cũng thấy lửa, khắp nơi trước mắt ông dựng lên những bức tường đỏ rực. Cây cối biến thành những bó đuốc không lồ, còn cỏ dưới chân ông như những con thú dữ vừa bắt vừa gầm lên. Ông nghe tiếng hí thảm thiết của con ngựa, tim ông nhói đau. ông không thể nào cứ để cho con vật đáng thương bị cột bất lực chờ chết. Một con chó rống lên, tiếng rống ấy biến thành tiếng kêu hấp hối gần hệt như tiếng người. Bỗng chốc, con vật từ đâu vọt ra, tưởng như nhảy múa, đúng là một cây đuốc sống. Không bao lâu nó ngã lăn xuống cỏ đang cháy, yên lặng. Những tiếng rống của mấy con chó khác vang dội lên, chúng tìm cách thoát thân trong tuyệt vọng; lửa bắt nhanh giữa cơn gió giận dữ, nhanh hơn bất cứ sinh vật nào có chân và có cánh. Đang tự hỏi trong khoảnh khắc mình nên chọn phương án nào tốt nhất để cứu con ngựa thì một ánh lửa vụt đến nhu sao xẹt ngang đầu Pađy, cháy xém tóc ông. Nhìn xuống ông thấy một con vẹt to tướng bị thui sống dưới chân.
Bỗng chốc, Pađy hiểu ra rằng thế là hết. Không còn cách nào thoát ra khỏi cái địa ngục này, cả ông và con ngựa. Giữa lúc ý nghĩ ấy đến trong đầu ông thì một cây khô gần đấy, cháy rực lên, ngọn lửa phát ra đủ hướng, chất nhựa bên trong nổ bùng. Da tay của Pađy nhúm lại, đen sì, màu tóc sáng chói của ông như phai nhợt đi dưới ánh lửa rực sáng hơn gấp bội. Một cái chết như thế không thể nào tả xiết. Quần áo cháy bừng bừng, Pađy giẫy giụa giữa lò thiêu sống. Và mỗi tiếng hét lên thảm thiết đều chỉ gọi một cái tên: tên vợ của ông, Fiona.
Chương 16
Tất cả những người khác đều kịp về Drogheda trước khi cơn bão đến, họ bỏ ngựa ở ngoài sân và hối hả hoặc chạy vào ngôi nhà lớn hoặc vào căn nhà dành cho những người đàn ông độc thân.
Trong phòng khách được Fiona trang hoàng, đèn sáng rực. Anh em gia đình Cleary ngồi quanh lò sưởi lắng nghe tiếng gió gào thét. Không ai có ý định ra ngoài để chứng kiến cơn phẫn nộ của trời đất. Mùi củi khuynh diệp cháy thật dễ chịu. Bánh xăng-uých và bánh ngọt bày đầy trên chiếc bàn nhỏ ở đó có sẵn ấm trà. Tất cả đã giữ họ lại trong thứ không khí êm đềm. Cả gia đình không hề chờ đợi Pađy trở về vào lúc này.
Khoảng bốn giờ, các đám mây kéo về hướng tây, bất giác mọi người đều thấy dễ thở hơn. Thật ra chẳng ai có thể yên tâm được giữa lúc cơn bão khô đang hoành hành, dù mỗi nhà ở Drogheda đều có cột thu lôi. Jack và Bob đứng lên, lấy cớ ra ngoài để hít thở không khí, nhưng thật ra là để trút bỏ những lo âu vây hãm.
- Xem kìa! Bob đưa tay chỉ về hướng tây.
Sau những ngọn cây bao quanh bãi chăn chính, một màn khói vàng sậm thật dày phủ cả một góc chân trời và càng lúc càng lan rộng mà nhìn từ xa như những tấm biểu ngữ khổng lồ rách tơi tả vì gió.
- Trời ơi! Jack chỉ kịp kêu lên rồi chạy đến máy điện thoại.
- Cháy! Cháy! Jack hét lớn, trong khi những người khác sau phút bàng hoàng cũng ùa chạy ra ngoài. Jack tiếp tục hét: cháy dữ dội ở Drogheda!
Rồi Jack bỏ máy xuống. Anh không cần nói gì thêm với người trực tổng đài ở Gilly. Mặc dù gia đình Cleary từ khi đến đây chưa hề chứng kiến một vụ cháy nào nhưng ai cũng đều biết mình phải làm gì. Đám con trai chạy tìm ngựa, những người làm thuê nhanh chóng rời lán trại, trong khi ấy bà Smith mở cửa một trong những kho, phân phát ngay mấy chục chiếc bao tải bằng vải.
Cột khói càng ngày càng cao ở phía tây và gió lại thổi từ hướng này, đám cháy đe dọa tiến vào trung tâm vùng Drogheda. Fiona thay chiếc váy, lấy quần của Pađy mặc vào rồi theo Meggie chạy ra chuồng ngựa. Tất cả người trong gia đình này ai cũng biết sử dụng chiếc bao tải để dập lửa.
Giữa cơn giông bão lại đánh hơi mùi khói mấy con ngựa lồng lên không chịu để thắng yên dễ dàng.
Bob và mấy người làm thuê đi được năm phút. Fiona và Meggie phi nước đại dọc theo con suối rồi tiến thẳng về phía màn khói dày đặc đang cuồn cuộn bốc cao. Phía sau Tom và người làm vườn, vừa bơm đầy nước vào chiếc xe xitéc và nổ máy ngay. Trước một đám cháy rừng như thế này, việc tiếp nước như vậy chẳng thấm vào đâu; thật ra số nước này chỉ để giữ cho các bao vải luôn luôn ướt và cũng như để tưới lên người cho những ai có nhiệm vụ xông vào đàn áp lửa. Trên con đường về hướng tây, đi ngang qua dãy nhà ở mép ngoài nơi có khả năng bị cháy trước tiên, Tom bỗng nảy ra ý kiến xịt vòi rồng tưới ướt trước ba căn nhà này, trong đó có căn nhà của người quản lý.
Trong lúc Meggie phi ngựa bên cạnh Fiona, màn khói ở phía tây càng bừng lên dữ dội, một mùi cháy khét gay gắt. Bóng tối bắt đầu phủ trùm; các loại thú chạy tán loạn về hướng đông, băng qua khu đất kết thành từng đoàn dày đặc; nào là căngguru, heo rừng, cừu, đà điểu, gấu có túi và hàng ngàn thỏ. Meggie nói với mẹ "Bob đã mở các cổng". Lúc này hai mẹ con đang từ khu đất rào nuôi cừu mang tên Borehead đi đến khu đất Billa - Billa. Giống cừu thật đần độn. Khi chạm mặt vào hàng rào thì dù cho cách đó không bao xa có một cái cổng đã mở, chúng vẫn không biết làm sao chạy thoát ra được. Cánh đàn ông đến nơi thì đám cháy đã di chuyển đến 15 cây số, trải rộng theo chiều ngang và lan ra từng giây một. Trước cảnh tượng lửa cháy từ lùm cây này sang lùm cây khác, gió thổi mạnh bắt mồi khắp các đám cỏ mọc cao, cánh đàn ông như bị chết cứng trên ngựa, họ nhìn về hướng tây bất lực. Những con ngựa, tỏ ra hoảng sợ và họ không thể điều khiển được nữa. Đừng mong gì khoanh đám cháy lại ở mỗi chỗ này; cả một đội quân đông đảo cũng không mong làm được. Chỉ còn cách là trở về khu nhà ở và dốc hết sức mà bảo vệ khu này. Chiều rộng của đám cháy đang lan dần, khoảng bảy cây số. Nếu họ không thúc ngay mấy con ngựa mệt mỏi quay trở về thì không còn kịp thoát thân nữa. Tiếc thay những con cừu. Tiếc quá nhưng họ không thể làm gì để cứu chúng.
Nhiều xe hơi đậu gần nhà và trên đường từ Gilly đến, nhiều ánh đèn pha nối nhau chói sáng trong đêm. Khi Bob vừa vào tới sân nhà, thì một đám đông đang chờ sẵn anh tạ
- Tình hình thế nào Bob? Martin King hỏi.
Bob trả lời với vẻ thất vọng.
- Theo tôi, đám cháy quá lớn, khó mà dập tắt được. Chiều ngang đến bảy cây số và gió như thế này thì lửa bắt tới nhanh còn hơn cả ngựa phi nước đại. Tôi không biết chúng ta có thể cứu trang trại không, nhưng về phần Horry chắc chắn ông ấy phải chuẩn bị bảo vệ sản nghiệp vì lửa đã sắp đến đó. Tôi không nghĩ ra cách nào để có thể ngăn chặn.
Martin King được giao quyền chỉ huy ba trăm người chủ yếu để bảo vệ Drogheda. Ông là người chăn nuôi lâu năm nhất trong vùng và từng chiến đấu với các vụ cháy rừng năm mươi năm qua.
- Tôi có sáu chục ngàn mẫu ở Bugela - ông ta nói. Vào năm 1905, tôi bị trắng tay, hết sạch cừu và cả cây cối trong trang trại. Mười lăm năm sau tôi mới gầy dựng lại được; có lúc tôi tưởng phải bó tay vì giá len chẳng là bao và cả thịt bò cũng thế.
Bên ngoài những trận cuồng phong vẫn ào ào thét, mùi cháy khét khắp nơi. Vào nửa đêm, phía tây vẫn đỏ rực một thứ ánh sáng của địa ngục, khói và tro từ trên cao phủ xuống khiến mọi người phải ho sặc sụa. Một lúc sau, mọi người nhìn thấy những ngọn lửa đầu tiên như những cái lưỡi khổng lồ nhảy múa uốn khúc. Sau màn khói khoảng 30 mét; rồi một tiếng gào thét ầm ĩ nổi lên không khác tiếng gào thét của một cầu trường đông nghẹt khán giả điên cuồng hò hét. Hàng cây bọc quanh khu đất rào nuôi cừu ở hướng tây bốc cháy và biến thành một bức tường lửa dày đặc, rực sáng.
Đứng trên hành lang của ngôi nhà lớn, hai mắt mở to kinh hãi; Meggie sửng sốt nhìn thấy rõ từng bóng người li ti in trên lửa, nhảy tới nhảy lui, tay chân cử động hỗn loạn.
Hai tiếng đồng hồ sau, cánh đàn ông đầu tiên quay về. Mệt nhừ, họ ngả nghiêng lục tìm bất cứ thứ gì có thể ăn được để lấy lại sức rồi trở về biển lửa tiếp tục chiến đấu. Phụ nữ ở nhà được huy động để lo việc tiếp tế, ăn uống, làm sao luôn có đầy đủ món ragu cừu, bánh mì, trà nóng, rượu Rhum và bia cho ba trăm người. Khi một vụ cháy lớn xảy ra, ai ai cũng có nhiệm vụ của mình.
Giữa hai đợt vào bếp lấy thức ăn tiếp tế cho cánh đàn ông Meggie quan sát đám cháy, lòng ngập tràn một thứ kính cẩn lạ lùng đối với sức mạnh vô hình trong đó lẫn lộn sự âu lo và kinh hãi. Điều ghê gớm đang diễn ra lại ẩn chứa cái đẹp hơn hẳn bất cứ kỳ quan nào đang có trên trái đất này, vì rằng cái đẹp đó thuộc về trời đất, thuộc về những thái dương thật xa xăm đến nỗi ánh sáng của nó đến đây đã giá lạnh. Đó là cái đẹp từ thượng đế và từ quỷ mà ra. Bây giờ trận biển lửa ấy nổi lên màu đen, màu cam, màu đỏ, màu vàng và màu trắng. Một thân cây thật to đen sì hiện rõ lớp vỏ ánh lên màu cam rực lửa, than hồng vừa tách ra khỏi thân bay chập chờn như những bóng ma tinh quái. Thật thế, một cảnh tượng vĩ đại giữa đêm đen. Meggie sẽ nhớ mãi suốt đời.
Trung tâm sống còn của Drogheda chỉ cách ranh giới phía đông của trang trại năm cây số, nơi gần Gilly nhất. Beel Beel tiếp nối liền với trang trại và xa hơn nữa về phía đông là Narrengang. Khi trận cuồng phong ào ào với tốc độ tám mươi cây số giờ, thì cả vùng đều hiểu rằng, ngoại trừ một cơn mưa to ập xuống đúng lúc, không có cách nào tránh được lửa tiếp tục cháy trong nhiều tuần, biến hàng trăm cây số đất đai màu mở trở thành sa mạc. Giữa lúc nguy ngập như thế thì nhờ Tom mà nhà cửa gần con suối vẫn còn nguyên. Ông ta như người bị quỷ ám, cứ mang xe bồn đi đổ đầy nước, rồi tưới ào ào vào tường nhà, rồi lại đi lấy nước và lại phun liên tục. Nhưng khi cơn gió nổi lên dữ dội, Tom đành phải tháo lui đầu hàng, nước mắt ràn rụa. Nhà cửa ở đó không thể cứu được nữa rồi.
- Đáng lý ra ông bạn nên quỳ gối xuống và tạ ơn Chúa, tốc độ gió phía trước đám cháy đã không gia tăng - Martin King phân tích - Nếu không, tất cả nhà cửa ở trang trại này đều cháy sạch và cả chúng ta cũng thành tro bụi. Cầu Chúa cho những người ở Beel Beel được thoát chết.
Fiona trao cho Martin King một ly rượu rhum thật lớn. Không còn là một thanh niên nữa nhưng ông ta vẫn đủ sức chiến đấu đến phút cuối cùng khi cần thiết, ông ta đã chỉ huy nhiều cuộc chữa cháy một cách thành thạo.
- Thật là vớ vẩn - Fiona nói - vào cái lúc mà tôi tưởng rằng tất cả sẽ mất hết thì những suy nghĩ kỳ cục nhất lại xuất hiện trong đầu. Tôi không hề nghĩ đến cái chết, cũng không nghĩ đến con cái hay ngôi nhà nguy nga đẹp đẽ này sẽ bị thiêu hủy. Tôi hoàn toàn không thể nghĩ đến cái gì khác hơn là cái giỏ may vá của tôi, cái áo len mà tôi đang đan, cái hộp đựng nút mà tôi để dành nhiều năm, nhớ đến cái khuôn bánh hình trái tim mà Frank đã tự tay làm lâu rồi. Làm sao tôi có thể tiếp tục sống nếu thiếu tất cả những món ấy? Tất cả những thứ nhỏ nhặt đều không thể tìm mua ở tiệm.
- Đó là những suy nghĩ đã đến trong đầu của hầu hết phụ nữ - Martin King tán đồng - Tôi còn nhớ vụ cháy năm 1905, trong khi tôi vỡ phổi để lo ngăn chặn lửa thì vợ tôi hoảng hốt chạy vào nhà để lo cứu... cái công trình dở dang của bà, đó là một mẫu thêu còn nằm trên bàn căng. Khi cất xong căn nhà mới, vợ tôi hoàn thành liền mẫu thiêu đó, một trong những mẫu thêu để ngợi ca kỷ niệm của ngôi nhà. Ngôi nhà - ngôi nhà thân yêu bà hiểu ý của tôi muốn nói chứ. Thôi, tôi phải đi đây. Gareth Davie ở Narrengang có lẽ cần chúng tôi tiếp tay và nếu tôi không lầm thì chẳng bao lâu nữa Angus ở Hunish cũng sẽ rơi vào một tình thế tương tự
Fiona tái mặt:
- Ồ, Martin! Chẳng lẽ lửa lại lan xa đến thế?
- Chúng tôi vừa hay tin Booroo và Bourke đã bị đe dọa bà Fiona ạ.
Ba ngày liền sau đó, lửa tiếp tục lan về hướng đông trên chiều ngang cứ mở rộng ra. Nhưng rồi đột ngột một cơn mưa thật lớn trút xuống như thác, liên tiếp gần bốn ngày và dập tắt đi những ngọn lửa cuối cùng. Nhưng bấy giờ đám cháy đã lan ra một trăm sáu chục cây số, để lại đằng sau một vùng đất rất rộng đen sì chiều ngang 30 cây số, từ trung tâm Drogheda cho đến ranh giới cuối cùng của thị trấn Gillanbone là Rudna Hunish.
Cho đến khi mưa trút xuống, không ai chờ đợi sẽ được tin tức của Pađy vì rằng mọi người nghĩ Pađy đang an toàn ở đâu đó bên kia biển lửa. Ai cũng nghĩ ông mất liên lạc với gia đình vì cái nóng vẫn còn thiêu đốt và cây cối vẫn tiếp tục cháy âm ỉ. Nếu đám cháy không làm hư hỏng đường dây điện thoại, thì có lẽ sẽ gọi được về nhà. Chắc là Pađy đã phi ngựa về hướng tây và tìm chỗ ẩn trú ở Bugela.
Nhưng trong sáu giờ liền mưa đổ xuống, vẫn không có tin tức, bấy giờ cả gia đình có phần âu lo. Rồi luôn trong bốn ngày sau đó, họ vẫn nói với nhau là không có gì phải băn khoăn. Pađy không thể về nhà trong thời tiết này và có lẽ ông ta quyết định ở lại đó chờ cho đến khi nào có thể về thẳng Drogheda chứ không phải đến chỗ của Martin King.
- Đáng lý giờ này ba phải về rồi, Bob bồn chồn nói. Anh đi tới đi lui trong phòng khách dưới những cặp mắt đầy âu lo.
Cái oái ăm là mưa đã mang lại một không gian mát mẻ đột ngột và trong lò sưởi ánh lửa lại bập bùng.
- Bây giờ anh tính thế nào hở Bob? - Jack hỏi.
- Theo anh, đã đến lúc chúng ta chia nhau đi tìm ba. Biết đâu ba bị thương hoặc đi bộ và phải băng qua một đoạn đường dài để trở về nhà. Cũng có thể, con ngựa của ba quá sợ hãi và hất ba ngã nhào, thế là ba phải nằm đâu đó, không đi được. Ba chỉ mang đủ lương thực ăn trong một hoặc hai ngày mà thôi, tuy nhiên anh không nghĩ rằng ba bị chết đói. Nhưng bây giờ chúng ta không có cách nào để báo động cho mọi người biết, anh sẽ không kêu gọi những người ở Narrengang tiếp tay, nhưng nếu từ đây đến tối không tìm ra ba, anh sẽ đến trang trại Dominic và ngay sáng mai thì tất cả những người dân trong vùng sẽ cùng chúng ta đi tìm ba. Trời ơi, phải chi đường dây điện thoại được phục hồi ngay.
Fiona run lên, mắt đỏ ngầu như đang trong cơn sốt không khác một con vật đang bị săn đuổi.
- Tôi đi mặc quần dài vào ngay, bà nói. Tôi không thể nào ở nhà chờ được.
- Mẹ ơi, mẹ nên ở nha! Bob van xin.
- Nếu ba con bị thương, ba có thể nằm tại đâu đó, Bob ạ. Có gì bảo đảm ba con không bị thương nặng. Con đã cho tất cả anh em công nhân đi Narrengang để tiếp tay ở đó rồi, chúng ta đâu còn bao nhiêu người để đi tìm ba con. Mẹ sẽ đi với Meggie, như thế Meggie và mẹ sẽ đủ sức đối phó với mọi bất trắc. Còn nếu Meggie đi một mình thì nó lại cần thêm một người khác đi với nó, như thế lại mất bớt người.
Bob đành chìu theo ý mẹ.
- Thôi được, thưa mẹ. Mẹ có thể cỡi con ngựa thiến của Meggie. Mọi người nên mang súng đạn đầy đủ.
Trên lưng ngựa, họ băng qua con suối và đi sâu vào vùng đất điêu tàn. Không còn lại một dấu vết nào của màu xanh hay cả màu xám của đất, không còn một thứ gì cả trên khoảng bao la của đất đai cháy thành tro, đen sì và ẩm ướt. Lạ lùng thay, đến giờ này sau bốn ngày mưa liên tục mà khói vẫn còn bốc. Mỗi một chiếc lá trên cây đều biến thành một mảnh khô cháy co rúm lại và cứ nơi nào trước kia có cỏ thi người ta thấy rải rác những đống nhỏ đen thui, đó là những con cừu bị chết cháy. Thỉnh thoảng chợt thấy những đống to hơn, đó là bò hay heo rừng. Trên gò má từng người, nước mắt trộn lẫn với nước mưa.
Bob và Meggie đi đầu, tiếp đó là Jack và Hughie, Fiona và Stuart đi phía sau. Thỉnh thoảng mấy con ngựa hí vang, khịt mũi vì đối đầu thêm một cảnh tượng hãi hùng, nhưng Fiona và Meggie thì thản nhiên vì đầu óc chỉ nghĩ đến Pađy. Mặt đấy lầy lội khiến họ tiến rất chậm và khó khăn nhưng rất may có cháy lớp lớp dưới chân làm thành một tấm thảm bằng sợi có chỗ cho chân ngựa bám vào. Đi được một đoạn, họ lại cứ nghĩ Pađy đã xuất hiện ở đàng xa nhưng thời gian cứ trôi qua mà chẳng thấy Pađy đâu cả.
Tim họ nhói lên khi nhận ra đám cháy đã lan rộng nhiều hơn là họ nghĩ, đến tận đất nuôi cừu ở Wilga. Có lẽ những đám mây trong cơn giông vừa qua đã che khuất khói cho đến khi ngọn lửa đến gần một khoảng cách nào đó thì từ Drogheda mới thấy được. Những ranh giới của đám cháy làm cho tất cả bàng hoàng. Một phía là đường chân trời nổi rõ lên màu đen sì như một thứ hắc in bóng loáng, còn bên kia là một màu xanh và màu hung quen thuộc, buồn tẻ dưới cơn mưa. Bob dừng ngựa lại nói với Fiona:
- Bắt đầu từ đây, chúng ta sẽ chia nhau đi tìm ba. Con sẽ đi về hướng tây, đó là hướng có khả năng nhất để tìm ra ba, con được trang bị đầy đủ để đối phó mọi bất trắc. Tất cả chúng ta đều đem đủ đạn chứ. Rất tốt. Bất cứ ai phát hiện được một vết tích gì, cứ bắn lên trời ba phát súng, còn ai nghe được thì chỉ trả lời bằng một phát rồi chờ. Ai đã bắn ba phát thì cứ tiếp tục bắn như thế sau năm phút, còn những ai nghe thì đáp lại một phát.
Bob nói tiếp:
- Jack, em hãy đi xuống hướng nam, dọc theo đường cháy. Hughie, em đi hướng tây nam, còn anh hướng tây. Mẹ và Meggie cứ đi về hướng tây bắc. Stuart, em lần theo phía rìa đám cháy thẳng phía bắc. Và hãy nghe lời dặn này, phải tiến thật chậm. Mưa làm mắt chúng ta không nhìn rõ ở xa, cây bị cháy nằm ngả nghiêng rất nhiều. Hãy gọi nhau thường xuyên, có thể ba không thấy chúng ta nhưng nghe được tiếng gọi. Đừng có bắn súng nếu không phát hiện chuyện gì đặc biệt. Ba không có mang theo súng, do đó nếu ba nghe súng nổ mà không thể lên tiếng được thì sẽ rơi vào một tâm trạng rất hoang mang.
"Chúc tất cả may mắn. Chúa phù hộ chúng ta."
Không khác những người hành hương chia tay nhau ở ngã tư cuối cùng, từng người mất hút dưới màn mưa, tiến sâu về hướng đã được phân công. Đi chưa đầy một cây số, Stuart chú ý một lùm cây cháy đen ở gần đường ranh của đám cháy. Cậu ta chú đến một cây wilga thấp, đen sì và nhăn nheo như chùm tóc xoắn của một chú bé da đen, bên cạnh đó một thân cây cao to bị thiêu rụi còn đứng ở ngoài rìa tuyến lửa. Rồi Stuart lại phát hiện thêm dấu vết còn lại xác con ngựa của Pađy cháy nám và một gốc lớn của cây gôm. Hai con chó của Pađy chỉ còn là những đống đen thui, bốn cẳng chĩa thẳng lên trời, cứng đơ như bốn cây gậy. Cậu ta xuống ngựa, đôi giày bốt ngập bùn đến cổ chân, thế rồi cậu ta rút cây súng ra khỏi yên ngựa, hai môi mấp máy cầu nguyện, lần tìm đường đi giữa những vũng bùn trơn trợt. Nếu không tìm thấy những gì còn lại của con ngựa và hai con chó, Stuart vẫn có thể thầm hy vọng nạn nhân có thể là một kẻ lang thang nào đó. Nơi này nằm quá sâu giữa trung tam Drogheda, do đó cũng khó nghĩ đến nạn nhân là một người chăn bò hay chăn cừu đến từ Bugelạ Xa một chút, Stuart phát hiện xác của ba con chó còn lại; Pađy đem theo năm con chó tất cả. Cậu ta biết sẽ không có xác con chó thứ sáu, và cậu ta đã đoán không sai.
Cách xác con ngựa không xa, khuất sau một thân cây nằm ngang là những phần còn lại của một xác người. Không thể nào lầm được. Ướt đẫm dưới cơn mưa, cái hình thù màu đen nằm ngửa, cong theo vòng cung, hai mông và hai tay chấm đất. Hay tay dang rộng ra, mấy ngón tay lộ xương vì thịt đã rã, co rút lại như đang bấu víu vào khoảng không. Hai chân cũng hơi dang ra, hơi co lại ở đầu gối, còn ở nơi mà trước kia là cái đầu thì chỉ còn hai hố mắt trống trơn!
Trong một lúc, ánh mắt trong và sáng quắc của Stuart hướng thẳng vào cha cậu. Stuart không thấy đó là thân xác đã bị thiêu rụi mà thấy cha mình vẫn nguyên vẹn như khi còn sống. Cậu ta chĩa súng lên trời và bắn, rồi lại nạp đạn và bắn phát thứ hai, rồi phát thứ ba. Có tiếng súng nổ vọng lại từ xa; thêm một tiếng súng khác xa hơn nghe văng vẳng. Lúc đó Stuart đoán ra rằng tiếng súng gần hơn hết có lẽ là của mẹ hay của Meggie. Cả hai đi về hướng tây bắc, còn cậu ta ở hướng bắc. Không chờ đúng năm phút đúng như Bob đã dặn, Stuart lại nạp đạn và chĩa súng hướng nam bóp cò. Lại nạp đạn, bắn phát thứ hai rồi thứ ba. Stuart đặt súng xuống đất nhón người lên nhìn về phía nam, đầu hơi nghiêng, ngóng nghe chờ đợi. Lần này có tiếng súng đáp lại của Bob từ phía tây, tiếng súng kế tiếp của Jack hoặc Hughie và tiếng thứ ba của mẹ. Cậu ta thở ra nhẹ nhõm; Stuart không muốn những người đến trước tiên là mẹ và Meggie.
Mãi suy nghĩ Stuart không thấy con heo rừng thật lớn xuất hiện từ hướng bắc sau những thân cây cháy, dù cậu ta đã nhận ra cái mùi của nó trước vài giây. To gần bằng một con bò cái, cái khối thịt ấy rung rinh di chuyển trên bốn chân ngắn ngủn và thật khỏe; nó vừa đi đầu lủi xuống đất, mõm bới tìm cái gì đó trong đất đen và ẩm. Tiếng súng làm cho nó phải động đậy, thật sự con heo rừng cũng đang chịu đựng một số đau đớn kinh khủng, lớp lông đen thưa thớt một bên bị cháy làm lòi da thịt đỏ tươi. Cái mùi Stuart nghe được khi cậu ta đang còn nhìn về hướng nam đúng là mùi dễ chịu của da con heo đang quay trong lò. Đột ngột bị kéo ra khỏi trạng thái u buồn đeo bám, Stuart quay đầu lại và có cảm giác hình như đã đến đây một lần nào rồi; cái nơi đen sẫm và nhớp nhúa này như đã in sâu trong đầu Stuart từ ngày mở mắt chào đời.
Stuart nhìn xuống kiếm khẩu súng và nhớ ra súng chưa nạp đạn. Con heo rừng dừng lại, hai mắt đỏ ngầu như đang chịu đựng nỗi đau đớn dữ dội. Hai chiếc nanh dài màu vàng, nhọn hoắc hất lên cao một nửa vòng tròn. Con ngựa của Stuart hí vang vì ngửi thấy mùi thú dữ. Con heo rừng quay chiếc đầu to tướng về phía con ngựa rồi cúi xuống với ý định tấn công. Stuart hiểu rằng hy vọng duy nhất để cậu ta thoát thân là con heo rừng chú ý đến con ngựa. Stuart khom xuống lấy súng, một tay kéo nòng súng, còn tay kia cho vào túi áo vét để tìm viên đạn. Chung quanh mưa vẫn rơi làm át đi mọi tiếng động đó, nó đột ngột đổi hướng, lao thẳng vào Stuart. Con vật đã gầm chạm vào cậu ta thì tiếng súng nổ tuy trúng ngay ngực nó nhưng không làm giảm tốc độ lao vào người Stuart. Hai cái nhanh hất ngược lên, cày nát phần ở giữa hai chân của Stuart. Cậu ta ngã xuống, máu phun ra đầy quần áo và ướt cả đất.
Con heo rừng quay mòng mòng đau đớn vì trúng đạn, muốn tấn công đối thủ một lần nữa nhưng nó chệnh choạng sụm xuống. Cả cái khối thịt 600 kilô nằm lên người Stuart ép chặt đầu cậu ta xuống bùn đen. Trong khoảnh khắc, hai bàn tay của Stuart bấu xuống đất, thân người run rẩy, cố vùng lên trong tuyệt vọng.
Thế là Stuart nhận ra điều mình vẫn biết trước từ lâu, tại sao mình không bao giờ hy vọng, không bao giờ vạch ra một kế hoạch nào cho cuộc đời mà chỉ chờ đợi bằng cách đắm chìm vào cái thế giới sống động, cậu ta không còn thì giờ để thương hại cho số phận chờ đợi mình. Mẹ ơi, mẹ! Mẹ ơi! Con không thể ở lại với mẹ! Đó là ý nghĩ cuối cùng vào giây phút tim của cậu ta vỡ trong lòng ngực.
- Tại sao Stuart lại không nổ súng nữa? - Meggie hỏi mẹ.
Hai mẹ con đi ngựa về hướng đã nổ hai loạt súng nhưng không thể hối thúc con ngựa đi nhanh hơn trên bùn lầy; tim thắt lại vì âu lo.
- Có lẽ Stuart nghĩ tất cả chúng ta đều nghe rồi, Fiona trả lời Meggie.
Nói thế nhưng trong tậy đáy lòng bà vẫn nhớ gương mặt của Stuart lúc chia tay nhau mỗi người đi một hướng, nhớ cái cách mà Stuart đã siết tay bà và nụ cười của Stuart khi nhìn bà.
- Chúng ta không còn cách bao xa nữa - bà ta nói vừa thúc con ngựa chạy nhanh hơn.
Nhung Jack đã đến nơi trước, có cả Bob. Họ chặn không cho hai phụ nữ đến gần khi vượt qua phần đất còn nguyên vẹn đi đến vùng đám cháy.
- Mẹ đừng đi xa hơn nữa! Bob nói khi Fiona vừa đặt chân xuống đất.
Jack vội vàng chạy đến bên Meggie nắm lấy tay em gái mình.
Hai cặp mắt màu nâu đều nhìn đi chỗ khác, không phải không chịu đựng nổi sự kinh hãi và lo âu mà chính vì đã biết chắc chuyện gì đã xảy ra. Fiona và Meggie đã hiểu.
- Có phải ba không! - Fiona hỏi trong hơi thở.
- Thưa phải. Và cả Stuart nữa.
Không một người con nào có đủ can đảm để nhìn mặt mẹ lúc ấy.
- Stuart? Stuart? Chuyện gì xảy ra với Stuart? Trời ơi! Chuyện gì đã xảy ra? Tại sao lại cả hai. Không thể nào như thế được. Không! Không!
- Ba bị kẹt giữa đám cháy. Ba đã chết. Còn Stuart có lẽ đã làm gì đó khiến cho con heo rừng tấn công nó. Nó đã bắn chết con vật nhưng con vật đã ngã đè lên Stuart khiến cho nó bị nghẹt thở, Stuart cũng đã chết rồi, thưa mẹ.
Meggie hét lên, vùng vẫy, cố vuột ra khỏi sự kìm giữa của Jack, nhưng Fiona thì đứng bất động trong vòng tay dơ bẩn, vấy máu của Bob. Bà như bức tượng đá với đôi mắt trống vắng.
- Quá sức chịu đựng - bà nói rồi quay qua nhìn Bob (nước mắt chảy trên mặt bà, nhỏ giọt xuống tóc bết dính vào cổ). Hãy để mẹ yên. Mẹ cần phải nhìn mặt ba con, Bob. Một người là chồng của mẹ, một người là con của mẹ. Con không thể cản ngăn mẹ. Con không có quyền.
Meggie đã dịu cơn xúc động và đứng yên trong vòng tay của Jack, đầu áp vào ngực anh. Fiona bắt đầu đi chậm lại, Bob đi bên cạnh đỡ mẹ, Meggie im lặng nhìn, không có một động tác nào tỏ ý đi theo. Hughie xuất hiện sau màn mưa vốn làm mờ nhạt cả người lẫn cảnh vật. Ra dấu bằng đầu Jack có ý bảo Hughie nhìn về hướng mẹ và Bob.
- Em hãy đi theo mẹ và anh Bob, và hãy ở lại bên cạnh hai người. Meggie và anh quay lại Drogheda để tìm phương tiện đưa ba và Stuart về (cậu ta buông Meggie và giúp em gái leo lên lưng ngựa). Đi Meggie. Trời bắt đầu tối. Chúng mình không thể để mọi người ở lại đây suốt đêm. Mẹ và các anh sẽ không rời khỏi nơi đây nếu chúng mình chưa trở lại.
Ở vùng bùn lầy này, không có một loại xe có bánh nào có thể vào được; cuối cùng Jack và ông già Tom đã nghĩ ra cách dùng một tấm tôn dợn sóng cột bằng dây xích vào hai con ngựa kéo xe. ông già làm vườn dắt hai con ngựa, còn Jack đi trước soi đường bằng cây đèn bão thật lớn.
