Khu Phố Văn Hoá => Văn xuôi => Topic started by: Serenade24 on 04/05/07, 16:09 Return to Full Version
Title: Tiếng chim hót trong bụi mận gai (tiếp)
Post by: Serenade24 on 04/05/07, 16:09
Post by: Serenade24 on 04/05/07, 16:09
Tiếng chim hót trong bụi mận gai (tiếp)
[/size][/b]Chương 27
Tổng giám mục Di Contini Verchese thích ở khách sạn bình thường hơn là căn phòng mà người ta đã dành cho ông ở Athens. Ông có một sứ mạng tế nhị khá quan trọng, phải bàn với các nhà lãnh đạo Nhà thờ chính giáo Hy Lạp nhiều vấn đề.
Tổng giám mục hiểu rằng chuyến công tác là một thử thách ngoại giao, bàn đạp để ông nhận lãnh những công việc quan trọng hơn ở La Mã.
Và không thể nào tưởng tượng rằng Ngài đến đây mà không có giám mục Ralph cùng đi. Năm tháng trôi qua, Tổng giám mục ngày càng tin cậy vào con người tuyệt vời này. Một Mazarin, một Mazarin đích thực. Đức cha Di Contini ngưỡng mộ Mazarin hơn là Richelieu. Một sự so sánh đầy vinh dự cho Ralph. Đúng vào lúc đó, cách xa gần hai mươi ngàn cây số, Ralph mới có thể nhớ đến Meggie mà không bị giày vò bởi sự thèm muốn được khóc. Làm sao Ralph có thể oán giận về việc Meggie lấy chồng mà chính ông đã từng thúc đẩy? Ông hiểu ngay lý do tại sao Meggie nhất quyết giữ kín ý định của mình, tại sao Meggie không muốn cho ông gặp người chồng trẻ và cũng không cho tham dự vào cuộc đời mới của nàng? Lúc đầu, Ralph tưởng rằng dù thế nào, vợ chồng Meggie cũng sẽ ở Gillanbone, nếu không ở Drogheda, có nghĩa tiếp tục ở nơi nào Ralph biết chắc nàng sẽ được yên ổn, tránh mọi âu lo và nguy hiểm. Nhưng sau suy nghĩ lại, Ralph hiểu ra rằng Meggie muốn bằng mọi giá không cho Ralph được ngủ trong sự yên lòng ấy. Meggie buộc lòng phải ra đi và ngày nào nàng và Luke còn sống chung thì Meggie sẽ không bao giờ trở lại Drogheda. Bob xác nhận là cặp vợ chồng này dành dụm tiền để mua một trang trại ở bắc Queensland, tin này coi như kết thúc mọi chuyện. Meggie có ý định sẽ vĩnh viễn không gặp lại Ralph.
Nhưng em có hạnh phúc không Meggie? Chồng em đối xử với em tốt không? Em có yêu hắn không, cái anh chàng Luke ấy hẳn chỉ là một công nhân nông nghiệp bình thường có gì hơn để cho em chọn hắn thay vì chọn Enoch Davies, Liam O'' Rouke hoặc Alastair Mac Queen? Có phải chăng em cố tình chọn một người mà anh chưa từng quen biết để không thể so sánh? Có phải chăng em hành động như thế để hành hạ anh, trả thù anh? Nhưng tại sao em lại không có con? Cái anh chàng ấy mắc cái chứng gì mà lang thang như tên bụi đời, buộc em phải ở nhờ với những người bạn? Em không có con, điều đó không có gì phải ngạc nhiên; hắn ở gần em có được bao lâu đâu. Meggie ơi, tại sao lại như thế? Tại sao em lấy Luke làm chồng?
Khách sạn rất sang trọng và đắt tiền ở gần công viên Omonia. Tổng giám mục Di Contini Verchese ngồi trên ghế bành đặt ở gần cửa sổ nhìn ra ban công; ông đang suy tư thì Ralph bước vào. Ông quay lại mỉm cười.
- Ralph đến đúng lúc ta đang muốn cầu nguyện.
- Con tưởng mọi chuyện đã dàn xếp xong. Hay là có những rắc rối vào giờ chót thưa Đức cha?
- Không phải chuyện đó. Ta vừa nhận một lá thư của Hồng Y Monteverdi truyền lại ý của Đức Thánh Cha.
Giám mục Ralph bỗng thấy hai vai cứng lại, hai tai nóng bừng khó chịu.
- Thưa Đức cha, có chuyện gì?
- Thật ra mọi việc coi như đã xong ngay sau khi kết thúc các cuộc thảo luận mà ta tiến hành ở đây. Ta phải quay về La Mã để được phong Hồng Y. Ta phải tiếp tục sự nghiệp tại Vatican theo lệnh trực tiếp của Đức Thánh cha.
- Còn con thì sao...?
- Con sẽ trở thành Tổng giám mục Ralph và con sẽ trở lại Úc thay chỗ của ta làm Khâm mạng Tòa thánh.
Đầu óc của giám mục Ralph choáng váng, ông suýt ngã. Dù không phải là một người Ý, thế mà Ralph vẫn được vinh dự phong làm Khâm mạng Tòa thánh! Một quyết định chưa từng có trước đây! Ồ, có sao đâu. Vatican hoàn toàn có thể tin nơi ông; ông sẽ bước lên địa vị Hồng Y giáo chủ!
- Thưa Đức cha, không làm sao ghi hết ơn huệ mà Đức cha đã ban cho con! Nhờ Đức cha mà con có được sự ưu đãi đặc biệt này.
- Chúa đã ban cho ta sự thông minh khá đầy đủ để có thể nhận ra khả năng của một con người không đáng phải ở trong bóng tối. Ralph. Thôi bây giờ chúng ta hãy quỳ gối và cầu nguyện.
Xâu chuỗi và sách kinh của Ralph nằm trên chiếc bàn kế bên; tay run run, Ralph vói lấy tay chạm phải sách kinh lăn rơi xuống đất ngay cạnh chân của Tổng giám mục Di Continị Tổng giám mục cúi xuống nhặt lên, bỗng chú ý đến hình dáng một chiếc bông hồng ép trên trang sách, bông hồng thật nóng bỏng và mịn như giấy lụa, đã ngả sang màu nâu.
- Ồ, lạ thật! Tại sao con lại giữ cái này trong sách kinh? Có phải là một kỷ niệm gia đình?... rất có thể là của mẹ con?
Đôi mắt của Tổng giám mục, có khả năng nhìn xuyên suốt sự giả dối và che đậy, đang chiếu thẳng vào Ralph, khiến cho Ralph không có thời giờ giấu đi sự bối rối và xúc động của mình.
- Thưa không, Ralph nhíu mày trả lời. Con không muốn giữ một kỷ niệm nào của mẹ con.
- Nhưng chắc chắn bông hoa này rất có giá trị nên con mới giữ nó lại với tất cả tình cảm giữa các trang sách mà con quí nhất. Những cánh hồng này gợi cho con nhớ lại điều gì?
- Một tình yêu trong sáng mà con đã hiến dâng cho Chúa, thưa Đức cha.
- Ta hiểu ngay vì ta biết rất rõ con. Nhưng tình yêu này có mang đến một đe dọa đối với tình yêu dành cho Giáo hội không?
- Thưa không. Chính vì sự nghiệp của Giáo hội mà con đã chấm dứt tình yêu ấy, chấm dứt vĩnh viễn. Con đã vượt qua khỏi người phụ nữ ấy rất xa khiến mọi khả năng trở lại đều không thể xảy ra được.
- Thế là ta đã hiểu được nỗi buồn của con! Ralph thân mến, không gì ghê gớm như con tưởng, đúng là không có gì đáng ghê gớm! Con tồn tại để phục vụ cho nhiều người và con được nhiều người thương mến. Còn người phụ nữ, với tình yêu gởi gắm trong kỷ niệm rất xa xưa nhưng còn ngát hương ấy, sẽ không bao giờ bị thiệt thòi. Vì rằng con đã giữ vẹn mối tình như đã giữ chiếc hoa hồng ấy.
- Con không nghĩ rằng cô ta hiểu được một chút nào như thế.
- Ồ, hiểu chứ! Nếu con yêu thương cô ta như thế, thì với bản chất rất phụ nữ của mình cô ta thừa sức hiểu. Nếu không, con đã quên người phụ nữ ấy và con đã vứt bỏ đi vật kia từ lâu.
- Có những lúc, chỉ có sự khấn nguyện thật kiên trì mới ngăn cản được con bỏ rơi trách nhiệm của mình để tìm đến với nàng.
Tổng giám mục rời khỏi chiếc ghế bành, đến quỳ gối bên cạnh người bạn của ông, một con người thanh lịch mà ông đã yêu thương trong rất ít người ngoài Chúa và Giáo hội của Người.
- Con sẽ không bao giờ được rời bỏ trách nhiệm của mình, con biết rất rõ điều đó phải không Ralph? Con đã thuộc về Giáo hội và mãi mãi thuộc về Giáo hội. Ở con, thiên chức rất thật và sâu sắc. Bây giờ chúng ta hãy cầu nguyện và ta sẽ cầu nguyện thêm cho Hoa Hồng trong những lần đọc kinh sau này. Chúa ban cho ta rất nhiều những đau buồn và lắm thử thách trên con đường của chúng ta đi đến chốn vĩnh cửu. Chúng ta phải tập chịu đựng, ta cũng phải học như con thôi.
Chương 28
Vào cuối tháng tám, Meggie nhận được thư của Luke cho biết anh ta nằm bệnh viện ở Townsville vì mắc bệnh Weil nhưng không có gì nguy hiểm và không lâu sẽ bình phục. Lợi dụng lúc này, Luke sẽ nghỉ hè và về rước Meggie cùng đi hồ Eacham trên cao nguyên Atherton một thời gian, cho đến khi nào Luke có thể trở lại với công việc của anh.
Luke đã mượn một chiếc xe hơi cũ kỹ của ai đó và đến rước Meggie một buổi sáng rất sớm. Luke gầy, da nhăn và vàng giống như bị ngâm dấm. Hốt hoảng, Meggie trao vội vali cho chồng rồi bước lên xe ngồi bên cạnh.
- Bệnh Weil là gì Luke? Anh viết thư nói rằng không nguy hiểm gì nhưng nhìn anh, em thấy rõ anh đã bị bệnh rất nặng.
- Ồ! Đó chỉ là một thứ bệnh vàng da thường đe dọa tất cả các công nhân chặt mía. Hình như chính loài chuột lúc nhúc trong các đám mía đã mang lại mầm gây bệnh. Anh có sức khỏe nhiều nên không bị bệnh nặng như phần đông các đồng nghiệp khác. Các bác sĩ đều bảo đảm là anh sẽ hồi phục phong độ trong một thời gian rất ngắn.
Hồ Eacham ở trên đỉnh một vùng cao, rất tình tứ giữa một cảnh hoang dã. Hai người ở một nhà trọ gia đình, đêm xuống, ra ngoài hiên nhìn mặt nước yên lặng, Meggie muốn quan sát những con dơi khổng lồ loài ăn quả, mà người ta gọi là những con chồn baỵ Chúng có tới hàng ngàn; trông gớm ghiếc và quái dị nhựng thật ra lại rất nhút nhát và hoàn toàn vô hại. Nhìn chúng bay lên trời giữa những bóng đêm, đúng là một cảm giác gì đó khủng khiếp.
Meggie sung sướng khi ngả mình trên chiếc giường êm ái và mát mẻ. Luke soạn trong vali của anh ta một hộp dẹp màu nâu, rồi từ trong hộp này, anh lấy ra những vật nhỏ tròn được anh xếp hàng dài trên bàn ngủ.
Meggie với tay lấy một cái nhìn xem.
- Cái này là gì vậy Luke? - nàng hỏi tò mò.
- Một capot Anh tức bao cao su , anh giải thích mà quên đi là cách đây hai năm anh tự nhủ sẽ không nói thật cho Meggie biết anh áp dụng phương pháp ngừa thai. Anh sử dụng một cái trước khi gần em. Nếu không chúng ta có thể có con, lúc đó đổ vỡ cả kế hoạch mua trang trại - Luke nói.
Ngồi bên mép giường trần truồng, Luke trông rất gầy, thấy rõ xương sườn. Nhưng hai con mắt xanh của anh vẫn sinh động. Anh đưa tay ra để lấy lại bao cao su mà Meggie vẫn còn cầm.
- Chúng ta đã gần đạt mục đích Meggie, rất gần rồi! Theo anh tính chỉ cần có thêm năm ngàn bảng là chúng ta có thể mua một trang trại đẹp nhất ở miền tây Charters Towers.
Meggie nói với chồng:
- Trong trường hợp này, ngay từ bây giờ anh có thể coi như trang trại ấy đã thuộc về anh. Em có thể viết thư cho Đức cha De Bricassart để yêu cầu ngài cho chúng ta mượn số tiền ấy. Đức cha sẽ không đòi chúng ta trả tiền lời đâu.
- Em không nên làm gì hết! Luke hét lên. Trời ơi, em không có chút tự ái nào sao Meggie? Chúng ta làm lụng để có được những gì thuộc về chúng ta. Không có vấn đề vay mượn! Anh chưa bao giờ mượn của ai một đồng xu và anh nhất quyết không làm điều đó.