Title: Re: Tiếng chim hót trong bụi mận gai - Colleen McCullough. Bestseller năm 1977
Post by: Serenade24 on 03/05/07, 09:08
Post by: Serenade24 on 03/05/07, 09:08
Chương 17
Meggie ở lại nhà, ngồi trước ánh lửa lò sưởi, có bà Smith bên cạnh chăm sóc và cố thuyết phục cô ăn một chút gì dằn bụng. Trên gương mặt của bà quản gia, nước mắt ràn rụa bàng hoàng trước hung tin, còn cô gái im lặng, đau đớn. Sự việc quá sức tưởng tượng khiến Meggie không khóc được thành tiếng.
Có tiếng gõ cửa, Meggie đứng lên trong lòng thắc mắc không đoán ra được ai có thể băng qua vùng lầy lội đến đây giữa lúc này, cô cũng kinh ngạc trước sự loan truyền tin tức nhanh chóng từ trang trại này sang trang trại khác cách nhau rất xa.
Cha Ralph đang đứng ngoài hành lang, mặc quần áo cỡi ngựa, ướt đẫm và lấm đầy bùn.
- Tôi vào được không, bà Smith?
- Ồ, thưa cha! Bà Smith kêu lên rồi chạy tới ôm lấy cha Ralph trước sự ngơ ngác của vị linh mục... Làm sao cha lại hay tin được?
- Bà Cleary đã đánh điện tín cho tôi. Tôi đã được Tổng giám mục Di Contini Verchese cho phép. Tôi đi tìm máy bay đến đây, suýt nữa lật nhào vì khi đáp xuống đã chạm phải bùn. Nhờ đó tôi biết được mặt đất ra sao trước khi đặt chân xuống. Gilly xinh đẹp và thân thương làm sao! Tôi đã để hành lý ở nhà cha Watty, rất may được chủ khách sạn Imperial cho mượn một con ngựa. Ông ta tưởng tôi đã mất trí và đánh cá với tôi một chai rượu Johnnie Walker nếu tôi vượt qua được cả vùng bùn lầy lội này. Nhưng dù cho đám cháy có lớn tới đâu và gây thiệt hại lớn thế nào cũng chưa phải là tận thế - ông mỉm cười nói, dịu dàng đặt bàn tay lên vai bà Smith - Tôi đã đến đây và cố hết sức coi có thể giúp được gì và tôi mong được bà cảm thông - Thôi bà đừng khóc nữa.
- Thế thì cha không hay biết gì hết, bà Smith thều thào trong nước mắt.
- Hay biết điều gì? Chuyện gì xảy ra?
- Ông Cleary và cậu Stuart đều chết.
Mặt cha Ralph tái đi, đưa tay đẩy nhẹ bà quản lý ra.
- Meggie hiện giờ ở đâu? Cha Ralph gần như hét lên.
- Trong phòng khách. Còn bà Cleary hiện đang ở ngoài bãi chăn với xác của hai người thân. Jack và Tom đã đi mang di hài của họ về. Trời ơi! Thưa cha có lúc bất kể đức tin ở trong lòng mình, con không thể không tự hỏi sao Chúa lại tàn nhẫn thế. Tại sao Chúa lại mang đi cả hai người?
Nhưng ngay lúc được biết Meggie đang ở đâu, cha Ralph vứt bỏ tấm vải đầu đi mưa rồi đi thẳng vào phòng khách, bước chân để lại những vết bùn.
- Meggie - ông gọi lớn.
Ralph đến cạnh Meggie, quỳ gối xuống bên chiếc ghế bành, nắm lấy hai tay giá lạnh của Meggie đặt vào lòng bàn tay mình.
Meggie để người tụt xuống thấp dưới ghế, ngã trong vòng tay của cha Ralph, úp mặt vào chiếc sơ mi ướt đẫm và nhắm mắt lại. Cảm giác hạnh phúc tuyệt vời, Meggie mặc cho sự đau đớn và xót xa đang xâm chiếm, mơ ước giây phút này trở thành vĩnh cửu. Ralph đã đến, đó là bằng chứng của quyền lực mà cô vẫn giữ đối với Ralph. Meggie không hề lầm lẫn.
- Cha ướt từ trên xuống dưới, Meggie thân yêu của cha. Con cũng bị ướt hết cả bây giờ - ông thì thầm, má áp vào mái tóc vàng nâu.
- Không hề gì. Cha đã đến là đủ rồi.
- Vâng, cha đã đến. Cha muốn được yên tâm rằng con không phải trải qua điều gì phiền muộn. Cha linh cảm rằng sự hiện diện của cha sẽ giúp ích cho con. Cha muốn đích thân tìm hiểu sự việc. Ôi, Meggie, ba của con và Stuart làm sao thế? Chuyện gì đã xảy ra?
- Ba bị kẹt trong đám cháy. Chính Stuart tìm ra ba nhưng lại bị một con heo rừng húc chết sau khi anh ấy bắn trúng nó. Jack và bác Tom đã đi đưa thi hài của ba và Stuart về.
Cha Ralph im lặng, không biết làm gì khác hơn là giữ Meggie trong vòng tay mình, ru nhẹ nhàng như ru một đứa bé cho đến khi hơi ấm của ngọn lửa trong lò sưởi làm khô áo và tóc của ông. Bấy giờ ông cảm nhận cái thân thể mà ông đang ôm chặt vào lòng mình hình như bớt căng thẳng, duỗi dần ra trong tư thế thoải mái. Cha Ralph lấy tay đỡ cằm và nâng đầu Meggie lên buộc cô ta phải nhìn mình và không suy nghĩ gì cả, ôm hôn Meggie . Đó chỉ là một sự thôi thúc không rõ cội nguồn, hoàn toàn không xuất phát từ dục vọng, chỉ là một cử chỉ bản năng, một dâng hiến để đáp lại điều mà ông đã đọc thấy trong ánh mắt màu nâu của Meggie. Có điều gì đó rất đặc biệt như lần thứ hai ban phép thánh thể. Meggie luồn tay ra phía sau, bấu mạnh vào tấm lưng gân guốc của cha Ralph, khiến cho ông giật nẩy và kêu lên vì đau.
- Sao thế? Meggie vừa hỏi vừa dang người ra một chút.
- Hình như cha bị xây xát ở sườn khi máy bay đáp xuống, bùn ngập đến thân máy bay, thật hết sức nguy hiểm. Cha không bị hất tung nhờ va vào lưng dựa của ghế trước.
- Cha để con xem nào.
Những ngón tay nhanh nhẹn và dứt khoát của Meggie tháo nút và cởi áo của cha Ralph ra. Dưới làn da sạm nắng và ướt, một vết đỏ bầm kéo dài từ sườn này đến sườn bên kia. Meggie lo âu.
- Trời ơi, Ralph! Cha đã đi ngựa từ Gilly đến đây với vết thương như thế này sao? Chắc là cha đau lắm? Cha cảm thấy thế nào? Có bị chóng mặt không? Cha có thể bị xuất huyết bên trong.
- Không đâu. Cha không thấy gì lạ trong người. Cha nói thật mà. Cha quá lo làm sao đến đây sớm để giúp con tránh bớt buồn khổ do đám cháy gây ra nên cha quên đi cái đau của mình. Nếu cha bị xuất huyết bên trong thì ắt cha biết. Không có đâu Meggie à.
Meggie cúi đầu xuống, môi chạm nhẹ lên vết bầm đồng thời hai bàn tay đặt lên ngực Ralph, lượt nhẹ từ dưới lên trên, dừng lại mơn trớn ở hai vai với sự cố tình khêu gợi khiến cho Ralph bàng hoàng. Vừa bị quyến rũ, vừa sợ hãi, bằng mọi giá cha Ralph muốn thoát khỏi sự mơn trớn, ông quay người hướng khác, đẩy đầu của Meggie ra xa nhưng cuối cùng chỉ để rơi trọn vào vòng tay của Meggie, hai cánh tay ấy như những con rắn quấn chặt ý chí của cha Ralph, bóp chết mọi ý định kháng cự khi vừa mới chớm nở. Thế là quên cả đau đớn, quên cả Nhà thờ, quên luôn Chúa, Ralph tìm đôi môi của Meggie, sự háo hức làm cho đôi môi ấy hé mở, khát khao. Ralph ghì chặt Meggie vào lòng nhưng không làm sao xoa dịu được cơn rạo rực cứ dâng cao mãi. Meggie ngửa cổ ra, phơi trần hai bờ vai, da mát mịn; Ralph tưởng mình đã chìm nghỉm xuống, càng lúc càng sâu, nghẹt thở, bất lực.
Nhận thức về bản thân con người bình thường và tội lỗi của mình như đè nặng lên Ralph, một sức nặng có khả năng nghiền nát tâm hồn, làm vỡ tung những tình cảm bị ngăn chặn lâu ngày, cuốn phăng theo một ngọn triều không thể nào chống trả nổi. Ralph muốn được khóc; những gì còn lại của sự thèm muốn cạn đi dưới gánh nặng mà phận làm người đặt lên ông. Ông tháo gỡ hai tay của Meggie đang quấn chặt cái thân hình đáng thương hại của ông rồi ngồi xổm xuống, đầu cúi gục, tưởng như đã hết tâm trí nhìn ngắm hai bàn tay run rẩy của mình đặt trên đầu gối. Meggie ơi, em đã làm gì anh? Và em sẽ làm gì nữa nếu anh cứ để cho mọi chuyện xảy ra?
- Anh yêu em Meggie.Anh mãi mãi yêu em. Nhưng anh là linh mục, anh không thể... Anh không thể làm thế được chỉ vì như vậy mà thôi.
Meggie đứng phắt lên, sửa lại áo ngay ngắn, nhìn xuống cha Ralph, miêng cười gượng nhưng vẫn không che giấu được sự đau khổ. Ẩn trong đôi mắt là nỗi thất vọng.
- Ralph, thôi thế cũng được. Con đi xem bà Smith có chuẩn bị gì cho cha ăn không, rồi con sẽ mang đến cho cha dầu xoa bóp mà người ta dùng cho ngựa. Thứ này chữa các vết bầm thật tuyệt, nó sẽ làm cho cha hết đau nhức ngay, theo con nghĩ hiệu nghiệm hơn gấp mấy những nụ hôn.
- Điện thoại có dùng được không? Cuối cùng cha Ralph đã nói ra lời.
- Được. Một đường dây phụ đã được bắc trên các ngọn cây, mấy giờ qua ở đây đã liên lạc được với Gilly.
Dù sao, cha Ralph cũng cần ít phút để bình tâm và tự chủ sau khi Meggie rời khỏi phòng khách. ông đến ngồi trước bàn viết của Fiona.
- Xin vui lòng cho tôi đường dây liên tỉnh. Đây là linh mục Ralph de Bricassart ở Drogheda. Ồ! Allô, Doreen đó à; vẫn trung thành với công việc ở bưu điện. Ồ, tôi hiểu. Tôi rất vui khi nghe được tiếng nói của chị. Tôi không biết ai đang đảm trách tổng đài ở Sydney, tôi chỉ nghe một giọng nói lãnh đạm và buồn tẻ. Tôi muốn liên lạc gấp với Đức Khâm mạng giáo hoàng ở Sydney. Số của Ngài là 20 - 23 - 24. Trong khi chờ Sydney trả lời chị Doreen cho tôi nói chuyện với Bugela nhé.
Ralph vừa báo tin cho Martin King thì Sydney gọi. Nhưng chỉ vài lời với Bugela là đủ rồi. Cả Gilly sẽ hay tin qua Martin King, kể cả nhiều người khác, trên đường dây này thường thích nghe lén điện thoại. Như thế tất cả những ai không ngại bùn lầy đều sẽ có mặt trong đám tang.
- Allô, có phải Đức cha đó không? Linh mục Ralph đây, hiện con ở Drogheda. Ồ! Allô Doreen đừng cúp máy nhé... Vâng, cảm ơn, con đã đến đây bình yên, nhưng máy bay thì bị ngập bùn đến thân. Có lẽ con phải trở về bằng tàu hỏa... trong bùn. Thưa Đức cha, bùn... con nói bùn lầy. Không thưa Đức cha, ở đây không thể đi đâu được nếu mưa to... Từ Gillanbone đến Drogheda, con phải đi bằng ngựa, đó là phương tiện di chuyển duy nhất có thể sử dụng trong tình hình thời tiết này... Do đó mà con gọi điện cho Đức cha. Con rất vui mừng đã đến đây. Con đã có linh tính trước... Vâng, thật khủng khiếp. Vượt xa những điều con lo sợ. Padraic Cleary và con trai của ông là Stuart đều chết. Người cha bị chết trong đám cháy, người con thì bị một con heo rừng đè. Một con heo rừng thưa Đức cha... Con nói một con heo rừng... Vâng, Đức cha nhận xét đúng, ở đây người ta nói một thứ tiếng Anh rất lạ. Con xin phép Đức cha cho con được ở lại để dự đám tang và con cam đoan với Đức cha con sẽ lo lắng đầy đủ cho người vợ đáng thương và các con của bà. Vâng, thưa Đức cha, cảm ơn Đức cha. Con sẽ trở về Sydney ngay khi mọi việc xong xuôi.
Dĩ nhiên có nhân viên tổng đài cũng nghe được Ralph yêu cầu được nói chuyện với Bugela. ông trao đổi với Martin King trong ít phút và quyết định lễ mai táng sẽ được tổ chức vào ngày mốt.
Meggie quay trở lại với chai dầu xoa bóp trên tay nhưng không tỏ ý tự mình sẽ chăm sóc cho cha Ralph. Im lặng trao chai dầu cho ông, Meggie vắn tắt cho cha Ralph biết là khoảng một tiếng đồng hồ nữa, buổi ăn nóng sẽ được bà Smith dọn trong phòng ăn nhỏ, như thế cha Ralph có dư thời giờ để tắm rửa. Cha buồn bã nhận ra rằng hình như Meggie đã coi như mình bị cha lừa gạt; nhưng ông không hiểu được tại sao cô lại phản ứng như thế, và căn cứ vào đâu để kết tội ông như vậy. Meggie vẫn biết ông là linh mục; vậy tại sao có sự giận dỗi này?
Một buổi sáng tinh mơ ảm đạm, đoàn người đưa hai thi hài về đến bờ bên kia sông và dừng lại ở đó. Dù nước chưa tràn bờ, sông Gillan vẫn dâng cao và chảy xiết, sâu tới mười mét. Cha Ralph cho con ngựa hồng của mình lội qua bên kia bờ sông lầy lội để đón đoàn người. ông choàng sẵn khăn lễ và mang theo đẩy đủ những gì cần thiết của linh mục trong chiếc rúi trên lưng ngựa. Trong lúc Fiona, Bob, Jack, Hughie và Tom đứng xung quanh, cha Ralph mở tấm vải quấn hai thi hài và chuẩn bị làm lễ xức dầu. Sau lần chứng kiến cái chết của bà Mary Carson thì không có một cái chết nào khác có thể làm cho linh mục Ralph ghê tởm. Cả hai thi hài đều đen, Pađy vì bị chết thiêu, còn Stuart bị nghẹt thở, Ralph ôm hôn hai thi hài với tình cảm và sự kính trọng.
Trên đoạn đường dài 20 cây số, tấm tôm chở thi hài bị xóc lên xóc xuống phía sau hai con ngựa kéo cày xới trong bùn, in sâu những luống dài có thể nhiều nằm sau vẫn còn thấy. Nó như vết sẹo mà vào những mùa xuân tới dù cỏ đã mọc đầy lên đó vẫn không che lấp được.
Dòng nước chảy xiết buộc đoàn người dừng lại bên kia bờ mặc dù chỉ còn hai cây số nữa đến nhà.
- Con có một ý kiến, Bob quay qua nói với cha Ralph - Ở đây chỉ có con ngựa của cha còn khỏe, cha có thể cho ngựa lội trở qua suối, về nhà và tìm những chiếc thùng rỗng hai trăm lít, cha nhớ đóng kín nắp lại không cho nước vào. Nếu cần có thể hàn. Chúng ta cần khoảng mười, mười hai cái thùng là đủ. Cha cho cột lại và mang qua bờ bên này. Chúng ta sẽ dùng những thùng đó để chở tấm tôn và đẩy nó trở qua bờ như một cái bè.
Cha Ralph tán đồng mà không cần đặt câu hỏi nào khác, ông cũng không có ý kiến nào hay hơn. Dominic O'' Rourke cùng hai con trai tiếp tay cha Ralph thực hiện ý kiến của Bob, rồi chính cha Ralph và Dominic O'' Rourke kéo những chiếc thùng qua con suối.
Không có một cành hoa nào trên hai quan tài, và cũng không có một cành hoa nào trong những chiếc bình ở nhà nguyện của Drogheda. Những đóa hoa sống sót qua cơn nóng khủng khiếp của đám cháy đều bị vùi dập dưới cơn mưa, cánh của nó tan tác trong bùn như những con bướm bị mắc bẫy. Còn mọi người thì mệt mỏi, quá mệt mỏi. Những ai đã vượt qua một cuộc hành trình dài bằng ngựa trên con đường lầy lội để đến đây nghiêng mình lần cuối chào vĩnh biệt Pađy đêu mệt mỏi; những ai đã mang các thi hài về cũng mệt mỏi; đàn ông và đàn bà lo việc bếp núc và rửa dọn cũng mệt mỏi. Cha Ralph mệt đến đỗi tưởng như mình đi đứng trong giấc mơ, mắt ông đờ đẫn nhìn lần lượt gương mặt căng thẳng và tuyệt vọng của Fiona, gương mặt đau khổ và giận dữ của Meggie và nỗi đau xót của anh em Bob, Jack và Hughie lâu nay vốn thương yêu gắn bó với nhau.
Làm lễ xong, các khách từ xa lại lên ngựa ra đi, lưng rạp xuống được che bằng những tấm vải đầu; có người chỉ bàn với nhau về viễn ảnh phá sản có thể xảy đến, những người khác cảm ơn Chúa đã cứu họ thoát chết và tránh được đám cháy. Cha Ralph gom lại đồ đạc của mình, biết rất rõ là phải đi ngay trước khi không còn khả năng rứt ra khỏi nơi này.
Ông tìm gặp Fiona đang ngồi trước bàn viết, lặng im mắt nhìn hai bàn taỵ
- Bà Fiona có khỏe không? Cha Ralph hỏi rồi buông mình xuống chiếc ghế bành gần đó.
Bà quay lại nhìn cha Ralph, tan nát và chết cứng trong lòng khiến cha phải sợ và không dám nhìn thẳng.
- Vâng thưa cha, rồi đâu sẽ vào đó. Con phải lo việc sổ sách của trang trại và năm đứa con còn lại... sáu chứ kể cả Frank. Nhưng đúng là chúng ta không trông đợi gì ở Frank phải không cha? Con không thể nào nói ra hết sự biết ơn về những gì cha đã giúp trong chuyện này. Thật là một an ủi lớn cho con khi biết rằng cha đã theo dõi và lo lắng cho Frank, nhờ thế mà số phận của nó đỡ khổ phần nào. Trời ơi, con muốn gặp Frank quá, dù chỉ một lần thôi cha ạ.
Như một lửa hải đăng, cha Ralph nghĩ thầm. Fiona như một ngọn hải đăng chiếu ra những tia sáng khổ đau mỗi khi đầu óc của bà bị xúc động tột độ và dữ dội nhất.
- Bà Fiona, có một việc mà tôi muốn bà phải suy nghĩ.
- Vâng, chuyện gì thế thưa cha?
Rồi bà lại đi trong sự trống rỗng.
- Bà có nghe tôi nói không? Cha Ralph lo lắng hỏi lớn tiếng, lòng ông lo sợ hơn bao giờ hết.
Một lúc lâu, linh mục tưởng rằng bà đã thu mình lại đến mức giọng nói cứng rắn của ông cũng không làm bà sực tỉnh. Nhưng một lần nữa ngọn hải đăng lại phát ra một tia sáng, rồi đôi môi mấp máy:
- Tội nghiệp Pađy của tôi! Tội nghiệp Stuart của tôi! Tội nghiệp Frank của tôi! Bà nói như rên rỉ.
Rồi bà lại bình tĩnh, nép mình sau cái bề ngoài cứng rắn tưởng như không có điều gì có thể lay chuyển nổi.
Đôi mắt bà đảo quanh căn phòng mà không nhìn ra bất cứ thứ gì.
- Vâng, thưa cha, con đang nghe đây, bà nói.
- Này, Fiona, còn cô con gái của bà nữa chứ? Bà quên rằng bà có một đứa con gái sao?
Đôi mắt nâu nhìn lên về hướng cha Ralph một lúc, gần như thương hại.
- Làm sao một người đàn bà lại có thể quên con gái của mình? Nhưng một đứa con gái là gì? Chỉ là sự nhắc nhở của một niềm đau chịu đựng lâu dài, một hình bóng trẻ trung hơn của chính mình, sẽ lặp lại tất cả những hành động mà mình đã trải qua, rồi cũng sẽ khóc những giọt nước mắt mà mình đã khóc. Không thưa cha, con đã cố quên đi rằng con có một đứa con gái. Nếu con nhớ đến nó thì con sẽ coi nó cũng như một trong những đứa con trai của con. Người mẹ thường nhớ đến những đứa con trai.
- Bà đã khóc lần nào chưa, bà Fionạ Tôi chỉ thấy bà khóc chỉ mỗi một lần.
- Cha sẽ không bao giờ thấy như thế nữa, thưa cha. Nước mắt trong con đã cạn (toàn thân bà run lên) cha có biết không, cách đây hai ngày, con đã nhận ra rằng con yêu Pađy biết chừng nào, nhưng cũng như mọi chuyện trong đời con, nó đến quá muộn màng. Quá muộn cho anh ấy, quá muộn cho con. Cha có biết không, con rất muốn được ôm anh ấy trong đôi tay nói với anh ấy rằng "em yêu anh". Trời ơi! Con mong rằng không một ai sẽ phải chịu đựng nỗi đau đớn như thế này.
Cha Ralph quay mặt nơi khác để khỏi nhìn thấy vẻ đau thương ấy và để Fiona có thời gian lấy lại bình tĩnh, còn ông thì có thể hiểu sâu hơn một con người bí ẩn.
- Không, ông nói, không người nào có thể trải qua và cảm nhận được nỗi đau của bà, mỗi người có một nỗi đau riêng.
Fiona nhếch miệng cười buồn bã.
- Vâng, đó cũng là một an ủi, phải không thưa cha? Nỗi đau đớn không phải là điều nên ước ao nhưng dù sao nỗi đau đớn ấy cũng là của riêng con.
- Tôi mong bà hứa với tôi một điều, bà Fiona.
- Con sẽ nghe lời cha.
- Bà hãy chăm sóc Meggia. Đừng quên điều đó. Hãy buộc Meggie tham dự các buổi khiêu vũ trong vùng; gặp gỡ các chàng trai trẻ, thúc đẩy Meggie nghĩ đến chuyện lấy chồng, xây dựng riêng một tổ ấm. Tôi nhận thấy tất cả những thanh niên con của các trại chủ quanh vùng này đến đây dự đám tang đều say đắm nhìn Meggie. Nên tạo thêm cơ hội cho Meggie gặp các thanh niên ấy trong một hoàn cảnh ít nặng nề hơn.
- Xin theo ý cha.
Linh mục Ralph thở dài rồi bước ra, một mình Fiona vẫn ngồi yên nhìn hai bàn tay gầy guộc và trắng xanh nhưng hình như bà chẳng thấy gì cả.
Meggie tiễn cha Ralph ra đến chuồng ngựa, nơi đây con ngựa thiến của ông chủ khách sạn Imperial cho mượn đang ăn cỏ khô với lúa mạch. Cha Ralph quẳng chiếc yên cũ lên lưng con vật và cúi xuống siết chặt lại đai bụng ngựa, trong khi Meggie đứng dựa vào một bao cỏ khô theo dõi cha.
- Cha nhìn xem, con vừa tìm được cái gì nè, vừa nói Meggie vừa trao cho Ralph một bông hồng màu tro nhạt đúng lúc cha Ralph thẳng đứng lên. Đây là bông hồng duy nhất con đã tìm thấy trong một bụi cây, dưới những hồ chứa nước sau nhà. Nó đã sống sót qua cơn nóng của đám cháy và được che chở không bị vùi dập dưới cơn mưa. Con đã hái hoa này tặng cha, hãy giữ như một kỷ niệm về con.
Ông cầm lấy bông hồng vừa hé nở tay run run thiếu tự tin và nhìn cành hoa.
- Meggie, ta không cần vật kỷ niệm của con, bây giờ và mãi mãi về sau này. Ta mang trong ta con người trọn vẹn của con, chính con thừa biết điều đó. Ta không thể giấu diếm tình cảm ấy được, phải không Meggie?
- Nhưng đôi khi cũng cần có một thực tế kỷ niệm để có thể sờ mó nó - Meggie quyết bảo vệ ý kiến của mình. Người ta có thể nhìn ngắm và nhớ lại những gì có thể quên đi nếu kỷ niệm đó không ở trước mặt. Con van cha, hãy cầm lấy...
- Meggie hãy gọi ta bằng tên, Ralph - ông nói.
Ông cúi xuống mở chiếc vali nhỏ, trong đó đựng các thứ cần thiết để làm lễ và lấy ra cuốn kinh thánh có bìa khảm xà cừ đắt tiền, một vật sở hữu của ông. Thân sinh đã mất của Ralph đã tặng cho ông cuốn sách này ngày ông được thụ phong linh mục cách đây mười ba năm. Ông mở cuốn kinh thánh, nơi đước đánh dấu bằng một rubăng màu trắng rộng khổ, lật qua vài trang, đặt chiếc bông hồng trong đó và đóng sách lại.
- Có phải Meggie muốn ta để lại cho con một kỷ niệm phải không? Đúng như thế chứ?
- Vâng.
- Ta sẽ không để lại cho Meggie điều gì cả. Ta muốn Meggie hãy nhìn quanh và chọn cho mình một chàng trai nhân hậu, đàng hoàng, để sau này trở thành chồng của con, rồi sinh con cái, điều mà Meggie rất tha thiết. Meggie sinh ra để làm mẹ, chẳng phải đó là mơ ước của con sao? Ta không thể từ bỏ Nhà thờ vì ta đã không thể yêu con như một người chồng, vì ta đã... Meggie có hiểu ta không? Quên ta đi, Meggie ạ!
- Thế cha không hôn con trước khi cha giã từ sao?
Thay cho câu trả lời, Ralph leo lên ngựa đi thẳng ra cửa trước khi đặt lên đầu chiếc nón phớt cũ kỹ mà người chủ ngựa cũng đã cho mượn. Trong một thoáng, đôi mắt xanh của Ralph loé sáng lên; dưới cơn mưa, con ngựa bước trầy trật trên con đường bùn lầy dẫn đến Gilly. Meggie không biết làm gì hơn là nhìn theo nhưng vẫn đứng đó trong bóng tối của chuồng ngựa ẩm ướt. Mùi phân ngựa và cỏ khô làm Meggie nhớ lại cái nhà kho ở Tân Tây Lan và Frank.
Chương 18
Ba mươi tiếng đồng hồ sau khi rời Drogheda, cha Ralph đã có mặt trong phòng của Đức Khâm mạng. Ông đi ngang qua căn phòng rộng lớn, đến hôn chiếc nhẫn người cha linh hồn của mình, rồi buông mình xuống ghế bành một cách mệt mỏi. Chỉ khi cảm thấy đôi mắt đẹp và thông suốt đang nhìn thẳng vào mình, cha Ralph mới nhận ra cách ăn mặc không bình thường của ông, và hiểu ra tại sao có nhiều người đã nhìn mình chăm chăm từ khi ông mới bước xuống nhà ga Trung ương. Bỏ quên chiếc vali gởi ở nhà xứ Gilly, cha Ralph nhảy lên tàu hỏa chuyến tốc hành chỉ trước giờ chạy hai phút. Ông đã trải qua một ngàn cây số trên toa tàu lạnh giá mà chỉ mặc một chiếc áo sơ mi, quần cỡi ngựa và giày bốt, tất cả ướt đẫm mà không hay biết. Cha Ralph nhìn lại quần áo của mình, cười buồn rồi nhìn về hướng Tổng giám mục.
- Xin Đức cha tha lỗi. Có quá nhiều biến cố xảy ra đến nỗi con quên mất cách ăn mặc dị hợm của mình.
- Con khỏi phải xin lỗi, Ralph (khác hơn người tiền nhiệm, ông thích gọi thư ký riêng của mình bằng tên). Trông con có vẻ rất lãng mạng, đỏm dáng nữa là khác, dù con có vẻ mệt mỏi. Tuy nhiên, như thế có phần nào thế tục hơn phải không?
- Về phương diện tục thế, con hoàn toàn đồng ý. Nhưng về phương diện lãng mạn và đỏm dáng, thưa Đức cha, có lẽ vì Đức cha chưa bao giờ thấy cách ăn mặc thông thường của con ở Gillanbone.
- Ralph rất thân mến của ta, dù cho con nảy ra ý định dùng bao đựng than để làm quần áo mặc, con cũng sẽ không mất đi chút nào vẻ lãng mạn và đỏm dáng! Bộ quần áo cỡi ngựa rất hợp với con, đúng là rất hợp. Cũng như với chiếc áo dòng, con đừng bận tâm để chứng minh rằng con không thấy bộ quần áo đó hợp với con hơn là bộ đồ vét đen. Con có một dáng đi rất lạ và đặc biệt thu hút. Con giữ được một thân hình cường tráng. Cha tin rằng con sẽ giữ được như thế mãi mãi. Cha cũng nghĩ rằng, khi cha được gọi về La Mã, cha sẽ mang con theo. Cha rất tò mò xem coi con sẽ gây ấn tượng ra sao với các giáo sĩ người àbụng to và chân ngắn ngủn. Đúng là một con mèo thon thả đẹp giữa những con bồ câu mập và ngơ ngác.
La Mã! Cha Ralph giật nẩy người.
- Chuyện xảy ra có đau đớn không, Ralph? Tổng giám mục vừa hỏi vừa đưa bàn tay đeo nhẫn vuốt ve chiếc lưng mượt mà của con mèo Abyssinian dang nằm kêu gừ gừ trên đầu gối của ông.
- Khủng khiếp lắm thưa Đức cha.
- Con dành rất nhiều tình cảm cho gia đình đó?
- Thưa vâng.
- Con có yêu thương mọi người trong gia đình ấy như nhau hay với một số người, con yêu nhiều hơn những người khác?
Nhưng cha Ralph cũng quỷ quyệt không kém bề trên của mình. Thời gian phục vụ khá lâu dưới quyền ông đủ để cho cha Ralph hiểu thấu cách suy nghĩ của Tổng giám mục. Cha Ralph phá vỡ cái bẫy giăng ra bằng một thái độ thẳng thắn giả tạo, nhưng đủ sức làm tiêu tan mọi nghi ngờ ở Tổng giám mục. Đầu óc tinh tế và lắt léo ấy lại không nghĩ ra rằng một sự thẳng thắn bề ngoài nó dối trá gấp mấy lần so với sự chối quanh né tránh.
- Con yêu thương mọi thành viên trong gia đình đó nhưng như Đức cha đã nói, với một số người, con có yêu thương nhiều hơn. Chẳng hạn Meggie, cô con gái mà con yêu thương nhất. Con luôn cảm thấy có trách nhiệm riêng với cô con gái vì gia đình gồm toàn con trai và quên đi sự có mặt của đứa con gái.
- Cô gái Meggie đó bao nhiêu tuổi?
- Con không biết chính xác. Ồ! Có lẽ khoảng hai mươi tuổi, hình như thế. Nhưng con có yêu cầu bà mẹ hứa sẽ bớt đi công việc sổ sách kết toán để con gái của bà có điều kiện tham dự vào những cuộc khiêu vũ trong vùng, có cơ hội gặp nhiều chàng trai cùng lứa tuổi. Nếu không cuộc đời cô ta sẽ hỏng mất vì bị giam hãm ở Drogheda như thế quả là tai hại.
Cha Ralph chỉ nói toàn sự thật. Với sự tinh ý nhạy bén đặc biết, Tổng giám mục nhận ra ngay, mặc dù ông chỉ hơn người thư ký riêng của mình ba tuổi. Con đường công danh của ông ở tòa thánh không phải chịu những thăng trầm như linh mục Ralph, nhưng dưới nhiều góc cạnh, ông cảm thấy mình già hơn gấp bội người dưới quyền. Cha Ralph sẽ không bao giờ già như thế. Vatican đã hủy hoại quá sớm sức sống ở người mà tòa thánh đã chiếm hữu, còn Ralph thì vẫn còn tràn trề sinh lực.
Bớt đi phần nào sự cảnh giác, Tổng giám mục vẫn tiếp tục quan sát người thư ký riêng của mình và trở lại cuộc chơi hấp dẫn để bằng mọi cách tìm cho ra chính xác động cơ ở Ralph là gì. Lúc đầu, Tổng giám mục tin chắc rằng ở con người này có sự yếu đuối về xác thịt, bằng cách này hay cách khác. Cái đẹp lạ lùng ở gương mặt, kể cả thân hình chắc chắn gợi lên biết bao thèm muốn, đến đỗi cha Ralph không thể nào không biết đến. Nhưng với thời gian, Đức cha dã thấy ra rằng cảm tưởng ban đầu của mình chỉ đúng một nửa: đúng là cha Ralph cũng cảm nhận được sức quyến rũ của mình nhưng điều đó gắn liền với sự hồn nhiên không thể chối cãi. Dù ngọn lửa đang cháy bỏng trong con người cha Ralph là gì đi nữa, thì điều chắc chắn, đó không phải là vấn đề xác thịt. Tổng giám mục đã sắp xếp cho linh mục Ralph gần gũi với những người đồng tình luyến ái cao tay, biết cách thu hút những ai có chút khuynh hướng đồi bại này nhưng kết cuộc chẳng có kết quả nào. Ngài cũng theo dõi linh mục Ralph khi ông ở bên cạnh những người phụ nữ đẹp nhất nước nhưng cũng chẳng có kết quả. Một thoáng chú ý cũng không có, sự thèm muốn trong ánh mắt cũng không dù cho ông không hay biết mình được chú ý. Vâng, Tổng giám mục cũng có lúc dùng những người dưới tay để theo dõi và báo cáo lại một cách trung thực. Thế là Đức cha bắt đầu tin rằng chỗ yếu của linh mục Ralph nằm trong sự tự kiêu mình là linh mục và trong chính tham vọng của ông, đó là hai mặt của một nhân cách mà thật ra không xa lạ đối với Đức cha vì chính trong bản thân ngài cũng tìm thấy những mặt ấy. Nhà thờ không thiếu địa vị dành cho những kẻ tham vọng và cũng như những định chế có tầm cỡ, nó luôn luôn dựa vào những con người trung kiên và tham vọng như thế để trường tồn. Dư luận ngoài đời đồn rằng linh mục Ralph đã sang đoạt tài sản mà gia đình Cleary đáng lẽ được thừa kế; mỉa mai thay đó lại là gia đình mà linh mục nói với mọi người rằng mình yêu thương. Cứ cho đó là sự thật thì càng phải sử dụng linh mục Ralph. Đôi mắt xanh đẹp tuyệt ấy đã sáng lên làm sao khi nghe nhắc tới La Mã! Có lẽ đã đến lúc thử một bước đi chiến lược mới. Tổng giám mục làm ra vẻ lơ đễnh đi một nước cờ trong cuộc đối thoại với linh mục Ralph, nhưng thật ra dưới đôi mi nửa khép nửa mở, ông vẫn quan sát rất chăm chú:
- Cha đã nhận được tin tức từ Vatican trong khi con đi vắng, Ralph ạ. Tổng giám mục vừa nói vừa đặt nhẹ con mèo qua một bên. Sheba bé nhỏ của ta, con ích kỷ quá. Con làm cho hai chân ta tê cứng.
- Chuyện gì thế thưa Đức cha? Linh mục Ralph ngả người vào ghế bành để nhìn rõ hơn Tổng giám mục, đồng thời ông cố giữ cho hai mí mắt không sụp xuống vì quá mệt mỏi sau một cuộc hành trình dài.
- Vâng, con có thể đi ngủ nhưng trước đó con cần nghe những tin tức này đã. Cách đây không lâu, cha có gởi một mật thư riêng cho Đức Thánh cha và ngay sáng hôm nay, cha đã nhận được trả lời của Ngài qua người đại diện là Đức Hồng Y Monteverdi, một người bạn của cha. Cha vẫn tự hỏi phải chăng Monteverdi thuộc dòng dõi nhà soạn nhạc thời Phục Hưng. Không hiểu sao, cha cứ quên mãi không hỏi điều đó khi gặp Ngài. Ồ! Sheba, tại sao con cứ đưa vuốt ra mỗi khi con cảm thấy ưa thích?
- Con đang nghe đây thưa Đức cha. Con chưa buồn ngủ đâu, cha Ralph cười nói. Đức cha yêu mèo là điều không có gì ngạc nhiên. Đức cha không khác con mèo, thích kéo dài sự vui sướng khi vờn con mồi. Sheba xinh đẹp hãy lại đây, đừng theo con người ác độc ấy, hãy lại đây với ta.
Con mèo cái lập tức rời khỏi bộ áo tím của Tổng giám mục và nhảy lên đùi linh mục, nó nằm rạp người xuống, đuôi ngoe nguẩy, vừa hít mạnh để đánh hơi, có vẻ như thích mùi ngựa và mùi bùn trên người của linh mục Ralph.
Đôi mắt xanh lanh lợi của cha Ralph nhìn thẳng vào mắt Tổng giám mục; hai mí mắt nửa nhắm nửa mở, cả hai đều rất tỉnh táo.
- Làm thế nào mà cha lập được thành tích như thế? Tổng giám mục hỏi. Sheba chẳng bao giờ tuân theo lời của bất cứ ai, thế mà nó chạy ngay lại cha như thể được mời ăn trứng cá caviar hay một thứ cao lương mỹ vị nào đó. Đồ bội bạc!
- Con vẫn chờ nghe Đức cha nói tiếp.
- Có phải bực bội vì bị chờ đợi nên con đã trả thù bằng cách đoạt con mèo cái của cha? Thôi, con đã thắng cuộc, xin thua. Mà này, có bao giờ con nếm mùi thất bại chưa? Một câu hỏi thú vị đấy, Ralph thân mến. Còn bây giờ cha xin có lời chúc mừng. Kể từ nay con phải đội mũ lễ, mặc áo choàng lễ và người ta phải gọi con bằng Đức cha, giám mục De Bricassart.
Tổng giám mục thích thú nhìn đôi mắt của Ralph mở ra thật lớn. Lần đầu tiên, linh mục Ralph không tìm cách giả vờ hay che dấu những tình cảm thật của mình. ông ta rạng rỡ lên một cách tự nhiên.
Meggie ở lại nhà, ngồi trước ánh lửa lò sưởi, có bà Smith bên cạnh chăm sóc và cố thuyết phục cô ăn một chút gì dằn bụng. Trên gương mặt của bà quản gia, nước mắt ràn rụa bàng hoàng trước hung tin, còn cô gái im lặng, đau đớn. Sự việc quá sức tưởng tượng khiến Meggie không khóc được thành tiếng.
Có tiếng gõ cửa, Meggie đứng lên trong lòng thắc mắc không đoán ra được ai có thể băng qua vùng lầy lội đến đây giữa lúc này, cô cũng kinh ngạc trước sự loan truyền tin tức nhanh chóng từ trang trại này sang trang trại khác cách nhau rất xa.
Cha Ralph đang đứng ngoài hành lang, mặc quần áo cỡi ngựa, ướt đẫm và lấm đầy bùn.
- Tôi vào được không, bà Smith?
- Ồ, thưa cha! Bà Smith kêu lên rồi chạy tới ôm lấy cha Ralph trước sự ngơ ngác của vị linh mục... Làm sao cha lại hay tin được?
- Bà Cleary đã đánh điện tín cho tôi. Tôi đã được Tổng giám mục Di Contini Verchese cho phép. Tôi đi tìm máy bay đến đây, suýt nữa lật nhào vì khi đáp xuống đã chạm phải bùn. Nhờ đó tôi biết được mặt đất ra sao trước khi đặt chân xuống. Gilly xinh đẹp và thân thương làm sao! Tôi đã để hành lý ở nhà cha Watty, rất may được chủ khách sạn Imperial cho mượn một con ngựa. Ông ta tưởng tôi đã mất trí và đánh cá với tôi một chai rượu Johnnie Walker nếu tôi vượt qua được cả vùng bùn lầy lội này. Nhưng dù cho đám cháy có lớn tới đâu và gây thiệt hại lớn thế nào cũng chưa phải là tận thế - ông mỉm cười nói, dịu dàng đặt bàn tay lên vai bà Smith - Tôi đã đến đây và cố hết sức coi có thể giúp được gì và tôi mong được bà cảm thông - Thôi bà đừng khóc nữa.
- Thế thì cha không hay biết gì hết, bà Smith thều thào trong nước mắt.
- Hay biết điều gì? Chuyện gì xảy ra?
- Ông Cleary và cậu Stuart đều chết.
Mặt cha Ralph tái đi, đưa tay đẩy nhẹ bà quản lý ra.
- Meggie hiện giờ ở đâu? Cha Ralph gần như hét lên.
- Trong phòng khách. Còn bà Cleary hiện đang ở ngoài bãi chăn với xác của hai người thân. Jack và Tom đã đi mang di hài của họ về. Trời ơi! Thưa cha có lúc bất kể đức tin ở trong lòng mình, con không thể không tự hỏi sao Chúa lại tàn nhẫn thế. Tại sao Chúa lại mang đi cả hai người?
Nhưng ngay lúc được biết Meggie đang ở đâu, cha Ralph vứt bỏ tấm vải đầu đi mưa rồi đi thẳng vào phòng khách, bước chân để lại những vết bùn.
- Meggie - ông gọi lớn.
Ralph đến cạnh Meggie, quỳ gối xuống bên chiếc ghế bành, nắm lấy hai tay giá lạnh của Meggie đặt vào lòng bàn tay mình.
Meggie để người tụt xuống thấp dưới ghế, ngã trong vòng tay của cha Ralph, úp mặt vào chiếc sơ mi ướt đẫm và nhắm mắt lại. Cảm giác hạnh phúc tuyệt vời, Meggie mặc cho sự đau đớn và xót xa đang xâm chiếm, mơ ước giây phút này trở thành vĩnh cửu. Ralph đã đến, đó là bằng chứng của quyền lực mà cô vẫn giữ đối với Ralph. Meggie không hề lầm lẫn.
- Cha ướt từ trên xuống dưới, Meggie thân yêu của cha. Con cũng bị ướt hết cả bây giờ - ông thì thầm, má áp vào mái tóc vàng nâu.
- Không hề gì. Cha đã đến là đủ rồi.
- Vâng, cha đã đến. Cha muốn được yên tâm rằng con không phải trải qua điều gì phiền muộn. Cha linh cảm rằng sự hiện diện của cha sẽ giúp ích cho con. Cha muốn đích thân tìm hiểu sự việc. Ôi, Meggie, ba của con và Stuart làm sao thế? Chuyện gì đã xảy ra?
- Ba bị kẹt trong đám cháy. Chính Stuart tìm ra ba nhưng lại bị một con heo rừng húc chết sau khi anh ấy bắn trúng nó. Jack và bác Tom đã đi đưa thi hài của ba và Stuart về.
Cha Ralph im lặng, không biết làm gì khác hơn là giữ Meggie trong vòng tay mình, ru nhẹ nhàng như ru một đứa bé cho đến khi hơi ấm của ngọn lửa trong lò sưởi làm khô áo và tóc của ông. Bấy giờ ông cảm nhận cái thân thể mà ông đang ôm chặt vào lòng mình hình như bớt căng thẳng, duỗi dần ra trong tư thế thoải mái. Cha Ralph lấy tay đỡ cằm và nâng đầu Meggie lên buộc cô ta phải nhìn mình và không suy nghĩ gì cả, ôm hôn Meggie . Đó chỉ là một sự thôi thúc không rõ cội nguồn, hoàn toàn không xuất phát từ dục vọng, chỉ là một cử chỉ bản năng, một dâng hiến để đáp lại điều mà ông đã đọc thấy trong ánh mắt màu nâu của Meggie. Có điều gì đó rất đặc biệt như lần thứ hai ban phép thánh thể. Meggie luồn tay ra phía sau, bấu mạnh vào tấm lưng gân guốc của cha Ralph, khiến cho ông giật nẩy và kêu lên vì đau.
- Sao thế? Meggie vừa hỏi vừa dang người ra một chút.
- Hình như cha bị xây xát ở sườn khi máy bay đáp xuống, bùn ngập đến thân máy bay, thật hết sức nguy hiểm. Cha không bị hất tung nhờ va vào lưng dựa của ghế trước.
- Cha để con xem nào.
Những ngón tay nhanh nhẹn và dứt khoát của Meggie tháo nút và cởi áo của cha Ralph ra. Dưới làn da sạm nắng và ướt, một vết đỏ bầm kéo dài từ sườn này đến sườn bên kia. Meggie lo âu.
- Trời ơi, Ralph! Cha đã đi ngựa từ Gilly đến đây với vết thương như thế này sao? Chắc là cha đau lắm? Cha cảm thấy thế nào? Có bị chóng mặt không? Cha có thể bị xuất huyết bên trong.
- Không đâu. Cha không thấy gì lạ trong người. Cha nói thật mà. Cha quá lo làm sao đến đây sớm để giúp con tránh bớt buồn khổ do đám cháy gây ra nên cha quên đi cái đau của mình. Nếu cha bị xuất huyết bên trong thì ắt cha biết. Không có đâu Meggie à.
Meggie cúi đầu xuống, môi chạm nhẹ lên vết bầm đồng thời hai bàn tay đặt lên ngực Ralph, lượt nhẹ từ dưới lên trên, dừng lại mơn trớn ở hai vai với sự cố tình khêu gợi khiến cho Ralph bàng hoàng. Vừa bị quyến rũ, vừa sợ hãi, bằng mọi giá cha Ralph muốn thoát khỏi sự mơn trớn, ông quay người hướng khác, đẩy đầu của Meggie ra xa nhưng cuối cùng chỉ để rơi trọn vào vòng tay của Meggie, hai cánh tay ấy như những con rắn quấn chặt ý chí của cha Ralph, bóp chết mọi ý định kháng cự khi vừa mới chớm nở. Thế là quên cả đau đớn, quên cả Nhà thờ, quên luôn Chúa, Ralph tìm đôi môi của Meggie, sự háo hức làm cho đôi môi ấy hé mở, khát khao. Ralph ghì chặt Meggie vào lòng nhưng không làm sao xoa dịu được cơn rạo rực cứ dâng cao mãi. Meggie ngửa cổ ra, phơi trần hai bờ vai, da mát mịn; Ralph tưởng mình đã chìm nghỉm xuống, càng lúc càng sâu, nghẹt thở, bất lực.
Nhận thức về bản thân con người bình thường và tội lỗi của mình như đè nặng lên Ralph, một sức nặng có khả năng nghiền nát tâm hồn, làm vỡ tung những tình cảm bị ngăn chặn lâu ngày, cuốn phăng theo một ngọn triều không thể nào chống trả nổi. Ralph muốn được khóc; những gì còn lại của sự thèm muốn cạn đi dưới gánh nặng mà phận làm người đặt lên ông. Ông tháo gỡ hai tay của Meggie đang quấn chặt cái thân hình đáng thương hại của ông rồi ngồi xổm xuống, đầu cúi gục, tưởng như đã hết tâm trí nhìn ngắm hai bàn tay run rẩy của mình đặt trên đầu gối. Meggie ơi, em đã làm gì anh? Và em sẽ làm gì nữa nếu anh cứ để cho mọi chuyện xảy ra?
- Anh yêu em Meggie.Anh mãi mãi yêu em. Nhưng anh là linh mục, anh không thể... Anh không thể làm thế được chỉ vì như vậy mà thôi.
Meggie đứng phắt lên, sửa lại áo ngay ngắn, nhìn xuống cha Ralph, miêng cười gượng nhưng vẫn không che giấu được sự đau khổ. Ẩn trong đôi mắt là nỗi thất vọng.
- Ralph, thôi thế cũng được. Con đi xem bà Smith có chuẩn bị gì cho cha ăn không, rồi con sẽ mang đến cho cha dầu xoa bóp mà người ta dùng cho ngựa. Thứ này chữa các vết bầm thật tuyệt, nó sẽ làm cho cha hết đau nhức ngay, theo con nghĩ hiệu nghiệm hơn gấp mấy những nụ hôn.
- Điện thoại có dùng được không? Cuối cùng cha Ralph đã nói ra lời.
- Được. Một đường dây phụ đã được bắc trên các ngọn cây, mấy giờ qua ở đây đã liên lạc được với Gilly.
Dù sao, cha Ralph cũng cần ít phút để bình tâm và tự chủ sau khi Meggie rời khỏi phòng khách. ông đến ngồi trước bàn viết của Fiona.
- Xin vui lòng cho tôi đường dây liên tỉnh. Đây là linh mục Ralph de Bricassart ở Drogheda. Ồ! Allô, Doreen đó à; vẫn trung thành với công việc ở bưu điện. Ồ, tôi hiểu. Tôi rất vui khi nghe được tiếng nói của chị. Tôi không biết ai đang đảm trách tổng đài ở Sydney, tôi chỉ nghe một giọng nói lãnh đạm và buồn tẻ. Tôi muốn liên lạc gấp với Đức Khâm mạng giáo hoàng ở Sydney. Số của Ngài là 20 - 23 - 24. Trong khi chờ Sydney trả lời chị Doreen cho tôi nói chuyện với Bugela nhé.
Ralph vừa báo tin cho Martin King thì Sydney gọi. Nhưng chỉ vài lời với Bugela là đủ rồi. Cả Gilly sẽ hay tin qua Martin King, kể cả nhiều người khác, trên đường dây này thường thích nghe lén điện thoại. Như thế tất cả những ai không ngại bùn lầy đều sẽ có mặt trong đám tang.
- Allô, có phải Đức cha đó không? Linh mục Ralph đây, hiện con ở Drogheda. Ồ! Allô Doreen đừng cúp máy nhé... Vâng, cảm ơn, con đã đến đây bình yên, nhưng máy bay thì bị ngập bùn đến thân. Có lẽ con phải trở về bằng tàu hỏa... trong bùn. Thưa Đức cha, bùn... con nói bùn lầy. Không thưa Đức cha, ở đây không thể đi đâu được nếu mưa to... Từ Gillanbone đến Drogheda, con phải đi bằng ngựa, đó là phương tiện di chuyển duy nhất có thể sử dụng trong tình hình thời tiết này... Do đó mà con gọi điện cho Đức cha. Con rất vui mừng đã đến đây. Con đã có linh tính trước... Vâng, thật khủng khiếp. Vượt xa những điều con lo sợ. Padraic Cleary và con trai của ông là Stuart đều chết. Người cha bị chết trong đám cháy, người con thì bị một con heo rừng đè. Một con heo rừng thưa Đức cha... Con nói một con heo rừng... Vâng, Đức cha nhận xét đúng, ở đây người ta nói một thứ tiếng Anh rất lạ. Con xin phép Đức cha cho con được ở lại để dự đám tang và con cam đoan với Đức cha con sẽ lo lắng đầy đủ cho người vợ đáng thương và các con của bà. Vâng, thưa Đức cha, cảm ơn Đức cha. Con sẽ trở về Sydney ngay khi mọi việc xong xuôi.
Dĩ nhiên có nhân viên tổng đài cũng nghe được Ralph yêu cầu được nói chuyện với Bugela. ông trao đổi với Martin King trong ít phút và quyết định lễ mai táng sẽ được tổ chức vào ngày mốt.
Meggie quay trở lại với chai dầu xoa bóp trên tay nhưng không tỏ ý tự mình sẽ chăm sóc cho cha Ralph. Im lặng trao chai dầu cho ông, Meggie vắn tắt cho cha Ralph biết là khoảng một tiếng đồng hồ nữa, buổi ăn nóng sẽ được bà Smith dọn trong phòng ăn nhỏ, như thế cha Ralph có dư thời giờ để tắm rửa. Cha buồn bã nhận ra rằng hình như Meggie đã coi như mình bị cha lừa gạt; nhưng ông không hiểu được tại sao cô lại phản ứng như thế, và căn cứ vào đâu để kết tội ông như vậy. Meggie vẫn biết ông là linh mục; vậy tại sao có sự giận dỗi này?
Một buổi sáng tinh mơ ảm đạm, đoàn người đưa hai thi hài về đến bờ bên kia sông và dừng lại ở đó. Dù nước chưa tràn bờ, sông Gillan vẫn dâng cao và chảy xiết, sâu tới mười mét. Cha Ralph cho con ngựa hồng của mình lội qua bên kia bờ sông lầy lội để đón đoàn người. ông choàng sẵn khăn lễ và mang theo đẩy đủ những gì cần thiết của linh mục trong chiếc rúi trên lưng ngựa. Trong lúc Fiona, Bob, Jack, Hughie và Tom đứng xung quanh, cha Ralph mở tấm vải quấn hai thi hài và chuẩn bị làm lễ xức dầu. Sau lần chứng kiến cái chết của bà Mary Carson thì không có một cái chết nào khác có thể làm cho linh mục Ralph ghê tởm. Cả hai thi hài đều đen, Pađy vì bị chết thiêu, còn Stuart bị nghẹt thở, Ralph ôm hôn hai thi hài với tình cảm và sự kính trọng.
Trên đoạn đường dài 20 cây số, tấm tôm chở thi hài bị xóc lên xóc xuống phía sau hai con ngựa kéo cày xới trong bùn, in sâu những luống dài có thể nhiều nằm sau vẫn còn thấy. Nó như vết sẹo mà vào những mùa xuân tới dù cỏ đã mọc đầy lên đó vẫn không che lấp được.
Dòng nước chảy xiết buộc đoàn người dừng lại bên kia bờ mặc dù chỉ còn hai cây số nữa đến nhà.
- Con có một ý kiến, Bob quay qua nói với cha Ralph - Ở đây chỉ có con ngựa của cha còn khỏe, cha có thể cho ngựa lội trở qua suối, về nhà và tìm những chiếc thùng rỗng hai trăm lít, cha nhớ đóng kín nắp lại không cho nước vào. Nếu cần có thể hàn. Chúng ta cần khoảng mười, mười hai cái thùng là đủ. Cha cho cột lại và mang qua bờ bên này. Chúng ta sẽ dùng những thùng đó để chở tấm tôn và đẩy nó trở qua bờ như một cái bè.
Cha Ralph tán đồng mà không cần đặt câu hỏi nào khác, ông cũng không có ý kiến nào hay hơn. Dominic O'' Rourke cùng hai con trai tiếp tay cha Ralph thực hiện ý kiến của Bob, rồi chính cha Ralph và Dominic O'' Rourke kéo những chiếc thùng qua con suối.
Không có một cành hoa nào trên hai quan tài, và cũng không có một cành hoa nào trong những chiếc bình ở nhà nguyện của Drogheda. Những đóa hoa sống sót qua cơn nóng khủng khiếp của đám cháy đều bị vùi dập dưới cơn mưa, cánh của nó tan tác trong bùn như những con bướm bị mắc bẫy. Còn mọi người thì mệt mỏi, quá mệt mỏi. Những ai đã vượt qua một cuộc hành trình dài bằng ngựa trên con đường lầy lội để đến đây nghiêng mình lần cuối chào vĩnh biệt Pađy đêu mệt mỏi; những ai đã mang các thi hài về cũng mệt mỏi; đàn ông và đàn bà lo việc bếp núc và rửa dọn cũng mệt mỏi. Cha Ralph mệt đến đỗi tưởng như mình đi đứng trong giấc mơ, mắt ông đờ đẫn nhìn lần lượt gương mặt căng thẳng và tuyệt vọng của Fiona, gương mặt đau khổ và giận dữ của Meggie và nỗi đau xót của anh em Bob, Jack và Hughie lâu nay vốn thương yêu gắn bó với nhau.
Làm lễ xong, các khách từ xa lại lên ngựa ra đi, lưng rạp xuống được che bằng những tấm vải đầu; có người chỉ bàn với nhau về viễn ảnh phá sản có thể xảy đến, những người khác cảm ơn Chúa đã cứu họ thoát chết và tránh được đám cháy. Cha Ralph gom lại đồ đạc của mình, biết rất rõ là phải đi ngay trước khi không còn khả năng rứt ra khỏi nơi này.
Ông tìm gặp Fiona đang ngồi trước bàn viết, lặng im mắt nhìn hai bàn taỵ
- Bà Fiona có khỏe không? Cha Ralph hỏi rồi buông mình xuống chiếc ghế bành gần đó.
Bà quay lại nhìn cha Ralph, tan nát và chết cứng trong lòng khiến cha phải sợ và không dám nhìn thẳng.
- Vâng thưa cha, rồi đâu sẽ vào đó. Con phải lo việc sổ sách của trang trại và năm đứa con còn lại... sáu chứ kể cả Frank. Nhưng đúng là chúng ta không trông đợi gì ở Frank phải không cha? Con không thể nào nói ra hết sự biết ơn về những gì cha đã giúp trong chuyện này. Thật là một an ủi lớn cho con khi biết rằng cha đã theo dõi và lo lắng cho Frank, nhờ thế mà số phận của nó đỡ khổ phần nào. Trời ơi, con muốn gặp Frank quá, dù chỉ một lần thôi cha ạ.
Như một lửa hải đăng, cha Ralph nghĩ thầm. Fiona như một ngọn hải đăng chiếu ra những tia sáng khổ đau mỗi khi đầu óc của bà bị xúc động tột độ và dữ dội nhất.
- Bà Fiona, có một việc mà tôi muốn bà phải suy nghĩ.
- Vâng, chuyện gì thế thưa cha?
Rồi bà lại đi trong sự trống rỗng.
- Bà có nghe tôi nói không? Cha Ralph lo lắng hỏi lớn tiếng, lòng ông lo sợ hơn bao giờ hết.
Một lúc lâu, linh mục tưởng rằng bà đã thu mình lại đến mức giọng nói cứng rắn của ông cũng không làm bà sực tỉnh. Nhưng một lần nữa ngọn hải đăng lại phát ra một tia sáng, rồi đôi môi mấp máy:
- Tội nghiệp Pađy của tôi! Tội nghiệp Stuart của tôi! Tội nghiệp Frank của tôi! Bà nói như rên rỉ.
Rồi bà lại bình tĩnh, nép mình sau cái bề ngoài cứng rắn tưởng như không có điều gì có thể lay chuyển nổi.
Đôi mắt bà đảo quanh căn phòng mà không nhìn ra bất cứ thứ gì.
- Vâng, thưa cha, con đang nghe đây, bà nói.
- Này, Fiona, còn cô con gái của bà nữa chứ? Bà quên rằng bà có một đứa con gái sao?
Đôi mắt nâu nhìn lên về hướng cha Ralph một lúc, gần như thương hại.
- Làm sao một người đàn bà lại có thể quên con gái của mình? Nhưng một đứa con gái là gì? Chỉ là sự nhắc nhở của một niềm đau chịu đựng lâu dài, một hình bóng trẻ trung hơn của chính mình, sẽ lặp lại tất cả những hành động mà mình đã trải qua, rồi cũng sẽ khóc những giọt nước mắt mà mình đã khóc. Không thưa cha, con đã cố quên đi rằng con có một đứa con gái. Nếu con nhớ đến nó thì con sẽ coi nó cũng như một trong những đứa con trai của con. Người mẹ thường nhớ đến những đứa con trai.
- Bà đã khóc lần nào chưa, bà Fionạ Tôi chỉ thấy bà khóc chỉ mỗi một lần.
- Cha sẽ không bao giờ thấy như thế nữa, thưa cha. Nước mắt trong con đã cạn (toàn thân bà run lên) cha có biết không, cách đây hai ngày, con đã nhận ra rằng con yêu Pađy biết chừng nào, nhưng cũng như mọi chuyện trong đời con, nó đến quá muộn màng. Quá muộn cho anh ấy, quá muộn cho con. Cha có biết không, con rất muốn được ôm anh ấy trong đôi tay nói với anh ấy rằng "em yêu anh". Trời ơi! Con mong rằng không một ai sẽ phải chịu đựng nỗi đau đớn như thế này.
Cha Ralph quay mặt nơi khác để khỏi nhìn thấy vẻ đau thương ấy và để Fiona có thời gian lấy lại bình tĩnh, còn ông thì có thể hiểu sâu hơn một con người bí ẩn.
- Không, ông nói, không người nào có thể trải qua và cảm nhận được nỗi đau của bà, mỗi người có một nỗi đau riêng.
Fiona nhếch miệng cười buồn bã.
- Vâng, đó cũng là một an ủi, phải không thưa cha? Nỗi đau đớn không phải là điều nên ước ao nhưng dù sao nỗi đau đớn ấy cũng là của riêng con.
- Tôi mong bà hứa với tôi một điều, bà Fiona.
- Con sẽ nghe lời cha.
- Bà hãy chăm sóc Meggia. Đừng quên điều đó. Hãy buộc Meggie tham dự các buổi khiêu vũ trong vùng; gặp gỡ các chàng trai trẻ, thúc đẩy Meggie nghĩ đến chuyện lấy chồng, xây dựng riêng một tổ ấm. Tôi nhận thấy tất cả những thanh niên con của các trại chủ quanh vùng này đến đây dự đám tang đều say đắm nhìn Meggie. Nên tạo thêm cơ hội cho Meggie gặp các thanh niên ấy trong một hoàn cảnh ít nặng nề hơn.
- Xin theo ý cha.
Linh mục Ralph thở dài rồi bước ra, một mình Fiona vẫn ngồi yên nhìn hai bàn tay gầy guộc và trắng xanh nhưng hình như bà chẳng thấy gì cả.
Meggie tiễn cha Ralph ra đến chuồng ngựa, nơi đây con ngựa thiến của ông chủ khách sạn Imperial cho mượn đang ăn cỏ khô với lúa mạch. Cha Ralph quẳng chiếc yên cũ lên lưng con vật và cúi xuống siết chặt lại đai bụng ngựa, trong khi Meggie đứng dựa vào một bao cỏ khô theo dõi cha.
- Cha nhìn xem, con vừa tìm được cái gì nè, vừa nói Meggie vừa trao cho Ralph một bông hồng màu tro nhạt đúng lúc cha Ralph thẳng đứng lên. Đây là bông hồng duy nhất con đã tìm thấy trong một bụi cây, dưới những hồ chứa nước sau nhà. Nó đã sống sót qua cơn nóng của đám cháy và được che chở không bị vùi dập dưới cơn mưa. Con đã hái hoa này tặng cha, hãy giữ như một kỷ niệm về con.
Ông cầm lấy bông hồng vừa hé nở tay run run thiếu tự tin và nhìn cành hoa.
- Meggie, ta không cần vật kỷ niệm của con, bây giờ và mãi mãi về sau này. Ta mang trong ta con người trọn vẹn của con, chính con thừa biết điều đó. Ta không thể giấu diếm tình cảm ấy được, phải không Meggie?
- Nhưng đôi khi cũng cần có một thực tế kỷ niệm để có thể sờ mó nó - Meggie quyết bảo vệ ý kiến của mình. Người ta có thể nhìn ngắm và nhớ lại những gì có thể quên đi nếu kỷ niệm đó không ở trước mặt. Con van cha, hãy cầm lấy...
- Meggie hãy gọi ta bằng tên, Ralph - ông nói.
Ông cúi xuống mở chiếc vali nhỏ, trong đó đựng các thứ cần thiết để làm lễ và lấy ra cuốn kinh thánh có bìa khảm xà cừ đắt tiền, một vật sở hữu của ông. Thân sinh đã mất của Ralph đã tặng cho ông cuốn sách này ngày ông được thụ phong linh mục cách đây mười ba năm. Ông mở cuốn kinh thánh, nơi đước đánh dấu bằng một rubăng màu trắng rộng khổ, lật qua vài trang, đặt chiếc bông hồng trong đó và đóng sách lại.
- Có phải Meggie muốn ta để lại cho con một kỷ niệm phải không? Đúng như thế chứ?
- Vâng.
- Ta sẽ không để lại cho Meggie điều gì cả. Ta muốn Meggie hãy nhìn quanh và chọn cho mình một chàng trai nhân hậu, đàng hoàng, để sau này trở thành chồng của con, rồi sinh con cái, điều mà Meggie rất tha thiết. Meggie sinh ra để làm mẹ, chẳng phải đó là mơ ước của con sao? Ta không thể từ bỏ Nhà thờ vì ta đã không thể yêu con như một người chồng, vì ta đã... Meggie có hiểu ta không? Quên ta đi, Meggie ạ!
- Thế cha không hôn con trước khi cha giã từ sao?
Thay cho câu trả lời, Ralph leo lên ngựa đi thẳng ra cửa trước khi đặt lên đầu chiếc nón phớt cũ kỹ mà người chủ ngựa cũng đã cho mượn. Trong một thoáng, đôi mắt xanh của Ralph loé sáng lên; dưới cơn mưa, con ngựa bước trầy trật trên con đường bùn lầy dẫn đến Gilly. Meggie không biết làm gì hơn là nhìn theo nhưng vẫn đứng đó trong bóng tối của chuồng ngựa ẩm ướt. Mùi phân ngựa và cỏ khô làm Meggie nhớ lại cái nhà kho ở Tân Tây Lan và Frank.
Chương 18
Ba mươi tiếng đồng hồ sau khi rời Drogheda, cha Ralph đã có mặt trong phòng của Đức Khâm mạng. Ông đi ngang qua căn phòng rộng lớn, đến hôn chiếc nhẫn người cha linh hồn của mình, rồi buông mình xuống ghế bành một cách mệt mỏi. Chỉ khi cảm thấy đôi mắt đẹp và thông suốt đang nhìn thẳng vào mình, cha Ralph mới nhận ra cách ăn mặc không bình thường của ông, và hiểu ra tại sao có nhiều người đã nhìn mình chăm chăm từ khi ông mới bước xuống nhà ga Trung ương. Bỏ quên chiếc vali gởi ở nhà xứ Gilly, cha Ralph nhảy lên tàu hỏa chuyến tốc hành chỉ trước giờ chạy hai phút. Ông đã trải qua một ngàn cây số trên toa tàu lạnh giá mà chỉ mặc một chiếc áo sơ mi, quần cỡi ngựa và giày bốt, tất cả ướt đẫm mà không hay biết. Cha Ralph nhìn lại quần áo của mình, cười buồn rồi nhìn về hướng Tổng giám mục.
- Xin Đức cha tha lỗi. Có quá nhiều biến cố xảy ra đến nỗi con quên mất cách ăn mặc dị hợm của mình.
- Con khỏi phải xin lỗi, Ralph (khác hơn người tiền nhiệm, ông thích gọi thư ký riêng của mình bằng tên). Trông con có vẻ rất lãng mạng, đỏm dáng nữa là khác, dù con có vẻ mệt mỏi. Tuy nhiên, như thế có phần nào thế tục hơn phải không?
- Về phương diện tục thế, con hoàn toàn đồng ý. Nhưng về phương diện lãng mạn và đỏm dáng, thưa Đức cha, có lẽ vì Đức cha chưa bao giờ thấy cách ăn mặc thông thường của con ở Gillanbone.
- Ralph rất thân mến của ta, dù cho con nảy ra ý định dùng bao đựng than để làm quần áo mặc, con cũng sẽ không mất đi chút nào vẻ lãng mạn và đỏm dáng! Bộ quần áo cỡi ngựa rất hợp với con, đúng là rất hợp. Cũng như với chiếc áo dòng, con đừng bận tâm để chứng minh rằng con không thấy bộ quần áo đó hợp với con hơn là bộ đồ vét đen. Con có một dáng đi rất lạ và đặc biệt thu hút. Con giữ được một thân hình cường tráng. Cha tin rằng con sẽ giữ được như thế mãi mãi. Cha cũng nghĩ rằng, khi cha được gọi về La Mã, cha sẽ mang con theo. Cha rất tò mò xem coi con sẽ gây ấn tượng ra sao với các giáo sĩ người àbụng to và chân ngắn ngủn. Đúng là một con mèo thon thả đẹp giữa những con bồ câu mập và ngơ ngác.
La Mã! Cha Ralph giật nẩy người.
- Chuyện xảy ra có đau đớn không, Ralph? Tổng giám mục vừa hỏi vừa đưa bàn tay đeo nhẫn vuốt ve chiếc lưng mượt mà của con mèo Abyssinian dang nằm kêu gừ gừ trên đầu gối của ông.