Meggie chỉ nghe được tiếng còn tiếng mất và nhìn Luke qua một màn sương mù màu đỏ chói mắt. Từ xưa đến nay, Meggie chưa bao giờ cảm thấy giận dữ như lần này. Đồ đểu giả, ích kỷ, láo khoét! Tại sao hắn lại dám cư xử như thế với nàng, tước đoạt cái quyền có con của nàng, cố tình làm cho nàng tin rằng hắn muốn trở thành một nhà chăn nuôi nhưng thật ra hắn đã chọn con đường riêng sống với Arne Swenson và những vườn mía.
Nhưng Meggie đã khéo léo đè nén sự cáu kỉnh và chú ý vào cái vật cao su tròn nàng cầm trong tay.
- Anh hãy nói cho em nghe về... những cái bao cao su này. Vì sao chúng ngăn chặn có con?
Luke đến đứng sát phía sau lưng Meggie. Sự đụng chạm của hai thân thể trần truồng khiến cho nàng rùng mình vì bị kích thích - Luke nghĩ như vậy, nhưng thực tế thì ngược lại vì Meggie kinh tởm anh ta.
- Chẳng lẽ em lại dốt đến thế?
- Vâng, Meggie nói dối.
Những lời giải thích của Luke khiến cho Meggie nổi giận dữ dội. Thế đấy, hắn đã ngăn chặn cái điều mà lâu nay Meggie chờ đợi. Đồ lưu manh!
Luke không hiểu chút nào tâm trạng của Meggiẹ Hắn tắt đèn, ôm nàng kéo lên giường và liền đó mò mẫm tìm cái bao cao su; Meggie nghe rõ tiếng sột soạt mà nàng đã từng nghe một lần ở khách sạn Dunny trong đêm tân hôn; bây giờ nàng đã hiểu rõ Luke đang làm gì. Thằng lưu manh! Phải dùng kế nào đây để phá vỡ âm mưu của Luke?
- Tại sao em không tỏ ra nhiệt tình hơn với anh hả?
- Tại sao à?
Hai năm rồi, Luke không có thời giờ và cả sức lực cống hiến cho trò chơi ái tình.
Bây giờ nằm bên Meggie, vứt bỏ bao cao su trước đây thường dùng đến Luke thích thú đón nhận những cảm giác tiếp xúc của da thịt . Càng lúc Luke càng bị kích thích. Ngay lúc đó một ý nghĩ vụt đến trong đầu Meggie. Nàng quyết định chủ động. Luke sực tỉnh mở mắt. Anh ta tìm cách đẩy Meggie ra nhưng cảm giác đến với anh không còn gì ngăn chặn đã trở nên vô cùng kỳ diệu bởi anh chưa bao giờ gần một người phụ nữ mà không dùng phương tiện phòng ngừa . Sự kích thích lên đến mức anh không còn tự chủ được nữa, thay vì đẩy Meggie ra, anh càng ghì chặt nàng vào.
Trong bóng đêm, Meggie mỉm cười, hài lòng.
Title: Re: Tiếng chim hót trong bụi mận gai (tiếp)
Post by: Serenade24 on 04/05/07, 16:15
Post by: Serenade24 on 04/05/07, 16:15
Chương 29
Trở về Himmelhoch, Meggie chờ đợi và hy vọng. Cầu xin Chúa ban cho một đứa con! Một đứa con là giải quyết tất cả. Lời cầu nguyện có kết quả. Khi Meggie báo cho Anne và Ludwig tin này, cả hai rất vui mừng, nhất là Ludwig. Chính ông đã lo liệu đầy đủ quần áo tã lÃn ch³t, còn Anne thì sửa soạn căn phòng riêng cho đứa bé sẽ chào đời.
Nhưng thật xui xẻo, trong khi mang thai sức khỏe của Meggie không được tốt, có thể do thời tiết nóng bức, cũng có thể do buồn lo, Meggie không hiểu được tại sao như vậy. Tình trạng khó chịu ấy kéo dài cả ngày. Không những thế, Meggie còn có dấu hiệu tăng huyết áp. Theo bác sĩ Smith, tình trạng của Meggie nguy hiểm. Lúc đầu ông gợi ý nên đưa nàng vào nằm trong bệnh viện cho đến khi sinh nhưng sau đó nghĩ đến hoàn cảnh sống một mình của Meggie xa chồng và không có bạn bè, nên bác sĩ quyết định để nàng ở lại vì như thế thì Ludwig và Anne có thể chăm sóc cho nàng tốt hơn.
- Nhưng phải ráng gọi ông chồng về thăm cô ấy! Bác sĩ cằn nhằn nói với Ludwig.
Meggie viết ngay bức thư gửi Luke bái tin nàng đã có thai, và như mọi người phụ nữ nàng tin tưởng rằng dù không muốn nhưng khi có một đứa con thì Luke cũng sẽ hết sức vui. Nhưng bức thư trả lời của Luke chấm dứt mọi ảo tưởng. Anh ta giận dữ. Đối với cá nhân anh ta khi làm cha, nghĩa đơn giản là phải nuôi thêm một miệng ăn. Thái độ của Luke là viên thuốc đắng mà Meggie vẫn nuốt vì không có sự chọn lựa khác hơn.
Meggie cảm thấy mình bệnh hoạn, bất lực và không được thương yêu. Kể cả đứa con đang trong bụng mẹ cũng không thương nàng và nó không hề mong muốn được sinh ra. Meggie nghe bên trong những phản kháng yếu ớt của một con người nhỏ bé từ chối có mặt. Nếu còn sức để chịu đựng một chuyến đi bằng tàu hỏa dài ba ngàn cây số thì Meggie sẽ không do dự trở về với gia đình. Cuối tháng tám, bốn tuần trước khi Meggie trút gánh nặng, nàng bắt đầu thù ghét đứa con mà thoạt đầu nàng đã hết sức mong muốn và chờ đợi.
Có lúc, Meggie nhận ra tất cả chỉ là thảm họa; cố gắng gạt đi lòng tự ái dị hợm của mình và tìm cách cứu vãn những gì còn lại của những tan vỡ. Cả hai đã lấy nhau vì những suy nghĩ không đúng: Luke nhắm túi tiền của Meggie, còn nàng vì hờn dỗi, vừa muốn thoát khỏi Ralph nhưng đồng thời tìm cách giữ lại hình ảnh của Ralph.
Nhưng thật ra, trong khi không cảm thấy oán giận Luke thì càng lúc Meggie càng cảm thấy căm ghét Ralph. Mặc dù Ralph đã tỏ ra thông cảm và cư xử với nàng đúng hơn Luke nhiều. Chưa bao giờ Ralph có ý nghĩ làm cho nàng phải nhớ nhung đến ông; Ralph chỉ muốn mình được nhìn dưới một góc độ tu sĩ và một người bạn. Ngay cả trong hai lần Ralph ôm hôn nàng, trách nhiệm về những cái hôn ấy vẫn thuộc về Meggiẹ
Thế thì tại sao lại hờn dỗi Ralph làm gì? Tại sao nàng lại căm ghét Ralph chứ không phải Luke? Tại sao lại trách cứ Ralph về sự thôi thúc điên rồ đã đẩy nàng đi đến quyết định lấy Luke? Meggie có cảm tưởng nàng dã phản bội chính mình và phản bội với cả Ralph. Không thể lấy Ralph làm chồng, để được sống chung và có con với ông ấy thì có sao đâu? Ralph trước sau vẫn là con người nàng yêu thương, đáng lý ra nàng không nên đi tìm một ai khác thay thế.
Dù hiểu ra những sai lầm của mình, Meggie vẫn không xoa dịu được những thương đau. Cuối cùng thì chính là Luke. Làm sao nàng có thể vui sướng trong ý nghĩ đứa con ấy không hề mong muốn được chào đời? Thật tội nghiệp cho đứa bé. Có thể, khi ra đời, đứa bé sẽ được thương yêu chỉ vì đó là một con người. Nhưng nếu là con của Ralph thì sẽ thế nào? Chuyện không thể có. Ralph đã phục vụ cho một thiết chế nhất định biến con người ông ấy hoàn toàn thuộc về họ, kể cả cái phần họ không cần đến.
Đức Mẹ, đòi hỏi ở Ralph một hy sinh cho quyền lực, phủ định và hủy hoại con người của Ralph. Nhưng thôi một ngày nào đó, Giáo hội sẽ trả giá cho tham vọng của mình, một ngày nào đó sẽ không còn có những linh mục như Ralph, vì rằng những người này sẽ đánh giá đúng mức tính nam giới của họ để hiểu rằng điều mà Giáo hội đòi hỏi là một sự hy sinh vô ích, không có một chút ý nghĩa nào cả.
Đột nhiên, Meggie đứng lên, đi tới đi lui trong phòng nghỉ, tại đó Anne đang đọc một quyển sách cấm của Norman Lindsay.
- Anne, hãy gọi ngay bác sĩ Smith. Em sắp sinh.
- Chúa ơi! Em hãy lên nằm ngay ở phòng hai vợ chồng chị
Bác sĩ Smith đến trên chiếc xe cũ kỹ, có người nữ hộ sinh đi theo.
- Chị có báo cho ông chồng hay chưa? Vừa bước lên bậc thềm, bác sĩ Smith vừa hỏi Annẹ
- Tôi đã đánh điện cho anh ấy. Meggie đang nằm trong phòng của tôi, ở đó rộng rãi hơn.
Anne khập khiễng theo sau bác sĩ vào phòng. Meggie nằm trên giường, mắt mở to và không thấy có dấu hiệu đau đớn nào ngoại trừ hai bàn tay bị giật và thân người co rút lại. Nàng ráng ngước nhìn Anne mỉm cười. Anne nhận thấy trong đôi mắt nhìn chứa đựng sự sợ hãi.
- Em rất vui mừng được ở lại nhà, Meggie nói. Mẹ em chưa bao giờ đến bệnh viện để sinh. Em có nghe ba em kể, mẹ em đã quá đau đớn khi sinh Hal nhưng rồi cũng vẫn vượt qua cái chết. Nhất định em cũng thế. Phụ nữ dòng họ Cleary chịu đau rất giỏi.
Vài giờsau, bác sĩ trở ra gặp Anne ngoài hiên.
- Cơn đau bụng của cô ấy kéo dài rất lâu và có khó khăn đấy. Thường sinh con đầu lòng đều gặp rắc rối đôi chút, nhưng trong trường hợp này thì nguy hiểm. Cô ấy rất cố gắng nhưng vẫn chưa sinh được. Ở bệnh viện Cairns có thể người ta đã áp dụng thủ thuật mổ để đưa đứa bé ra nhưng tại đây thì không thể làm được. Chính cô ấy phải đưa đứa bé ra một mình.
- Meggie vẫn tỉnh đấy chứ?
- Vâng! Một cô gái rất dũng cảm. Không một tiếng rên. Theo kinh nghiệm của tôi, những người phụ nữ dũng cảm nhất thường lại sinh nở khó khăn nhất. Cô ấy luôn miệng hỏi tôi Ralph đã tới chưa. Tôi phải nói dối với cô ta rằng nước sông Johnstone dâng lên rất cao chưa qua được. Nhưng hình như chồng của cô ấy tên Luke cơ mà.
- Vâng, đúng thế.
- Thế thì... có lẽ vì thế mà cô ấy luôn hỏi đến Ralph. Luke không mang lại cho cô ấy sự an ủi phải không?
- Đó là một thằng không ra gì!
Anne đứng nghiêng người, hai tay nắm chặt lan can. Một chiếc xe tắc xi vừa tách khỏi con lộ Dunny rẽ vào con đường đến Himmelhoch. Con mắt rất tỏ của Anne giúp chị nhận ra ở băng sau xe là một người đàn ông tóc đen. Chị kêu lên mừng rỡ.
- Tôi không tin vào mắt mình nhưng hình như Luke đã nhớ rằng hắn có một người vợ.
Bác sĩ Smith nói:
- Tốt hơn hết là tôi nên trở lên phòng với Meggie để cho chị đối đầu với hắn, Anne. Tôi sẽ không nói gì hết với Meggie đề phòng trường hợp không phải chồng cô ấy. Còn nếu đúng thật là Luke chị rót cho hắn một tách trà, còn rượu thì dành lại sau; rồi hắn sẽ cần đến.
Chiếc tắc xi dừng lại. Trước sự kinh ngạc của Anne, anh tài xế mở cửa và vội vàng vòng mở cửa xe phía sau để người khách bước xuống. Joe Castiglione, chủ nhân chiếc xe tắc xi duy nhất ở Dunny, ít khi tỏ ra lịch sự như thế.
- Thưa Đức cha, đã đến Himmelhoch. Anh ta vừa nói vừa rạp người xuống.
Một người đàn ông mặc áo thụng dài đen với thắt lưng màu đỏ thắm bước ra. Đúng lúc người này quay mặt lại, Anne hoa mắt lên, trong một giây phút tưởng rằng cái anh chàng Luke đang bày một trò gì đó đùa với mình. Nhưng chị nhận ra ngay con người này hoàn toàn khác Luke, lớn hơn Luke ít nhất mười tuổi.
- Xin lỗi có phải bà Mueller? Người khách hỏi với nụ cười trên môi, cái nhìn thật sáng và xa xôi.
- Vâng, tôi là Anne Mueller.
- Tôi xin được tự giới thiệu, Tổng giám mục Ralph, Khâm mạng Tòa thánh tại Úc. Tôi được biết có một phụ nữ, bà Luke O'' Neill hiện ở nhà bà.
- Vâng, thưa ông.
Ralph? Ralph? Có phải chính Ralph mà Meggie đã gọi tên?
- Tôi là một trong những người bạn thân nhất của bà Luke O'' Neill. Tôi có thể gặp mặt bà O'' Neill được không thưa bà?
- Thưa... tôi tin rằng chị Luke sẽ rất vui mừng, Tổng giám mục. Trong hoàn cảnh bình thường hơn thì... nhưng lúc này, Meggie đang sắp sửa sinh và chị ấy đang trải qua một cơn đau dữ dội.
- Tôi biết trước có chuyện gì đó không lành! Ông kêu lên. Tôi linh cảm điều đó từ lâu và gần đây sự lo âu của tôi trở thành một thứ ám ảnh. Tôi phải đến tận nơi và nhìn tận mắt. Tôi xin bà cho tôi được đến bên chị ấy. Nếu chị cần nại một lý do, bà cứ nói tôi là tu sĩ.
Anne không hề có ý định cấm đoán vị Tổng giám mục vào phòng của Meggie.
- Thưa Đức cha đi theo tôi.
Ralph đi ngang qua vị bác sĩ và người nữ hộ sinh như không hề nhìn thấy họ, đến quỳ gối bên giường, đưa tay về hướng Meggie.
- Meggie?
Meggie vượt thoát ra khỏi cơn ác mộng mà nàng đang vật lộn và nhận ra gương mặt thương yêu, đang cúi sát xuống mặt mình, tóc đen và dày với hai chùm màu trắng hai bên thái dương nổi bật lên trong ánh sáng lờ mờ. Những nét thanh tú và quý phái, hơi khắc khổ, biểu hiện rõ hơn tính kiên nhẫn và đôi mắt xanh đắm chìm trong mắt nàng tràn đầy tình yêu nóng bỏng và chờ đợi. Làm sao Meggie lại có thể lầm lẫn Luke với Ralph? Không một ai hoàn toàn giống như chàng, không ai khác có thể thuộc về nàng; Meggie đã phản bội lại điều mà nàng đã cảm nhận ở Ralph. Luke là cái bề đục của tấm gương, còn Ralph rực sáng như mặt trời và đồng thời lại rất xa xôi. Trời ơi, sung sướng làm sao khi được nhìn thấy Ralph.
- Đức cha ơi, hãy giúp con - nàng nói.
Ralph cầm tay Meggie hôn say đắm, rồi áp bàn tay ấy vào má mình.
- Bao giờ cha cũng sẵn sàng, con biết điều đó, Meggie của cha.
- Hãy cầu nguyện cho con và đứa bé. Nếu có một ai đó có thể cứu con và con của con thì người đó chính là Đức cha. Đức cha gần Chúa hơn chúng con rất nhiều. Không ai ghét chúng con, chưa bao giờ có ai ghét chúng con, kể cả Đức cha cũng thế.
- Luke đâu rồi?
- Con không biết và cũng chẳng cần đến anh ta. Meggie nhắm mắt lại, những ngón tay vẫn bám chặt vào tay của Ralph nhất định không buông ra.
Nhưng bác sĩ đã đến vỗ nhẹ lên vai của Ralph.
- Đức cha, tôi nghĩ đã đến lúc Đức cha phải rời phòng này.
- Nhưng nếu sự sống còn của người này bị đe dọa, bác sĩ sẽ gọi tôi chứ?
- Tôi sẽ gọi ngay.
Ralph cùng Anne đi ra khỏi phòng. Ludwig từ vườn mía về. Anh tỏ ra hiểu biết hơn vợ, quỳ một gối xuống đất và hôn chiếc nhẫn của Đức Khâm mạng.
- Như thế Ngài là Ralph? - Anne chống nạnh dựa vào một cái bàn làm bằng tre, hỏi.
- Vâng, tôi là Ralph.
- Từ khi Meggie rơi vào những cơn đau, cô ấy cứ gọi một người nào đó tên Ralph không dứt. Thú thật lúc ấy tôi rất tò mò. Tôi nhớ rất rõ trước đây cô ấy chưa bao giờ đề cập đến cái tên Ralph lần nào. Trong trường hợp nào Đức cha đã quen biết Meggie? Và bao lâu rồi?
- Tôi biết Meggie khi cô ấy mới mười tuổi, chỉ ít ngày sau khi cô ấy đáp tàu từ Tân Tây Lan đến Úc. Nói cho đúng, tôi có thể khẳng định tôi đã biết Meggie qua những cơn bão lụt, hỏa hoạn, những lúc xúc cảm tột đỉnh, đi qua cái sống và cái chết. Tóm lại, tất cả những gì mà chúng tôi đều phải chịu đựng. Meggie là tấm gương mà tôi bắt buộc phải nhìn vào đó để thấy thân phận của con người tôi.
- Ngài yêu Meggie? Anne buông câu ấy với giọng ngạc nhiên.
- Mãi mãi vẫn thế.
- Một bi kịch cho cả hai.
- Tôi mong rằng chỉ là bi kịch cho tôi. Chị hãy kể cho tôi nghe về cô ấy. Chuyện gì đã xảy ra từ khi cô ấy lấy chồng? Nhiều năm rồi tôi đã không gặp lại cô ấy, nhưng tôi luôn có những lo âu về Meggie.
Nghe xong câu chuyện, Ralph thở dài nhìn cây cọ đong đưa theo gió rồi nói:
- Thế thì chúng ta phải giúp Meggie vì Luke đã chối từ. Nếu thật sự Luke bỏ rơi Meggie thì cô ấy sẽ được yên thân hơn khi về ở Drogheda. Tôi biết hai anh chị không muốn mất Meggie nhưng hãy vì Meggie mà thuyết phục cô ấy về với gia đình. Ngay khi trở về Sydney, tôi sẽ gửi một ngân phiếu cho hai anh chị nhờ trao lại cho Meggie, như thế tránh cho cô ấy bị khó chịu vì tiếc tiền của anh mình. Một khi trở về nhà, cô ấy muốn giải thích với gia đình thế nào tùy ý. Cầu Chúa, đứa bé được sinh ra nhanh chóng.
Thế nhưng đứa bé chỉ ra đời hai mươi bốn giờ sau, lúc Meggie đã hoàn toàn kiệt sức và đã chịu đựng tận cùng đau đớn.
Đứa bé - con gái - thật nhỏ bé và yếu đuối làm cho Tổng giám mục cảm thấy đau nhói trong lòng. Meggie! Meggie của ta. Meggie đau khổ, bị giày vò. Ta mãi mãi yêu em, nhưng ta không thể cho em điều mà Luke đã cho em, kể cả cái thân xác bị cấm đoán này.
Khi chỉ còn lại hai người, Ralph hỏi Meggie:
- Em đặt cho con tên gì?
- Justine.
- Một cái tên rất đẹp. Nhưng tại sao em chọn tên đó?
- Em đã đọc thấy đâu đó mà em rất thích.
- Em có vui sướng khi có con không, Meggie?
Trên gương mặt mệt mỏi của Meggie chỉ còn đôi mắt là sống động, dịu dàng, chứa đựng một thứ ánh sáng phớt đục, không hận thù nhưng cũng không có tình yêu.
- Có chứ, em rất sung sướng có đứa con này. Vâng em rất vui sướng vì em đã làm tất cả để có nó... Nhưng trong khi em mang nó trong bụng, em không cảm thấy chút gì là vì nó và nó cũng không cần em. Em không tin rằng Justine thật sự thuộc về em, cũng không thuộc về Luke hay bất cứ ai.
Một hồi lâu Ralph nói:
- Anh phải đi, Meggie ạ. Ralph nói nhỏ.
Đôi mắt màu nâu đanh lại, sáng lên. Nàng bĩu môi chua chát.
- Em đã chờ đợi trước điều đó! Thật kỳ lạ, hình như những người đàn ông dính dấp đến cuộc đời em đều luôn luôn như thế.
Ralph nghe đau trong lòng.
- Đừng chua cay, Meggie. Anh không ra đi để lại em trong một tình trạng như thế này. Dù đã xảy ra chuyện gì cho em trong quá khứ, em luôn giữ sự dịu dàng, đó là điều quí nhất của em đối với anh. Đừng thay đổi, không nên trở thành sắt đá vì tất cã những gì em đã phải chịu đựng. Anh thật đau xót khi nghĩ đến chuyện Luke không màng đến đây, nhưng em cũng đừng đánh mất đi sự dịu dàng đó. Nếu không em không còn là Meggie của anh.
Nàng tiếp tục nhìn Ralph thiết tha lẫn cả sự oán giận.
- Không đâu Ralph, em van anh! Em không phải là Meggie của anh đâu, em chưa bao giờ như thế cả! Anh không cần em và anh đã đẩy em vào tay của Luke. Anh coi em là gì? Một thứ nữ thánh hay một thứ nữ tu? Này anh nhé, không phải như vậy đâu. Em là một con người như mọi người và anh đã làm hỏng đời em. Trong suốt bao năm qua, em đã yêu anh và không chấp nhận ai khác ngoài anh, em đã chờ đợi... Em đã làm mọi cách để quên anh đi. Cuối cùng em đã lấy một người chồng mà em tưởng rằng có phần nào đó giống anh. Nhưng rồi anh ta cũng chẳng màng, chẳng cần đến em. Em có đòi hỏi quá đáng chăng với một người đàn ông mà mình muốn được yêu thương? Luke không xấu xa đâu, cũng không đáng ghét. Thật ra anh ta chỉ là một người đàn ông. Các anh đều như thế, những con bướm to đầy lông lá, đang bị ngọn lửa quái lạ khuất sau một tấm kiếng trong suốt thu hút mà các anh không hề thấy. Nếu cuối cùng các anh tìm được con đường vào tận nơi, các anh sẽ đâm đầu vào ngọn lửa, té xuống, chết thiêu. Trong khi đó thì ngoài kia trong cái mát dịu dàng của màn đêm, có đủ tất cả các thứ để nuôi sống các anh, có tình yêu và những con bướm nhỏ. Nhưng đàn ông các anh có thấy cái đó không, có muốn điều đó không? Không! Các anh quay trở lại với ngọn lửa, các anh cứ đâm đầu vào đó cho đến khi bị cháy và chết đi.
Ralph không biết trả lời thế nào với Meggie bởi rằng Ralph đã khám phá ra một khía cạnh khác thuộc về bản chất của Meggie mà trước đây ông hoàn toàn không biết. Cái đó có từ bao giờ? Phải chăng nó đã hình thành tiếp theo những thất vọng mà nàng đã trải qua sau khi Ralph bỏ rơi nàng? Meggie lại có thể thốt ra những điều đó ư? Ralph không đủ can đảm để nghe rõ từng lời, lòng Ralph hoang mang, mặc cảm phạm tội xâm chiếm tâm hồn.
- Em có nhớ hoa hồng mà em đã tặng cho anh vào buổi chiều anh rời khỏi Drogheda? Ralph âu yếm hỏi Meggie.
- Vâng, em còn nhớ.
Tiếng nói của nàng mất hẳn sức sống, ánh mắt mờ đi vì đau buồn. Ãnh mắt đó chiếu thẳng vào Ralph nhưng tâm hồn thì trống rỗng, vô vọng. Mắt Meggie lờ đờ như đôi mắt của Fiona mẹ nàng.
- Anh vẫn giữ hoa hồng trong sách kinh của anh. Cứ mỗi lần nhìn thấy hoa hồng ấy là anh nhớ đến em. Meggie ơi! Anh yêu em! Em là đóa hồng của anh, hình ảnh đẹp nhất của con người và là tâm tưởng của đời anh.
Đôi môi của Meggie trề ra một lần nữa, mắt long lên giận dữ, có cả sự căm tức.
- Một hình ảnh, một tâm tưởng! Một hình ảnh con người và một tâm tưởng - Giọng nàng trêu chọc - Vâng đúng vậy. Đó là tất cả những gì mà em có trong mắt anh. Anh đúng là một thằng ngốc lãng mạn và mơ mộng, Ralph! Anh không có một ý niệm nào hơn về cuộc sống so với con bướm lao vào ngọn lửa! Không có gì ngạc nhiên khi anh đã chọn làm linh mục! Anh hoàn toàn không có khả năng sống một cuộc sống bình thường nếu anh là một người như mọi người, một người như Luke! Anh nói anh yêu em, nhưng không có một ý niệm nào về tình yêu. Anh chỉ nói ra những lời lẽ nghe thật kêu mà anh học được! Em không hiểu nổi tại sao đàn ông lại không gạt hẳn đàn bà ra khỏi cuộc đời mình đi khi mà điều đó chính là sự mong muốn của họ. Đàn ông các anh nên tìm ra một cách cưới gả với nhau đi, các anh sẽ sống hạnh phúc tuyệt diệu với nhau đấy.
- Meggie, anh van em, đừng nói nữa!
- Thôi! Anh hãy đi đi! Em không muốn gặp mặt anh nữa. Nhưng anh đừng quên điều này: khi nhắc đến những hoa hồng yêu quí của anh, Ralph... Những hoa hồng ấy đều có những gai rất dữ, những gai rất nhọn sẽ đâm vào tim anh.
Ralph rời khỏi phòng mà không quay nhìn lại.
Luke chẳng cần trả lời bức điện của Meggie báo tin anh đã trở thành cha của một đứa con gái nặng hai kilô mang tên Justine.
Luke vẫn theo đuổi cuộc đời rày đây mai đó. Nhiều lần Meggie viết thư cho Luke nhưng không được trả lời. Luke cũng không về thăm con. Đứa bé dần dần mạnh khỏe hơn và đã nhanh chóng vượt qua những thử thách gay go lúc chào đời. Vào tháng tư, Justine không còn thường xuyên khóc la như trước đây nữa và bắt đầu biết vui chơi một mình trong nôi.