- Khủng khiếp lắm thưa Đức cha.
- Con dành rất nhiều tình cảm cho gia đình đó?
- Thưa vâng.
- Con có yêu thương mọi người trong gia đình ấy như nhau hay với một số người, con yêu nhiều hơn những người khác?
Nhưng cha Ralph cũng quỷ quyệt không kém bề trên của mình. Thời gian phục vụ khá lâu dưới quyền ông đủ để cho cha Ralph hiểu thấu cách suy nghĩ của Tổng giám mục. Cha Ralph phá vỡ cái bẫy giăng ra bằng một thái độ thẳng thắn giả tạo, nhưng đủ sức làm tiêu tan mọi nghi ngờ ở Tổng giám mục. Đầu óc tinh tế và lắt léo ấy lại không nghĩ ra rằng một sự thẳng thắn bề ngoài nó dối trá gấp mấy lần so với sự chối quanh né tránh.
- Con yêu thương mọi thành viên trong gia đình đó nhưng như Đức cha đã nói, với một số người, con có yêu thương nhiều hơn. Chẳng hạn Meggie, cô con gái mà con yêu thương nhất. Con luôn cảm thấy có trách nhiệm riêng với cô con gái vì gia đình gồm toàn con trai và quên đi sự có mặt của đứa con gái.
- Cô gái Meggie đó bao nhiêu tuổi?
- Con không biết chính xác. Ồ! Có lẽ khoảng hai mươi tuổi, hình như thế. Nhưng con có yêu cầu bà mẹ hứa sẽ bớt đi công việc sổ sách kết toán để con gái của bà có điều kiện tham dự vào những cuộc khiêu vũ trong vùng, có cơ hội gặp nhiều chàng trai cùng lứa tuổi. Nếu không cuộc đời cô ta sẽ hỏng mất vì bị giam hãm ở Drogheda như thế quả là tai hại.
Cha Ralph chỉ nói toàn sự thật. Với sự tinh ý nhạy bén đặc biết, Tổng giám mục nhận ra ngay, mặc dù ông chỉ hơn người thư ký riêng của mình ba tuổi. Con đường công danh của ông ở tòa thánh không phải chịu những thăng trầm như linh mục Ralph, nhưng dưới nhiều góc cạnh, ông cảm thấy mình già hơn gấp bội người dưới quyền. Cha Ralph sẽ không bao giờ già như thế. Vatican đã hủy hoại quá sớm sức sống ở người mà tòa thánh đã chiếm hữu, còn Ralph thì vẫn còn tràn trề sinh lực.
Bớt đi phần nào sự cảnh giác, Tổng giám mục vẫn tiếp tục quan sát người thư ký riêng của mình và trở lại cuộc chơi hấp dẫn để bằng mọi cách tìm cho ra chính xác động cơ ở Ralph là gì. Lúc đầu, Tổng giám mục tin chắc rằng ở con người này có sự yếu đuối về xác thịt, bằng cách này hay cách khác. Cái đẹp lạ lùng ở gương mặt, kể cả thân hình chắc chắn gợi lên biết bao thèm muốn, đến đỗi cha Ralph không thể nào không biết đến. Nhưng với thời gian, Đức cha dã thấy ra rằng cảm tưởng ban đầu của mình chỉ đúng một nửa: đúng là cha Ralph cũng cảm nhận được sức quyến rũ của mình nhưng điều đó gắn liền với sự hồn nhiên không thể chối cãi. Dù ngọn lửa đang cháy bỏng trong con người cha Ralph là gì đi nữa, thì điều chắc chắn, đó không phải là vấn đề xác thịt. Tổng giám mục đã sắp xếp cho linh mục Ralph gần gũi với những người đồng tình luyến ái cao tay, biết cách thu hút những ai có chút khuynh hướng đồi bại này nhưng kết cuộc chẳng có kết quả nào. Ngài cũng theo dõi linh mục Ralph khi ông ở bên cạnh những người phụ nữ đẹp nhất nước nhưng cũng chẳng có kết quả. Một thoáng chú ý cũng không có, sự thèm muốn trong ánh mắt cũng không dù cho ông không hay biết mình được chú ý. Vâng, Tổng giám mục cũng có lúc dùng những người dưới tay để theo dõi và báo cáo lại một cách trung thực. Thế là Đức cha bắt đầu tin rằng chỗ yếu của linh mục Ralph nằm trong sự tự kiêu mình là linh mục và trong chính tham vọng của ông, đó là hai mặt của một nhân cách mà thật ra không xa lạ đối với Đức cha vì chính trong bản thân ngài cũng tìm thấy những mặt ấy. Nhà thờ không thiếu địa vị dành cho những kẻ tham vọng và cũng như những định chế có tầm cỡ, nó luôn luôn dựa vào những con người trung kiên và tham vọng như thế để trường tồn. Dư luận ngoài đời đồn rằng linh mục Ralph đã sang đoạt tài sản mà gia đình Cleary đáng lẽ được thừa kế; mỉa mai thay đó lại là gia đình mà linh mục nói với mọi người rằng mình yêu thương. Cứ cho đó là sự thật thì càng phải sử dụng linh mục Ralph. Đôi mắt xanh đẹp tuyệt ấy đã sáng lên làm sao khi nghe nhắc tới La Mã! Có lẽ đã đến lúc thử một bước đi chiến lược mới. Tổng giám mục làm ra vẻ lơ đễnh đi một nước cờ trong cuộc đối thoại với linh mục Ralph, nhưng thật ra dưới đôi mi nửa khép nửa mở, ông vẫn quan sát rất chăm chú:
- Cha đã nhận được tin tức từ Vatican trong khi con đi vắng, Ralph ạ. Tổng giám mục vừa nói vừa đặt nhẹ con mèo qua một bên. Sheba bé nhỏ của ta, con ích kỷ quá. Con làm cho hai chân ta tê cứng.
- Chuyện gì thế thưa Đức cha? Linh mục Ralph ngả người vào ghế bành để nhìn rõ hơn Tổng giám mục, đồng thời ông cố giữ cho hai mí mắt không sụp xuống vì quá mệt mỏi sau một cuộc hành trình dài.
- Vâng, con có thể đi ngủ nhưng trước đó con cần nghe những tin tức này đã. Cách đây không lâu, cha có gởi một mật thư riêng cho Đức Thánh cha và ngay sáng hôm nay, cha đã nhận được trả lời của Ngài qua người đại diện là Đức Hồng Y Monteverdi, một người bạn của cha. Cha vẫn tự hỏi phải chăng Monteverdi thuộc dòng dõi nhà soạn nhạc thời Phục Hưng. Không hiểu sao, cha cứ quên mãi không hỏi điều đó khi gặp Ngài. Ồ! Sheba, tại sao con cứ đưa vuốt ra mỗi khi con cảm thấy ưa thích?
- Con đang nghe đây thưa Đức cha. Con chưa buồn ngủ đâu, cha Ralph cười nói. Đức cha yêu mèo là điều không có gì ngạc nhiên. Đức cha không khác con mèo, thích kéo dài sự vui sướng khi vờn con mồi. Sheba xinh đẹp hãy lại đây, đừng theo con người ác độc ấy, hãy lại đây với ta.
Con mèo cái lập tức rời khỏi bộ áo tím của Tổng giám mục và nhảy lên đùi linh mục, nó nằm rạp người xuống, đuôi ngoe nguẩy, vừa hít mạnh để đánh hơi, có vẻ như thích mùi ngựa và mùi bùn trên người của linh mục Ralph.
Đôi mắt xanh lanh lợi của cha Ralph nhìn thẳng vào mắt Tổng giám mục; hai mí mắt nửa nhắm nửa mở, cả hai đều rất tỉnh táo.
- Làm thế nào mà cha lập được thành tích như thế? Tổng giám mục hỏi. Sheba chẳng bao giờ tuân theo lời của bất cứ ai, thế mà nó chạy ngay lại cha như thể được mời ăn trứng cá caviar hay một thứ cao lương mỹ vị nào đó. Đồ bội bạc!
- Con vẫn chờ nghe Đức cha nói tiếp.
- Có phải bực bội vì bị chờ đợi nên con đã trả thù bằng cách đoạt con mèo cái của cha? Thôi, con đã thắng cuộc, xin thua. Mà này, có bao giờ con nếm mùi thất bại chưa? Một câu hỏi thú vị đấy, Ralph thân mến. Còn bây giờ cha xin có lời chúc mừng. Kể từ nay con phải đội mũ lễ, mặc áo choàng lễ và người ta phải gọi con bằng Đức cha, giám mục De Bricassart.
Tổng giám mục thích thú nhìn đôi mắt của Ralph mở ra thật lớn. Lần đầu tiên, linh mục Ralph không tìm cách giả vờ hay che dấu những tình cảm thật của mình. ông ta rạng rỡ lên một cách tự nhiên.
Title: Re: Tiếng chim hót trong bụi mận gai - Colleen McCullough. Bestseller năm 1977
Post by: Serenade24 on 03/05/07, 09:24
Post by: Serenade24 on 03/05/07, 09:24
Chương 19
Đất đỏ nhanh chóng tìm lại sức sống một cách kinh ngạc. Chỉ trong một tuần, những mầm xanh nhú lên xuyên qua lớp bùn nhầy nhụa và trong hai tháng, những chiếc lá non đã xuất hiện trên các cành cây bị cháy đen. Con người đã chứng tỏ được sự chịu đựng và sức quật khởi của mình. Ai thiếu kiên nhẫn sẽ không thể ở lại trên vùng đất tây bắc bao la này. Nhưng phải chờ nhiều năm, các vết thương do đám cháy kinh khủng gây ra mới xóa hết.
Drogheda mất ít nhất một phần năm đất khai thác, thiệt hại hai mươi lăm ngàn con cừu. Thật ra đây là một thiệt hại chẳng là bao vì vào những năm thuận lợi, đàn cừu lên đến khoảng một trăm hai mươi lăm ngàn con. Tuy nhiên khi nhìn các khu vườn của Drogheda, vào mùa xuân vẫn trơ trọi và cháy đen, lòng ai cũng đau nhói. Dân chúng ở đây có thể sống sót trong cơn hạn hán nhờ những bồn chứa nước của Michael Carson nhưng ngược lại không có thứ gì để đối đầu với lửa. Dây đậu tía không làm sao nở hoa. Những cây hoa hồng bị còi chỉ còn lại những gai và gai, hoa pensé cũng chết, các loại cây nhỏ khác thì không khác những cọng rơm vàng úa; ở những nơi có bóng mát, các cây vẫn rạp mình xuống một cách thảm hại, không còn hy vọng hồi sinh.
Bob quyết định noi theo con đường của cha, tăng cường thêm lực lượng để trang trại đạt được hiệu quả cao nhất, do đó anh thu nhận thêm ba người chuyên về chăn nuôi. Bà Mary Carson khi còn sống không chịu ghi vào sổ lương danh sách những công nhân làm vài ngày mà chỉ ghi tên các thanh niên của gia đình Cleary; còn vào những lúc bận rộn cừu đẻ và cắt lông, bà chỉ dùng công nhân tạm thời, nhưng Pađy, cha của Bob, thì suy nghĩ và làm khác, ông nghĩ rằng nếu những người làm công có thể đặt tin tưởng và một nơi chốn nhất định để lập nghiệp, họ sẽ làm việc tốt hơn. Nhưng cuối cùng, kết quả không khác nhau bao nhiêu. Phần đông những người chăn nuôi mướn mắc cái bệnh không thể ở yên một chỗ.
Fiona thay chồng đảm trách việc quan hệ thư từ với Đức cha Ralph, và trung thành với tính tình của mình, bà không bao giờ tiết lộ với bất cứ ai nội dung thư từ, ngoại trừ duy nhất vấn đề quản lý trang trại. Meggie rất thèm muốn đoạt lấy những thư ấy và đọc cho đỡ nhớ nhung nhưng Fiona không để cho con gái mình có những cơ hội như thế. Bà bỏ tất cả thư vào một tủ sắt nhỏ ngay khi con gái bà hay tin có thư mới đến. Sau khi Đức cha Ralph rời khỏi Drogheda, bà Fiona quên ngay lời hứa của mình với linh mục. Trong vài lần được mời dự khiêu vũ và tiếp tân, Meggie đều từ chối. Được biết việc này, Fiona vẫn giữ nguyên thái độ xưa kia, không hề thúc đẩy con gái chấm dứt cuộc sống đơn độc và buồn tẻ.
Liam O'' Rourke lợi dụng mọi cơ hội để tạt ngang qua Drogheda bằng xe hơi. Enoche Davie điện thoại thường xuyên, Conner Carmichael và Alastair Mac Queen cũng thế. Nhưng đối với mỗi người, Meggie đều tỏ ra xa lạ, khô khan, đến đỗi tất cả đều thấy mình hoàn toàn không hy vọng.
Chương 20
Chuông điện thoại reo lên, hai tiếng dài một tiếng ngắn, tín hiệu dành riêng cho Drogheda, Fiona nhắc ống nghe và quay lại.
- Điện thoại của Bob.
- Allô... à! Jimmy đó phải không... Vâng, Bob đây... Vâng đồng ý. Thế thì hay lắm. Có giấy chứng nhận tốt không? Cứ gởi hắn đến đây... Nếu đúng là anh ta giỏi như thế, bạn có thể nói thẳng với hắn rằng đã có một chỗ làm dành sẵn ở đây. Tôi không tin lắm ở những tờ giấy chứng nhận... Thôi nhé. Cảm ơn. Chào.
Bob trở lại ghế ngồi.
- Chuyện liên quan đến một anh thợ chăn nuôi, một anh chàng khá lắm theo con nhận xét của Jimmy. Anh ta đã từng làm việc ở đồng bằng Queensland phía tây gần Longreach và Charleville. Anh ta chăn bò cũng rất giỏi. Đây là một tay cưỡi ngựa xuất sắc, có tài luyện ngựa. Trước kia anh ta là thợ cắt lông cừu, cũng là một tay cự phách trong nghề này theo lời Jimmy. Hai trăm năm chục con trong một ngày! Con chỉ hơi ngạc nhiên tại sao một nhà vô địch như thế lại bằng lòng với đồng lương của một người chăn cừu? Rất hiếm trường hợp một tay cắt lông cừu giỏi như thế lại bỏ tông đơ để ngồi lên mình ngựa. Dù thế nào thì đó là một anh chàng mà ta đang cần ở các bãi chăn, phải không mẹ?
Với năm tháng, giọng nói của Bob kéo dài ra như giọng đặc biệt của người Úc nhưng ngược lại anh nói từng câu rất ngắn. Anh sắp sửa bước vào cái tuổi ba mươi nhưng hình như không có khả năng chinh phục các cô gái mà anh được gặp trong các cuộc tiếp tân rất hiếm được tổ chức. Một mặt anh rất nhút nhát, một mặt khác anh không thích chú ý gì hơn là đất đai và chăn nuôi. Jack và Hughie càng ngày càng giống anh mình. Cả ba cũng thích nằm trên sàn, sợ rằng nằm trên giường sẽ làm cho họ mềm yếu đi.
- Anh thợ mới mà con nói đã có gia đình chưa? Fiona hỏi nhưng vẫn tiếp tục công việc sổ sách của mình.
- Con không biết. Con quên hỏi. Ngày mai mình sẽ biết ngay khi anh ta đến đây.
- Hắn đến đây bằng cách nào?
- Jimmy đưa anh ta đến bằng xe hơi. Anh ta muốn nhìn qua các con cừu già ở Tankstand.
- Mong rằng hắn sẽ ở lại đây một thời gian. Nếu hắn chưa có vợ, mẹ đoán hắn sẽ lại ra đi trong vài tuần - Fiona nói - Những anh làm công kiểu đó không ở lại lâu đâu.
Jims và Patsy đang theo học nội trú tại Riverview nhưng nhất quyết sẽ không ở lại trường thêm một ngày nào nữa khi cả hai được mười bốn tuổi. Cả hai náo nức chờ cái ngày được đi theo Bob, Jack và Hughie ở ngoài bãi chăn.
Nhiều tuần đã trôi qua khi lần đầu Meggie chạm mặt với tay thợ chăn nuôi mới đến làm. Tên anh ta là Luke O'' Neill. Anh thường đến ngôi nhà lớn trò chuyện. Luke từ chối không ngủ trong lán trại dành cho những người độc thân, anh chọn căn nhà nhỏ trống còn lại bên suối để ở. Ngay khi vừa được giới thiệu với bà Smith, Luke đã giành được cảm tình của bà quản gia rất ít khi chú ý đến hạng người ở thuê làm mướn. Con người mới đến này gây nhiều tò mò cho Meggie trước khi nàng gặp mặt trực tiếp.
Con ngựa hồng và con ngựa cái của Meggie được nhốt trong chuồng chứ không thả ngoài bãi quay ngựa nữa. Do đó Meggie thường bắt đầu ngày làm việc của mình trễ hơn nhóm đàn ông vì vậy có khi trong nhiều tuần lễ liền Meggie không chạm mắt mấy người thợ. Nhưng cuối cùng thì nàng chạm mặt với Luke vào một buổi xế chiều mùa hè, lúc mặt trời đã xuống thấp làm đỏ rực các hàng cây, kéo dài thườn thượt những cái bóng, trước khi lùi dần vào sự quên lãng của màn đêm. Meggie từ Borehead trở về và đi ngược chầm chậm đến chỗ băng qua con suối, cùng lúc đó Luke từ hướng đông nam về cũng đi đến.
Ánh mặt trời chiếu thẳng vào mắt Luke, nàng nhìn thấy anh ta trước khi anh ta thấy nàng. Luke cỡi một con ngựa hồng cao lớn, hung dữ, bờm và đuôi màu đen. Khác hơn các đồng nghiệp của mình, Luke mặc áo sơ mi trắng và quần màu nhạt. Lịch sự làm sao! Meggie nói thầm. Như thế cũng tốt nếu anh ta không sợ mất công giặt ủi.
- Chào bà chủ! Anh ta nói lớn khi ngựa tiến lên ngang với nàng. Anh ta chào Meggie bằng cách giở mũ ra rồi để trở xuống hơi ngửa ra phía sau. Đôi mắt xanh có vẻ không coi ai ra gì, nhìn nàng không giấu giếm sự ngưỡng mộ
- Xin lỗi, cô chắc chắn không phải là bà chủ, có lẽ con gái của bà. Anh ta nhận xét. Tôi tên là Luke O'' Neill.
Meggie ấp úng vài tiếng gì đó không rõ, né tránh không nhìn thẳng anh ta, lòng bối rối và cử chỉ thiếu tự nhiên, không làm sao tìm ra một câu chào hỏi thông thường thích hợp cho hoàn cảnh.
Ồ, thật là phi lý? Tại sao lại có một con ngựa liều lĩnh có đôi mắt và nét mặt giống linh mục Ralph đến thế. Cái giống ấy không ẩn chứa trong cách nhìn Meggie; sự vui tính thấy rõ trong bản chất con người của anh ta và cái nhìn ấy không hề để lộ một tình yêu cháy bỏng dành cho nàng. Ngược lại ngay ở cái giây phút đầu nàng gặp cha Ralph, cô bé Meggie đã bắt gặp tình yêu trong đôi mắt của linh mục. Làm thế nào nhìn Luke mà không thấy đôi mắt của Ralph và tránh được không nhớ đến Ralph. Một trò đùa ác độc, một sự trừng phạt.
Hoàn toàn không ý thức về những suy nghĩ mà anh đã gợi lên trong đầu của Meggie, Luke giữ cho con ngựa hồng khó dạy của mình ngang với con ngựa cái bình thản của Meggie, cả hai đang băng qua suối, nước chảy rất dữ sau những trận mưa lớn. Không thể nghi ngờ, Meggie đã trở thành một thiếu nữ tuyệt đẹp. Mái tóc của nàng cũng đẹp làm sao! Phải chi nàng chịu ngước mặt lên cho anh ta có thể ngắm trọn vẹn gương mặt!
Nhưng đúng cái lúc Meggie quyết định làm điều đó thì sự biểu lộ trên gương mặt đã buộc Luke phải nhíu mày lại vì sửng sốt. Không hẳn Meggie đã nhìn Luke như có hận thù nhưng cái nhìn ấy như muốn tìm kiếm điều gì đó còn tiềm ẩn hoặc là một nét nào đó mà Meggie không muốn bắt gặp ở Ralph. Meggie bối rối, còn Luke thì chưa quen bị phụ nữ nhìn soi mói trong thế bị động. Mái tóc màu vàng hơi hung của Meggie sáng rực dưới màu trời đỏ ửng của hoàng hôn cùng đôi mắt nâu như một cái bẫy chực chờ Luke tự ý lao vào.
Anh theo dõi thích thú với phản ứng bực dọc và thất vọng của Meggie. Rồi anh bình tĩnh tiếp tục quan sát: cái miệng như đóa hoa hé nở, những hạt mồ hôi động lại ở môi như những hạt sương mai, trên trán cũng có những giọt mồ hôi như thế vì trời nóng, lông nheo cong lên vì ngạc nhiên.
Nụ cười của Luke để lộ những chiếc răng to khỏe của linh mục Ralph; nhưng nụ cười ấy lại không phải cha Ralph.
- Cô có biết không, cô có một cái nhìn ngơ ngác hồn nhiên của một đứa trẻ. Miệng tròn như chữ O và cả chữ A.
- Tôi xin lỗi ông - Meggie nói mắt nhìn nơi khác. Tôi không cố tình soi mói ông. Ông làm cho tôi nhớ đến một người, có thế thôi.
- Cô nhìn tôi tùy thích. Còn hơn là tôi chỉ được nhìn cái đỉnh đầu của cô dù cho nó đẹp đến đâu. Tôi gợi cho cô nhớ đến ai?
- Điều đó không quan trọng. Tuy nhiên thật là quái lạ khi nhìn gặp một người lần đầu tiên lại cảm thấy rất quen thuộc... Nhưng thật ra lại rất khác với người đó.
- Cô tên gì, cô bé gái Cleary?
- Meggie.
- Meggie... Một cái tên không phù hợp với cô chút nào. Tôi thích cô mang tên Belinda hay Madeline hơn, nhưng nếu Meggie đúng là cái tên không thể nào khác hơn nữa của cô thì đành bằng lòng với Meggie vậy. Tên gọi thân mật là gì?...
- Không, Meghann.
- Ừ, nghe thích hơn! Vậy tôi gọi cô là Meghann.
- Không, không có chuyện đó được! Meggie phản ứng lại. Tôi rất ghét cái tên ấy.
Luke cười:
- Cô được nuông chiều quá và quen được mọi người thỏa mãn các ý thích bất thường, cô bé Meggie ạ. Nhưng với tôi, nếu tôi thích gọi cô là Eustacia Sophronia Augusta thì không ai có thể cấm cản tôi, cô có biết không?
Cả hai vừa đến bãi thả ngựa. Luke buông ngựa xuống đất nhẹ nhàng, đưa tay đấm nhẹ vào đầu con ngựa đang nhe răng muốn cắn anh ta, con vật quay đi chỗ khác, ngoan ngoãn. Đứng dưới đất, anh ta đưa tay ra chờ để đỡ Meggie xuống. Nhưng không, Meggie thúc chân vào bụng con vật rồi đi thẳng đến chuồng.
- Con ngựa hồng khó tính này không thể chung chạ với những con ngựa tầm thường. Meggie nói thật lớn và không thèm quay lại.
Ồ, sao lại phi lý thế! Dù đứng thẳng người trên hai chân, hắn cũng giống linh mục Ralph; cũng cao lớn, vai rộng, hông thon, nhưng cái đẹp tỏa ra có phần khác. Linh mục Ralph di chuyển như một vũ công, Luke lại như lực sĩ. Nhưng cả hai đều có cặp mắt xanh như nhau, mũi cũng thanh và thẳng, đường nét của miệng được vẽ rất tuyệt. Có lẽ anh ta không giống linh mục Ralph như cây bạch đàn màu xám, thật cao và tuyệt đẹp với cây bạch đàn màu xanh, cũng cao như thế, và cũng đẹp như thế.
Sau cuộc gặp gỡ tình cờ đó, Meggie nghe ngóng dư luận về những lời bình phẩm liên quan tới Luke. Bob và các anh trai đều hài lòng về công việc của Luke và tỏ ra ăn ý với anh ta. Ngay cả Fiona cũng đề cập đến tên của Luke trong một buổi tối trò chuyện, nhận xét rằng anh ta là một thanh niên đẹp trai.
- Mẹ có thấy anh ấy giống ai không? Meggie đang nằm dài trên thảm đọc sách hỏi bằng một giọng rất tự nhiên.
Fiona suy nghĩ một lúc.
- Đúng rồi, mẹ thấy anh ta hao giống linh mục De Bricassart. Cũng thân hình ấy, nước da ấy... Nhưng không giống nhiều lắm. Hai người rất khác nhau về tính cách đàn ông. Meggie, mẹ muốn con ngồi trên ghế như một thiếu nữ khi đọc sách. Không phải vì mặc quần cỡi ngựa mà con tự cho phép xử sự như một thằng con trai phóng túng.
- Có sao đâu - Meggie cãi lại mẹ. Làm như có ai đó theo dõi con.
Xuống bếp, Meggie mới khám phá ra sở dĩ Luke dám ăn mặc sang trọng với chiếc sơ mi và quần màu sáng là vì anh ta đã chinh phục bà Smith. Chính bà là người giặt ủi quần áo cho Luke.
Một tuần sau gặp lại Luke gần con suối, Meggie nghĩ rằng Luke đã cố tình chờ mình ở đó, nhưng hoàn toàn không định ra được thái độ nào nếu điều nàng nghi ngờ ấy là đúng.
- Chào Meghann.
- Chào anh, Meggie đáp lại, mắt nhìn thẳng hai tai của con ngựa hồng.
- Có một cuộc khiêu vũ ở trại cắt lông cừu Braich thứ bảy tuần tới. Cô có thích chúng ta cùng đi?
- Cảm ơn anh đã mời tôi, nhưng rất tiếc tôi không biết nhảy. Do đó tôi không tham dự.
- Tôi sẽ tập cho cô một vài động tác là xong, đó không phải là một trở ngại. Nhờ tôi đưa cô em gái của ông chủ đi khiêu vũ, Bob sẽ cho tôi mượn chiếc xe Rolls già nua và biết đâu đưa mượn cả chiếc ôtô mới?
- Tôi đã nói với anh là tôi không đi! Meggie đáp lại hàm răng cắn chặt.
- Cô nói với tôi là cô không biết nhảy và tôi đã trả lời với cô là tôi sẽ dạy cho cô. Cô không hề nói năng rằng cô không đi với tôi nếu cô biết nhảy, điều đó cho phép tôi nghĩ rằng chính không biết nhảy là một cản trở chớ không phải cá nhân tôi. Hay cô chỉ muốn đến đó trình diễn?
Bực bội, Meggie nhìn Luke bằng ánh mắt dữ tợn nhưng Luke vẫn bình thản cười lớn tiếng:
- Cô được nuông chiều hư hỏng, bé Meghann. Đã đến lúc mọi người xung quanh không nên chiều theo tính khí bất thường của cộ
- Tôi không thuộc loại con cưng.
- Cô hãy xem lại. Cô con gái duy nhất giữa các anh trai, người nào cũng thương yêu cô; ngoài ra tất cả đất đai này, rồi tiền bạc, nhà cửa sang trọng, người làm đông đảo...? Tôi biết chứ, chủ của cơ nghiệp này là Nhà thờ nhưng dòng họ Cleary đâu phải không có tiền
Bây giờ mới thấy ra sự khác biệt giữa hai người - Meggie nghĩ thầm, đắc thắng. ànghĩ này chưa từng lóe lên trong đầu từ khi Meggie gặp Luke. Linh mục Ralph không bao giờ chú ý bề ngoài. Luke không có sự nhạy cảm như Ralph và không thể nhận ra cái gì giấu kín sau cái bề mặt. Đúng là Luke đã xuyên qua cuộc đời như người cỡi ngựa xem hoa, không thấy sự phức tạp và cũng không thấy sự đau khổ.
Hoàn toàn bất ngờ, Bob trai chìa khóa chiếc Rolls mới mà không thêm một lời nào; anh chỉ im lặng nhìn dò xét Luke rồi mỉm cười.
- Tôi không tưởng tượng Meggie đi khiêu vũ nhưng anh cứ đưa em gái tôi đi, và chúc hai người một buổi tối thật vui. Có lẽ em gái tôi sẽ rất thích. Tội nghiệp con bé. Nó ít có cơ hội đi ra khỏi nhà. Đáng lẽ chúng tôi phải tìm cách cho Meggie giải trí nhưng mọi người quá bận rộn.
- Tại sao anh không đi với Jack và Hughie? Luke hỏi, cho thấy anh không chống lại việc có nhiều người cùng đi.
- Không, cảm ơn. Chúng tôi không thích khiêu vũ.
Meggie mặc chiếc áo dài màu hồng tro vì rằng ngoài áo này không có áo nào khác. Chưa bao giờ trong đầu Meggie nẩy ra ý nghĩ lấy tiền mà cha Ralph chuyển vào ngân hàng cho mình để mua sắm áo quần. Cho tới nay Meggie vẫn từ chối lời mời mọc của bọn đàn ông như Onoch Davies và Alastair Mac Queen. Tất cả họ đều không có sự vững vàng của Luke O'' Neill.
Nhưng nhìn vào gương, Meggie nghĩ thầm mình sẽ đi cùng với mẹ đến Gillanbone tuần tới, ghé ngang qua bà cụ Gert để đặt vài chiếc áo mới.
Thật ra Meggie không muốn mặc chiếc áo này, nếu có một cái áo khác thì Meggie đã thay ngay. Chiếc áo ấy nhắc nhở một thời đã qua, một người đàn ông khác, cũng tóc đen. Chiếc áo này đã nhập thân hoàn toàn với tình yêu và những ước mơ ban đầu của Meggie, có cả nước mắt và niềm đau của sự cô đơn. Mặc chiếc áo đó đi với một người đàn ông khác như Luke là phạm vào điều thiêng liêng nhất. Meggie đã quen giấu kín tình cảm của mình, luôn giữ vẻ bình thản và vui vẻ. Meggie nghĩ đến mẹ và không khỏi rùng mình, thương xót.
Cuộc đời Meggie rồi cũng sẽ kết thúc như mẹ, luôn thu mình không để lộ ra một tình cảm nào chăng? Có phải mọi chuyện đã bắt đầu với mẹ sau khi mẹ gặp ba của Frank? Phản ứng của mẹ ra sao nếu mẹ hay được Meggie đã biết tất cả sự thật về Frank? Ôi! Chuyện xảy ra ở nhà xứ! Tưởng như vừa xảy ra đêm qua. Ba và Frank đối mặt nhau, còn Ralph đã siết chặt Meggie đến nỗi nàng phải kêu lên vì đau. Và Meggie vẫn nhớ những câu nói kinh khủng mà cả hai đã thét lên. Meggie đủ lớn khôn để hiểu rằng việc có con như mẹ nàng gây ra lắm hậu quả, chứ không như trước kia Meggie chỉ nghĩ rằng khi đã làm vợ chồng thì việc quan hệ xác thịt với người khác là điều triệt để bị cấm. Nỗi xấu hổ và nhục nhã ấy mẹ đã phải gánh chịu vì Frank! Không ngạc nhiên sau đó mẹ đã tự cô lập. Nếu việc ấy xảy ra cho mình - Meggie thầm nghĩ mình sẽ chọn cái chết. Trong các tiểu thuyết, chỉ có những cô gái không ra gì, xấu xa nhất mới có những đứa con ngoại hôn; còn mẹ đâu phải thế, và không xấu xa mà cũng không tầm thường. Với tất cả lòng thành Meggie mong sao mẹ sẽ kể cho mình biết tự sự hoặc chính Meggie có can đảm đề cập vấn đề. Biết đâu như thế sẽ giúp ích được mẹ, dù rằng một chút nào đó thôi. Nhưng tiếc thay bà Fiona không thuộc loại người hay tâm sự hoặc gợi lên những trao đổi thân mật. Đứng trước tấm kiếng, Meggie thở dài, ước mong với tất cả lòng thành một nỗi bất hạnh như thế sẽ không xảy ra với mình.
Thế nhưng Meggie vẫn còn trẻ; trong một lúc như thế này, mặc chiếc áo màu hồng tro nhìn mình trong tấm kiếng, nàng lại ước ao được sống với những cảm giác và đón nhận những rung động ồ ạt như một cơn gió to và nóng bỏng. Meggie không muốn kéo lê thê cuộc sống còn lại của mình như một người máy mà muốn có sự thay đổi. Tình yêu với một người chồng và những đứa con. Buồn nhớ làm gì một người không đến với mình nữa? Ralph không muốn đến và mãi mãi sẽ không đến. Ralph nói yêu Meggie nhưng tình yêu ấy không giống như của một người chồng. Vì rằng Ralph đã làm hôn lễ với Nhà thờ. Có phải tất cả những người đàn ông đều như thế, họ yêu một khái niệm lờ mờ hơn là có thể yêu một người phụ nữ? Có gì bảo đảm là tất cả đàn ông không phải như thế. Nhưng dù sao cũng có những người đàn ông đơn giản hơn, những người đàn ông dám đặt tình yêu dành cho một người phụ nữ trên tất cả. Những người đàn ông như Luke chẳng hạn.
- Tôi chưa bao giờ gặp một thiếu nữ đẹp như cô. Luke vừa nói vừa cho nổ máy chiếc Rolls.
- Anh bao nhiêu tuổi, Luke?
- Ba mươi, còn cô?
- Gần hai mươi ba.
- Nhiều thế à? Trông cô như một cô bé.
- Tôi không còn bé.
- Ồ, thế thì cô đã yêu lần nào chưa?
- Một lần.
- Chỉ có một lần thôi à? Vào cái tuổi hai mươi ba? Chúa ơi! Vào cái tuổi của cô, ít ra tôi cũng yêu đến cả chục lần.
- Tôi cũng có thể, nhưng ở Drogheda rất ít đàn ông có thể làm rung động trái tim tôi. Nếu trí nhớ của tôi không quá tồi thì anh là người đàn ông đầu tiên ở trang trại này dám tiến xa hơn một lời chào hỏi rụt rè.