Một hôm, đầu tháng mười hai, Anne tìm gặp Meggie đang ở ngoài hiên; chị ngồi xuống bên cạnh và quan sát Meggie. Trời ơi! Sao Meggie xanh xao và đờ đẫn thế! Ngay cả mái tóc màu vàng hung rực rỡ trước đây bây giờ cũng rủ rũ.
- Meggie, chị không biết mình làm như thế có đúng không nhưng việc đã rồi. Và chị mong rằng em hãy nghe chị trình bày trước khi trả lời không.
Meggie nhìn chiếc cầu vồng trên nền trời xám đục và mỉm cười.
- Chuyện gì mà trịnh trọng thế chị? Chị cứ nói đi.
- Luđie và chị rất lo âu về tình trạng sức khỏe của em. Em chưa bình phục lại sau khi sinh Justine, trong khi đó mùa mưa sắp đến, chị e ngại sức khỏe của em mỗi ngày sẽ tệ hơn. Em không ăn và mỗi ngày một gầy thêm. Chị lo rằng thời tiết ở đây không phù hợp với em. Do đó cách đây mười lăm ngày chị có viết thư cho một người bạn là chủ hãng du lịch và chị đã đăng ký cho em đi nghỉ. Đừng phản đối vì sợ tốn kém, việc đó không ảnh hưởng gì đến tiền dành dụm của Luke và em. Anh chị đã nhận được một ngân phiếu với một số tiền lớn của Tổng giám mục Bricassart gởi cho em và một ngân phiếu khác của Bob, anh trai em gởi. Chị có cảm tưởng là cả nhà em đang mong đợi em trở về Drogheda. Anh chị đã thuê sẵn một cottage ở đảo Matlock trong hai tháng, đầu tháng giêng đến đầu tháng ba, Luđie và chị sẽ lãnh phần chăm sóc Justine.
Cầu vồng đã lặn, mặt trời cũng thế; lại sắp sửa mưa.
- Chị Anne, nếu không có chị và anh Luđie với bao nhiêu tình cảm mà anh chị dành cho em trong ba năm qua có lẽ em đã điên mất rồi. Chị biết điều đó mà. Có những đêm em thức dậy và tự hỏi nếu Luke gởi em ở một nhà nào khác, gặp những người không tốt thì em ra sao. Anh chị đã lo lắng cho em hơn cả Luke.
Mưa đã kéo đến giáp ranh những khu trồng mía.
- Chị nói đúng, em cảm thấy trong người không khỏe. Meggie nói tiếp. Từ khi có Justine, em chưa bao giờ được trở lại như xưa. Chị Anne ơi! Em rất mệt mỏi và chán nản! Em không phải là một người mẹ tốt đối với con mặc dù bổn phận đòi hỏi. Chỉ do ý muốn của em mà nó ra đời chứ Justine có đòi hỏi điều đó đâu. Em đã quá chán nản vì Luke đã không cho em cơ hội mang lại hạnh phúc cho anh ấy. Luke từ chối sống chung với em và không để cho em xây dựng một tổ ấm, anh ấy cũng không muốn có con. Em không yêu Luke. Em chưa bao giờ yêu anh ấy như một người phụ nữ yêu chồng. Rất có thể anh ấy đã đoán biết điều đó ngay lúc đầu. Biết đâu Luke sẽ hành động khác hơn nếu em yêu thương anh ấy. Vì vậy làm sao em có thể oán hận Luke được? Em mới là người duy nhất đáng lên án.
- Tổng giám mục là người em đã yêu phải không?
- Vâng, từ cái thuở em còn là một cô bé. Em luôn cư xử tàn nhẫn với Ralph mỗi khi ông ấy đến. Tội nghiệp Ralph! Em không có quyền cư xử như thế với Ralph, vì rằng chưa bao giờ ông ấy tỏ ra quyến rũ em. Em mong rằng ông ấy sẽ có thời giờ nhận ra rằng sở dĩ em có thái độ như thế vì em bị bệnh, kiệt sức và vô cùng khổ sở. Em chỉ nghĩ đến một điều giá như đứa bé đó là con của ông ấy nhưng thực tế thì không thể xảy ra, không bao giờ có thể xảy ra. Trời ơi! Thật là bất công! Các mục sư Tin Lành có thể lấy vợ, tại sao các linh mục Công giáo lại không? Chị đừng nói với em rằng các mục sư chăm lo cho con chiên không tốt bằng các linh mục, em không tin đâu. Em đã từng gặp những linh mục không có lòng và ngược lại những mục sư tuyệt vời. Chỉ tại vì linh mục phải sống độc thân mà em đành xa Ralph, lập một gia đình, xây dựng cuộc đời với một người khác. Em thấy cần phải nói với chị điều này, Anne. Em hành động như thế là một tội lỗi, tội lỗi ấy cũng xấu xa như tội lỗi của Ralph nếu không giữ lời khấn của mình nữa. Em nghĩ nó còn hèn hạ hơn. Em oán giận Giáo hội lên án tình yêu của em dành cho Ralph hoặc Ralph dành cho em.
- Em hãy đi xa một thời gian, Meggie ạ. Hãy nghỉ ngơi, ăn ngủ và đừng ray rứt nữa.
Mưa đột ngột dừng lại như nó đã đột ngột trút xuống. Mặt trời xuất hiện, cầu vồng lóng lánh. Ngọn núi Bartle Frere dần dần hiện ra, khoác lên màu áo hoa đính với nền mây mỏng như tơ.
- Em sẽ đi nghỉ, Meggie nói. Em rất mang ơn anh chị đã lo cho em. Nhưng chị có tin rằng Justine sẽ không gây phiền hà cho anh chị không?
- Không đâu, Luđie đã lo trước mọi thứ rồi. Người giúp việc trước của chúng tôi là Anna Maria, chị ta có một em gái tên là Annunziata, mười lăm tuổi. Anh Luđie đã gọi Annuziata đến chăm sóc cho Justine.
- Đảo Matlock ở đâu hở chị?
- Gần đèo Whitsunday, trên cửa con sông Great Barrier Reef. Ở đó rất yên tịnh và ấm cúng. Chị có cảm tưởng đó là một nơi dành riêng cho những tuần trăng mật. Em hiểu chị muốn nói gì chứ... Nhưng mà ở rải rác khắp nơi, khuất sau những lùm cây chứ không phải một khách sạn. Vào thời gian em đi nghỉ, đảo hoàn toàn vắng người.
Ngày cuối cùng của năm 1931, Meggie lên tàu hỏa đi Townsville bắt đầu những ngày nghỉ dễ chịu vì đã trút bỏ được phía sau cái mùi rỉ đường của vùng Dunny. Townsville là một vùng dân cư quan trọng nhất ở Bắc Queensland, có khoảng vài ngàn dân sống trong những nhà sàn nhỏ bằng gỗ, sơn màu trắng.
Để đến đảo Matlock nơi nghỉ mát sau này, sau khi rời tàu hỏa còn phải vượt qua một vùng biển. Tàu lướt êm đềm trên mặt nước trong như gương. Giữa hai cơn gió xoáy, không khí dịu xuống, biển có vẻ mệt mỏi. Dù mới gần trưa, Meggie đã đi nằm và thiếp đi trong một giấc ngủ không mộng mị cho đến khi người tiếp viên đánh thức nàng dậy, lúc ấy là sáu giờ sáng hôm sau. Anh ta mang vào cho Meggie một tách trà nóng và bánh ngọt.
Trên boong tàu, Meggie đã khám phá một nước Úc mới, hoàn toàn khác. - Những hòn đảo nhấp nhô trên mặt nước là những đảo san hô ngầm - một người trong thủy thủ đoàn giải thích như thế với Meggie.
Một tiếng đồng hồ trước khi mặt trời lặn, tàu rẽ sóng từ từ cặp bến. Người đàn ông lớn tuổi đứng sẵn chờ Meggie, giúp nàng mang hành lý lên chiếc ô tô duy nhất hết sức sang trọng của đảo này.
- Thưa bà O'' Neill, bà đi đường bình yên chứ? ông ta chào Meggie. Tôi là Rob Walter. Tôi hy vọng rằng ông nhà sẽ đến nay mai. Ở Matlock vào mùa này không có nhiều người lắm, đây là một điểm du lịch mùa đông, đảo rộng sáu kilomet, chiều dài gấp đôi như thế.
Xe đi ngang qua một tòa nhà trắng, có vẻ hỗn độn.
- Đây là cửa hàng lớn ở đảo. Người lái xe giới thiệu với giọng đầy tự hào như chính mình là ông chủ. Tôi ở đó với bà chủ. Bà ta sẽ không thích chút nào khi thấy một người phụ nữ một mình đến đảo, tôi đoan chắc như thế. Bà ta cho rằng tôi có thể bị quyến rũ. Rất may là văn phòng du lịch ở đây có nói rõ là bà đòi hỏi một sự yên tịnh hoàn toàn, thế là thêm một điều nữa làm cho bà chủ yên tâm. Tôi đã chọn cho bà một nhà sàn xa nhất và không có bóng một người nào ở đó. Nếu thích, bà có thể đi dạo không cần mặc quần áo mà không sợ ai dòm ngó. Nếu bà có cần điều chi bà chỉ nhấc điện thoại lên và tôi sẽ mang đến ngay cho bà. Nhà nghỉ mát này có ba phòng; trước mặt là bãi cát trắng hình vòng cung, hai đầu nhô ra hai mũi nhọn của ngọn đồi. Bên trong nhà trang hoàng giản dị nhưng đầy đủ tiện nghi, một tủ lạnh nhỏ, một điện thoại và một radio. Đầy đủ hơn so với Drogheda và Himmelhoch. Dĩ nhiên do khách du lịch đến đây thường từ Sydney hoặc Melbourne, những tiện nghi tối thiểu như thế không thể thiếu được thưa bà.
Trong tuần lễ đầu, điều quan tâm duy nhất đối với Meggie là ăn và ngủ. Bây giờ Meggie mới nhận ra là mình đã kiệt sức đến mức nào. Cứ mỗi lần đặt lưng xuống chiếc giường êm ái, Meggie đã ngủ say liền suốt mười đến mười hai tiếng đồng hồ liên tiếp. Các thức ăn đều ngon miệng. Meggie ăn ngay khi vừa thức dậy, cả khi xuống bãi biển nàng cũng mang những trái xoài theo để vừa tắm vừa ăn. Nước không sâu, không một gợn sóng, mặt biển như gương. Chỉ tiếc là nàng không biết lội.
Sự vắng vẻ, cái cảm giác đối diện với chính mình thật là thiên đàng. Anne nói đúng làm sao! Được sống một mình là sự thoát trần, một sự thanh thản hoàn toàn. Sự vắng vẻ và đơn độc không hề khiến Meggie cảm thấy nặng nề. Anne, Luđie, Justine và Luke đều không làm cho Meggie nhung nhớ và lần đầu tiên trong ba năm nàng cũng không nhớ Drogheda. Ông già Rob thì cứ mỗi chiều lái xe ngang, chờ đợi một cái vẫy tay bình yên của Meggie từ trên bao lơn nhà sàn rồi quay đầu xe lại. Chỉ có một lần, Rob gọi điện thoại đến Meggie cho biết ông ta sẽ tổ chức một chuyến đi dạo trên biển cho một cặp vợ chồng du lịch khác ở đầu kia trên đảo. Ông hỏi Meggie có thích đi cùng không và nàng đã đồng ý. Chuyến đi đó giúp Meggie khám phá một thế giới thần tiên dưới đáy biển. Nước biển trong đến đỗi nàng nhìn rõ từng con cá, những rong biển và màu sắc thật của san hô.
Nghe theo lời khuyên của Rob, Meggie xuống bãi không mặc quần áo. Lúc đầu, nàng nhút nhát như con thỏ luôn đánh mùi, sợ chó rừng đến và chỉ một cơn gió nhẹ cũng đủ làm Meggie giật mình, vội vàng che thân. Nhưng vài ngày sau Meggie tỏ ra không còn e thẹn nữa, Meggie đi lại tự nhiên trên các con đường mòn, dọc bờ biển hay bì bõm dưới nước ấm và mặn, mà không một mảnh vải che thân. Meggie bắt đầu có cảm giác của một con thú được nuôi trong chuồng nay đột ngột được thả ra giữa một thế giới dễ thương, hiếu khách, thoải mái và đầy ánh sáng mặt trời.
Giữa một khung cảnh mà Meggie không còn muốn nhớ đến ai thì nàng không thể quên Ralph. Ralph giống như Chúa trời: tất cả bắt đầu và kết thúc ở anh ấy. Từ ngày Ralph quỳ gối xuống đất tại nhà ga Gilly, trong vầng sáng của hoàng hôn, hai tay giang ra ôm lấy nàng. Lúc ấy nàng đã có Ralph và dù cho sau này không bao giờ gặp lại Ralph nữa, nàng vẫn tưởng tượng rằng ý nghĩ cuối cùng của nàng trên cõi trần này cũng dÃ7911 nh cho Ralph mà thôi. Thật kinh hãi khi nhận ra rằng chỉ có một và luôn luôn một người như thế có vị trí quan trọng trong cuộc đời mình! Meggie đã nói gì với Anne? Rằng đòi hỏi của nàng rất bình thường... một người chồng, những đứa con, một gia đình riêng, được yêu một ai đó. Như thế đâu phải là đòi hỏi quá đáng. Nói cho cùng, phần đông những người phụ nữ đều có được tất cả những điều như vậy. Nhưng với Meggie những mong ước tầm thường ấy lại quá khó khăn.
Hãy chấp nhận đi Meggie Cleary, Meggie O'' Neill. Người mà nàng muốn là Ralph nhưng nàng sẽ không bao giờ có được. Thế thì, với tư cách một người đàn ông, gần như Ralph đã làm mờ đi những người đàn ông khác và làm Meggie không còn có thể yêu ai. Vậy, thì chấp nhận cái thực tế đó đi. Chấp nhận rằng người đàn ông, một người nào đó để yêu là không thể có. Chỉ còn có những đứa con là nàng yêu thương và chính từ đấy mà tình yêu sẽ có được. Như thế, có nghĩa, một lần nữa, phải quay về với Luke và những đứa con của Luke sau này.
Ôi, Chúa nhân từ! Không, Chúa không nhân từ, Chúa đã làm gì cho con hay chỉ tước đoạt Ralph của con? Tước đoạt cả cái mà Chúa không cần đến. Giữa Chúa và con, chúng ta không hề đối xử với nhau dịu dàng. Và xin Chúa hiểu cho điều này, Người không làm con sợ như trước đây nữa đâu. Trước kia, con sợ Người biết bao, sợ sự trừng phạt. Suốt đời, con luôn đi theo con đường thẳng và hẹp vì sợ Người. Nhưng con đã được gì? Bây giờ thì có lẽ không có điều gì làm con bằng lòng hơn là vi phạm các điều răn của Người. Người là một kẻ lừa bịp, một con quỷ mang lại sợ hãi. Người coi chúng con như những đứa con nít, đem sự trừng phạt để hù dọa. Nhưng bây giờ Người không còn làm cho con sợ nữa, vì rằng Ralph không phải là người con ghét mà con đã ghét Chúa. Tất cả là lỗi của Người chứ không phải của Ralph. Anh ấy chỉ sống trong nỗi sợ hãi Người như con đã từng sống. Thế mà anh vẫn yêu Người, đó là điều con không thể nào hiểu được. Con không tìm thấy ở Chúa điều gì đáng yêu.
Thế nhưng làm sao mình có thể không yêu một người đã yêu thương Chúa? Mình đã thử với tất cả nghị lực, nhưng vẫn cảm thấy không thể nào làm được. Chuyện đó thật như lên cung trăng và mình đã khóc than để mong có được Ralph. Bây giờ thì mày phải dẹp cái trò khóc lóc đó đi Meggie à. Có thế thôi. Mày nên bằng lòng với Luke và những đứa con của hắn. Hoặc nhắm thẳng mục tiêu hoặc bằng mưu mẹo, mày hãy rứt Luke ra khỏi những cây mía đáng ghét rồi sống với hắn ở một vùng đất nào đó mà cây cối cũng không thể mọc lên. Mày báo cho giám đốc ngân hàng Gilly quyết định của mày rằng từ nay các khoản thu nhập của mày phải được chuyển vào trương mục của chính mày. Và mày dùng tiền đó để mang lại tiện nghi, mang lại sung sướng cho cái gia đình không có bóng mát của mày, một điều mà Luke chẳng bao giờ mang đến cho mày được. Mày dùng tiền đó để giáo dục những đứa con của Luke và bảo đảm để chúng không bao giờ rơi vào cảnh thiếu thốn.
Và như thế, không còn phải thêm gì nữa Meggie à. Ta là Meggie O'' Neill, chứ không phải Meggie de Bricassart. Hơn nữa Meggie de Bricassart nghe không được thuận tai lắm. Đáng lý tôi phải là Meghann de Bricassart nhưng mà tôi vẫn ghét cái tên Meghann. Ôi! có thể nào tôi chấm dứt được sự nuối tiếc rằng chúng không phải là những đứa con của Ralph? Tất cả vấn đề là ở chỗ đó, phải không? Mày hãy luôn luôn lặp lại rằng: cuộc đời của mày thuộc về mày, Meggie O'' Neill, mày không được làm hỏng nó bằng cách mơ mộng một người đàn ông và những đứa con mà mày không có quyền được có.
Thế đấy! Đã quyết định như thế đấy! Tự hành hạ mình với cái quá khứ cần chôn đi là việc làm vô ích. Duy nhất chỉ có tương lai và tương lai thuộc về Luke, những đứa con của Luke, nó không thuộc về Ralph. Ralph là quá khứ.
Meggie úp mặt xuống cát và khóc. Từ năm lên ba chưa bao giờ Meggie khóc như thế.
Hai ngày sau khi Meggie lên đường đi nghỉ ở đảo Matlock, Luke ghé Himmelhoch trên đường đi nhận việc làm mới ở nhà máy lọc đường Sydney. Đã đến lúc anh phải biết mặt con. Nếu đứa bé là con trai chắc anh đã về thăm ngay sau khi Meggie sinh, nhưng anh đã không giấu được sự thất vọng khi biết là con gái. Nếu Meggie nhất định có con thì ít ra nó phải kế nghiệp anh một ngày nào đó cai quản trang trại ở Kynuna. Con gái không lợi ích gì cả, lớn lên theo chồng. Anne bực bội nói với Luke:
- Tôi chán ngấy khi thấy anh cư xử với vợ như thế. Luke, anh hãy cư xử như người lớn, hãy nhận lấy trách nhiệm của mình! Anh có vợ và một đứa con! Anh phải xây dựng cho vợ con anh. Một mái nhà, làm chồng, làm cha chứ không thể là kẻ vô tích sự như thế.
- Tôi sẽ làm những điều đó, tôi sẽ làm. Nhưng bây giờ thì chưa được. Tôi phải tiếp tục đốn mía trong vài năm nữa để đề phòng lúc khó khăn sau này. Tôi không muốn sống nhờ vả vào tiền của Meggie.
- Ồ, toàn những chuyện phịa! Anne nói giọng mỉa mai, môi trề ra khinh bỉ. Vậy chớ không phải anh đã lấy Meggie vì tiền à?
Gương mặt rám của Luke đỏ lên. Ãnh mắt của Luke nhìn nơi khác tránh Anne.
- Tôi nhìn nhận là đồng tiền có vai trò, nhưng tôi cưới Meggie vì tôi vừa ý Meggie hơn các cô gái khác.
- Vừa ý, nhưng anh có yêu cô ấy không?
- Tình yêu? Tình yêu nghĩa là gì? Một phát minh của phụ nữ tốt bụng, thế thôi. Bây giờ nếu chị đã chấm dứt những lời lẽ dạy dỗ tôi thì, xin chị cho biết Meggie ở đâu?
- Cô ấy không được khỏe, tôi đã gởi cô ấy đi nghỉ ở xa. Ồ, anh đừng có cuống cuồng lên. Không phải với tiền của anh đâu. Tôi có dự tính thuyết phục anh cùng đi với Meggie nhưng tôi thấy rằng hoàn toàn vô ích.
- Không có chuyện đó. Arne và tôi đi Sydney ngay chiều tối hôm nay.
- Anh biến đi ngay đi Luke. Anh làm tôi phát chán. Anh không xứng đáng với những gì anh đang có. Anh cứ quay trở lại với thằng bạn bất hủ Arne của anh, với cây mía và công việc còng lưng của anh.
Luke dừng lại ở cửa:
- Vợ tôi đặt tên đứa bé là gì nhỉ? Tôi quên mất.
- Justine, Justine!
- Cái tên ngu ngốc. Anh ta lầm bầm và bỏ đi.
Hôm sau, một chiếc xe hơi kiểu thể thao màu đỏ tiếng máy nổ ròn rời đường cái Dunny rẽ xuống con đường dốc. Chiếc xe loại mới nhất và đắt tiền. Thoật đầu, Anne không nhận ra người đàn ông từ cửa xe bước ra vì ông ta ăn mặc theo người dân ở Queensland với chiếc quần tây ngắn. Trơi ơi đúng là một mẫu người đàn ông đẹp! Anne nghĩ thầm, trong lúc ông ta đang bước lên thềm nhanh nhẹn mỗi lúc hai bậc thang. Nhưng khi đến gần thì người đàn ông đó không còn trẻ như chị tưởng, hai bên mái tóc đã bạc. Mình chưa bao giờ gặp một anh thợ đốn mía đỏm dáng như thế này - Anne nghĩ trong bụng.
Nhưng khi đôi mắt trầm tĩnh và xa xôi ấy nhìn thẳng vào Anne chị mới nhận ra người khách:
- Trời ơi! Chị kêu lên và đánh rơi chiếc bình sửa của bé Justinẹ
Người đàn ông cúi nhặt bình sữa lên, trao lại cho Anne và tựa lưng vào bao lơn hiên nhà, đứng đối diện với chị:
- Không sao - người đàn ông nói - Núm vú bình sữa chưa chạm đất. Chị có thể tiếp tục cho em bé bú.
Đang đói, Justine bắt đầu cựa quậy, Anne liền đưa núm vú vào miệng cô bé:
- Thật bất ngờ, thưa Đức cha! Con phải thú thật rằng Đức cha không giống chút nào một Tổng giám mục mà lâu nay con đã hình dung. Con vẫn tưởng tượng các Tổng giám mục là những con người mập mạp, đầy đủ.
- Trong lúc này, tôi tự coi mình không phải là một Tổng giám mục; tôi chỉ là một tu sĩ đang nghỉ hè, cho nên chị có thể gọi tôi bằng Ralph. Có phải đây là con người nhỏ xíu đã gây ra bao nhiêu phiền phức cho Meggie khi tôi đến thăm cô ấy lần trước? Chị có thể cho tôi bế cháu một chút được không?
Ralph ngồi vào chiếc ghế bành bên cạnh Anne, bế đứa bé và nâng bình sữa cho nó bú, chân gác chéo một thách thong dong.
- Cuối cùng Meggie đặt cho nó tên Justine?
- Thưa vâng.
- Một cái tên đẹp. Chúa ơi, nhìn xem màu tóc của cô bé! Đúng là màu tóc của ông ngoại nó.
- Meggie cũng bảo thế.
Như tán đồng nhận xét của Ralph, Justine nhoẻn cười. Một lát sau, cô bé ngủ ngon.
- Meggie đâu rồi? Ralph hỏi.
- Hiện cô ấy không có ở đây. Cô ấy không hồi sức được sau khi sinh và mùa mưa lại đến, càng hại cho sức khỏe. Luđie và con đã gởi cô ấy đi nghỉ hai tháng. Meggie sẽ trở về vào đầu tháng ba, trong bảy tuần nữa.
Ralph thở dài.
- Đây là lần thứ hai tôi đến để giã từ Meggie mà không gặp cô ấy.
- Đức cha sẽ đi đâu?
- Đi La Mã, Vatican. Đức Hồng Y Di Contini Verchese giữ nhiệm vụ của Đức Hồng Y Monteverdi mới mất. Tôn trọng lời hứa của mình, Đức cha đã yêu cầu tôi phụ tá cho ngài. Đây là một vinh dự lớn. Tôi không thể từ chối.
Dừng một lúc, Ralph hỏi với giọng bình thường.
- Hiện cô ấy ở đâu?
- Meggie mướn một nhà sàn ở đảo Matlock.
- Ở đâu vậy?
- Đảo Matlock, ở gần eo biển Whitsunday, một nơi yên tĩnh. Trong năm cứ vào mùa này, đảo hoàn toàn vắng người. Đức cha đừng ngại chi hết, Đức cha không gặp ai đâu.
- Rất an tâm - Ralph vừa lẩm bẩm và nhẹ nhàng trao Justine còn ngủ cho Anne - Cảm ơn chị. Chị hoàn toàn hiểu lầm. Tôi chỉ muốn gặp Meggie, ngoài ra không có mục đích nào khác. Không bao giờ tôi để Meggie liên lụy vào bất cứ chuyện gì, hoặc để một sự đe dọa nào có thể làm hại linh hồn trong sáng và bất tử của cô ấy.
- Nhưng linh hồn của Đức cha thì sao? Trong hoàn cảnh này, con nghĩ rằng Đức cha nên đến đó dưới cái tên Luke O'' Neill. Ở đó người ta đang chờ đợi hắn đến. Như thế, Đức cha có thể an tâm rằng cả Meggie và Đức cha không có ai có thể bị hoen ố vì một vụ xicangdan.
- Nhưng nếu Luke xuất hiện?
- Không thể có chuyện đó. Hắn đã đi Sydney tháng ba mới trở về. Con là người duy nhất có thể nói cho hắn biết Meggie đang ở Matlock nhưng con đã không nói gì với hắn, thưa Đức cha.
Trở về Himmelhoch, Meggie chờ đợi và hy vọng. Cầu xin Chúa ban cho một đứa con! Một đứa con là giải quyết tất cả. Lời cầu nguyện có kết quả. Khi Meggie báo cho Anne và Ludwig tin này, cả hai rất vui mừng, nhất là Ludwig. Chính ông đã lo liệu đầy đủ quần áo tã lÃn ch³t, còn Anne thì sửa soạn căn phòng riêng cho đứa bé sẽ chào đời.