... Buổi chiều khiêu vũ mà Meggie tham dự cùng Luke không giống như cái kiểu mà Meggie đã chứng kiến trong ngày sinh nhật của Mary Carson. Ở đây nối tiếp nhau chỉ có những cuộc nhảy đứng đắn từng nhóm như polka hay mazurkas, bàn tay người đàn ông chỉ chạm nhẹ trong giao tiếp, còn trong những điệu luân vũ quay nhanh thì lại là những cánh tay mạnh bạo. Không có cơ hội nào để giao tiếp thân mật hay để mơ mộng.
Không mấy chốc Meggie nhận ra rằng người bạn trai cao lớn và đẹp trai của mình được nhiều cô gái chú ý. Luke là đối tượng của những cái nhìn đắm đuối và quyến rũ, cũng gần ngang với Ralph nhưng công khai hơn. Luke cũng gợi lên lắm sự chú ý như Ralph đã từng gợi lên... Đã từng gợi lên. Thật là khủng khiếp khi nhắc đến Ralph bằng quá khứ.
Đúng như Luke đã hứa, anh ta không để Meggie một mình đơn độc trong buổi lễ, ngoại trừ lúc cần vào phòng sửa soạn. Anh ta không để hở một dịp nào cho các chàng trai ở những vùng lân cận chen vào. Bản nhạc chót là một điệu luân vũ. Luke nắm tay Meggie, tay kia choàng qua lưng nàng, kéo sát vào. Luke là một tay nhảy giỏi. Meggie ngạc nhiên nhận ra rằng tất cả trở nên dễ dàng, chỉ cần để cho Luke dìu đi. Cảm giác thật tuyệt vời khi áp sát vào người đàn ông, nghe rõ da thịt rắn chắc ở ngực và ở đùi và thấm vào nhiệt độ của người đàn ông. Những đụng chạm ngắn ngủi với linh mục Ralph gây nên một cường độ cháy bỏng khiến Meggie không kịp nhận ra những phản ứng thầm kín trong da thịt và lúc đó Meggie thành thật nghĩ rằng mình sẽ không bao giờ tìm lại được một sự rung động như thế ở trong vòng tay người đàn ông khác . Thế nhưng, thực tế vừa xảy ra rất khác. Toàn thân bị kích thích, nhịp tim đập nhanh lên và Meggie biết rằng Luke nhận ra sự thay đổi ở nàng nên càng siết mạnh, áp má của anh ta lên mái tóc Meggie.
Đất đỏ nhanh chóng tìm lại sức sống một cách kinh ngạc. Chỉ trong một tuần, những mầm xanh nhú lên xuyên qua lớp bùn nhầy nhụa và trong hai tháng, những chiếc lá non đã xuất hiện trên các cành cây bị cháy đen. Con người đã chứng tỏ được sự chịu đựng và sức quật khởi của mình. Ai thiếu kiên nhẫn sẽ không thể ở lại trên vùng đất tây bắc bao la này. Nhưng phải chờ nhiều năm, các vết thương do đám cháy kinh khủng gây ra mới xóa hết.
Drogheda mất ít nhất một phần năm đất khai thác, thiệt hại hai mươi lăm ngàn con cừu. Thật ra đây là một thiệt hại chẳng là bao vì vào những năm thuận lợi, đàn cừu lên đến khoảng một trăm hai mươi lăm ngàn con. Tuy nhiên khi nhìn các khu vườn của Drogheda, vào mùa xuân vẫn trơ trọi và cháy đen, lòng ai cũng đau nhói. Dân chúng ở đây có thể sống sót trong cơn hạn hán nhờ những bồn chứa nước của Michael Carson nhưng ngược lại không có thứ gì để đối đầu với lửa. Dây đậu tía không làm sao nở hoa. Những cây hoa hồng bị còi chỉ còn lại những gai và gai, hoa pensé cũng chết, các loại cây nhỏ khác thì không khác những cọng rơm vàng úa; ở những nơi có bóng mát, các cây vẫn rạp mình xuống một cách thảm hại, không còn hy vọng hồi sinh.
Bob quyết định noi theo con đường của cha, tăng cường thêm lực lượng để trang trại đạt được hiệu quả cao nhất, do đó anh thu nhận thêm ba người chuyên về chăn nuôi. Bà Mary Carson khi còn sống không chịu ghi vào sổ lương danh sách những công nhân làm vài ngày mà chỉ ghi tên các thanh niên của gia đình Cleary; còn vào những lúc bận rộn cừu đẻ và cắt lông, bà chỉ dùng công nhân tạm thời, nhưng Pađy, cha của Bob, thì suy nghĩ và làm khác, ông nghĩ rằng nếu những người làm công có thể đặt tin tưởng và một nơi chốn nhất định để lập nghiệp, họ sẽ làm việc tốt hơn. Nhưng cuối cùng, kết quả không khác nhau bao nhiêu. Phần đông những người chăn nuôi mướn mắc cái bệnh không thể ở yên một chỗ.
Fiona thay chồng đảm trách việc quan hệ thư từ với Đức cha Ralph, và trung thành với tính tình của mình, bà không bao giờ tiết lộ với bất cứ ai nội dung thư từ, ngoại trừ duy nhất vấn đề quản lý trang trại. Meggie rất thèm muốn đoạt lấy những thư ấy và đọc cho đỡ nhớ nhung nhưng Fiona không để cho con gái mình có những cơ hội như thế. Bà bỏ tất cả thư vào một tủ sắt nhỏ ngay khi con gái bà hay tin có thư mới đến. Sau khi Đức cha Ralph rời khỏi Drogheda, bà Fiona quên ngay lời hứa của mình với linh mục. Trong vài lần được mời dự khiêu vũ và tiếp tân, Meggie đều từ chối. Được biết việc này, Fiona vẫn giữ nguyên thái độ xưa kia, không hề thúc đẩy con gái chấm dứt cuộc sống đơn độc và buồn tẻ.
Liam O'' Rourke lợi dụng mọi cơ hội để tạt ngang qua Drogheda bằng xe hơi. Enoche Davie điện thoại thường xuyên, Conner Carmichael và Alastair Mac Queen cũng thế. Nhưng đối với mỗi người, Meggie đều tỏ ra xa lạ, khô khan, đến đỗi tất cả đều thấy mình hoàn toàn không hy vọng.
Chương 20
Chuông điện thoại reo lên, hai tiếng dài một tiếng ngắn, tín hiệu dành riêng cho Drogheda, Fiona nhắc ống nghe và quay lại.
- Điện thoại của Bob.
- Allô... à! Jimmy đó phải không... Vâng, Bob đây... Vâng đồng ý. Thế thì hay lắm. Có giấy chứng nhận tốt không? Cứ gởi hắn đến đây... Nếu đúng là anh ta giỏi như thế, bạn có thể nói thẳng với hắn rằng đã có một chỗ làm dành sẵn ở đây. Tôi không tin lắm ở những tờ giấy chứng nhận... Thôi nhé. Cảm ơn. Chào.
Bob trở lại ghế ngồi.
- Chuyện liên quan đến một anh thợ chăn nuôi, một anh chàng khá lắm theo con nhận xét của Jimmy. Anh ta đã từng làm việc ở đồng bằng Queensland phía tây gần Longreach và Charleville. Anh ta chăn bò cũng rất giỏi. Đây là một tay cưỡi ngựa xuất sắc, có tài luyện ngựa. Trước kia anh ta là thợ cắt lông cừu, cũng là một tay cự phách trong nghề này theo lời Jimmy. Hai trăm năm chục con trong một ngày! Con chỉ hơi ngạc nhiên tại sao một nhà vô địch như thế lại bằng lòng với đồng lương của một người chăn cừu? Rất hiếm trường hợp một tay cắt lông cừu giỏi như thế lại bỏ tông đơ để ngồi lên mình ngựa. Dù thế nào thì đó là một anh chàng mà ta đang cần ở các bãi chăn, phải không mẹ?
Với năm tháng, giọng nói của Bob kéo dài ra như giọng đặc biệt của người Úc nhưng ngược lại anh nói từng câu rất ngắn. Anh sắp sửa bước vào cái tuổi ba mươi nhưng hình như không có khả năng chinh phục các cô gái mà anh được gặp trong các cuộc tiếp tân rất hiếm được tổ chức. Một mặt anh rất nhút nhát, một mặt khác anh không thích chú ý gì hơn là đất đai và chăn nuôi. Jack và Hughie càng ngày càng giống anh mình. Cả ba cũng thích nằm trên sàn, sợ rằng nằm trên giường sẽ làm cho họ mềm yếu đi.
- Anh thợ mới mà con nói đã có gia đình chưa? Fiona hỏi nhưng vẫn tiếp tục công việc sổ sách của mình.
- Con không biết. Con quên hỏi. Ngày mai mình sẽ biết ngay khi anh ta đến đây.
- Hắn đến đây bằng cách nào?
- Jimmy đưa anh ta đến bằng xe hơi. Anh ta muốn nhìn qua các con cừu già ở Tankstand.
- Mong rằng hắn sẽ ở lại đây một thời gian. Nếu hắn chưa có vợ, mẹ đoán hắn sẽ lại ra đi trong vài tuần - Fiona nói - Những anh làm công kiểu đó không ở lại lâu đâu.
Jims và Patsy đang theo học nội trú tại Riverview nhưng nhất quyết sẽ không ở lại trường thêm một ngày nào nữa khi cả hai được mười bốn tuổi. Cả hai náo nức chờ cái ngày được đi theo Bob, Jack và Hughie ở ngoài bãi chăn.
Nhiều tuần đã trôi qua khi lần đầu Meggie chạm mặt với tay thợ chăn nuôi mới đến làm. Tên anh ta là Luke O'' Neill. Anh thường đến ngôi nhà lớn trò chuyện. Luke từ chối không ngủ trong lán trại dành cho những người độc thân, anh chọn căn nhà nhỏ trống còn lại bên suối để ở. Ngay khi vừa được giới thiệu với bà Smith, Luke đã giành được cảm tình của bà quản gia rất ít khi chú ý đến hạng người ở thuê làm mướn. Con người mới đến này gây nhiều tò mò cho Meggie trước khi nàng gặp mặt trực tiếp.
Con ngựa hồng và con ngựa cái của Meggie được nhốt trong chuồng chứ không thả ngoài bãi quay ngựa nữa. Do đó Meggie thường bắt đầu ngày làm việc của mình trễ hơn nhóm đàn ông vì vậy có khi trong nhiều tuần lễ liền Meggie không chạm mắt mấy người thợ. Nhưng cuối cùng thì nàng chạm mặt với Luke vào một buổi xế chiều mùa hè, lúc mặt trời đã xuống thấp làm đỏ rực các hàng cây, kéo dài thườn thượt những cái bóng, trước khi lùi dần vào sự quên lãng của màn đêm. Meggie từ Borehead trở về và đi ngược chầm chậm đến chỗ băng qua con suối, cùng lúc đó Luke từ hướng đông nam về cũng đi đến.
Ánh mặt trời chiếu thẳng vào mắt Luke, nàng nhìn thấy anh ta trước khi anh ta thấy nàng. Luke cỡi một con ngựa hồng cao lớn, hung dữ, bờm và đuôi màu đen. Khác hơn các đồng nghiệp của mình, Luke mặc áo sơ mi trắng và quần màu nhạt. Lịch sự làm sao! Meggie nói thầm. Như thế cũng tốt nếu anh ta không sợ mất công giặt ủi.
- Chào bà chủ! Anh ta nói lớn khi ngựa tiến lên ngang với nàng. Anh ta chào Meggie bằng cách giở mũ ra rồi để trở xuống hơi ngửa ra phía sau. Đôi mắt xanh có vẻ không coi ai ra gì, nhìn nàng không giấu giếm sự ngưỡng mộ
- Xin lỗi, cô chắc chắn không phải là bà chủ, có lẽ con gái của bà. Anh ta nhận xét. Tôi tên là Luke O'' Neill.
Meggie ấp úng vài tiếng gì đó không rõ, né tránh không nhìn thẳng anh ta, lòng bối rối và cử chỉ thiếu tự nhiên, không làm sao tìm ra một câu chào hỏi thông thường thích hợp cho hoàn cảnh.
Ồ, thật là phi lý? Tại sao lại có một con ngựa liều lĩnh có đôi mắt và nét mặt giống linh mục Ralph đến thế. Cái giống ấy không ẩn chứa trong cách nhìn Meggie; sự vui tính thấy rõ trong bản chất con người của anh ta và cái nhìn ấy không hề để lộ một tình yêu cháy bỏng dành cho nàng. Ngược lại ngay ở cái giây phút đầu nàng gặp cha Ralph, cô bé Meggie đã bắt gặp tình yêu trong đôi mắt của linh mục. Làm thế nào nhìn Luke mà không thấy đôi mắt của Ralph và tránh được không nhớ đến Ralph. Một trò đùa ác độc, một sự trừng phạt.
Hoàn toàn không ý thức về những suy nghĩ mà anh đã gợi lên trong đầu của Meggie, Luke giữ cho con ngựa hồng khó dạy của mình ngang với con ngựa cái bình thản của Meggie, cả hai đang băng qua suối, nước chảy rất dữ sau những trận mưa lớn. Không thể nghi ngờ, Meggie đã trở thành một thiếu nữ tuyệt đẹp. Mái tóc của nàng cũng đẹp làm sao! Phải chi nàng chịu ngước mặt lên cho anh ta có thể ngắm trọn vẹn gương mặt!
Nhưng đúng cái lúc Meggie quyết định làm điều đó thì sự biểu lộ trên gương mặt đã buộc Luke phải nhíu mày lại vì sửng sốt. Không hẳn Meggie đã nhìn Luke như có hận thù nhưng cái nhìn ấy như muốn tìm kiếm điều gì đó còn tiềm ẩn hoặc là một nét nào đó mà Meggie không muốn bắt gặp ở Ralph. Meggie bối rối, còn Luke thì chưa quen bị phụ nữ nhìn soi mói trong thế bị động. Mái tóc màu vàng hơi hung của Meggie sáng rực dưới màu trời đỏ ửng của hoàng hôn cùng đôi mắt nâu như một cái bẫy chực chờ Luke tự ý lao vào.
Anh theo dõi thích thú với phản ứng bực dọc và thất vọng của Meggie. Rồi anh bình tĩnh tiếp tục quan sát: cái miệng như đóa hoa hé nở, những hạt mồ hôi động lại ở môi như những hạt sương mai, trên trán cũng có những giọt mồ hôi như thế vì trời nóng, lông nheo cong lên vì ngạc nhiên.
Nụ cười của Luke để lộ những chiếc răng to khỏe của linh mục Ralph; nhưng nụ cười ấy lại không phải cha Ralph.
- Cô có biết không, cô có một cái nhìn ngơ ngác hồn nhiên của một đứa trẻ. Miệng tròn như chữ O và cả chữ A.
- Tôi xin lỗi ông - Meggie nói mắt nhìn nơi khác. Tôi không cố tình soi mói ông. Ông làm cho tôi nhớ đến một người, có thế thôi.
- Cô nhìn tôi tùy thích. Còn hơn là tôi chỉ được nhìn cái đỉnh đầu của cô dù cho nó đẹp đến đâu. Tôi gợi cho cô nhớ đến ai?
- Điều đó không quan trọng. Tuy nhiên thật là quái lạ khi nhìn gặp một người lần đầu tiên lại cảm thấy rất quen thuộc... Nhưng thật ra lại rất khác với người đó.
- Cô tên gì, cô bé gái Cleary?
- Meggie.
- Meggie... Một cái tên không phù hợp với cô chút nào. Tôi thích cô mang tên Belinda hay Madeline hơn, nhưng nếu Meggie đúng là cái tên không thể nào khác hơn nữa của cô thì đành bằng lòng với Meggie vậy. Tên gọi thân mật là gì?...
- Không, Meghann.
- Ừ, nghe thích hơn! Vậy tôi gọi cô là Meghann.
- Không, không có chuyện đó được! Meggie phản ứng lại. Tôi rất ghét cái tên ấy.
Luke cười:
- Cô được nuông chiều quá và quen được mọi người thỏa mãn các ý thích bất thường, cô bé Meggie ạ. Nhưng với tôi, nếu tôi thích gọi cô là Eustacia Sophronia Augusta thì không ai có thể cấm cản tôi, cô có biết không?
Cả hai vừa đến bãi thả ngựa. Luke buông ngựa xuống đất nhẹ nhàng, đưa tay đấm nhẹ vào đầu con ngựa đang nhe răng muốn cắn anh ta, con vật quay đi chỗ khác, ngoan ngoãn. Đứng dưới đất, anh ta đưa tay ra chờ để đỡ Meggie xuống. Nhưng không, Meggie thúc chân vào bụng con vật rồi đi thẳng đến chuồng.
- Con ngựa hồng khó tính này không thể chung chạ với những con ngựa tầm thường. Meggie nói thật lớn và không thèm quay lại.
Ồ, sao lại phi lý thế! Dù đứng thẳng người trên hai chân, hắn cũng giống linh mục Ralph; cũng cao lớn, vai rộng, hông thon, nhưng cái đẹp tỏa ra có phần khác. Linh mục Ralph di chuyển như một vũ công, Luke lại như lực sĩ. Nhưng cả hai đều có cặp mắt xanh như nhau, mũi cũng thanh và thẳng, đường nét của miệng được vẽ rất tuyệt. Có lẽ anh ta không giống linh mục Ralph như cây bạch đàn màu xám, thật cao và tuyệt đẹp với cây bạch đàn màu xanh, cũng cao như thế, và cũng đẹp như thế.
Sau cuộc gặp gỡ tình cờ đó, Meggie nghe ngóng dư luận về những lời bình phẩm liên quan tới Luke. Bob và các anh trai đều hài lòng về công việc của Luke và tỏ ra ăn ý với anh ta. Ngay cả Fiona cũng đề cập đến tên của Luke trong một buổi tối trò chuyện, nhận xét rằng anh ta là một thanh niên đẹp trai.
- Mẹ có thấy anh ấy giống ai không? Meggie đang nằm dài trên thảm đọc sách hỏi bằng một giọng rất tự nhiên.
Fiona suy nghĩ một lúc.
- Đúng rồi, mẹ thấy anh ta hao giống linh mục De Bricassart. Cũng thân hình ấy, nước da ấy... Nhưng không giống nhiều lắm. Hai người rất khác nhau về tính cách đàn ông. Meggie, mẹ muốn con ngồi trên ghế như một thiếu nữ khi đọc sách. Không phải vì mặc quần cỡi ngựa mà con tự cho phép xử sự như một thằng con trai phóng túng.
- Có sao đâu - Meggie cãi lại mẹ. Làm như có ai đó theo dõi con.
Xuống bếp, Meggie mới khám phá ra sở dĩ Luke dám ăn mặc sang trọng với chiếc sơ mi và quần màu sáng là vì anh ta đã chinh phục bà Smith. Chính bà là người giặt ủi quần áo cho Luke.
Một tuần sau gặp lại Luke gần con suối, Meggie nghĩ rằng Luke đã cố tình chờ mình ở đó, nhưng hoàn toàn không định ra được thái độ nào nếu điều nàng nghi ngờ ấy là đúng.
- Chào Meghann.
- Chào anh, Meggie đáp lại, mắt nhìn thẳng hai tai của con ngựa hồng.
- Có một cuộc khiêu vũ ở trại cắt lông cừu Braich thứ bảy tuần tới. Cô có thích chúng ta cùng đi?
- Cảm ơn anh đã mời tôi, nhưng rất tiếc tôi không biết nhảy. Do đó tôi không tham dự.
- Tôi sẽ tập cho cô một vài động tác là xong, đó không phải là một trở ngại. Nhờ tôi đưa cô em gái của ông chủ đi khiêu vũ, Bob sẽ cho tôi mượn chiếc xe Rolls già nua và biết đâu đưa mượn cả chiếc ôtô mới?
- Tôi đã nói với anh là tôi không đi! Meggie đáp lại hàm răng cắn chặt.
- Cô nói với tôi là cô không biết nhảy và tôi đã trả lời với cô là tôi sẽ dạy cho cô. Cô không hề nói năng rằng cô không đi với tôi nếu cô biết nhảy, điều đó cho phép tôi nghĩ rằng chính không biết nhảy là một cản trở chớ không phải cá nhân tôi. Hay cô chỉ muốn đến đó trình diễn?
Bực bội, Meggie nhìn Luke bằng ánh mắt dữ tợn nhưng Luke vẫn bình thản cười lớn tiếng:
- Cô được nuông chiều hư hỏng, bé Meghann. Đã đến lúc mọi người xung quanh không nên chiều theo tính khí bất thường của cộ
- Tôi không thuộc loại con cưng.
- Cô hãy xem lại. Cô con gái duy nhất giữa các anh trai, người nào cũng thương yêu cô; ngoài ra tất cả đất đai này, rồi tiền bạc, nhà cửa sang trọng, người làm đông đảo...? Tôi biết chứ, chủ của cơ nghiệp này là Nhà thờ nhưng dòng họ Cleary đâu phải không có tiền
Bây giờ mới thấy ra sự khác biệt giữa hai người - Meggie nghĩ thầm, đắc thắng. ànghĩ này chưa từng lóe lên trong đầu từ khi Meggie gặp Luke. Linh mục Ralph không bao giờ chú ý bề ngoài. Luke không có sự nhạy cảm như Ralph và không thể nhận ra cái gì giấu kín sau cái bề mặt. Đúng là Luke đã xuyên qua cuộc đời như người cỡi ngựa xem hoa, không thấy sự phức tạp và cũng không thấy sự đau khổ.
Hoàn toàn bất ngờ, Bob trai chìa khóa chiếc Rolls mới mà không thêm một lời nào; anh chỉ im lặng nhìn dò xét Luke rồi mỉm cười.
- Tôi không tưởng tượng Meggie đi khiêu vũ nhưng anh cứ đưa em gái tôi đi, và chúc hai người một buổi tối thật vui. Có lẽ em gái tôi sẽ rất thích. Tội nghiệp con bé. Nó ít có cơ hội đi ra khỏi nhà. Đáng lẽ chúng tôi phải tìm cách cho Meggie giải trí nhưng mọi người quá bận rộn.
- Tại sao anh không đi với Jack và Hughie? Luke hỏi, cho thấy anh không chống lại việc có nhiều người cùng đi.
- Không, cảm ơn. Chúng tôi không thích khiêu vũ.
Meggie mặc chiếc áo dài màu hồng tro vì rằng ngoài áo này không có áo nào khác. Chưa bao giờ trong đầu Meggie nẩy ra ý nghĩ lấy tiền mà cha Ralph chuyển vào ngân hàng cho mình để mua sắm áo quần. Cho tới nay Meggie vẫn từ chối lời mời mọc của bọn đàn ông như Onoch Davies và Alastair Mac Queen. Tất cả họ đều không có sự vững vàng của Luke O'' Neill.
Nhưng nhìn vào gương, Meggie nghĩ thầm mình sẽ đi cùng với mẹ đến Gillanbone tuần tới, ghé ngang qua bà cụ Gert để đặt vài chiếc áo mới.
Thật ra Meggie không muốn mặc chiếc áo này, nếu có một cái áo khác thì Meggie đã thay ngay. Chiếc áo ấy nhắc nhở một thời đã qua, một người đàn ông khác, cũng tóc đen. Chiếc áo này đã nhập thân hoàn toàn với tình yêu và những ước mơ ban đầu của Meggie, có cả nước mắt và niềm đau của sự cô đơn. Mặc chiếc áo đó đi với một người đàn ông khác như Luke là phạm vào điều thiêng liêng nhất. Meggie đã quen giấu kín tình cảm của mình, luôn giữ vẻ bình thản và vui vẻ. Meggie nghĩ đến mẹ và không khỏi rùng mình, thương xót.
Cuộc đời Meggie rồi cũng sẽ kết thúc như mẹ, luôn thu mình không để lộ ra một tình cảm nào chăng? Có phải mọi chuyện đã bắt đầu với mẹ sau khi mẹ gặp ba của Frank? Phản ứng của mẹ ra sao nếu mẹ hay được Meggie đã biết tất cả sự thật về Frank? Ôi! Chuyện xảy ra ở nhà xứ! Tưởng như vừa xảy ra đêm qua. Ba và Frank đối mặt nhau, còn Ralph đã siết chặt Meggie đến nỗi nàng phải kêu lên vì đau. Và Meggie vẫn nhớ những câu nói kinh khủng mà cả hai đã thét lên. Meggie đủ lớn khôn để hiểu rằng việc có con như mẹ nàng gây ra lắm hậu quả, chứ không như trước kia Meggie chỉ nghĩ rằng khi đã làm vợ chồng thì việc quan hệ xác thịt với người khác là điều triệt để bị cấm. Nỗi xấu hổ và nhục nhã ấy mẹ đã phải gánh chịu vì Frank! Không ngạc nhiên sau đó mẹ đã tự cô lập. Nếu việc ấy xảy ra cho mình - Meggie thầm nghĩ mình sẽ chọn cái chết. Trong các tiểu thuyết, chỉ có những cô gái không ra gì, xấu xa nhất mới có những đứa con ngoại hôn; còn mẹ đâu phải thế, và không xấu xa mà cũng không tầm thường. Với tất cả lòng thành Meggie mong sao mẹ sẽ kể cho mình biết tự sự hoặc chính Meggie có can đảm đề cập vấn đề. Biết đâu như thế sẽ giúp ích được mẹ, dù rằng một chút nào đó thôi. Nhưng tiếc thay bà Fiona không thuộc loại người hay tâm sự hoặc gợi lên những trao đổi thân mật. Đứng trước tấm kiếng, Meggie thở dài, ước mong với tất cả lòng thành một nỗi bất hạnh như thế sẽ không xảy ra với mình.
Thế nhưng Meggie vẫn còn trẻ; trong một lúc như thế này, mặc chiếc áo màu hồng tro nhìn mình trong tấm kiếng, nàng lại ước ao được sống với những cảm giác và đón nhận những rung động ồ ạt như một cơn gió to và nóng bỏng. Meggie không muốn kéo lê thê cuộc sống còn lại của mình như một người máy mà muốn có sự thay đổi. Tình yêu với một người chồng và những đứa con. Buồn nhớ làm gì một người không đến với mình nữa? Ralph không muốn đến và mãi mãi sẽ không đến. Ralph nói yêu Meggie nhưng tình yêu ấy không giống như của một người chồng. Vì rằng Ralph đã làm hôn lễ với Nhà thờ. Có phải tất cả những người đàn ông đều như thế, họ yêu một khái niệm lờ mờ hơn là có thể yêu một người phụ nữ? Có gì bảo đảm là tất cả đàn ông không phải như thế. Nhưng dù sao cũng có những người đàn ông đơn giản hơn, những người đàn ông dám đặt tình yêu dành cho một người phụ nữ trên tất cả. Những người đàn ông như Luke chẳng hạn.
- Tôi chưa bao giờ gặp một thiếu nữ đẹp như cô. Luke vừa nói vừa cho nổ máy chiếc Rolls.
- Anh bao nhiêu tuổi, Luke?
- Ba mươi, còn cô?
- Gần hai mươi ba.
- Nhiều thế à? Trông cô như một cô bé.
- Tôi không còn bé.
- Ồ, thế thì cô đã yêu lần nào chưa?
- Một lần.
- Chỉ có một lần thôi à? Vào cái tuổi hai mươi ba? Chúa ơi! Vào cái tuổi của cô, ít ra tôi cũng yêu đến cả chục lần.
- Tôi cũng có thể, nhưng ở Drogheda rất ít đàn ông có thể làm rung động trái tim tôi. Nếu trí nhớ của tôi không quá tồi thì anh là người đàn ông đầu tiên ở trang trại này dám tiến xa hơn một lời chào hỏi rụt rè.
... Buổi chiều khiêu vũ mà Meggie tham dự cùng Luke không giống như cái kiểu mà Meggie đã chứng kiến trong ngày sinh nhật của Mary Carson. Ở đây nối tiếp nhau chỉ có những cuộc nhảy đứng đắn từng nhóm như polka hay mazurkas, bàn tay người đàn ông chỉ chạm nhẹ trong giao tiếp, còn trong những điệu luân vũ quay nhanh thì lại là những cánh tay mạnh bạo. Không có cơ hội nào để giao tiếp thân mật hay để mơ mộng.
Không mấy chốc Meggie nhận ra rằng người bạn trai cao lớn và đẹp trai của mình được nhiều cô gái chú ý. Luke là đối tượng của những cái nhìn đắm đuối và quyến rũ, cũng gần ngang với Ralph nhưng công khai hơn. Luke cũng gợi lên lắm sự chú ý như Ralph đã từng gợi lên... Đã từng gợi lên. Thật là khủng khiếp khi nhắc đến Ralph bằng quá khứ.
Đúng như Luke đã hứa, anh ta không để Meggie một mình đơn độc trong buổi lễ, ngoại trừ lúc cần vào phòng sửa soạn. Anh ta không để hở một dịp nào cho các chàng trai ở những vùng lân cận chen vào. Bản nhạc chót là một điệu luân vũ. Luke nắm tay Meggie, tay kia choàng qua lưng nàng, kéo sát vào. Luke là một tay nhảy giỏi. Meggie ngạc nhiên nhận ra rằng tất cả trở nên dễ dàng, chỉ cần để cho Luke dìu đi. Cảm giác thật tuyệt vời khi áp sát vào người đàn ông, nghe rõ da thịt rắn chắc ở ngực và ở đùi và thấm vào nhiệt độ của người đàn ông. Những đụng chạm ngắn ngủi với linh mục Ralph gây nên một cường độ cháy bỏng khiến Meggie không kịp nhận ra những phản ứng thầm kín trong da thịt và lúc đó Meggie thành thật nghĩ rằng mình sẽ không bao giờ tìm lại được một sự rung động như thế ở trong vòng tay người đàn ông khác . Thế nhưng, thực tế vừa xảy ra rất khác. Toàn thân bị kích thích, nhịp tim đập nhanh lên và Meggie biết rằng Luke nhận ra sự thay đổi ở nàng nên càng siết mạnh, áp má của anh ta lên mái tóc Meggie.
Title: Re: Tiếng chim hót trong bụi mận gai - Colleen McCullough. Bestseller năm 1977
Post by: Serenade24 on 03/05/07, 09:36
Post by: Serenade24 on 03/05/07, 09:36
Chương 21
Cả hai gần như không nói một lời nào trên đường từ Braich về Drogheda, cách xa một trăm cây số. Khi về gần đến nhà, Luke cho xe dừng lại, bước xuống đất, đi vòng qua cửa bên kia dìu Meggie cùng bước xuống. Người hơi run, Meggie tự hỏi lẽ nào tất cả sẽ hỏng chỉ vì Luke tìm cách ôm hôn mình? Nhưng giữa sự im lặng tuyệt đối của màn đêm, Luke không hề có một cử chỉ nào hướng về nàng.
Quay lưng lại với bóng đêm, Luke lấy ra bao thuốc rời, một tập giấy, rồi vấn một điếu.
- Có phải cô đã sinh ra ở đây, Meghann? Luke vừa hỏi vừa lơ đễnh những cọng thuốc lá vướng trong lòng bàn tay.
- Không. Tôi sinh ở Tân Tây Lan. Gia đình tôi đến Drogheda cách đây mười ba năm.
- Tối nay cô có thấy vui không?
- Ồ, vui lắm!
- Tôi rất muốn đưa cô đi những buổi khiêu vũ khác.
Rồi Luke lại lặng im; anh rít chầm chậm từng hơi thuốc, mắt nhìn ngang qua mui xe hướng về lùm cây có con chim đang kêu lên những tiếng khó chịu vì giấc ngủ đột ngột bị quấy rầy. Khi điếu thuốc tàn, Luke ném xuống đất rồi dùng gót giày ấn mạnh nhiều lần, cho đến khi anh biết chắc đã dập tắt. Không ai biết cách đè nát một mẩu thuốc lá bằng một người đàn ông quen sống trong rừng rậm Úc châu.
Với một tiếng thở dài, Meggie ngưng không ngắm trăng nữa và Luke dìu nàng trở lên xe. Luke rất cảnh giác nên không ôm hôn Meggie vào lúc này, vả lại anh đã có ý định chuẩn bị cả một kế hoạch để cưới nàng làm vợ. Dù sao trước hết phải chờ chính Meggie mong muốn điều ấy.
Sau đó, trong suốt mùa hè còn có những dạ vũ khác và dần dần trong trang trại mọi người đều quen với việc Meggie được một chàng trai tương xứng hộ tống. Các anh trai của Meggie tránh trêu trọc vì rằng tất cả đều yêu thương Meggie và có cảm tình với Luke, người làm công không hề biết mệt mỏi.
Không bao lâu thì Luke có thói quen đi thẳng về ngôi nhà lớn khi anh không ngủ qua đêm ngoài bãi chăn. Bob nhanh chóng tuyên bố rằng để cho Luke ăn một mình trong khi bàn ăn của gia đình Cleary lại dư thừa là một điều không đúng. Sau đó lại thấy thật là vô lý để Luke hằng đêm sau khi ở lại nói chuyện với Meggie phải đi thêm đoạn đường dài một cây số rưỡi để về nơi anh nghỉ ngơi. Thế là, cả nhà đề nghị Luke dọn về một trong những căn nhà nhỏ dành cho khách nằm ngay ở phía sau nhà lớn.
Lúc này, Meggie bắt đầu nghĩ nhiều về Luke; nhưng ít dằn vặt cực lòng như trước đây mỗi khi Meggie nghĩ đến Ralph. Vết thương lòng đang lành lại dần. Meggie quên đi rằng hai người tuy có cái miệng giống nhau nhưng nụ cười của Ralph khác hẳn; đôi mắt xanh sinh động của Ralph chứa đựng sự êm đềm xa vắng, còn đôi mắt của Luke sáng rực đam mê bão táp. Meggie còn trẻ và chưa được nếm hương vị của ái tình dù trong những giây phút ngắn ngủi. Nàng ước ao được nếm hương vị ngọt ngào ấy trên lưỡi mình, được hít vào lòng ngực như hít một đóa hoa và uống cạn cho đến say. Linh mục Ralph đã trở thành Đức cha Ralph; sẽ không bao giờ, không bao giờ Ralph trở lại với nàng. Ralph đã bán Meggie với số tiền mười ba triệu đồng bảng, để lại trong lòng nàng nỗi oán hận. Nếu Ralph không thốt ra câu nói này trong đêm ở ngoài bãi chăn Forehead thì Meggie cũng không thắc mắc, đằng này Ralph đã dùng những lời lẽ ấy; từ đó trong rất nhiều đêm, Meggie không nhắm mắt được, tự hỏi về ý nghĩa thật sự của câu nói.
Khi đặt lòng bàn tay lên lưng Luke trong đêm khiêu vũ, Meggie nghe cả người mình lâng lâng khó chịu bởi con người này, bởi sự tiếp xúc và sức sống mê hoặc của anh tạ Nhưng Meggie không hề cảm giác được ngọn lửa ầm ĩ quái lạ ấy xâm nhập vào xương tủy mỗi khi ở cách xa Luke và nghĩ về Luke. Meggie cũng không tưởng tượng ra rằng nếu không còn gặp Luke nữa thì mình sẽ cảm thấy héo hon và tàn úa.
Luke vừa khéo vừa kiêu căng, làm việc rất tích cực và khao khát làm giàu. Nhưng cuộc sống lăn lộn trong nghề cắt lông cừu cho anh ta hiểu rằng mình không thể làm giàu bằng con đường đó. Ở vào thời điểm này, Luke khám phá ra mình có sức quyến rũ đối với phụ nữ. Anh ta đã thử thời vận lần đầu lúc làm thợ chăn nuôi ở Guarlunga mà người thừa kế trang trại là một phụ nữ còn tương đối trẻ và đẹp. Chỉ vì sự thiếu may mắn của anh ta mà cuối cùng nữ chủ đã chọn một người đàn ông khác. Từ Guarlunga, Luke đến Bingelly, ở đây anh ta được nhận vào làm việc với tư cách một người chuyên luyện ngựa. Luke chú ý ngay đến cô con gái lớn tuổi tuy không được ông chủ cưng yêu nhưng sẽ là người chính thức thừa kế tài sản. Anh ta gần như đã chinh phục được cô gái ấy nhưng cuối cùng cô ta lại nghe lời cha đi lấy một ông chồng sáu mươi tuổi còn thích ăn diện, chủ một trang trại kế bên.
Hai lần thử thời vận ấy làm cho Luke mất đi hơn ba năm trong cuộc sống và anh ta cho rằng thời gian hai mươi tháng phải mất cho mỗi nữ thừa kế là quá dài và chán ngắt. Đã có lúc, anh ta nghĩ rằng nên đi du lịch thật xa, luôn thay đổi khung cảnh sống, mở rộng chân trời của đời mình cho đến khi nào phát hiện ra một con mồi thật sự đáng chú ý. Thế là Luke vui chơi thỏa thích, đi khắp nẻo đường tải súc vật ở miền tây Queensland, rồi thả dọc theo các con sông Cooper và Diamantina, Barcoo và Bulloo Overflow, vào tận miền tây xứ New South Wales. Bây giờ anh ta đã ba mươi tuổi, đã đến lúc phải tìm ra một con gà mái đẻ được vài trứng vàng.
Ai ai cũng bàn tán về Drogheda, riêng Luke thì dò la được biết ở trang trại này chỉ có một người con gái. Không hy vọng cô ta trở thành người thừa kế, nhưng biết đâu gia đình ấy sẽ dành cho cô ta của hồi môn khoảng chừng bốn chục ngàn hecta đất ở phía Kynuna hay Winton. Vùng Gilly dễ chịu nhưng có quá đông người và có nhiều loài cây không hợp với ý thích anh ta. Luke mơ mộng đến sự bao la của vùng tây Queensland, cỏ mọc mút mắt, chẳng thấy đâu là cây cối. Chỉ có cỏ và cỏ, không thấy nơi bắt đầu và nơi chấm dứt, ở đó người chủ tha hồ thả nuôi mỗi con cừu trên khoảng rộng bốn hectạ
Dù mục tiêu của anh ta là bốn mươi ngàn hecta ở vùng Kynuna hay Winton - mục tiêu này đã trở thành một ám ảnh đối với Luke - nhưng thật sự đồng tiền mới là thứ anh ta yêu nhất, hơn cả những gì nó có thể mang lại. Làm chủ đất đai và thế lực đối với Luke không hấp dẫn bằng những con số xếp hàng trên cuốn ngân phiếu mang tên Luke O'' Neill. Nếu là một người thật sự say mê trở thành chủ trang trại thì không bao giờ Luke nhắm đến Meggie Cleary, đứa con gái không có trong tay một tấc đất.
Lần thứ mười ba trong mười tuần lễ liền, Luke đưa Meggie đi dạ vũ, lần này do trường Thánh giá ở Gilly tổ chức.
Đều đặn thứ bảy nào cũng thế, Luke mượn Bob chìa khóa chiếc xe Rolls và đưa Meggie ra khỏi Drogheda khoảng hai trăm cây số.
Chiều tối hôm đó, trời lạnh và không có trăng, Meggie đứng tựa lưng vào hàng rào cách xa nhà, ngắm nhìn cảnh vật. Dưới chân là tiếng rắc rắc của tuyết đóng băng. Mùa đông đã đến. Cánh tay của Luke choàng qua vai Meggie vào kéo nàng sát vào người.
- Cô bị lạnh đấy, Luke nhận xét. Chúng ta nên lên xe trở về.
- Không sao, bây giờ em thấy dễ chịu. Em đã ấm lại - Meggie trả lời hơi thở dồn dập. Meggie nhận ra một sự thay đổi ở Luke khi anh ta ấn mạnh cánh tay dù cho cử chỉ ấy có vẻ như không chủ tâm. Nhưng thật dễ chịu làm sao khi áp sát vào người Luke, đón nhận hơi ấm tỏa ra từ thân thể một người đàn ông đầy những bắp thịt gân guốc. Dù mặc chiếc áo ấm xănđai khá dày bên ngoài, Meggie vẫn cảm giác rõ những ngón tay của Luke vẽ những vòng tròn mơn trớn cố tình khơi dậy ở nàng một phản ứng. Đến mức này, nếu Meggie bảo rằng lạnh thì Luke sẽ dừng lại; Nếu Meggie làm thinh không nói tiếng nào, Luke sẽ cho rằng đó là sự đồng tình. Meggie còn trẻ và khao khát được tận hưởng tình yêu. Luke là người đàn ông thứ nhất, ngoài Ralph được nàng chú ý, thế thì tại sao lại từ chối cái hương vị của những nụ hôn?
Cho rằng sự im lặng của Meggie có nghĩa là đồng tình, Luke đặt bàn tay mình lên vai Meggie, xoay người nàng lại, mặt đối mặt. Luke đặt đôi môi mình lên môi Meggie. Đôi môi của Meggie khẽ động đậy, dấu hiệu của sự chấp nhận. Luke ấn mạnh miệng mình, đôi môi Meggie hé mở ra... Ghê tởm . Đúng lúc đó Meggie nhận ra rằng không hiểu tại sao cảm giác đang có nó quá khác xa với lúc Ralph ôm hôn mình, lúc đó Meggie không hề nghe thấy sự ghê tởm gần như buồn nôn. Tức khắc, một sự trống rỗng xâm chiếm tâm hồn Meggie. Đôi môi của nàng đã mở ra đón nhận nụ hôn của Luke không khác nào tủ sắt mở tung cánh cửa khi người ta ấn đúng vào một cái lò xo bí mật. Luke đã hành động quái quỷ thế nào mà làm cho toàn thân nàng run lên như vậy, khiến Meggie phải bấu chặt vào người Luke trong khi vẫn hết sức thoát ra khỏi hai cánh tay của anh ta.
Luke phát hiện điển nhạy cảm của Meggie sẽ khiến cho nàng mất đi khả năng chống trả. Các ngón tay của Luke ấn xuống cạnh sườn phía dưới của Meggie, truyền vào người nàng một luồng điện. Cho đến lúc đó, nàng vẫn không hưởng ứng một cách cuồng nhiệt. Luke không hôn môi Meggie nữa mà đặt đôi môi mình lên chiếc cổ mềm mại của nàng. Nàng tỏ ra thích thú với sự tiếp xúc này; hơi thở dồn dập, hai bàn tay bấu vào đôi vai gân guốc của Luke, nhưng khi Luke đưa đôi môi xuống gần ngực thì Meggie đột ngột xô ra.
- Như thế đủ rồi, Luke!
Đoạn cuối làm Meggie thất vọng, cảm thấy hơi bị xúc phạm. Luke cũng nhận ra điều đó trong khi dìu Meggie bước trở lên xe. Anh ta đứng lại một lúc để vấn điếu thuốc, đầu óc suy nghĩ miên man. Anh vẫn tự cho rằng mình là một người tình, một tay chinh phục có bản lĩnh. Cho đến nay, các cuộc chính phục của anh ta chưa bao giờ bị phản ứng. Phải nói rằng, ngoại trừ vóc dáng của mình, Luke có một kinh nghiệm tình dục không hơn một người làm thuê trung bình ở nông thôn. Anh ta gần như không hiểu gì về các phản ứng thầm kín ở người phụ nữ, ngoài ra những điều bản thân anh thích và chủ yếu thuộc về lý thuyết.
Đối với Meggie, Luke tự nhủ phải hết sức thận trọng, không cho phép mình làm nàng hoảng sợ hay kinh tởm. Sự khoái cảm phải hoãn lại, có thế thôi. Anh phải chinh phục Meggie theo chiều hướng tỏ ra thuận lợi, với những bông hoa và sự ân cần chăm sóc, chứ không nên quá sỗ sàng.
Hai người im lặng một lúc rồi Meggie thở ra, ngả lưng trên chiếc ghế nệm ôtô.
- Em xin lỗi anh, Luke.
- Tôi cũng thế, rất hối tiếc về việc đã xảy ra. Tôi không hề có ý định xúc phạm cô.
- Ồ không đâu! Anh không hề xúc phạm em. Không đâu, thật mà! Chỉ có điều em không quen lắm cái chuyện đó. Anh làm em hoảng sợ chứ không phải xúc phạm.
- Meghann ơi! Luke thốt lên, buông tay lái anh ta nắm lấy hai tay của Meggie đang đặt trên đầu gối. Này nhé, cô đừng nhớ đến chuyện ấy nữa. Chúng ta hãy quên đi.
- Đúng thế, chúng ta đừng nhớ đến nữa, Meggie tán đồng.
- Anh ấy chưa bao giờ ôm hôn cô? Luke tò mò hỏi.
- Ai?
Trong câu hỏi của Meggie hình như có sự lo âu? Nhưng tại sao lại lo âu như thế nhỉ?
- Cô có nói với tôi cô đã từng yêu, do đó tôi suy đoán là cô cũng hiểu đôi chút về chuyện... Tôi rất ân hận, Meghann. Đúng ra tôi phải hiểu rằng, sống cô lập nơi xa xôi này trong một gia đình như gia đình Cleary, thì câu chuyện mà cô kể với tôi chẳng qua là chuyện yêu đương vu vơ của tuổi học trò thậm chí có thể người thanh niên ấy cũng không chú ý đến cô.
- Vâng, vâng, vâng.
Luke nên nhìn sự việc như thế. Luke hoàn toàn có lý. Đó chỉ là mối tình vu vơ của tuổi học trò.
Về đến nhà, Luke lại ôm hôn Meggie nhưng lần này anh ta hôn một cách dịu dàng, chỉ đặt môi mình lên môi Meggie.
Meggie không chống lại, tỏ ra đồng tình.
Anh trở về căn nhà nhỏ dành riêng cho khách và bằng lòng khi nghĩ rằng mình đã không làm tiêu tan đi những hy vọng.
Lần thứ hai Luke ôm hôn Meggie, nàng có một thái độ hoàn toàn khác. Họ tham dự một buổi tiếp tân tổ chức ở Rudna Hunish. Trời lạnh và đường về xa. Luke đã lén mang ra xe vài miếng bánh mì kẹp thịt và một chai rượu sâm banh. Đi được hai phần đường, Luke cho xe dừng lại. Bấy giờ Úc rất hiếm ôtô có trạng bị máy sưởi ấm, nhưng chiếc Rolls lại có.
- Thật là dễ chịu. Vào một đêm giá lạnh như thế này mà ngồi trên xe không cần mặc áo khoác, Meggie mỉm cười nhận xét.
Tiếng máy xe Rolls nổ đều đều như tiếng kêu gừ gừ của một con vật giữa sự vắng lặng của khung cảnh bao la, còn bên trong hơi ấm tỏa ra cũng đều đều nghe như tiếng thở than. Hai loại âm thanh rất khác nhau, nhưng đều êm dịu. Luke tháo cà vạt, mở chiếc nút ở cổ áo sơ mi. Đột ngột, Luke quay sang choàng tay ôm nàng, Meggie vẫn cảm thấy gắn chặt vào Luke, sau đó không kháng cự, nàng để cho Luke kéo nàng áp sát vào ngực. Lần này, Luke không đốt giai đoạn. Môi của Luke như con bướm khi đáp trên đôi má mềm mại, khi đậu trên đôi mắt nhắm lại, đưa nhẹ rất lâu trên hai hàng lông mi, rồi trở lại đáp trên cái miệng có hình dáng trẻ thơ đã làm cho Luke điên người lên ở ngay cuộc gặp gỡ đầu tiên. Rồi đến cổ, rồi làn da mịn màng, tươi mát của bờ vai... và Luke không thể dừng lại được nữa. Nhưng trong đầu Luke vẫn sợ Meggie kháng cự. Mấy ngón tay anh ta bắt đầu tấn công hàng nút phía sau chiếc áo của Meggie.
... Khi Luke đã ngồi ngay ngắn, máng lại hai sợi dây brơ-ten quần lên vai mình và cài lại nhanh gọn hàng nút áo sau lưng Meggie, anh nói:
- Anh nghĩ rằng chúng ta nên làm đám cưới, Meghann. Các anh của em sẽ không đồng ý chút nào về việc vừa rồi chúng ta đã làm.
- Vâng, em cũng thấy như thế, Meggie đồng ý, mắt nhìn xuống, hai má đỏ ửng lên.
- Chúng ta sẽ thông báo cho họ biết vào sáng mai.
- Tại sao không? Càng sớm càng tốt.
- Thứ bảy tới, anh sẽ lái xe đưa em đi Gilly. Chúng ta đến gặp linh mục Thomas. Chắc là em thích cử hành hôn lễ trong nhà thờ.
Không ai ngạc nhiên lắm khi hay tin và cũng không ai có ý nghĩ chống lại hôn lễ.
Điều ngạc nhiên duy nhất cho gia đình là việc Meggie dứt khoát không chịu viết thư cho Đức cha Ralph để thông báo tin này và phản ứng gần như điên loạn của nàng khi Bob đưa ra ý kiến mời cha Ralph dự lễ cưới. Không, không, không! Meggie hét lên. Từ trước đến giờ, Meggie không bao giờ nói lớn tiếng.
Fiona hứa sẽ không đề cập một chữ nào về chuyện này trong thư từ liên lạc với Đức cha Ralph. Hình như bà cũng không quan tâm lắm điều đó, kể cả chuyện Meggie chọn được một người chồng. Việc làm sổ sách cho trang trại lớn như Drogheda chiếm gần hết thời giờ của bà. Những gì bà ghi lại trong sổ tay có thể cung cấp cho bất cứ nhà viết sử nào muốn tả lại đời sống điển hình ở một nơi chăn nuôi cừu ở Úc.
Chủ nhật 22 tháng 7 năm 1934 đã được ghi vào sổ tay của bà như sau: Trời trong, nhiệt độ sáng sớm một độ. Hôm nay không đi lễ. Bob có mặt ở nhà; Jack đi Murrimbah với hai nhân công, Hughie đi West Dam với một nhân công. Beerbarrel đưa cừu ba tuổi từ Budgin đi Winnemurra. Nhiệt độ lên cao lúc mười lăm giờ: 29 độ. Phong vũ biểu ổn định, 777 milimét. Gió hướng tây. Thực đơn buổi ăn chiều: thịt bằm, khoai tây luộc, càrốt và su, bánh pu-đinh với nho. Meghann Cleary sẽ thành hôn với Luke O'' Neill, thợ chăn nuôi vào thứ bảy 25 tháng tám tại Nhà thờ Thánh Giá ở Gillabone. Ghi lại lúc hai mươi mốt giờ; nhiệt độ: 7. Trăng khuyết còn lại một phần tư..
Chương 22
Sau khi chuẩn bị xong xuôi cho lễ thành hôn, Luke nói với vợ sắp cưới:
- Em yêu, anh nghĩ ra sẽ đưa em hưởng tuần trăng mật ở đâu rồi.
- Ở đâu anh?
- Ở miền bắc Queensland. Trong khi em ở tiệm may, anh có nói chuyện với vài tay trong quán rượu Imperial. Họ có nói cho anh biết ở cái xứ trồng mía ấy rất dễ kiếm tiền đối với một người khỏe mạnh không sợ lao động như anh.
- Nhưng anh đã có một việc làm tốt ở đây rồi!
- Một người đàn ông biết tự trọng không thể sống bám vào gia đình vợ. Anh muốn chúng ta kiếm thật nhiều tiền để mua một miếng đất ở Queensland. Anh muốn việc đó thực hiện trước khi anh đã quá già không còn khả năng nghĩ đến nữa. Khi không có trình độ văn hóa thì khó mà tìm một vị trí trong xã hội tốt, nhất là trong cuộc khủng hoảng hiện nay. Nhưng ở Queensland đang thiếu lao động, anh sẽ làm ra tiền gấp mười lần hơn ở Drogheda này.
- Bằng cách nào?
- Chặt mía.
- Chặt mía à? Đó là công việc của một người cu ly mà!
- Không đâu, em lầm rồi. Những người cu ly quá nhỏ con để đạt năng suất của những công nhân da trắng và em cũng dư biết luật lệ ở Úc không cho nhập cư những người da đen và da vàng đến đây tìm việc làm dù với một đồng lương thấp hơn chúng ta. Người ta sợ rằng họ sẽ lấy mất bánh mì của người Úc. Hiện nay công nhân chặt mía đang thiếu, do đó làm công việc này có rất nhiều tiền. Rất ít người to lớn và khỏe mạnh có đủ sức làm. Anh thì đủ sức.
- Có phải ý anh muốn nói chúng ta sẽ sống luôn ở bắc Queensland?
Meggie nhìn Drogheda qua cửa kính. Những cây khuynh diệp cao lớn, xa xa là bãi chăn cừu và rừng cây. Thế là ta sẽ không còn sống ở Drogheda nữa, có nghĩa là sẽ ở một nơi nào đó mà Đức cha Ralph sẽ không bao giờ tìm gặp được. Thế là ta vĩnh viễn không gặp lại Ralph mà gắn chặt cuộc đời mình với một người xa lạ đang ngồi trước mặt. Không còn khả năng trở lại với quá khứ chăng?
Đôi mắt của Meggie biểu lộ một nỗi buồn không cần che giấu, nhưng Luke không thèm chú ý đến. Bất cứ người phụ nữ nào dù có dịu dàng và đẹp như Meggie Cleary cũng không đủ sức lèo lái anh tạ
Đầy tự tin, Luke đi thẳng vào vấn đề. Có những lúc cần sự khéo léo, mưu mẹo nhưng trong trường hợp này, theo anh ta sự thô bạo có ích hơn.
- Meghann, anh hơi cổ lỗ.
- Thật à?
Meggie nhìn Luke tò mò. Cậu hỏi ngược lại của Meggie hàm ý nhưng có sao đâu?
- Đúng thế, Luke nói tiếp. Theo anh sau khi cưới nhau, tất cả tài sản của người vợ thuộc về người chồng, cũng như của hồi môn xưa kia. Anh biết em có chút đỉnh tiền, do đó anh thấy cần phải làm đám cưới ngay từ bây giờ. Sau khi chúng ta chính thức sống với nhau, em sẽ ký các giấy tờ cần thiết, số tiền của em thuộc về anh. Anh nghĩ rằng nói trước các ý định của anh với em như vậy là thẳng thắn hơn; em còn thời giờ để tự do chấp nhận hay từ chối.
Trong suy nghĩ Meggie không hề tính chuyện giữ riêng số tiền ấy mà vẫn nghĩ một khi trở thành vợ Luke nàng sẽ giao tất cả cho chồng. Phần đông các cô gái Úc đều như thế, ngoại trừ vài trường hợp chịu ảnh hưởng nền giáo dục tinh tế hơn thì lại khác. Đa số tự coi mình là nô lệ của chồng như nô lệ với lãnh chúa hay một ông chủ nào đó. Fiona và các con luôn luôn lệ thuộc Pađy và từ khi chồng chết, Fiona chuyển giao quyền cho Bob, người kết vị. Người đàn ông làm chủ tiền, nhà, vợ và các con. Meggie không bao giờ có ý định đặt lại vấn đề.
- Ồ! Em đâu có biết rằng việc ký các giấy tờ là cần thiết, Luke. Em chỉ nghĩ tất cả những gì của em đương nhiên trở thành của anh sau ngày cưới.
- Xưa kia đúng là như thế nhưng những thằng chính khách ngu đần ở Canberia đã thay đổi mọi thứ khi chúng nhìn nhận quyền bầu cử của phụ nữ. Anh muốn rằng mọi chuyện đều rõ ràng và đâu ra đó giữa chúng ta, Meghann. Chính vì thế mà anh muốn em biết rõ ngay từ bây giờ mọi chuyện sẽ như thế nào.
- Nhưng em chẳng thấy có gì bất tiện cả Luke à, Meggie cười nói.
- Em có bao nhiêu tiền tất cả
- Hiện giờ, mười bốn ngàn bảng. Ngoài ra em nhận thêm hằng năm hai ngàn bảng nữa.
Luke reo lên như thán phục:
- Mười bốn ngàn bảng! Thế là nhiều tiền quá, Meghann. Đúng là anh nên trông coi số tiền này. Tuần tới chúng ta sẽ đi gặp ông giám đốc ngân hàng và em nhớ nhắc anh báo với ông ta rằng từ nay tất cả tiền chuyển vào trương mục của em đều phải chuyển thẳng vào tên anh. Em biết không, anh sẽ không đụng một đồng xu, số tiền dành dụm ấy sẽ giúp chúng ta sau này mua một trang trại. Những năm tới, cả hai chúng ta sẽ làm việc cật lực và tiết kiệm từng đồng xu chúng ta làm ra. Đồng ý chứ?
- Vâng, Luke – M
Chương 23
Sau lễ cưới, Meggie trở thành bà Luke O'' Neill, rồi cả hai lên đường đi bắc Queensland. Cuộc hành trình rất mệt nhọc. Chặng đầu đi Goondiwindi, tàu hỏa đầy ắp người, không có toa nằm. Chặng tiếp đi Carins, dù có toa nằm, Luke vẫn mua lại vé ngồi hạng nhì khiến cho Meggie phải kêu lên:
- Anh Luke, chúng mình có tiền mà. Nếu anh đã quên ghé qua ngân hàng lấy tiền thì em cũng có sẵn trong xắc tay một trăm bảng, tiền của Bob cho em. Sao anh không giữ chỗ hạng nhất ở toa có giường nằm?
Luke trố mắt nhìn Meggie, sự kinh ngạc hiện rõ từng nét trên gương mặt của anh ta.
- Nhưng cuộc hành trình đến Dungloe chỉ có ba ngày, tại sao lại phí tiền mua vé toa nằm trong khi cả hai chúng ta đều còn trẻ và khỏe mạnh? Ngồi trên tàu hỏa vài ngày cũng không chết đâu Meghann! Dù sao đã đến lúc em phải hiểu rằng em đã kết hôn với một anh công nhân bình thường, chứ không phải với một tên thực dân giàu có và đáng ghét.
Ngồi sụp xuống ghế bên cửa sổ, người mệt rã rời, tay chống cằm, Meggie nhìn ra cửa kính tránh không cho Luke phát hiện nước mắt đang dâng lên và sắp sửa trào ra. Lòng Meggie như muốn nổi loạn hay nói đúng hơn, là một ý nghĩ vùng dậy. Tuy nhiên tự ái và sự lì lợm ngăn không cho Meggie lao vào một cuộc cãi vã không xứng đáng.
Suốt cuộc hành trình Meggie nhức đầu kinh khủng và không ăn được một thứ gì. Trời nóng khủng khiếp, chưa bao giờ ở Gilly trải qua một cái nóng như thế này. Chiếc áo cưới xinh xắn bằng vải xoa màu hồng bây giờ lem luốc bởi khói và bụi than đen sì từ cửa sổ bay vào.
Đến ga Cardwell, hai người xuống tàu. Luke mau chân đến một tiệm bán cá và khoai tây chiên đối diện với nhà ga. Anh mang về hai khứa cá chiên đầy mỡ, gói trong giấy báo.
- Nếu ai chưa thưởng thức món cá ở Cardwell thì không thể nào hình dung được cái ngon của nó, Meghann yêu quí. Cá ở đây ngon nhất thế giới! Này, em dùng đi, rồi em cho anh biết ý kiến.
Meggie liếc nhìn khứa cá đầt mỡ, liền đó lấy khăn tay che miệng, chạy vội đến phòng vệ sinh. Luke chạy theo đứng ngoài hành lang chờ; một lúc sau Meggie trở ra mặt tái nhợt, người run rẩy.
- Chuyện gì vậy? Em không được khỏe?
- Em cảm thấy không được khỏe từ khi chúng mình rời ga Goondiwindị
Chiều tối, tàu hỏa đến Dungloe, Meggie không còn sức để bước đi bình thường nhưng vì tự ái nàng vẫn giấu Luke. Meggie theo sau Luke như người say rượu. Anh ta nhờ người trưởng ga chỉ giùm một khách sạn dành cho công nhân.
Phòng khách sạn hẹp, đồ đạc bày biện kệch cỡm nhưng đối với Meghann lúc này còn hơn cả thiên đàng. Không kịp thay đồ Meggie buông người xuống giường.
- Em hãy nằm nghỉ một chút trước khi ăn tối. Anh ra ngoài một vòng xem ở đây thế nào.
Meggie thiếp đi trong giấc ngủ mỏi mệt, bên tai vẫn nghe tiếng bánh xe sắt lăn trên đường rày và cái giường lắc lư theo nhịp con tàu. eggie tán đồng
Cả hai gần như không nói một lời nào trên đường từ Braich về Drogheda, cách xa một trăm cây số. Khi về gần đến nhà, Luke cho xe dừng lại, bước xuống đất, đi vòng qua cửa bên kia dìu Meggie cùng bước xuống. Người hơi run, Meggie tự hỏi lẽ nào tất cả sẽ hỏng chỉ vì Luke tìm cách ôm hôn mình? Nhưng giữa sự im lặng tuyệt đối của màn đêm, Luke không hề có một cử chỉ nào hướng về nàng.
Quay lưng lại với bóng đêm, Luke lấy ra bao thuốc rời, một tập giấy, rồi vấn một điếu.
- Có phải cô đã sinh ra ở đây, Meghann? Luke vừa hỏi vừa lơ đễnh những cọng thuốc lá vướng trong lòng bàn tay.
- Không. Tôi sinh ở Tân Tây Lan. Gia đình tôi đến Drogheda cách đây mười ba năm.
- Tối nay cô có thấy vui không?
- Ồ, vui lắm!
- Tôi rất muốn đưa cô đi những buổi khiêu vũ khác.
Rồi Luke lại lặng im; anh rít chầm chậm từng hơi thuốc, mắt nhìn ngang qua mui xe hướng về lùm cây có con chim đang kêu lên những tiếng khó chịu vì giấc ngủ đột ngột bị quấy rầy. Khi điếu thuốc tàn, Luke ném xuống đất rồi dùng gót giày ấn mạnh nhiều lần, cho đến khi anh biết chắc đã dập tắt. Không ai biết cách đè nát một mẩu thuốc lá bằng một người đàn ông quen sống trong rừng rậm Úc châu.
Với một tiếng thở dài, Meggie ngưng không ngắm trăng nữa và Luke dìu nàng trở lên xe. Luke rất cảnh giác nên không ôm hôn Meggie vào lúc này, vả lại anh đã có ý định chuẩn bị cả một kế hoạch để cưới nàng làm vợ. Dù sao trước hết phải chờ chính Meggie mong muốn điều ấy.
Sau đó, trong suốt mùa hè còn có những dạ vũ khác và dần dần trong trang trại mọi người đều quen với việc Meggie được một chàng trai tương xứng hộ tống. Các anh trai của Meggie tránh trêu trọc vì rằng tất cả đều yêu thương Meggie và có cảm tình với Luke, người làm công không hề biết mệt mỏi.
Không bao lâu thì Luke có thói quen đi thẳng về ngôi nhà lớn khi anh không ngủ qua đêm ngoài bãi chăn. Bob nhanh chóng tuyên bố rằng để cho Luke ăn một mình trong khi bàn ăn của gia đình Cleary lại dư thừa là một điều không đúng. Sau đó lại thấy thật là vô lý để Luke hằng đêm sau khi ở lại nói chuyện với Meggie phải đi thêm đoạn đường dài một cây số rưỡi để về nơi anh nghỉ ngơi. Thế là, cả nhà đề nghị Luke dọn về một trong những căn nhà nhỏ dành cho khách nằm ngay ở phía sau nhà lớn.
Lúc này, Meggie bắt đầu nghĩ nhiều về Luke; nhưng ít dằn vặt cực lòng như trước đây mỗi khi Meggie nghĩ đến Ralph. Vết thương lòng đang lành lại dần. Meggie quên đi rằng hai người tuy có cái miệng giống nhau nhưng nụ cười của Ralph khác hẳn; đôi mắt xanh sinh động của Ralph chứa đựng sự êm đềm xa vắng, còn đôi mắt của Luke sáng rực đam mê bão táp. Meggie còn trẻ và chưa được nếm hương vị của ái tình dù trong những giây phút ngắn ngủi. Nàng ước ao được nếm hương vị ngọt ngào ấy trên lưỡi mình, được hít vào lòng ngực như hít một đóa hoa và uống cạn cho đến say. Linh mục Ralph đã trở thành Đức cha Ralph; sẽ không bao giờ, không bao giờ Ralph trở lại với nàng. Ralph đã bán Meggie với số tiền mười ba triệu đồng bảng, để lại trong lòng nàng nỗi oán hận. Nếu Ralph không thốt ra câu nói này trong đêm ở ngoài bãi chăn Forehead thì Meggie cũng không thắc mắc, đằng này Ralph đã dùng những lời lẽ ấy; từ đó trong rất nhiều đêm, Meggie không nhắm mắt được, tự hỏi về ý nghĩa thật sự của câu nói.
Khi đặt lòng bàn tay lên lưng Luke trong đêm khiêu vũ, Meggie nghe cả người mình lâng lâng khó chịu bởi con người này, bởi sự tiếp xúc và sức sống mê hoặc của anh tạ Nhưng Meggie không hề cảm giác được ngọn lửa ầm ĩ quái lạ ấy xâm nhập vào xương tủy mỗi khi ở cách xa Luke và nghĩ về Luke. Meggie cũng không tưởng tượng ra rằng nếu không còn gặp Luke nữa thì mình sẽ cảm thấy héo hon và tàn úa.
Luke vừa khéo vừa kiêu căng, làm việc rất tích cực và khao khát làm giàu. Nhưng cuộc sống lăn lộn trong nghề cắt lông cừu cho anh ta hiểu rằng mình không thể làm giàu bằng con đường đó. Ở vào thời điểm này, Luke khám phá ra mình có sức quyến rũ đối với phụ nữ. Anh ta đã thử thời vận lần đầu lúc làm thợ chăn nuôi ở Guarlunga mà người thừa kế trang trại là một phụ nữ còn tương đối trẻ và đẹp. Chỉ vì sự thiếu may mắn của anh ta mà cuối cùng nữ chủ đã chọn một người đàn ông khác. Từ Guarlunga, Luke đến Bingelly, ở đây anh ta được nhận vào làm việc với tư cách một người chuyên luyện ngựa. Luke chú ý ngay đến cô con gái lớn tuổi tuy không được ông chủ cưng yêu nhưng sẽ là người chính thức thừa kế tài sản. Anh ta gần như đã chinh phục được cô gái ấy nhưng cuối cùng cô ta lại nghe lời cha đi lấy một ông chồng sáu mươi tuổi còn thích ăn diện, chủ một trang trại kế bên.
Hai lần thử thời vận ấy làm cho Luke mất đi hơn ba năm trong cuộc sống và anh ta cho rằng thời gian hai mươi tháng phải mất cho mỗi nữ thừa kế là quá dài và chán ngắt. Đã có lúc, anh ta nghĩ rằng nên đi du lịch thật xa, luôn thay đổi khung cảnh sống, mở rộng chân trời của đời mình cho đến khi nào phát hiện ra một con mồi thật sự đáng chú ý. Thế là Luke vui chơi thỏa thích, đi khắp nẻo đường tải súc vật ở miền tây Queensland, rồi thả dọc theo các con sông Cooper và Diamantina, Barcoo và Bulloo Overflow, vào tận miền tây xứ New South Wales. Bây giờ anh ta đã ba mươi tuổi, đã đến lúc phải tìm ra một con gà mái đẻ được vài trứng vàng.
Ai ai cũng bàn tán về Drogheda, riêng Luke thì dò la được biết ở trang trại này chỉ có một người con gái. Không hy vọng cô ta trở thành người thừa kế, nhưng biết đâu gia đình ấy sẽ dành cho cô ta của hồi môn khoảng chừng bốn chục ngàn hecta đất ở phía Kynuna hay Winton. Vùng Gilly dễ chịu nhưng có quá đông người và có nhiều loài cây không hợp với ý thích anh ta. Luke mơ mộng đến sự bao la của vùng tây Queensland, cỏ mọc mút mắt, chẳng thấy đâu là cây cối. Chỉ có cỏ và cỏ, không thấy nơi bắt đầu và nơi chấm dứt, ở đó người chủ tha hồ thả nuôi mỗi con cừu trên khoảng rộng bốn hectạ
Dù mục tiêu của anh ta là bốn mươi ngàn hecta ở vùng Kynuna hay Winton - mục tiêu này đã trở thành một ám ảnh đối với Luke - nhưng thật sự đồng tiền mới là thứ anh ta yêu nhất, hơn cả những gì nó có thể mang lại. Làm chủ đất đai và thế lực đối với Luke không hấp dẫn bằng những con số xếp hàng trên cuốn ngân phiếu mang tên Luke O'' Neill. Nếu là một người thật sự say mê trở thành chủ trang trại thì không bao giờ Luke nhắm đến Meggie Cleary, đứa con gái không có trong tay một tấc đất.