Nhưng thật xui xẻo, trong khi mang thai sức khỏe của Meggie không được tốt, có thể do thời tiết nóng bức, cũng có thể do buồn lo, Meggie không hiểu được tại sao như vậy. Tình trạng khó chịu ấy kéo dài cả ngày. Không những thế, Meggie còn có dấu hiệu tăng huyết áp. Theo bác sĩ Smith, tình trạng của Meggie nguy hiểm. Lúc đầu ông gợi ý nên đưa nàng vào nằm trong bệnh viện cho đến khi sinh nhưng sau đó nghĩ đến hoàn cảnh sống một mình của Meggie xa chồng và không có bạn bè, nên bác sĩ quyết định để nàng ở lại vì như thế thì Ludwig và Anne có thể chăm sóc cho nàng tốt hơn.
- Nhưng phải ráng gọi ông chồng về thăm cô ấy! Bác sĩ cằn nhằn nói với Ludwig.
Meggie viết ngay bức thư gửi Luke bái tin nàng đã có thai, và như mọi người phụ nữ nàng tin tưởng rằng dù không muốn nhưng khi có một đứa con thì Luke cũng sẽ hết sức vui. Nhưng bức thư trả lời của Luke chấm dứt mọi ảo tưởng. Anh ta giận dữ. Đối với cá nhân anh ta khi làm cha, nghĩa đơn giản là phải nuôi thêm một miệng ăn. Thái độ của Luke là viên thuốc đắng mà Meggie vẫn nuốt vì không có sự chọn lựa khác hơn.
Meggie cảm thấy mình bệnh hoạn, bất lực và không được thương yêu. Kể cả đứa con đang trong bụng mẹ cũng không thương nàng và nó không hề mong muốn được sinh ra. Meggie nghe bên trong những phản kháng yếu ớt của một con người nhỏ bé từ chối có mặt. Nếu còn sức để chịu đựng một chuyến đi bằng tàu hỏa dài ba ngàn cây số thì Meggie sẽ không do dự trở về với gia đình. Cuối tháng tám, bốn tuần trước khi Meggie trút gánh nặng, nàng bắt đầu thù ghét đứa con mà thoạt đầu nàng đã hết sức mong muốn và chờ đợi.
Có lúc, Meggie nhận ra tất cả chỉ là thảm họa; cố gắng gạt đi lòng tự ái dị hợm của mình và tìm cách cứu vãn những gì còn lại của những tan vỡ. Cả hai đã lấy nhau vì những suy nghĩ không đúng: Luke nhắm túi tiền của Meggie, còn nàng vì hờn dỗi, vừa muốn thoát khỏi Ralph nhưng đồng thời tìm cách giữ lại hình ảnh của Ralph.
Nhưng thật ra, trong khi không cảm thấy oán giận Luke thì càng lúc Meggie càng cảm thấy căm ghét Ralph. Mặc dù Ralph đã tỏ ra thông cảm và cư xử với nàng đúng hơn Luke nhiều. Chưa bao giờ Ralph có ý nghĩ làm cho nàng phải nhớ nhung đến ông; Ralph chỉ muốn mình được nhìn dưới một góc độ tu sĩ và một người bạn. Ngay cả trong hai lần Ralph ôm hôn nàng, trách nhiệm về những cái hôn ấy vẫn thuộc về Meggiẹ
Thế thì tại sao lại hờn dỗi Ralph làm gì? Tại sao nàng lại căm ghét Ralph chứ không phải Luke? Tại sao lại trách cứ Ralph về sự thôi thúc điên rồ đã đẩy nàng đi đến quyết định lấy Luke? Meggie có cảm tưởng nàng dã phản bội chính mình và phản bội với cả Ralph. Không thể lấy Ralph làm chồng, để được sống chung và có con với ông ấy thì có sao đâu? Ralph trước sau vẫn là con người nàng yêu thương, đáng lý ra nàng không nên đi tìm một ai khác thay thế.
Dù hiểu ra những sai lầm của mình, Meggie vẫn không xoa dịu được những thương đau. Cuối cùng thì chính là Luke. Làm sao nàng có thể vui sướng trong ý nghĩ đứa con ấy không hề mong muốn được chào đời? Thật tội nghiệp cho đứa bé. Có thể, khi ra đời, đứa bé sẽ được thương yêu chỉ vì đó là một con người. Nhưng nếu là con của Ralph thì sẽ thế nào? Chuyện không thể có. Ralph đã phục vụ cho một thiết chế nhất định biến con người ông ấy hoàn toàn thuộc về họ, kể cả cái phần họ không cần đến.
Đức Mẹ, đòi hỏi ở Ralph một hy sinh cho quyền lực, phủ định và hủy hoại con người của Ralph. Nhưng thôi một ngày nào đó, Giáo hội sẽ trả giá cho tham vọng của mình, một ngày nào đó sẽ không còn có những linh mục như Ralph, vì rằng những người này sẽ đánh giá đúng mức tính nam giới của họ để hiểu rằng điều mà Giáo hội đòi hỏi là một sự hy sinh vô ích, không có một chút ý nghĩa nào cả.
Đột nhiên, Meggie đứng lên, đi tới đi lui trong phòng nghỉ, tại đó Anne đang đọc một quyển sách cấm của Norman Lindsay.
- Anne, hãy gọi ngay bác sĩ Smith. Em sắp sinh.
- Chúa ơi! Em hãy lên nằm ngay ở phòng hai vợ chồng chị
Bác sĩ Smith đến trên chiếc xe cũ kỹ, có người nữ hộ sinh đi theo.
- Chị có báo cho ông chồng hay chưa? Vừa bước lên bậc thềm, bác sĩ Smith vừa hỏi Annẹ
- Tôi đã đánh điện cho anh ấy. Meggie đang nằm trong phòng của tôi, ở đó rộng rãi hơn.
Anne khập khiễng theo sau bác sĩ vào phòng. Meggie nằm trên giường, mắt mở to và không thấy có dấu hiệu đau đớn nào ngoại trừ hai bàn tay bị giật và thân người co rút lại. Nàng ráng ngước nhìn Anne mỉm cười. Anne nhận thấy trong đôi mắt nhìn chứa đựng sự sợ hãi.
- Em rất vui mừng được ở lại nhà, Meggie nói. Mẹ em chưa bao giờ đến bệnh viện để sinh. Em có nghe ba em kể, mẹ em đã quá đau đớn khi sinh Hal nhưng rồi cũng vẫn vượt qua cái chết. Nhất định em cũng thế. Phụ nữ dòng họ Cleary chịu đau rất giỏi.
Vài giờsau, bác sĩ trở ra gặp Anne ngoài hiên.
- Cơn đau bụng của cô ấy kéo dài rất lâu và có khó khăn đấy. Thường sinh con đầu lòng đều gặp rắc rối đôi chút, nhưng trong trường hợp này thì nguy hiểm. Cô ấy rất cố gắng nhưng vẫn chưa sinh được. Ở bệnh viện Cairns có thể người ta đã áp dụng thủ thuật mổ để đưa đứa bé ra nhưng tại đây thì không thể làm được. Chính cô ấy phải đưa đứa bé ra một mình.
- Meggie vẫn tỉnh đấy chứ?
- Vâng! Một cô gái rất dũng cảm. Không một tiếng rên. Theo kinh nghiệm của tôi, những người phụ nữ dũng cảm nhất thường lại sinh nở khó khăn nhất. Cô ấy luôn miệng hỏi tôi Ralph đã tới chưa. Tôi phải nói dối với cô ta rằng nước sông Johnstone dâng lên rất cao chưa qua được. Nhưng hình như chồng của cô ấy tên Luke cơ mà.
- Vâng, đúng thế.
- Thế thì... có lẽ vì thế mà cô ấy luôn hỏi đến Ralph. Luke không mang lại cho cô ấy sự an ủi phải không?
- Đó là một thằng không ra gì!
Anne đứng nghiêng người, hai tay nắm chặt lan can. Một chiếc xe tắc xi vừa tách khỏi con lộ Dunny rẽ vào con đường đến Himmelhoch. Con mắt rất tỏ của Anne giúp chị nhận ra ở băng sau xe là một người đàn ông tóc đen. Chị kêu lên mừng rỡ.
- Tôi không tin vào mắt mình nhưng hình như Luke đã nhớ rằng hắn có một người vợ.
Bác sĩ Smith nói:
- Tốt hơn hết là tôi nên trở lên phòng với Meggie để cho chị đối đầu với hắn, Anne. Tôi sẽ không nói gì hết với Meggie đề phòng trường hợp không phải chồng cô ấy. Còn nếu đúng thật là Luke chị rót cho hắn một tách trà, còn rượu thì dành lại sau; rồi hắn sẽ cần đến.
Chiếc tắc xi dừng lại. Trước sự kinh ngạc của Anne, anh tài xế mở cửa và vội vàng vòng mở cửa xe phía sau để người khách bước xuống. Joe Castiglione, chủ nhân chiếc xe tắc xi duy nhất ở Dunny, ít khi tỏ ra lịch sự như thế.
- Thưa Đức cha, đã đến Himmelhoch. Anh ta vừa nói vừa rạp người xuống.
Một người đàn ông mặc áo thụng dài đen với thắt lưng màu đỏ thắm bước ra. Đúng lúc người này quay mặt lại, Anne hoa mắt lên, trong một giây phút tưởng rằng cái anh chàng Luke đang bày một trò gì đó đùa với mình. Nhưng chị nhận ra ngay con người này hoàn toàn khác Luke, lớn hơn Luke ít nhất mười tuổi.
- Xin lỗi có phải bà Mueller? Người khách hỏi với nụ cười trên môi, cái nhìn thật sáng và xa xôi.
- Vâng, tôi là Anne Mueller.
- Tôi xin được tự giới thiệu, Tổng giám mục Ralph, Khâm mạng Tòa thánh tại Úc. Tôi được biết có một phụ nữ, bà Luke O'' Neill hiện ở nhà bà.
- Vâng, thưa ông.
Ralph? Ralph? Có phải chính Ralph mà Meggie đã gọi tên?
- Tôi là một trong những người bạn thân nhất của bà Luke O'' Neill. Tôi có thể gặp mặt bà O'' Neill được không thưa bà?
- Thưa... tôi tin rằng chị Luke sẽ rất vui mừng, Tổng giám mục. Trong hoàn cảnh bình thường hơn thì... nhưng lúc này, Meggie đang sắp sửa sinh và chị ấy đang trải qua một cơn đau dữ dội.
- Tôi biết trước có chuyện gì đó không lành! Ông kêu lên. Tôi linh cảm điều đó từ lâu và gần đây sự lo âu của tôi trở thành một thứ ám ảnh. Tôi phải đến tận nơi và nhìn tận mắt. Tôi xin bà cho tôi được đến bên chị ấy. Nếu chị cần nại một lý do, bà cứ nói tôi là tu sĩ.
Anne không hề có ý định cấm đoán vị Tổng giám mục vào phòng của Meggie.
- Thưa Đức cha đi theo tôi.
Ralph đi ngang qua vị bác sĩ và người nữ hộ sinh như không hề nhìn thấy họ, đến quỳ gối bên giường, đưa tay về hướng Meggie.
- Meggie?
Meggie vượt thoát ra khỏi cơn ác mộng mà nàng đang vật lộn và nhận ra gương mặt thương yêu, đang cúi sát xuống mặt mình, tóc đen và dày với hai chùm màu trắng hai bên thái dương nổi bật lên trong ánh sáng lờ mờ. Những nét thanh tú và quý phái, hơi khắc khổ, biểu hiện rõ hơn tính kiên nhẫn và đôi mắt xanh đắm chìm trong mắt nàng tràn đầy tình yêu nóng bỏng và chờ đợi. Làm sao Meggie lại có thể lầm lẫn Luke với Ralph? Không một ai hoàn toàn giống như chàng, không ai khác có thể thuộc về nàng; Meggie đã phản bội lại điều mà nàng đã cảm nhận ở Ralph. Luke là cái bề đục của tấm gương, còn Ralph rực sáng như mặt trời và đồng thời lại rất xa xôi. Trời ơi, sung sướng làm sao khi được nhìn thấy Ralph.
- Đức cha ơi, hãy giúp con - nàng nói.
Ralph cầm tay Meggie hôn say đắm, rồi áp bàn tay ấy vào má mình.
- Bao giờ cha cũng sẵn sàng, con biết điều đó, Meggie của cha.
- Hãy cầu nguyện cho con và đứa bé. Nếu có một ai đó có thể cứu con và con của con thì người đó chính là Đức cha. Đức cha gần Chúa hơn chúng con rất nhiều. Không ai ghét chúng con, chưa bao giờ có ai ghét chúng con, kể cả Đức cha cũng thế.
- Luke đâu rồi?
- Con không biết và cũng chẳng cần đến anh ta. Meggie nhắm mắt lại, những ngón tay vẫn bám chặt vào tay của Ralph nhất định không buông ra.
Nhưng bác sĩ đã đến vỗ nhẹ lên vai của Ralph.
- Đức cha, tôi nghĩ đã đến lúc Đức cha phải rời phòng này.
- Nhưng nếu sự sống còn của người này bị đe dọa, bác sĩ sẽ gọi tôi chứ?
- Tôi sẽ gọi ngay.
Ralph cùng Anne đi ra khỏi phòng. Ludwig từ vườn mía về. Anh tỏ ra hiểu biết hơn vợ, quỳ một gối xuống đất và hôn chiếc nhẫn của Đức Khâm mạng.
- Như thế Ngài là Ralph? - Anne chống nạnh dựa vào một cái bàn làm bằng tre, hỏi.
- Vâng, tôi là Ralph.