Lần thứ mười ba trong mười tuần lễ liền, Luke đưa Meggie đi dạ vũ, lần này do trường Thánh giá ở Gilly tổ chức.
Đều đặn thứ bảy nào cũng thế, Luke mượn Bob chìa khóa chiếc xe Rolls và đưa Meggie ra khỏi Drogheda khoảng hai trăm cây số.
Chiều tối hôm đó, trời lạnh và không có trăng, Meggie đứng tựa lưng vào hàng rào cách xa nhà, ngắm nhìn cảnh vật. Dưới chân là tiếng rắc rắc của tuyết đóng băng. Mùa đông đã đến. Cánh tay của Luke choàng qua vai Meggie vào kéo nàng sát vào người.
- Cô bị lạnh đấy, Luke nhận xét. Chúng ta nên lên xe trở về.
- Không sao, bây giờ em thấy dễ chịu. Em đã ấm lại - Meggie trả lời hơi thở dồn dập. Meggie nhận ra một sự thay đổi ở Luke khi anh ta ấn mạnh cánh tay dù cho cử chỉ ấy có vẻ như không chủ tâm. Nhưng thật dễ chịu làm sao khi áp sát vào người Luke, đón nhận hơi ấm tỏa ra từ thân thể một người đàn ông đầy những bắp thịt gân guốc. Dù mặc chiếc áo ấm xănđai khá dày bên ngoài, Meggie vẫn cảm giác rõ những ngón tay của Luke vẽ những vòng tròn mơn trớn cố tình khơi dậy ở nàng một phản ứng. Đến mức này, nếu Meggie bảo rằng lạnh thì Luke sẽ dừng lại; Nếu Meggie làm thinh không nói tiếng nào, Luke sẽ cho rằng đó là sự đồng tình. Meggie còn trẻ và khao khát được tận hưởng tình yêu. Luke là người đàn ông thứ nhất, ngoài Ralph được nàng chú ý, thế thì tại sao lại từ chối cái hương vị của những nụ hôn?
Cho rằng sự im lặng của Meggie có nghĩa là đồng tình, Luke đặt bàn tay mình lên vai Meggie, xoay người nàng lại, mặt đối mặt. Luke đặt đôi môi mình lên môi Meggie. Đôi môi của Meggie khẽ động đậy, dấu hiệu của sự chấp nhận. Luke ấn mạnh miệng mình, đôi môi Meggie hé mở ra... Ghê tởm . Đúng lúc đó Meggie nhận ra rằng không hiểu tại sao cảm giác đang có nó quá khác xa với lúc Ralph ôm hôn mình, lúc đó Meggie không hề nghe thấy sự ghê tởm gần như buồn nôn. Tức khắc, một sự trống rỗng xâm chiếm tâm hồn Meggie. Đôi môi của nàng đã mở ra đón nhận nụ hôn của Luke không khác nào tủ sắt mở tung cánh cửa khi người ta ấn đúng vào một cái lò xo bí mật. Luke đã hành động quái quỷ thế nào mà làm cho toàn thân nàng run lên như vậy, khiến Meggie phải bấu chặt vào người Luke trong khi vẫn hết sức thoát ra khỏi hai cánh tay của anh ta.
Luke phát hiện điển nhạy cảm của Meggie sẽ khiến cho nàng mất đi khả năng chống trả. Các ngón tay của Luke ấn xuống cạnh sườn phía dưới của Meggie, truyền vào người nàng một luồng điện. Cho đến lúc đó, nàng vẫn không hưởng ứng một cách cuồng nhiệt. Luke không hôn môi Meggie nữa mà đặt đôi môi mình lên chiếc cổ mềm mại của nàng. Nàng tỏ ra thích thú với sự tiếp xúc này; hơi thở dồn dập, hai bàn tay bấu vào đôi vai gân guốc của Luke, nhưng khi Luke đưa đôi môi xuống gần ngực thì Meggie đột ngột xô ra.
- Như thế đủ rồi, Luke!
Đoạn cuối làm Meggie thất vọng, cảm thấy hơi bị xúc phạm. Luke cũng nhận ra điều đó trong khi dìu Meggie bước trở lên xe. Anh ta đứng lại một lúc để vấn điếu thuốc, đầu óc suy nghĩ miên man. Anh vẫn tự cho rằng mình là một người tình, một tay chinh phục có bản lĩnh. Cho đến nay, các cuộc chính phục của anh ta chưa bao giờ bị phản ứng. Phải nói rằng, ngoại trừ vóc dáng của mình, Luke có một kinh nghiệm tình dục không hơn một người làm thuê trung bình ở nông thôn. Anh ta gần như không hiểu gì về các phản ứng thầm kín ở người phụ nữ, ngoài ra những điều bản thân anh thích và chủ yếu thuộc về lý thuyết.
Đối với Meggie, Luke tự nhủ phải hết sức thận trọng, không cho phép mình làm nàng hoảng sợ hay kinh tởm. Sự khoái cảm phải hoãn lại, có thế thôi. Anh phải chinh phục Meggie theo chiều hướng tỏ ra thuận lợi, với những bông hoa và sự ân cần chăm sóc, chứ không nên quá sỗ sàng.
Hai người im lặng một lúc rồi Meggie thở ra, ngả lưng trên chiếc ghế nệm ôtô.
- Em xin lỗi anh, Luke.
- Tôi cũng thế, rất hối tiếc về việc đã xảy ra. Tôi không hề có ý định xúc phạm cô.
- Ồ không đâu! Anh không hề xúc phạm em. Không đâu, thật mà! Chỉ có điều em không quen lắm cái chuyện đó. Anh làm em hoảng sợ chứ không phải xúc phạm.
- Meghann ơi! Luke thốt lên, buông tay lái anh ta nắm lấy hai tay của Meggie đang đặt trên đầu gối. Này nhé, cô đừng nhớ đến chuyện ấy nữa. Chúng ta hãy quên đi.
- Đúng thế, chúng ta đừng nhớ đến nữa, Meggie tán đồng.
- Anh ấy chưa bao giờ ôm hôn cô? Luke tò mò hỏi.
- Ai?
Trong câu hỏi của Meggie hình như có sự lo âu? Nhưng tại sao lại lo âu như thế nhỉ?
- Cô có nói với tôi cô đã từng yêu, do đó tôi suy đoán là cô cũng hiểu đôi chút về chuyện... Tôi rất ân hận, Meghann. Đúng ra tôi phải hiểu rằng, sống cô lập nơi xa xôi này trong một gia đình như gia đình Cleary, thì câu chuyện mà cô kể với tôi chẳng qua là chuyện yêu đương vu vơ của tuổi học trò thậm chí có thể người thanh niên ấy cũng không chú ý đến cô.
- Vâng, vâng, vâng.
Luke nên nhìn sự việc như thế. Luke hoàn toàn có lý. Đó chỉ là mối tình vu vơ của tuổi học trò.
Về đến nhà, Luke lại ôm hôn Meggie nhưng lần này anh ta hôn một cách dịu dàng, chỉ đặt môi mình lên môi Meggie.
Meggie không chống lại, tỏ ra đồng tình.
Anh trở về căn nhà nhỏ dành riêng cho khách và bằng lòng khi nghĩ rằng mình đã không làm tiêu tan đi những hy vọng.
Lần thứ hai Luke ôm hôn Meggie, nàng có một thái độ hoàn toàn khác. Họ tham dự một buổi tiếp tân tổ chức ở Rudna Hunish. Trời lạnh và đường về xa. Luke đã lén mang ra xe vài miếng bánh mì kẹp thịt và một chai rượu sâm banh. Đi được hai phần đường, Luke cho xe dừng lại. Bấy giờ Úc rất hiếm ôtô có trạng bị máy sưởi ấm, nhưng chiếc Rolls lại có.
- Thật là dễ chịu. Vào một đêm giá lạnh như thế này mà ngồi trên xe không cần mặc áo khoác, Meggie mỉm cười nhận xét.
Tiếng máy xe Rolls nổ đều đều như tiếng kêu gừ gừ của một con vật giữa sự vắng lặng của khung cảnh bao la, còn bên trong hơi ấm tỏa ra cũng đều đều nghe như tiếng thở than. Hai loại âm thanh rất khác nhau, nhưng đều êm dịu. Luke tháo cà vạt, mở chiếc nút ở cổ áo sơ mi. Đột ngột, Luke quay sang choàng tay ôm nàng, Meggie vẫn cảm thấy gắn chặt vào Luke, sau đó không kháng cự, nàng để cho Luke kéo nàng áp sát vào ngực. Lần này, Luke không đốt giai đoạn. Môi của Luke như con bướm khi đáp trên đôi má mềm mại, khi đậu trên đôi mắt nhắm lại, đưa nhẹ rất lâu trên hai hàng lông mi, rồi trở lại đáp trên cái miệng có hình dáng trẻ thơ đã làm cho Luke điên người lên ở ngay cuộc gặp gỡ đầu tiên. Rồi đến cổ, rồi làn da mịn màng, tươi mát của bờ vai... và Luke không thể dừng lại được nữa. Nhưng trong đầu Luke vẫn sợ Meggie kháng cự. Mấy ngón tay anh ta bắt đầu tấn công hàng nút phía sau chiếc áo của Meggie.
... Khi Luke đã ngồi ngay ngắn, máng lại hai sợi dây brơ-ten quần lên vai mình và cài lại nhanh gọn hàng nút áo sau lưng Meggie, anh nói:
- Anh nghĩ rằng chúng ta nên làm đám cưới, Meghann. Các anh của em sẽ không đồng ý chút nào về việc vừa rồi chúng ta đã làm.
- Vâng, em cũng thấy như thế, Meggie đồng ý, mắt nhìn xuống, hai má đỏ ửng lên.
- Chúng ta sẽ thông báo cho họ biết vào sáng mai.
- Tại sao không? Càng sớm càng tốt.
- Thứ bảy tới, anh sẽ lái xe đưa em đi Gilly. Chúng ta đến gặp linh mục Thomas. Chắc là em thích cử hành hôn lễ trong nhà thờ.
Không ai ngạc nhiên lắm khi hay tin và cũng không ai có ý nghĩ chống lại hôn lễ.
Điều ngạc nhiên duy nhất cho gia đình là việc Meggie dứt khoát không chịu viết thư cho Đức cha Ralph để thông báo tin này và phản ứng gần như điên loạn của nàng khi Bob đưa ra ý kiến mời cha Ralph dự lễ cưới. Không, không, không! Meggie hét lên. Từ trước đến giờ, Meggie không bao giờ nói lớn tiếng.
Fiona hứa sẽ không đề cập một chữ nào về chuyện này trong thư từ liên lạc với Đức cha Ralph. Hình như bà cũng không quan tâm lắm điều đó, kể cả chuyện Meggie chọn được một người chồng. Việc làm sổ sách cho trang trại lớn như Drogheda chiếm gần hết thời giờ của bà. Những gì bà ghi lại trong sổ tay có thể cung cấp cho bất cứ nhà viết sử nào muốn tả lại đời sống điển hình ở một nơi chăn nuôi cừu ở Úc.
Chủ nhật 22 tháng 7 năm 1934 đã được ghi vào sổ tay của bà như sau: Trời trong, nhiệt độ sáng sớm một độ. Hôm nay không đi lễ. Bob có mặt ở nhà; Jack đi Murrimbah với hai nhân công, Hughie đi West Dam với một nhân công. Beerbarrel đưa cừu ba tuổi từ Budgin đi Winnemurra. Nhiệt độ lên cao lúc mười lăm giờ: 29 độ. Phong vũ biểu ổn định, 777 milimét. Gió hướng tây. Thực đơn buổi ăn chiều: thịt bằm, khoai tây luộc, càrốt và su, bánh pu-đinh với nho. Meghann Cleary sẽ thành hôn với Luke O'' Neill, thợ chăn nuôi vào thứ bảy 25 tháng tám tại Nhà thờ Thánh Giá ở Gillabone. Ghi lại lúc hai mươi mốt giờ; nhiệt độ: 7. Trăng khuyết còn lại một phần tư..
Chương 22
Sau khi chuẩn bị xong xuôi cho lễ thành hôn, Luke nói với vợ sắp cưới:
- Em yêu, anh nghĩ ra sẽ đưa em hưởng tuần trăng mật ở đâu rồi.
- Ở đâu anh?
- Ở miền bắc Queensland. Trong khi em ở tiệm may, anh có nói chuyện với vài tay trong quán rượu Imperial. Họ có nói cho anh biết ở cái xứ trồng mía ấy rất dễ kiếm tiền đối với một người khỏe mạnh không sợ lao động như anh.
- Nhưng anh đã có một việc làm tốt ở đây rồi!
- Một người đàn ông biết tự trọng không thể sống bám vào gia đình vợ. Anh muốn chúng ta kiếm thật nhiều tiền để mua một miếng đất ở Queensland. Anh muốn việc đó thực hiện trước khi anh đã quá già không còn khả năng nghĩ đến nữa. Khi không có trình độ văn hóa thì khó mà tìm một vị trí trong xã hội tốt, nhất là trong cuộc khủng hoảng hiện nay. Nhưng ở Queensland đang thiếu lao động, anh sẽ làm ra tiền gấp mười lần hơn ở Drogheda này.
- Bằng cách nào?
- Chặt mía.
- Chặt mía à? Đó là công việc của một người cu ly mà!
- Không đâu, em lầm rồi. Những người cu ly quá nhỏ con để đạt năng suất của những công nhân da trắng và em cũng dư biết luật lệ ở Úc không cho nhập cư những người da đen và da vàng đến đây tìm việc làm dù với một đồng lương thấp hơn chúng ta. Người ta sợ rằng họ sẽ lấy mất bánh mì của người Úc. Hiện nay công nhân chặt mía đang thiếu, do đó làm công việc này có rất nhiều tiền. Rất ít người to lớn và khỏe mạnh có đủ sức làm. Anh thì đủ sức.
- Có phải ý anh muốn nói chúng ta sẽ sống luôn ở bắc Queensland?
Meggie nhìn Drogheda qua cửa kính. Những cây khuynh diệp cao lớn, xa xa là bãi chăn cừu và rừng cây. Thế là ta sẽ không còn sống ở Drogheda nữa, có nghĩa là sẽ ở một nơi nào đó mà Đức cha Ralph sẽ không bao giờ tìm gặp được. Thế là ta vĩnh viễn không gặp lại Ralph mà gắn chặt cuộc đời mình với một người xa lạ đang ngồi trước mặt. Không còn khả năng trở lại với quá khứ chăng?
Đôi mắt của Meggie biểu lộ một nỗi buồn không cần che giấu, nhưng Luke không thèm chú ý đến. Bất cứ người phụ nữ nào dù có dịu dàng và đẹp như Meggie Cleary cũng không đủ sức lèo lái anh tạ
Đầy tự tin, Luke đi thẳng vào vấn đề. Có những lúc cần sự khéo léo, mưu mẹo nhưng trong trường hợp này, theo anh ta sự thô bạo có ích hơn.
- Meghann, anh hơi cổ lỗ.
- Thật à?
Meggie nhìn Luke tò mò. Cậu hỏi ngược lại của Meggie hàm ý nhưng có sao đâu?
- Đúng thế, Luke nói tiếp. Theo anh sau khi cưới nhau, tất cả tài sản của người vợ thuộc về người chồng, cũng như của hồi môn xưa kia. Anh biết em có chút đỉnh tiền, do đó anh thấy cần phải làm đám cưới ngay từ bây giờ. Sau khi chúng ta chính thức sống với nhau, em sẽ ký các giấy tờ cần thiết, số tiền của em thuộc về anh. Anh nghĩ rằng nói trước các ý định của anh với em như vậy là thẳng thắn hơn; em còn thời giờ để tự do chấp nhận hay từ chối.
Trong suy nghĩ Meggie không hề tính chuyện giữ riêng số tiền ấy mà vẫn nghĩ một khi trở thành vợ Luke nàng sẽ giao tất cả cho chồng. Phần đông các cô gái Úc đều như thế, ngoại trừ vài trường hợp chịu ảnh hưởng nền giáo dục tinh tế hơn thì lại khác. Đa số tự coi mình là nô lệ của chồng như nô lệ với lãnh chúa hay một ông chủ nào đó. Fiona và các con luôn luôn lệ thuộc Pađy và từ khi chồng chết, Fiona chuyển giao quyền cho Bob, người kết vị. Người đàn ông làm chủ tiền, nhà, vợ và các con. Meggie không bao giờ có ý định đặt lại vấn đề.
- Ồ! Em đâu có biết rằng việc ký các giấy tờ là cần thiết, Luke. Em chỉ nghĩ tất cả những gì của em đương nhiên trở thành của anh sau ngày cưới.
- Xưa kia đúng là như thế nhưng những thằng chính khách ngu đần ở Canberia đã thay đổi mọi thứ khi chúng nhìn nhận quyền bầu cử của phụ nữ. Anh muốn rằng mọi chuyện đều rõ ràng và đâu ra đó giữa chúng ta, Meghann. Chính vì thế mà anh muốn em biết rõ ngay từ bây giờ mọi chuyện sẽ như thế nào.
- Nhưng em chẳng thấy có gì bất tiện cả Luke à, Meggie cười nói.
- Em có bao nhiêu tiền tất cả
- Hiện giờ, mười bốn ngàn bảng. Ngoài ra em nhận thêm hằng năm hai ngàn bảng nữa.
Luke reo lên như thán phục:
- Mười bốn ngàn bảng! Thế là nhiều tiền quá, Meghann. Đúng là anh nên trông coi số tiền này. Tuần tới chúng ta sẽ đi gặp ông giám đốc ngân hàng và em nhớ nhắc anh báo với ông ta rằng từ nay tất cả tiền chuyển vào trương mục của em đều phải chuyển thẳng vào tên anh. Em biết không, anh sẽ không đụng một đồng xu, số tiền dành dụm ấy sẽ giúp chúng ta sau này mua một trang trại. Những năm tới, cả hai chúng ta sẽ làm việc cật lực và tiết kiệm từng đồng xu chúng ta làm ra. Đồng ý chứ?
- Vâng, Luke – M
Chương 23
Sau lễ cưới, Meggie trở thành bà Luke O'' Neill, rồi cả hai lên đường đi bắc Queensland. Cuộc hành trình rất mệt nhọc. Chặng đầu đi Goondiwindi, tàu hỏa đầy ắp người, không có toa nằm. Chặng tiếp đi Carins, dù có toa nằm, Luke vẫn mua lại vé ngồi hạng nhì khiến cho Meggie phải kêu lên:
- Anh Luke, chúng mình có tiền mà. Nếu anh đã quên ghé qua ngân hàng lấy tiền thì em cũng có sẵn trong xắc tay một trăm bảng, tiền của Bob cho em. Sao anh không giữ chỗ hạng nhất ở toa có giường nằm?
Luke trố mắt nhìn Meggie, sự kinh ngạc hiện rõ từng nét trên gương mặt của anh ta.
- Nhưng cuộc hành trình đến Dungloe chỉ có ba ngày, tại sao lại phí tiền mua vé toa nằm trong khi cả hai chúng ta đều còn trẻ và khỏe mạnh? Ngồi trên tàu hỏa vài ngày cũng không chết đâu Meghann! Dù sao đã đến lúc em phải hiểu rằng em đã kết hôn với một anh công nhân bình thường, chứ không phải với một tên thực dân giàu có và đáng ghét.
Ngồi sụp xuống ghế bên cửa sổ, người mệt rã rời, tay chống cằm, Meggie nhìn ra cửa kính tránh không cho Luke phát hiện nước mắt đang dâng lên và sắp sửa trào ra. Lòng Meggie như muốn nổi loạn hay nói đúng hơn, là một ý nghĩ vùng dậy. Tuy nhiên tự ái và sự lì lợm ngăn không cho Meggie lao vào một cuộc cãi vã không xứng đáng.
Suốt cuộc hành trình Meggie nhức đầu kinh khủng và không ăn được một thứ gì. Trời nóng khủng khiếp, chưa bao giờ ở Gilly trải qua một cái nóng như thế này. Chiếc áo cưới xinh xắn bằng vải xoa màu hồng bây giờ lem luốc bởi khói và bụi than đen sì từ cửa sổ bay vào.
Đến ga Cardwell, hai người xuống tàu. Luke mau chân đến một tiệm bán cá và khoai tây chiên đối diện với nhà ga. Anh mang về hai khứa cá chiên đầy mỡ, gói trong giấy báo.
- Nếu ai chưa thưởng thức món cá ở Cardwell thì không thể nào hình dung được cái ngon của nó, Meghann yêu quí. Cá ở đây ngon nhất thế giới! Này, em dùng đi, rồi em cho anh biết ý kiến.
Meggie liếc nhìn khứa cá đầt mỡ, liền đó lấy khăn tay che miệng, chạy vội đến phòng vệ sinh. Luke chạy theo đứng ngoài hành lang chờ; một lúc sau Meggie trở ra mặt tái nhợt, người run rẩy.
- Chuyện gì vậy? Em không được khỏe?
- Em cảm thấy không được khỏe từ khi chúng mình rời ga Goondiwindị
Chiều tối, tàu hỏa đến Dungloe, Meggie không còn sức để bước đi bình thường nhưng vì tự ái nàng vẫn giấu Luke. Meggie theo sau Luke như người say rượu. Anh ta nhờ người trưởng ga chỉ giùm một khách sạn dành cho công nhân.
Phòng khách sạn hẹp, đồ đạc bày biện kệch cỡm nhưng đối với Meghann lúc này còn hơn cả thiên đàng. Không kịp thay đồ Meggie buông người xuống giường.
- Em hãy nằm nghỉ một chút trước khi ăn tối. Anh ra ngoài một vòng xem ở đây thế nào.
Meggie thiếp đi trong giấc ngủ mỏi mệt, bên tai vẫn nghe tiếng bánh xe sắt lăn trên đường rày và cái giường lắc lư theo nhịp con tàu. eggie tán đồng
Title: Re: Tiếng chim hót trong bụi mận gai - Colleen McCullough. Bestseller năm 1977
Post by: Serenade24 on 04/05/07, 16:03
Post by: Serenade24 on 04/05/07, 16:03
Chương 24
Có ai đó đã cởi giày và vớ, trước khi đắp lên mình Meggie tắm vải giường. Nàng vươn vai mở mắt ra và nhìn chung quanh. Luke ngồi bên cửa sổ, một chân rút lên, đang hút thuốc. Nghe vợ trở mình, Luke quay lại mỉm cười.
- Này cô ơi! Cô đóng vai một người vợ mới cưới thật dễ thương! Trong khi anh sốt ruột chờ đợi để bắt đầu tuần trăng mật thì vợ anh ngủ vùi luôn hai ngày! Lúc đầu anh hơi lo vì không làm sao gọi em thức dậy được nhưng ông chủ khách sạn đã giải thích với anh rằng có nhiều phụ nữ cũng ngủ vùi như thế sau một cuộc hành trình bằng tàu hỏa với khí hậu ẩm thấp trong vùng. Bây giờ em thấy thế nào?
- Em cảm thấy dễ chịu hơn, cảm ơn anh. Đành rằng em trẻ và khỏe mạnh nhưng dù sao em vẫn là một phụ nữ. Sức chịu đựng của em vẫn kém hơn anh chứ.
Luke đến ngồi bên mép giường, nắm tay Meggie vuốt ve tỏ ý hối hận.
- Anh xin lỗi em, Meghann. Anh quên đi em là một phụ nữ. Em thấy không, anh chưa quen với vai trò làm chồng của mình. Có thế thôi. Em có đói không?
- Em chết đến nơi vì đói. Gần một tuần qua em có ăn gì đâu.
Luke đưa Meggie vào tiệm ăn Trung Hoa sát bên khách sạn. Bây giờ ăn gì cũng thấy ngon. Ăn xong Luke nắm tay dẫn Meggie đi dạo khắp Dungloe cứ như thành phố này thuộc về anh ta. Cung cách đó cũng hợp lý vì Queensland là nguyên quán của Luke. Trên đường phố Dungloe có rất nhiều người Trung Hoa, đàn ông và phụ nữ ăn mặc gần giống nhau khiến Meggie rất khó phân biệt. Gần hết hoạt động thương mại đều nằm trong tay người Trung Hoa. Cửa hàng đầy đủ và lớn nhất mang tên Ah Wong'' s; phần đông các cửa hiệu cũng đều của người Trung Hoa. Ở đâu cũng thấy xe đạp, hàng trăm chiếc; rất ít xe ôtô, tuyệt nhiên không có ngựa như ở Gilly. Dungloe hoàn toàn khác các thành phố miền tây. Ở đây rất nóng, nóng dữ dội, mặc dù chỉ khoảng 32 độ. Ở Gilly có lúc nhiệt độ lên đến 46 nhưng không khí thấy dễ chịu hơn.
- Luke ơi, em mệt quá không chịu nổi nữa! Chúng ta hãy trở về khách sạn - Meggie vừa nói vừa thở hổn hển dù mới đi bộ không hơn một cây số.
- Tùy ý em. Chính cái không khí ẩm làm cho em mệt. Ở đây mưa quanh năm, khó phân biệt mùa nào với mùa nào. Nhiệt độ ở khoảng giữa 29 đến 35.
Về đến khách sạn, Luke mở cửa phòng rồi nép qua một bên để Meggie bước vào một mình.
- Anh xuống quầy rượu uống một ly bia. Anh sẽ trở lại trong nửa giờ, như thế có đủ thời giờ cho em sửa soạn.
- Vâng, Luke - nàng vừa nói vừa nhìn Luke với vẻ hốt hoảng.
Khi Luke trở về phòng thì Meggie đã tắt đèn, phủ tấm chăn lên đến cằm. Luke không thể nín cười, kéo giật tấm vải ra khỏi người Meggie và vứt xuống đất.
- Trời nóng như thế này quá đủ rồi em ạ. Chúng ta không cần tấm vải này đâu.
Meggie nghe tiếng chân Luke bước trong phòng, nhìn thấy bóng của Luke trong khi anh cởi quần áo.
- Em để bộ đồ ngủ của anh trên bàn phấn - Meggie nói thì thầm.
- Quần áo ngủ? Trời nóng thế này mà mặc quần áo ngủ? Anh vẫn biết ở Gilly người ta đánh giá đủ điều một người đàn ông không mặc quần áo khi lên giường, nhưng chúng ta đang ở Dungloe em à! Em đang mặc áo ngủ à?
- Vâng.
- Thế thì vứt nó ra đi. Nó chỉ làm cản trở chúng ta.
Mò mẫm trong bóng tối, cuối cùng Meggie đã cởi bỏ được chiếc áo ngủ bằng vải phin mỏng mà bà quản gia Smith với lòng thương yêu Meggie đã bỏ công thêu với chủ đích để nàng mặc trong đêm tân hôn. Meggie cầu trời trong bóng tối Luke sẽ không thấy rõ nàng.
Luke đoán không sai. Meggie cảm thấy thoải mái và tươi mát hơn khi nằm dài trên giường không bị mảnh vải nào vướng vào thân thể, để cho cơn gió nhẹ từ những cửa sổ nhỏ mở rộng mơn trớn làn da láng mịn.
Nhưng khi Meggie tưởng tượng có một thân thể khác nóng ran nằm kế bên thì nàng lại thấy chán nản.
Lò xo giường kêu lên; Meggie nghe một thứ da thịt ướt đẫm mồ hôi chạm vào tay, khiến nàng không khỏi giật mình. Luke nằm nghiêng qua, choàng tay ôm lấy Meggie. Lúc đầu, nàng không đồng tình, nhưng vẫn nằm yên. Vậy mà khi nghĩ đến cái miệng của Luke, cái hôn bằng lưỡi sỗ sàng của anh ta, Meggie vùng vẫy cố thoát ra khỏi vòng tay của Luke. Nàng không muốn có sự tiếp xúc trong cái nóng nực này, nàng không muốn được ôm ấp và nàng cũng không muốn có Luke. Diễn tiến đêm nay không giống chút nào cái đêm trên chiếc xe ôtô Rolls khi cả hai từ Rudna Hunish trở về nhà. Meggie không cảm nhận được ở Luke điều gì gọi là âu yếm, một phần thân thể mạnh bạo của Luke đang cố sức đẩy vẹt hai đùi Meggie ra, trong khi đó một bàn tay với những móng tay không được cắt sát bấm sâu vào mông nàng. Sự e dè lúc đầu biến thành sợ hãi. Luke không cần biết nàng nghĩ gì, cảm giác ra sao trong lúc này. Rồi bỗng nhiên, anh ta buông Meggie ra, ngồi dậy, sờ soạng, rồi tìm gặp một cái gì nắm kéo ra, gây nên một tiếng động rất lạ.
- Tốt hơn là nên đề phòng trước - anh ta nói hổn hển. Em nằm ngửa đi - Không phải như thế! Sao em lại dốt đến thế.
- Không, không, Luke, em không muốn đâu! - Nàng muốn hét lên. Thật kinh khủng, tục tĩu. Đến một lúc, dù vừa mệt vừa sợ hãi đến mờ cả lý trí, Meggie vẫn phải thét lên nghe xé tai.
- Em im đi! Luke ra lệnh. Cái gì kỳ cục vậy! Có phải em muốn làm náo động cả khách sạn này để cho mọi người hiểu lầm là anh định giết em? Nằm im đi. Chuyện này với em cũng không đau đớn gì hơn những người khác đâu! Nằm im đi. Anh bảo nằm im đi.
Meggie vùng vẫy như một người bị quỷ ám, cố hất văng cái vật khủng khiếp đã gây cho nàng sự đau đớn nhưng với tất cả sức nặng của thân xác, Luke đè bẹp nàng không thể cục cựa và dùng tay ngăn không cho Meggie hét.
Một lúc rất lâu Luke mới chịu buông tha, lăn qua một bên nằm yên, thở dồn dập.
- Lần sau em sẽ thích thú hơn, Luke nói giữa những cơn thở hổn hển. Lần đầu bao giờ cũng thế - rất đau đối với người phụ nữ.
Nhưng rồi lần thứ hai, thứ ba cũng thế. Luke tỏ ra kinh ngạc, không hiểu tại sao nàng vẫn vùng vẫy la hét, tưởng rằng sau lần đầu thì sự đau đớn sẽ tự nhiên tan biến đi. Cuối cùng Luke nổi giận, quay lưng lại, nhắm mắt ngủ. Meggie cảm thấy nước mắt nhỏ xuống hai bên má rồi lẫn vào trong tóc. Nằm ngửa nhìn lên trần nhà, Meggie ước ao được chết đi hay ít ra được trở lại cuộc sống xưa kia ở Drogheda.
Chương 25
- Anh đã tìm được việc làm cho em, Luke nói với Meggie lúc hai người ăn sáng.
- Sao? Tìm việc làm cho em trước khi chúng ta tìm được một căn nhà?
- Meggie! mướn nhà làm gì, thật là vô ích. Anh đi chặt mía, mọi chuyện sẽ ổn thôi. Nhóm thợ chặt mía giỏi nhất Queensland gồm những người Thụy Điển, Ba Lan, Ãi Nhĩ Lan do một tay tên là Arne Swenson điều khiển. Trong khi em ngủ anh đã gặp hắn. Hiện nhóm của hắn thiếu một người và hắn bằng lòng nhận anh hai mươi bảng một tuần, số tiền ấy đâu phải nhỏ.
- Có phải anh định nói là chúng ta không sống chung cùng một nơi?
- Không thể được Meggie! Phụ nữ không được phép ở lán trại của bọn đàn ông. Vả lại ở nhà một mình em sẽ làm gì? Tốt hơn hết là em cũng nên làm việc; tất cả đồng tiền mà chúng ta làm ra sẽ dùng vào việc mua trang trại.
- Nhưng em sẽ ở đâu? Em sẽ làm loại công việc gì? Ở đây đâu có gia súc như ở Drogheda?
- Không đâu. Chính vì thế mà anh đã tìm ra một nơi em có thể ăn ở luôn mà anh khỏi phải tốn kém. Em sẽ làm việc tại Himmelhoch như người giúp việc cho gia đình Ludwig Mueller. Đây là một tay trồng mía lớn nhất trong vùng, còn vợ hắn thì bị tàn tật. Bà ta không thể dọn dẹp nhà cửa. Anh sẽ đưa em đến đó sáng mai.
- Nếu đó là sự chọn lựa của anh... (Meggie nhìn xuống chiếc xắc tay). Luke, có phải anh đã lấy một trăm đồng bảng của em?
- Anh đã gởi tất cả vào ngân hàng. Không lẽ em đi dạo lại mang theo số tiền lớn như thế sao Meggie?
- Nhưng như thế là anh đã lấy của em đến đồng xu cuối cùng. Dù sao em cũng cần chút đỉnh tiền xài vặt chứ?
- Trời ơi em cần tiền để làm gì? Bắt đầu sáng mai em ở Himmelhoch và em không có dịp nào để xài tiền. Còn tiền trả khách sạn bây giờ anh sẽ lo. Đã đến lúc em phải hiểu rằng em đã lấy một người chồng lao động thực sự chứ không phải là một cô gái được một tên thực dân giàu có dư tiền liệng qua cửa sổ.
Tất cả tiền hàng tháng em làm ra, Muwller sẽ không trả thẳng cho em mà sẽ chuyển vào trương mục tên anh ở ngân hàng. Anh cũng sẽ gởi vào ngân hàng tất cả tiền làm ra. Anh không xài đồng nào cho riêng anh, em cũng biết điều đó. Cả hai chúng ta, không đụng vào, vì số tiền đó là tương lai của chúng ta, nó là cái trang trại của chúng ta.
- Vâng, em đã hiểu, Meggie tán đồng. Anh tỏ ra rất biết điều, Luke. Nhưng nếu em có một đứa con thì sao?
Thoạt đầu, Luke định nói cho Meggie biết thật sự sẽ không có con trước khi mua được trang trại nhưng Meggie đang nhìn lên Luke khiến anh ta tránh sang phía khác:
- Chúng ta sẽ giải quyết vấn đề đó khi nào xảy ra. Anh muốn chúng ta khoan có con đã trước khi mua được trang trại.
Không mái gia đình, không tiền, không con. Coi như cũng không chồng. Meggie bỗng cười to lên. Luke cũng cười theo, nâng tách trà lên chúc mừng:
- Hoan hô capốt Ănglê.