- Từ khi Meggie rơi vào những cơn đau, cô ấy cứ gọi một người nào đó tên Ralph không dứt. Thú thật lúc ấy tôi rất tò mò. Tôi nhớ rất rõ trước đây cô ấy chưa bao giờ đề cập đến cái tên Ralph lần nào. Trong trường hợp nào Đức cha đã quen biết Meggie? Và bao lâu rồi?
- Tôi biết Meggie khi cô ấy mới mười tuổi, chỉ ít ngày sau khi cô ấy đáp tàu từ Tân Tây Lan đến Úc. Nói cho đúng, tôi có thể khẳng định tôi đã biết Meggie qua những cơn bão lụt, hỏa hoạn, những lúc xúc cảm tột đỉnh, đi qua cái sống và cái chết. Tóm lại, tất cả những gì mà chúng tôi đều phải chịu đựng. Meggie là tấm gương mà tôi bắt buộc phải nhìn vào đó để thấy thân phận của con người tôi.
- Ngài yêu Meggie? Anne buông câu ấy với giọng ngạc nhiên.
- Mãi mãi vẫn thế.
- Một bi kịch cho cả hai.
- Tôi mong rằng chỉ là bi kịch cho tôi. Chị hãy kể cho tôi nghe về cô ấy. Chuyện gì đã xảy ra từ khi cô ấy lấy chồng? Nhiều năm rồi tôi đã không gặp lại cô ấy, nhưng tôi luôn có những lo âu về Meggie.
Nghe xong câu chuyện, Ralph thở dài nhìn cây cọ đong đưa theo gió rồi nói:
- Thế thì chúng ta phải giúp Meggie vì Luke đã chối từ. Nếu thật sự Luke bỏ rơi Meggie thì cô ấy sẽ được yên thân hơn khi về ở Drogheda. Tôi biết hai anh chị không muốn mất Meggie nhưng hãy vì Meggie mà thuyết phục cô ấy về với gia đình. Ngay khi trở về Sydney, tôi sẽ gửi một ngân phiếu cho hai anh chị nhờ trao lại cho Meggie, như thế tránh cho cô ấy bị khó chịu vì tiếc tiền của anh mình. Một khi trở về nhà, cô ấy muốn giải thích với gia đình thế nào tùy ý. Cầu Chúa, đứa bé được sinh ra nhanh chóng.
Thế nhưng đứa bé chỉ ra đời hai mươi bốn giờ sau, lúc Meggie đã hoàn toàn kiệt sức và đã chịu đựng tận cùng đau đớn.
Đứa bé - con gái - thật nhỏ bé và yếu đuối làm cho Tổng giám mục cảm thấy đau nhói trong lòng. Meggie! Meggie của ta. Meggie đau khổ, bị giày vò. Ta mãi mãi yêu em, nhưng ta không thể cho em điều mà Luke đã cho em, kể cả cái thân xác bị cấm đoán này.
Khi chỉ còn lại hai người, Ralph hỏi Meggie:
- Em đặt cho con tên gì?
- Justine.
- Một cái tên rất đẹp. Nhưng tại sao em chọn tên đó?
- Em đã đọc thấy đâu đó mà em rất thích.
- Em có vui sướng khi có con không, Meggie?
Trên gương mặt mệt mỏi của Meggie chỉ còn đôi mắt là sống động, dịu dàng, chứa đựng một thứ ánh sáng phớt đục, không hận thù nhưng cũng không có tình yêu.
- Có chứ, em rất sung sướng có đứa con này. Vâng em rất vui sướng vì em đã làm tất cả để có nó... Nhưng trong khi em mang nó trong bụng, em không cảm thấy chút gì là vì nó và nó cũng không cần em. Em không tin rằng Justine thật sự thuộc về em, cũng không thuộc về Luke hay bất cứ ai.
Một hồi lâu Ralph nói:
- Anh phải đi, Meggie ạ. Ralph nói nhỏ.
Đôi mắt màu nâu đanh lại, sáng lên. Nàng bĩu môi chua chát.
- Em đã chờ đợi trước điều đó! Thật kỳ lạ, hình như những người đàn ông dính dấp đến cuộc đời em đều luôn luôn như thế.
Ralph nghe đau trong lòng.
- Đừng chua cay, Meggie. Anh không ra đi để lại em trong một tình trạng như thế này. Dù đã xảy ra chuyện gì cho em trong quá khứ, em luôn giữ sự dịu dàng, đó là điều quí nhất của em đối với anh. Đừng thay đổi, không nên trở thành sắt đá vì tất cã những gì em đã phải chịu đựng. Anh thật đau xót khi nghĩ đến chuyện Luke không màng đến đây, nhưng em cũng đừng đánh mất đi sự dịu dàng đó. Nếu không em không còn là Meggie của anh.
Nàng tiếp tục nhìn Ralph thiết tha lẫn cả sự oán giận.
- Không đâu Ralph, em van anh! Em không phải là Meggie của anh đâu, em chưa bao giờ như thế cả! Anh không cần em và anh đã đẩy em vào tay của Luke. Anh coi em là gì? Một thứ nữ thánh hay một thứ nữ tu? Này anh nhé, không phải như vậy đâu. Em là một con người như mọi người và anh đã làm hỏng đời em. Trong suốt bao năm qua, em đã yêu anh và không chấp nhận ai khác ngoài anh, em đã chờ đợi... Em đã làm mọi cách để quên anh đi. Cuối cùng em đã lấy một người chồng mà em tưởng rằng có phần nào đó giống anh. Nhưng rồi anh ta cũng chẳng màng, chẳng cần đến em. Em có đòi hỏi quá đáng chăng với một người đàn ông mà mình muốn được yêu thương? Luke không xấu xa đâu, cũng không đáng ghét. Thật ra anh ta chỉ là một người đàn ông. Các anh đều như thế, những con bướm to đầy lông lá, đang bị ngọn lửa quái lạ khuất sau một tấm kiếng trong suốt thu hút mà các anh không hề thấy. Nếu cuối cùng các anh tìm được con đường vào tận nơi, các anh sẽ đâm đầu vào ngọn lửa, té xuống, chết thiêu. Trong khi đó thì ngoài kia trong cái mát dịu dàng của màn đêm, có đủ tất cả các thứ để nuôi sống các anh, có tình yêu và những con bướm nhỏ. Nhưng đàn ông các anh có thấy cái đó không, có muốn điều đó không? Không! Các anh quay trở lại với ngọn lửa, các anh cứ đâm đầu vào đó cho đến khi bị cháy và chết đi.
Ralph không biết trả lời thế nào với Meggie bởi rằng Ralph đã khám phá ra một khía cạnh khác thuộc về bản chất của Meggie mà trước đây ông hoàn toàn không biết. Cái đó có từ bao giờ? Phải chăng nó đã hình thành tiếp theo những thất vọng mà nàng đã trải qua sau khi Ralph bỏ rơi nàng? Meggie lại có thể thốt ra những điều đó ư? Ralph không đủ can đảm để nghe rõ từng lời, lòng Ralph hoang mang, mặc cảm phạm tội xâm chiếm tâm hồn.
- Em có nhớ hoa hồng mà em đã tặng cho anh vào buổi chiều anh rời khỏi Drogheda? Ralph âu yếm hỏi Meggie.
- Vâng, em còn nhớ.
Tiếng nói của nàng mất hẳn sức sống, ánh mắt mờ đi vì đau buồn. Ãnh mắt đó chiếu thẳng vào Ralph nhưng tâm hồn thì trống rỗng, vô vọng. Mắt Meggie lờ đờ như đôi mắt của Fiona mẹ nàng.
- Anh vẫn giữ hoa hồng trong sách kinh của anh. Cứ mỗi lần nhìn thấy hoa hồng ấy là anh nhớ đến em. Meggie ơi! Anh yêu em! Em là đóa hồng của anh, hình ảnh đẹp nhất của con người và là tâm tưởng của đời anh.
Đôi môi của Meggie trề ra một lần nữa, mắt long lên giận dữ, có cả sự căm tức.
- Một hình ảnh, một tâm tưởng! Một hình ảnh con người và một tâm tưởng - Giọng nàng trêu chọc - Vâng đúng vậy. Đó là tất cả những gì mà em có trong mắt anh. Anh đúng là một thằng ngốc lãng mạn và mơ mộng, Ralph! Anh không có một ý niệm nào hơn về cuộc sống so với con bướm lao vào ngọn lửa! Không có gì ngạc nhiên khi anh đã chọn làm linh mục! Anh hoàn toàn không có khả năng sống một cuộc sống bình thường nếu anh là một người như mọi người, một người như Luke! Anh nói anh yêu em, nhưng không có một ý niệm nào về tình yêu. Anh chỉ nói ra những lời lẽ nghe thật kêu mà anh học được! Em không hiểu nổi tại sao đàn ông lại không gạt hẳn đàn bà ra khỏi cuộc đời mình đi khi mà điều đó chính là sự mong muốn của họ. Đàn ông các anh nên tìm ra một cách cưới gả với nhau đi, các anh sẽ sống hạnh phúc tuyệt diệu với nhau đấy.
- Meggie, anh van em, đừng nói nữa!
- Thôi! Anh hãy đi đi! Em không muốn gặp mặt anh nữa. Nhưng anh đừng quên điều này: khi nhắc đến những hoa hồng yêu quí của anh, Ralph... Những hoa hồng ấy đều có những gai rất dữ, những gai rất nhọn sẽ đâm vào tim anh.
Ralph rời khỏi phòng mà không quay nhìn lại.
Luke chẳng cần trả lời bức điện của Meggie báo tin anh đã trở thành cha của một đứa con gái nặng hai kilô mang tên Justine.
Luke vẫn theo đuổi cuộc đời rày đây mai đó. Nhiều lần Meggie viết thư cho Luke nhưng không được trả lời. Luke cũng không về thăm con. Đứa bé dần dần mạnh khỏe hơn và đã nhanh chóng vượt qua những thử thách gay go lúc chào đời. Vào tháng tư, Justine không còn thường xuyên khóc la như trước đây nữa và bắt đầu biết vui chơi một mình trong nôi.
Một hôm, đầu tháng mười hai, Anne tìm gặp Meggie đang ở ngoài hiên; chị ngồi xuống bên cạnh và quan sát Meggie. Trời ơi! Sao Meggie xanh xao và đờ đẫn thế! Ngay cả mái tóc màu vàng hung rực rỡ trước đây bây giờ cũng rủ rũ.
- Meggie, chị không biết mình làm như thế có đúng không nhưng việc đã rồi. Và chị mong rằng em hãy nghe chị trình bày trước khi trả lời không.
Meggie nhìn chiếc cầu vồng trên nền trời xám đục và mỉm cười.
- Chuyện gì mà trịnh trọng thế chị? Chị cứ nói đi.
- Luđie và chị rất lo âu về tình trạng sức khỏe của em. Em chưa bình phục lại sau khi sinh Justine, trong khi đó mùa mưa sắp đến, chị e ngại sức khỏe của em mỗi ngày sẽ tệ hơn. Em không ăn và mỗi ngày một gầy thêm. Chị lo rằng thời tiết ở đây không phù hợp với em. Do đó cách đây mười lăm ngày chị có viết thư cho một người bạn là chủ hãng du lịch và chị đã đăng ký cho em đi nghỉ. Đừng phản đối vì sợ tốn kém, việc đó không ảnh hưởng gì đến tiền dành dụm của Luke và em. Anh chị đã nhận được một ngân phiếu với một số tiền lớn của Tổng giám mục Bricassart gởi cho em và một ngân phiếu khác của Bob, anh trai em gởi. Chị có cảm tưởng là cả nhà em đang mong đợi em trở về Drogheda. Anh chị đã thuê sẵn một cottage ở đảo Matlock trong hai tháng, đầu tháng giêng đến đầu tháng ba, Luđie và chị sẽ lãnh phần chăm sóc Justine.
Cầu vồng đã lặn, mặt trời cũng thế; lại sắp sửa mưa.
- Chị Anne, nếu không có chị và anh Luđie với bao nhiêu tình cảm mà anh chị dành cho em trong ba năm qua có lẽ em đã điên mất rồi. Chị biết điều đó mà. Có những đêm em thức dậy và tự hỏi nếu Luke gởi em ở một nhà nào khác, gặp những người không tốt thì em ra sao. Anh chị đã lo lắng cho em hơn cả Luke.
Mưa đã kéo đến giáp ranh những khu trồng mía.
- Chị nói đúng, em cảm thấy trong người không khỏe. Meggie nói tiếp. Từ khi có Justine, em chưa bao giờ được trở lại như xưa. Chị Anne ơi! Em rất mệt mỏi và chán nản! Em không phải là một người mẹ tốt đối với con mặc dù bổn phận đòi hỏi. Chỉ do ý muốn của em mà nó ra đời chứ Justine có đòi hỏi điều đó đâu. Em đã quá chán nản vì Luke đã không cho em cơ hội mang lại hạnh phúc cho anh ấy. Luke từ chối sống chung với em và không để cho em xây dựng một tổ ấm, anh ấy cũng không muốn có con. Em không yêu Luke. Em chưa bao giờ yêu anh ấy như một người phụ nữ yêu chồng. Rất có thể anh ấy đã đoán biết điều đó ngay lúc đầu. Biết đâu Luke sẽ hành động khác hơn nếu em yêu thương anh ấy. Vì vậy làm sao em có thể oán hận Luke được? Em mới là người duy nhất đáng lên án.
- Tổng giám mục là người em đã yêu phải không?