Chương 26
Bốn tuần lễ trôi qua trước khi Meggie gặp lại Luke. Cứ mỗi sáng chủ nhật, Meggie trang điểm đàng hoàng, mặc chiếc áo dài vải xoa xinh xắn chờ đợi anh chồng không bao giờ tới. Ông chủ Mueller và Anne, và vợ ông, im lặng không một lời bàn tán.
Tất nhiên Meggie kinh tởm khi nhớ lại hai đêm ngủ ở khách sạn Dunny nhưng ít ra lúc đó nàng có Luke bên cạnh. Nàng hối tiếc tại sao mình lại la hét như thế, đúng ra phải cắn lưỡi làm thinh. Nhưng không thể trở lui lại được nữa rồi. Sự đau đớn và rên la của Meggie gây mất hứng cho Luke và đã khiến cho Luke tìm cách xa lánh. Thái độ thản nhiên của Luke trước sự đau đớn của Meggie lúc ấy làm nàng hết sức bực bội, nhưng bây giờ nhớ lại thái độ của mình, nàng không khỏi hối hận và cuối cùng tự cho mình có lỗi.
Ngày chủ nhật thứ tư, Meggie không sửa soạn, làm việc trong bếp, đi chân không, mắc quần ngắn và áo ngắn, trong lúc chuẩn bị buổi ăn sáng nóng cho Ludwig và Anne; hai ông bà chấp nhận cho Meggie ăn mặc như thế một lần trong tuần.
Nghe có tiếng chân bước lên cầu thang sát nhà bếp, Meggie bỏ mặc những quả trứng đang chiên trên chảo, nàng sửng sốt một lúc nhìn con người cao to lông lá đứng ở ngưỡng cửa. Luke? Có phải Luke không? Tưởng như đó là bức tượng tạc từ trong đá cẩm thạch, không phải là con người. Nhưng Luke đi ngang qua nhà bếp, đặt lên má Meggie một cái hôn kêu thành tiếng rồi kéo ghế ngồi xuống cạnh bàn. Meggie trở lại chiên những quả trứng khác, thêm vào trong chảo vài lát mỡ.
Anne Mueller bước vào, cười hiền hòa nhưng trong lòng giận dữ - tên chó chết này đến đây làm gì sau bao nhiêu ngày bỏ bê vợ hắn.
- Tôi rất vui mừng thấy ông không quên rằng mình có một người vợ. Mời ông ra hành lang ăn sáng với chúng tôi.
Ludwig Mueller sinh ở Úc nhưng gốc gác người Đức. Hai vợ chồng đều có cảm tình với Meggie và tự cho mình rất may mắn được Meggie giúp việc. Ông chồng rất biết ơn Meggie vì nhận ra rằng vợ ông vui hẳn lên từ khi có mái tóc vàng óng ả lấp lánh trong căn nhà này.
- Công việc chặt mía thế nào hở Luka? ông vừa chia trứng vừa hỏi Luke.
- Nếu tôi nói rằng tôi rất thích công việc ấy ông có tin không?
Cái nhìn rất sắc của Ludwig hướng thẳng vào gương mặt đẹp trai của Luke:
- Vâng. Anh thuộc loại người có thể lực và tâm tính phù hợp công việc ấy. Loại lao động này mang lại cho anh một nhận thức mình hơn những người khác.
Anne nói:
- Anh biết không, tôi đã bắt đầu nghĩ rằng là anh sẽ không bao giờ đến gặp Meggie nữa.
- Thưa thật với ông bà, trong lúc này, Arne và tôi đã quyết định làm luôn ngày chủ nhật. Ngày mai chúng tôi đi Ingham.
- Như thế, Meggie sẽ rất ít được gặp anh.
- Meggie hiểu mọi chuyện. Tình trạng này chỉ kéo dài trong vài năm. Vả lại, chúng tôi có thời gian nghỉ vào mùa hè. Arne nói với tôi vào lúc đó anh ta có thể giới thiệu tôi đi làm ở nhà máy đường tại Sydney, và có thể đưa Meggie đến đó được.
- Cái gì buộc anh phải làm việc cực khổ như thế, Luke? Anne hỏi.
- Tôi cần gom đủ tiền để mua một trang trại ở miền tây, trong vùng Kynuna. Meggie không nói cho ông bà biết ý định của chúng tôi sao?
Sau buổi ăn sáng, Luke giúp Meggie rửa tách đĩa rồi đưa vợ đi dạo ở vườn trồng mía gần nhất; anh không ngớt đề cập đến đường, mía, về công việc đốn mía tuyệt vời của anh, về cuộc sống ngoài trời thú vị, về những đồng đội hết ý trong nhóm thợ của Arne. Công việc này khác hẳn so với công việc cắt lông cừu.
Khi trở lại nhà, Meggie hỏi Luke:
- Anh có thấy căn nhà này đẹp không? Theo anh liệu hai năm sống ở đây, chúng ta có thể mướn riêng một căn nhà không? Em thèm muốn được chăm sóc như em đã chăm sóc căn nhà này.
- Tại sao em lại có suy nghĩ điên rồ sống một mình trong căn nhà. Chúng ta đâu phải ở Gillanbone. Nơi đây không phải chỗ mà một phụ nữ có thể ở nhà một mình an toàn. Em ở đây không vui sao? Này Meggie, em nên tạm bằng lòng với những gì em đang có cho đến khi nào mình có thể đi miền tây. Dứt khoát không thể phí tiền để mướn nhà, anh không thể để cho em có một cuộc sống ăn không ngồi rồi trong khi chúng ta cần tiết kiệm. Em nghe anh nói chứ?
- Vâng, Luke.
Luke vội vã đến đỗi quên mất rằng ý định ban đầu của anh là đưa vợ xuống phía dưới căn nhà sàn để ôm hôn nàng, cuối cùng Luke chào từ biệt Meggie bằng cách vỗ vào mông vợ khá mạnh khiến nàng cũng thấy đau, rồi lần theo con đường mòn, đi xuống nơi anh để chiếc xe đạp dựa vào một gốc cây. Thà đạp xe ba mươi cây số để đến đây chứ nhất quyết không chịu tốn tiền mua vé xe buýt.
- Thật tội nghiệp con bé! Anne nói với chồng. Em rất muốn giết anh chồng quái đản ấy.
... Ngày tháng trôi qua, một năm rồi hai năm. Chỉ có lòng tốt không đổi thay của gia đình Mueller đã giữ Meggie ở lại Himmelhoch giữa lúc nàng chưa biết phải giải quyết thế nào tình cảnh tiến thoái lưỡng nan. Chỉ cần viết thư cho Bob là Meggie có ngay tiền để trở về nhà. Nhưng Meggie đáng thương không thể giải quyết bằng cách thú nhận với gia đình là Luke đã không để lại cho nàng một xu. Nếu một ngày nào đó nàng quyết định thì đó là lúc Meggie bỏ Luke vĩnh viễn, còn bây giờ thì chưa chín mùi để chọn giải pháp ấy. Giáo dục gia đình cho Meggie thấy lấy chồng là một việc thiêng liêng và nàng hy vọng một ngày nào đó nhu cầu làm mẹ được thỏa mãn, vị trí làm chồng đúng nghĩa của Luke sẽ buộc Meggie ở lại.
Nàng gặp được Luke tất cả sáu lần trong mười tám tháng xa nhà; nhiều lúc Meggie nghĩ rằng Luke sống đồng tình luyến ái với Arne như vợ chồng.
Mỗi tháng một lần, làm đúng bổn phận của mình, Meggie viết thư cho mẹ và các anh, kể lể vài dòng về bắc Queensland. Các câu chuyện được ghi chép lại không thiếu nét hài hước, nhưng dứt khoát không hề đề cập các mâu thuẫn giữa mình và Luke. ông bà Mueller được nói tới như những người bạn của Luke; Meggie ăn ở nhà ông bà Mueller vì Luke thường đi làm ăn xa.
Thỉnh thoảng Meggie lấy can đảm để đặt một câu hỏi vẩn vơ về Đức cha Ralph nhưng thường thì Bob lại quên viết lại cho em gái một ít tin tức mà bà Fiona biết được về ngài giám mục. Đột nhiên một hôm Meggie nhận được lá thư của Bob trong đó đề cập rất dài về Ralph:
Một hôm, ông ấy đến như từ trên trời rơi xuống. ông ta hơi bối rối, có vẻ buồn vã và hết sức kinh ngạc vì không tìm thấy em. ông ta điên tiết lên về việc cả nhà không ai cho ông hay chuyện Luke và em. Nhưng khi mẹ giải thích cho ông ta biết rằng tất cả do cái tính ngang bướng của em và chính em đã từ chối cho ông ta hay tin đám cưới, thì ông ta dịu ngay và không nói lời nào nữa. Nhưng anh có cảm tưởng là sự vắng mặt của em trong nhà làm cho ông ta thấy trống trải hơn sự vắng mặt của bất cứ ai khác. Cho rằng điều đó cũng bình thường thôi vì em gần gũi với ông ta nhiều nhất và lúc nào ông ta cũng coi em như em gái của ông ta. Ông đi lang thang khắp nơi như một linh hồn đau khổ đi vất vưởng, hình như ông ta chờ đợi em xuất hiện đột ngột ở mỗi khúc quanh trên con đường ông đi tới. Tội nghiệp ông ta quá! Ở nhà không có một bức ảnh nào của em để đưa cho ông ta xem, đến khi ông ta hỏi những ảnh chụp đám cưới thì anh mới sực nhớ rằng mình không chụp một ảnh nào hết. Ông ta có hỏi em có con chưa, anh trả lời rằng hình như chưa. Em chưa có con phải không Meggie? Em đã lấy chồng bao lâu rồi? Anh rất mong sắp tới em có con vì anh nghĩ rằng giám mục sẽ rất bằng lòng nếu được tin này. Anh có tỏ ý ghi địa chỉ của em cho ông ta nhưng ông ta không muốn. Ông trả lời rằng cũng vô ích vì ông sẽ đi Athenes bên Hy Lạp; ông sẽ ở đó một thời gian với vị Tổng giám mục mà ông đang ở dưới quyền. Tên vị Tổng giám mục này dài thườn thượt như một cánh tay, anh không làm sao nhớ nổi. Em có biết không, họ sẽ đi Hy Lạp bằng máy bay. Nói tóm lại khi giám mục biết rằng em không còn ở Drogheda để cùng ông phi ngựa dạo chơi thì ông không chịu ở lại lâu. ông chỉ cỡi ngựa đi dạo một hai lần, làm lễ cho cả nhà mỗi ngày và một tuần sau thì từ giã Drogheda.
Meggie đặt lá thư xuống bàn. Thế là anh ấy biết rồi. Anh ấy đã biết rồi. Ralph sẽ suy nghĩ thế nào? Anh ấy có đau buồn không? và đến mức nào? Tại sao Ralph lại đẩy nàng phải hành động như thế này? Đâu có giải quyết được gì. Meggie không yêu Luke. Chẳng qua anh ta chỉ đóng vai người trám vào chỗ thiếu vắng, một người có thể mang lại cho Meggie những đứa con giống như những đứa con mà đáng lý Meggie có thể có với Ralph. Trời ơi! Tất cả đều rối lên!
Có ai đó đã cởi giày và vớ, trước khi đắp lên mình Meggie tắm vải giường. Nàng vươn vai mở mắt ra và nhìn chung quanh. Luke ngồi bên cửa sổ, một chân rút lên, đang hút thuốc. Nghe vợ trở mình, Luke quay lại mỉm cười.
- Này cô ơi! Cô đóng vai một người vợ mới cưới thật dễ thương! Trong khi anh sốt ruột chờ đợi để bắt đầu tuần trăng mật thì vợ anh ngủ vùi luôn hai ngày! Lúc đầu anh hơi lo vì không làm sao gọi em thức dậy được nhưng ông chủ khách sạn đã giải thích với anh rằng có nhiều phụ nữ cũng ngủ vùi như thế sau một cuộc hành trình bằng tàu hỏa với khí hậu ẩm thấp trong vùng. Bây giờ em thấy thế nào?
- Em cảm thấy dễ chịu hơn, cảm ơn anh. Đành rằng em trẻ và khỏe mạnh nhưng dù sao em vẫn là một phụ nữ. Sức chịu đựng của em vẫn kém hơn anh chứ.
Luke đến ngồi bên mép giường, nắm tay Meggie vuốt ve tỏ ý hối hận.
- Anh xin lỗi em, Meghann. Anh quên đi em là một phụ nữ. Em thấy không, anh chưa quen với vai trò làm chồng của mình. Có thế thôi. Em có đói không?
- Em chết đến nơi vì đói. Gần một tuần qua em có ăn gì đâu.
Luke đưa Meggie vào tiệm ăn Trung Hoa sát bên khách sạn. Bây giờ ăn gì cũng thấy ngon. Ăn xong Luke nắm tay dẫn Meggie đi dạo khắp Dungloe cứ như thành phố này thuộc về anh ta. Cung cách đó cũng hợp lý vì Queensland là nguyên quán của Luke. Trên đường phố Dungloe có rất nhiều người Trung Hoa, đàn ông và phụ nữ ăn mặc gần giống nhau khiến Meggie rất khó phân biệt. Gần hết hoạt động thương mại đều nằm trong tay người Trung Hoa. Cửa hàng đầy đủ và lớn nhất mang tên Ah Wong'' s; phần đông các cửa hiệu cũng đều của người Trung Hoa. Ở đâu cũng thấy xe đạp, hàng trăm chiếc; rất ít xe ôtô, tuyệt nhiên không có ngựa như ở Gilly. Dungloe hoàn toàn khác các thành phố miền tây. Ở đây rất nóng, nóng dữ dội, mặc dù chỉ khoảng 32 độ. Ở Gilly có lúc nhiệt độ lên đến 46 nhưng không khí thấy dễ chịu hơn.
- Luke ơi, em mệt quá không chịu nổi nữa! Chúng ta hãy trở về khách sạn - Meggie vừa nói vừa thở hổn hển dù mới đi bộ không hơn một cây số.
- Tùy ý em. Chính cái không khí ẩm làm cho em mệt. Ở đây mưa quanh năm, khó phân biệt mùa nào với mùa nào. Nhiệt độ ở khoảng giữa 29 đến 35.
Về đến khách sạn, Luke mở cửa phòng rồi nép qua một bên để Meggie bước vào một mình.
- Anh xuống quầy rượu uống một ly bia. Anh sẽ trở lại trong nửa giờ, như thế có đủ thời giờ cho em sửa soạn.
- Vâng, Luke - nàng vừa nói vừa nhìn Luke với vẻ hốt hoảng.
Khi Luke trở về phòng thì Meggie đã tắt đèn, phủ tấm chăn lên đến cằm. Luke không thể nín cười, kéo giật tấm vải ra khỏi người Meggie và vứt xuống đất.
- Trời nóng như thế này quá đủ rồi em ạ. Chúng ta không cần tấm vải này đâu.
Meggie nghe tiếng chân Luke bước trong phòng, nhìn thấy bóng của Luke trong khi anh cởi quần áo.
- Em để bộ đồ ngủ của anh trên bàn phấn - Meggie nói thì thầm.
- Quần áo ngủ? Trời nóng thế này mà mặc quần áo ngủ? Anh vẫn biết ở Gilly người ta đánh giá đủ điều một người đàn ông không mặc quần áo khi lên giường, nhưng chúng ta đang ở Dungloe em à! Em đang mặc áo ngủ à?
- Vâng.
- Thế thì vứt nó ra đi. Nó chỉ làm cản trở chúng ta.
Mò mẫm trong bóng tối, cuối cùng Meggie đã cởi bỏ được chiếc áo ngủ bằng vải phin mỏng mà bà quản gia Smith với lòng thương yêu Meggie đã bỏ công thêu với chủ đích để nàng mặc trong đêm tân hôn. Meggie cầu trời trong bóng tối Luke sẽ không thấy rõ nàng.
Luke đoán không sai. Meggie cảm thấy thoải mái và tươi mát hơn khi nằm dài trên giường không bị mảnh vải nào vướng vào thân thể, để cho cơn gió nhẹ từ những cửa sổ nhỏ mở rộng mơn trớn làn da láng mịn.
Nhưng khi Meggie tưởng tượng có một thân thể khác nóng ran nằm kế bên thì nàng lại thấy chán nản.
Lò xo giường kêu lên; Meggie nghe một thứ da thịt ướt đẫm mồ hôi chạm vào tay, khiến nàng không khỏi giật mình. Luke nằm nghiêng qua, choàng tay ôm lấy Meggie. Lúc đầu, nàng không đồng tình, nhưng vẫn nằm yên. Vậy mà khi nghĩ đến cái miệng của Luke, cái hôn bằng lưỡi sỗ sàng của anh ta, Meggie vùng vẫy cố thoát ra khỏi vòng tay của Luke. Nàng không muốn có sự tiếp xúc trong cái nóng nực này, nàng không muốn được ôm ấp và nàng cũng không muốn có Luke. Diễn tiến đêm nay không giống chút nào cái đêm trên chiếc xe ôtô Rolls khi cả hai từ Rudna Hunish trở về nhà. Meggie không cảm nhận được ở Luke điều gì gọi là âu yếm, một phần thân thể mạnh bạo của Luke đang cố sức đẩy vẹt hai đùi Meggie ra, trong khi đó một bàn tay với những móng tay không được cắt sát bấm sâu vào mông nàng. Sự e dè lúc đầu biến thành sợ hãi. Luke không cần biết nàng nghĩ gì, cảm giác ra sao trong lúc này. Rồi bỗng nhiên, anh ta buông Meggie ra, ngồi dậy, sờ soạng, rồi tìm gặp một cái gì nắm kéo ra, gây nên một tiếng động rất lạ.
- Tốt hơn là nên đề phòng trước - anh ta nói hổn hển. Em nằm ngửa đi - Không phải như thế! Sao em lại dốt đến thế.
- Không, không, Luke, em không muốn đâu! - Nàng muốn hét lên. Thật kinh khủng, tục tĩu. Đến một lúc, dù vừa mệt vừa sợ hãi đến mờ cả lý trí, Meggie vẫn phải thét lên nghe xé tai.
- Em im đi! Luke ra lệnh. Cái gì kỳ cục vậy! Có phải em muốn làm náo động cả khách sạn này để cho mọi người hiểu lầm là anh định giết em? Nằm im đi. Chuyện này với em cũng không đau đớn gì hơn những người khác đâu! Nằm im đi. Anh bảo nằm im đi.
Meggie vùng vẫy như một người bị quỷ ám, cố hất văng cái vật khủng khiếp đã gây cho nàng sự đau đớn nhưng với tất cả sức nặng của thân xác, Luke đè bẹp nàng không thể cục cựa và dùng tay ngăn không cho Meggie hét.
Một lúc rất lâu Luke mới chịu buông tha, lăn qua một bên nằm yên, thở dồn dập.
- Lần sau em sẽ thích thú hơn, Luke nói giữa những cơn thở hổn hển. Lần đầu bao giờ cũng thế - rất đau đối với người phụ nữ.
Nhưng rồi lần thứ hai, thứ ba cũng thế. Luke tỏ ra kinh ngạc, không hiểu tại sao nàng vẫn vùng vẫy la hét, tưởng rằng sau lần đầu thì sự đau đớn sẽ tự nhiên tan biến đi. Cuối cùng Luke nổi giận, quay lưng lại, nhắm mắt ngủ. Meggie cảm thấy nước mắt nhỏ xuống hai bên má rồi lẫn vào trong tóc. Nằm ngửa nhìn lên trần nhà, Meggie ước ao được chết đi hay ít ra được trở lại cuộc sống xưa kia ở Drogheda.
Chương 25
- Anh đã tìm được việc làm cho em, Luke nói với Meggie lúc hai người ăn sáng.
- Sao? Tìm việc làm cho em trước khi chúng ta tìm được một căn nhà?
- Meggie! mướn nhà làm gì, thật là vô ích. Anh đi chặt mía, mọi chuyện sẽ ổn thôi. Nhóm thợ chặt mía giỏi nhất Queensland gồm những người Thụy Điển, Ba Lan, Ãi Nhĩ Lan do một tay tên là Arne Swenson điều khiển. Trong khi em ngủ anh đã gặp hắn. Hiện nhóm của hắn thiếu một người và hắn bằng lòng nhận anh hai mươi bảng một tuần, số tiền ấy đâu phải nhỏ.
- Có phải anh định nói là chúng ta không sống chung cùng một nơi?
- Không thể được Meggie! Phụ nữ không được phép ở lán trại của bọn đàn ông. Vả lại ở nhà một mình em sẽ làm gì? Tốt hơn hết là em cũng nên làm việc; tất cả đồng tiền mà chúng ta làm ra sẽ dùng vào việc mua trang trại.
- Nhưng em sẽ ở đâu? Em sẽ làm loại công việc gì? Ở đây đâu có gia súc như ở Drogheda?
- Không đâu. Chính vì thế mà anh đã tìm ra một nơi em có thể ăn ở luôn mà anh khỏi phải tốn kém. Em sẽ làm việc tại Himmelhoch như người giúp việc cho gia đình Ludwig Mueller. Đây là một tay trồng mía lớn nhất trong vùng, còn vợ hắn thì bị tàn tật. Bà ta không thể dọn dẹp nhà cửa. Anh sẽ đưa em đến đó sáng mai.
- Nếu đó là sự chọn lựa của anh... (Meggie nhìn xuống chiếc xắc tay). Luke, có phải anh đã lấy một trăm đồng bảng của em?
- Anh đã gởi tất cả vào ngân hàng. Không lẽ em đi dạo lại mang theo số tiền lớn như thế sao Meggie?
- Nhưng như thế là anh đã lấy của em đến đồng xu cuối cùng. Dù sao em cũng cần chút đỉnh tiền xài vặt chứ?
- Trời ơi em cần tiền để làm gì? Bắt đầu sáng mai em ở Himmelhoch và em không có dịp nào để xài tiền. Còn tiền trả khách sạn bây giờ anh sẽ lo. Đã đến lúc em phải hiểu rằng em đã lấy một người chồng lao động thực sự chứ không phải là một cô gái được một tên thực dân giàu có dư tiền liệng qua cửa sổ.
Tất cả tiền hàng tháng em làm ra, Muwller sẽ không trả thẳng cho em mà sẽ chuyển vào trương mục tên anh ở ngân hàng. Anh cũng sẽ gởi vào ngân hàng tất cả tiền làm ra. Anh không xài đồng nào cho riêng anh, em cũng biết điều đó. Cả hai chúng ta, không đụng vào, vì số tiền đó là tương lai của chúng ta, nó là cái trang trại của chúng ta.
- Vâng, em đã hiểu, Meggie tán đồng. Anh tỏ ra rất biết điều, Luke. Nhưng nếu em có một đứa con thì sao?
Thoạt đầu, Luke định nói cho Meggie biết thật sự sẽ không có con trước khi mua được trang trại nhưng Meggie đang nhìn lên Luke khiến anh ta tránh sang phía khác:
- Chúng ta sẽ giải quyết vấn đề đó khi nào xảy ra. Anh muốn chúng ta khoan có con đã trước khi mua được trang trại.
Không mái gia đình, không tiền, không con. Coi như cũng không chồng. Meggie bỗng cười to lên. Luke cũng cười theo, nâng tách trà lên chúc mừng:
- Hoan hô capốt Ănglê.
Chương 26
Bốn tuần lễ trôi qua trước khi Meggie gặp lại Luke. Cứ mỗi sáng chủ nhật, Meggie trang điểm đàng hoàng, mặc chiếc áo dài vải xoa xinh xắn chờ đợi anh chồng không bao giờ tới. Ông chủ Mueller và Anne, và vợ ông, im lặng không một lời bàn tán.
Tất nhiên Meggie kinh tởm khi nhớ lại hai đêm ngủ ở khách sạn Dunny nhưng ít ra lúc đó nàng có Luke bên cạnh. Nàng hối tiếc tại sao mình lại la hét như thế, đúng ra phải cắn lưỡi làm thinh. Nhưng không thể trở lui lại được nữa rồi. Sự đau đớn và rên la của Meggie gây mất hứng cho Luke và đã khiến cho Luke tìm cách xa lánh. Thái độ thản nhiên của Luke trước sự đau đớn của Meggie lúc ấy làm nàng hết sức bực bội, nhưng bây giờ nhớ lại thái độ của mình, nàng không khỏi hối hận và cuối cùng tự cho mình có lỗi.
Ngày chủ nhật thứ tư, Meggie không sửa soạn, làm việc trong bếp, đi chân không, mắc quần ngắn và áo ngắn, trong lúc chuẩn bị buổi ăn sáng nóng cho Ludwig và Anne; hai ông bà chấp nhận cho Meggie ăn mặc như thế một lần trong tuần.
Nghe có tiếng chân bước lên cầu thang sát nhà bếp, Meggie bỏ mặc những quả trứng đang chiên trên chảo, nàng sửng sốt một lúc nhìn con người cao to lông lá đứng ở ngưỡng cửa. Luke? Có phải Luke không? Tưởng như đó là bức tượng tạc từ trong đá cẩm thạch, không phải là con người. Nhưng Luke đi ngang qua nhà bếp, đặt lên má Meggie một cái hôn kêu thành tiếng rồi kéo ghế ngồi xuống cạnh bàn. Meggie trở lại chiên những quả trứng khác, thêm vào trong chảo vài lát mỡ.
Anne Mueller bước vào, cười hiền hòa nhưng trong lòng giận dữ - tên chó chết này đến đây làm gì sau bao nhiêu ngày bỏ bê vợ hắn.
- Tôi rất vui mừng thấy ông không quên rằng mình có một người vợ. Mời ông ra hành lang ăn sáng với chúng tôi.
Ludwig Mueller sinh ở Úc nhưng gốc gác người Đức. Hai vợ chồng đều có cảm tình với Meggie và tự cho mình rất may mắn được Meggie giúp việc. Ông chồng rất biết ơn Meggie vì nhận ra rằng vợ ông vui hẳn lên từ khi có mái tóc vàng óng ả lấp lánh trong căn nhà này.
- Công việc chặt mía thế nào hở Luka? ông vừa chia trứng vừa hỏi Luke.
- Nếu tôi nói rằng tôi rất thích công việc ấy ông có tin không?
Cái nhìn rất sắc của Ludwig hướng thẳng vào gương mặt đẹp trai của Luke:
- Vâng. Anh thuộc loại người có thể lực và tâm tính phù hợp công việc ấy. Loại lao động này mang lại cho anh một nhận thức mình hơn những người khác.
Anne nói:
- Anh biết không, tôi đã bắt đầu nghĩ rằng là anh sẽ không bao giờ đến gặp Meggie nữa.
- Thưa thật với ông bà, trong lúc này, Arne và tôi đã quyết định làm luôn ngày chủ nhật. Ngày mai chúng tôi đi Ingham.
- Như thế, Meggie sẽ rất ít được gặp anh.
- Meggie hiểu mọi chuyện. Tình trạng này chỉ kéo dài trong vài năm. Vả lại, chúng tôi có thời gian nghỉ vào mùa hè. Arne nói với tôi vào lúc đó anh ta có thể giới thiệu tôi đi làm ở nhà máy đường tại Sydney, và có thể đưa Meggie đến đó được.
- Cái gì buộc anh phải làm việc cực khổ như thế, Luke? Anne hỏi.
- Tôi cần gom đủ tiền để mua một trang trại ở miền tây, trong vùng Kynuna. Meggie không nói cho ông bà biết ý định của chúng tôi sao?
Sau buổi ăn sáng, Luke giúp Meggie rửa tách đĩa rồi đưa vợ đi dạo ở vườn trồng mía gần nhất; anh không ngớt đề cập đến đường, mía, về công việc đốn mía tuyệt vời của anh, về cuộc sống ngoài trời thú vị, về những đồng đội hết ý trong nhóm thợ của Arne. Công việc này khác hẳn so với công việc cắt lông cừu.
Khi trở lại nhà, Meggie hỏi Luke:
- Anh có thấy căn nhà này đẹp không? Theo anh liệu hai năm sống ở đây, chúng ta có thể mướn riêng một căn nhà không? Em thèm muốn được chăm sóc như em đã chăm sóc căn nhà này.
- Tại sao em lại có suy nghĩ điên rồ sống một mình trong căn nhà. Chúng ta đâu phải ở Gillanbone. Nơi đây không phải chỗ mà một phụ nữ có thể ở nhà một mình an toàn. Em ở đây không vui sao? Này Meggie, em nên tạm bằng lòng với những gì em đang có cho đến khi nào mình có thể đi miền tây. Dứt khoát không thể phí tiền để mướn nhà, anh không thể để cho em có một cuộc sống ăn không ngồi rồi trong khi chúng ta cần tiết kiệm. Em nghe anh nói chứ?
- Vâng, Luke.
Luke vội vã đến đỗi quên mất rằng ý định ban đầu của anh là đưa vợ xuống phía dưới căn nhà sàn để ôm hôn nàng, cuối cùng Luke chào từ biệt Meggie bằng cách vỗ vào mông vợ khá mạnh khiến nàng cũng thấy đau, rồi lần theo con đường mòn, đi xuống nơi anh để chiếc xe đạp dựa vào một gốc cây. Thà đạp xe ba mươi cây số để đến đây chứ nhất quyết không chịu tốn tiền mua vé xe buýt.
- Thật tội nghiệp con bé! Anne nói với chồng. Em rất muốn giết anh chồng quái đản ấy.
... Ngày tháng trôi qua, một năm rồi hai năm. Chỉ có lòng tốt không đổi thay của gia đình Mueller đã giữ Meggie ở lại Himmelhoch giữa lúc nàng chưa biết phải giải quyết thế nào tình cảnh tiến thoái lưỡng nan. Chỉ cần viết thư cho Bob là Meggie có ngay tiền để trở về nhà. Nhưng Meggie đáng thương không thể giải quyết bằng cách thú nhận với gia đình là Luke đã không để lại cho nàng một xu. Nếu một ngày nào đó nàng quyết định thì đó là lúc Meggie bỏ Luke vĩnh viễn, còn bây giờ thì chưa chín mùi để chọn giải pháp ấy. Giáo dục gia đình cho Meggie thấy lấy chồng là một việc thiêng liêng và nàng hy vọng một ngày nào đó nhu cầu làm mẹ được thỏa mãn, vị trí làm chồng đúng nghĩa của Luke sẽ buộc Meggie ở lại.
Nàng gặp được Luke tất cả sáu lần trong mười tám tháng xa nhà; nhiều lúc Meggie nghĩ rằng Luke sống đồng tình luyến ái với Arne như vợ chồng.
Mỗi tháng một lần, làm đúng bổn phận của mình, Meggie viết thư cho mẹ và các anh, kể lể vài dòng về bắc Queensland. Các câu chuyện được ghi chép lại không thiếu nét hài hước, nhưng dứt khoát không hề đề cập các mâu thuẫn giữa mình và Luke. ông bà Mueller được nói tới như những người bạn của Luke; Meggie ăn ở nhà ông bà Mueller vì Luke thường đi làm ăn xa.
Thỉnh thoảng Meggie lấy can đảm để đặt một câu hỏi vẩn vơ về Đức cha Ralph nhưng thường thì Bob lại quên viết lại cho em gái một ít tin tức mà bà Fiona biết được về ngài giám mục. Đột nhiên một hôm Meggie nhận được lá thư của Bob trong đó đề cập rất dài về Ralph:
Một hôm, ông ấy đến như từ trên trời rơi xuống. ông ta hơi bối rối, có vẻ buồn vã và hết sức kinh ngạc vì không tìm thấy em. ông ta điên tiết lên về việc cả nhà không ai cho ông hay chuyện Luke và em. Nhưng khi mẹ giải thích cho ông ta biết rằng tất cả do cái tính ngang bướng của em và chính em đã từ chối cho ông ta hay tin đám cưới, thì ông ta dịu ngay và không nói lời nào nữa. Nhưng anh có cảm tưởng là sự vắng mặt của em trong nhà làm cho ông ta thấy trống trải hơn sự vắng mặt của bất cứ ai khác. Cho rằng điều đó cũng bình thường thôi vì em gần gũi với ông ta nhiều nhất và lúc nào ông ta cũng coi em như em gái của ông ta. Ông đi lang thang khắp nơi như một linh hồn đau khổ đi vất vưởng, hình như ông ta chờ đợi em xuất hiện đột ngột ở mỗi khúc quanh trên con đường ông đi tới. Tội nghiệp ông ta quá! Ở nhà không có một bức ảnh nào của em để đưa cho ông ta xem, đến khi ông ta hỏi những ảnh chụp đám cưới thì anh mới sực nhớ rằng mình không chụp một ảnh nào hết. Ông ta có hỏi em có con chưa, anh trả lời rằng hình như chưa. Em chưa có con phải không Meggie? Em đã lấy chồng bao lâu rồi? Anh rất mong sắp tới em có con vì anh nghĩ rằng giám mục sẽ rất bằng lòng nếu được tin này. Anh có tỏ ý ghi địa chỉ của em cho ông ta nhưng ông ta không muốn. Ông trả lời rằng cũng vô ích vì ông sẽ đi Athenes bên Hy Lạp; ông sẽ ở đó một thời gian với vị Tổng giám mục mà ông đang ở dưới quyền. Tên vị Tổng giám mục này dài thườn thượt như một cánh tay, anh không làm sao nhớ nổi. Em có biết không, họ sẽ đi Hy Lạp bằng máy bay. Nói tóm lại khi giám mục biết rằng em không còn ở Drogheda để cùng ông phi ngựa dạo chơi thì ông không chịu ở lại lâu. ông chỉ cỡi ngựa đi dạo một hai lần, làm lễ cho cả nhà mỗi ngày và một tuần sau thì từ giã Drogheda.
Meggie đặt lá thư xuống bàn. Thế là anh ấy biết rồi. Anh ấy đã biết rồi. Ralph sẽ suy nghĩ thế nào? Anh ấy có đau buồn không? và đến mức nào? Tại sao Ralph lại đẩy nàng phải hành động như thế này? Đâu có giải quyết được gì. Meggie không yêu Luke. Chẳng qua anh ta chỉ đóng vai người trám vào chỗ thiếu vắng, một người có thể mang lại cho Meggie những đứa con giống như những đứa con mà đáng lý Meggie có thể có với Ralph. Trời ơi! Tất cả đều rối lên!