- Vâng, từ cái thuở em còn là một cô bé. Em luôn cư xử tàn nhẫn với Ralph mỗi khi ông ấy đến. Tội nghiệp Ralph! Em không có quyền cư xử như thế với Ralph, vì rằng chưa bao giờ ông ấy tỏ ra quyến rũ em. Em mong rằng ông ấy sẽ có thời giờ nhận ra rằng sở dĩ em có thái độ như thế vì em bị bệnh, kiệt sức và vô cùng khổ sở. Em chỉ nghĩ đến một điều giá như đứa bé đó là con của ông ấy nhưng thực tế thì không thể xảy ra, không bao giờ có thể xảy ra. Trời ơi! Thật là bất công! Các mục sư Tin Lành có thể lấy vợ, tại sao các linh mục Công giáo lại không? Chị đừng nói với em rằng các mục sư chăm lo cho con chiên không tốt bằng các linh mục, em không tin đâu. Em đã từng gặp những linh mục không có lòng và ngược lại những mục sư tuyệt vời. Chỉ tại vì linh mục phải sống độc thân mà em đành xa Ralph, lập một gia đình, xây dựng cuộc đời với một người khác. Em thấy cần phải nói với chị điều này, Anne. Em hành động như thế là một tội lỗi, tội lỗi ấy cũng xấu xa như tội lỗi của Ralph nếu không giữ lời khấn của mình nữa. Em nghĩ nó còn hèn hạ hơn. Em oán giận Giáo hội lên án tình yêu của em dành cho Ralph hoặc Ralph dành cho em.
- Em hãy đi xa một thời gian, Meggie ạ. Hãy nghỉ ngơi, ăn ngủ và đừng ray rứt nữa.
Mưa đột ngột dừng lại như nó đã đột ngột trút xuống. Mặt trời xuất hiện, cầu vồng lóng lánh. Ngọn núi Bartle Frere dần dần hiện ra, khoác lên màu áo hoa đính với nền mây mỏng như tơ.
- Em sẽ đi nghỉ, Meggie nói. Em rất mang ơn anh chị đã lo cho em. Nhưng chị có tin rằng Justine sẽ không gây phiền hà cho anh chị không?
- Không đâu, Luđie đã lo trước mọi thứ rồi. Người giúp việc trước của chúng tôi là Anna Maria, chị ta có một em gái tên là Annunziata, mười lăm tuổi. Anh Luđie đã gọi Annuziata đến chăm sóc cho Justine.
- Đảo Matlock ở đâu hở chị?
- Gần đèo Whitsunday, trên cửa con sông Great Barrier Reef. Ở đó rất yên tịnh và ấm cúng. Chị có cảm tưởng đó là một nơi dành riêng cho những tuần trăng mật. Em hiểu chị muốn nói gì chứ... Nhưng mà ở rải rác khắp nơi, khuất sau những lùm cây chứ không phải một khách sạn. Vào thời gian em đi nghỉ, đảo hoàn toàn vắng người.
Ngày cuối cùng của năm 1931, Meggie lên tàu hỏa đi Townsville bắt đầu những ngày nghỉ dễ chịu vì đã trút bỏ được phía sau cái mùi rỉ đường của vùng Dunny. Townsville là một vùng dân cư quan trọng nhất ở Bắc Queensland, có khoảng vài ngàn dân sống trong những nhà sàn nhỏ bằng gỗ, sơn màu trắng.
Để đến đảo Matlock nơi nghỉ mát sau này, sau khi rời tàu hỏa còn phải vượt qua một vùng biển. Tàu lướt êm đềm trên mặt nước trong như gương. Giữa hai cơn gió xoáy, không khí dịu xuống, biển có vẻ mệt mỏi. Dù mới gần trưa, Meggie đã đi nằm và thiếp đi trong một giấc ngủ không mộng mị cho đến khi người tiếp viên đánh thức nàng dậy, lúc ấy là sáu giờ sáng hôm sau. Anh ta mang vào cho Meggie một tách trà nóng và bánh ngọt.
Trên boong tàu, Meggie đã khám phá một nước Úc mới, hoàn toàn khác. - Những hòn đảo nhấp nhô trên mặt nước là những đảo san hô ngầm - một người trong thủy thủ đoàn giải thích như thế với Meggie.
Một tiếng đồng hồ trước khi mặt trời lặn, tàu rẽ sóng từ từ cặp bến. Người đàn ông lớn tuổi đứng sẵn chờ Meggie, giúp nàng mang hành lý lên chiếc ô tô duy nhất hết sức sang trọng của đảo này.
- Thưa bà O'' Neill, bà đi đường bình yên chứ? ông ta chào Meggie. Tôi là Rob Walter. Tôi hy vọng rằng ông nhà sẽ đến nay mai. Ở Matlock vào mùa này không có nhiều người lắm, đây là một điểm du lịch mùa đông, đảo rộng sáu kilomet, chiều dài gấp đôi như thế.
Xe đi ngang qua một tòa nhà trắng, có vẻ hỗn độn.
- Đây là cửa hàng lớn ở đảo. Người lái xe giới thiệu với giọng đầy tự hào như chính mình là ông chủ. Tôi ở đó với bà chủ. Bà ta sẽ không thích chút nào khi thấy một người phụ nữ một mình đến đảo, tôi đoan chắc như thế. Bà ta cho rằng tôi có thể bị quyến rũ. Rất may là văn phòng du lịch ở đây có nói rõ là bà đòi hỏi một sự yên tịnh hoàn toàn, thế là thêm một điều nữa làm cho bà chủ yên tâm. Tôi đã chọn cho bà một nhà sàn xa nhất và không có bóng một người nào ở đó. Nếu thích, bà có thể đi dạo không cần mặc quần áo mà không sợ ai dòm ngó. Nếu bà có cần điều chi bà chỉ nhấc điện thoại lên và tôi sẽ mang đến ngay cho bà. Nhà nghỉ mát này có ba phòng; trước mặt là bãi cát trắng hình vòng cung, hai đầu nhô ra hai mũi nhọn của ngọn đồi. Bên trong nhà trang hoàng giản dị nhưng đầy đủ tiện nghi, một tủ lạnh nhỏ, một điện thoại và một radio. Đầy đủ hơn so với Drogheda và Himmelhoch. Dĩ nhiên do khách du lịch đến đây thường từ Sydney hoặc Melbourne, những tiện nghi tối thiểu như thế không thể thiếu được thưa bà.
Trong tuần lễ đầu, điều quan tâm duy nhất đối với Meggie là ăn và ngủ. Bây giờ Meggie mới nhận ra là mình đã kiệt sức đến mức nào. Cứ mỗi lần đặt lưng xuống chiếc giường êm ái, Meggie đã ngủ say liền suốt mười đến mười hai tiếng đồng hồ liên tiếp. Các thức ăn đều ngon miệng. Meggie ăn ngay khi vừa thức dậy, cả khi xuống bãi biển nàng cũng mang những trái xoài theo để vừa tắm vừa ăn. Nước không sâu, không một gợn sóng, mặt biển như gương. Chỉ tiếc là nàng không biết lội.
Sự vắng vẻ, cái cảm giác đối diện với chính mình thật là thiên đàng. Anne nói đúng làm sao! Được sống một mình là sự thoát trần, một sự thanh thản hoàn toàn. Sự vắng vẻ và đơn độc không hề khiến Meggie cảm thấy nặng nề. Anne, Luđie, Justine và Luke đều không làm cho Meggie nhung nhớ và lần đầu tiên trong ba năm nàng cũng không nhớ Drogheda. Ông già Rob thì cứ mỗi chiều lái xe ngang, chờ đợi một cái vẫy tay bình yên của Meggie từ trên bao lơn nhà sàn rồi quay đầu xe lại. Chỉ có một lần, Rob gọi điện thoại đến Meggie cho biết ông ta sẽ tổ chức một chuyến đi dạo trên biển cho một cặp vợ chồng du lịch khác ở đầu kia trên đảo. Ông hỏi Meggie có thích đi cùng không và nàng đã đồng ý. Chuyến đi đó giúp Meggie khám phá một thế giới thần tiên dưới đáy biển. Nước biển trong đến đỗi nàng nhìn rõ từng con cá, những rong biển và màu sắc thật của san hô.
Nghe theo lời khuyên của Rob, Meggie xuống bãi không mặc quần áo. Lúc đầu, nàng nhút nhát như con thỏ luôn đánh mùi, sợ chó rừng đến và chỉ một cơn gió nhẹ cũng đủ làm Meggie giật mình, vội vàng che thân. Nhưng vài ngày sau Meggie tỏ ra không còn e thẹn nữa, Meggie đi lại tự nhiên trên các con đường mòn, dọc bờ biển hay bì bõm dưới nước ấm và mặn, mà không một mảnh vải che thân. Meggie bắt đầu có cảm giác của một con thú được nuôi trong chuồng nay đột ngột được thả ra giữa một thế giới dễ thương, hiếu khách, thoải mái và đầy ánh sáng mặt trời.
Giữa một khung cảnh mà Meggie không còn muốn nhớ đến ai thì nàng không thể quên Ralph. Ralph giống như Chúa trời: tất cả bắt đầu và kết thúc ở anh ấy. Từ ngày Ralph quỳ gối xuống đất tại nhà ga Gilly, trong vầng sáng của hoàng hôn, hai tay giang ra ôm lấy nàng. Lúc ấy nàng đã có Ralph và dù cho sau này không bao giờ gặp lại Ralph nữa, nàng vẫn tưởng tượng rằng ý nghĩ cuối cùng của nàng trên cõi trần này cũng dÃ7911 nh cho Ralph mà thôi. Thật kinh hãi khi nhận ra rằng chỉ có một và luôn luôn một người như thế có vị trí quan trọng trong cuộc đời mình! Meggie đã nói gì với Anne? Rằng đòi hỏi của nàng rất bình thường... một người chồng, những đứa con, một gia đình riêng, được yêu một ai đó. Như thế đâu phải là đòi hỏi quá đáng. Nói cho cùng, phần đông những người phụ nữ đều có được tất cả những điều như vậy. Nhưng với Meggie những mong ước tầm thường ấy lại quá khó khăn.
Hãy chấp nhận đi Meggie Cleary, Meggie O'' Neill. Người mà nàng muốn là Ralph nhưng nàng sẽ không bao giờ có được. Thế thì, với tư cách một người đàn ông, gần như Ralph đã làm mờ đi những người đàn ông khác và làm Meggie không còn có thể yêu ai. Vậy, thì chấp nhận cái thực tế đó đi. Chấp nhận rằng người đàn ông, một người nào đó để yêu là không thể có. Chỉ còn có những đứa con là nàng yêu thương và chính từ đấy mà tình yêu sẽ có được. Như thế, có nghĩa, một lần nữa, phải quay về với Luke và những đứa con của Luke sau này.
Ôi, Chúa nhân từ! Không, Chúa không nhân từ, Chúa đã làm gì cho con hay chỉ tước đoạt Ralph của con? Tước đoạt cả cái mà Chúa không cần đến. Giữa Chúa và con, chúng ta không hề đối xử với nhau dịu dàng. Và xin Chúa hiểu cho điều này, Người không làm con sợ như trước đây nữa đâu. Trước kia, con sợ Người biết bao, sợ sự trừng phạt. Suốt đời, con luôn đi theo con đường thẳng và hẹp vì sợ Người. Nhưng con đã được gì? Bây giờ thì có lẽ không có điều gì làm con bằng lòng hơn là vi phạm các điều răn của Người. Người là một kẻ lừa bịp, một con quỷ mang lại sợ hãi. Người coi chúng con như những đứa con nít, đem sự trừng phạt để hù dọa. Nhưng bây giờ Người không còn làm cho con sợ nữa, vì rằng Ralph không phải là người con ghét mà con đã ghét Chúa. Tất cả là lỗi của Người chứ không phải của Ralph. Anh ấy chỉ sống trong nỗi sợ hãi Người như con đã từng sống. Thế mà anh vẫn yêu Người, đó là điều con không thể nào hiểu được. Con không tìm thấy ở Chúa điều gì đáng yêu.
Thế nhưng làm sao mình có thể không yêu một người đã yêu thương Chúa? Mình đã thử với tất cả nghị lực, nhưng vẫn cảm thấy không thể nào làm được. Chuyện đó thật như lên cung trăng và mình đã khóc than để mong có được Ralph. Bây giờ thì mày phải dẹp cái trò khóc lóc đó đi Meggie à. Có thế thôi. Mày nên bằng lòng với Luke và những đứa con của hắn. Hoặc nhắm thẳng mục tiêu hoặc bằng mưu mẹo, mày hãy rứt Luke ra khỏi những cây mía đáng ghét rồi sống với hắn ở một vùng đất nào đó mà cây cối cũng không thể mọc lên. Mày báo cho giám đốc ngân hàng Gilly quyết định của mày rằng từ nay các khoản thu nhập của mày phải được chuyển vào trương mục của chính mày. Và mày dùng tiền đó để mang lại tiện nghi, mang lại sung sướng cho cái gia đình không có bóng mát của mày, một điều mà Luke chẳng bao giờ mang đến cho mày được. Mày dùng tiền đó để giáo dục những đứa con của Luke và bảo đảm để chúng không bao giờ rơi vào cảnh thiếu thốn.
Và như thế, không còn phải thêm gì nữa Meggie à. Ta là Meggie O'' Neill, chứ không phải Meggie de Bricassart. Hơn nữa Meggie de Bricassart nghe không được thuận tai lắm. Đáng lý tôi phải là Meghann de Bricassart nhưng mà tôi vẫn ghét cái tên Meghann. Ôi! có thể nào tôi chấm dứt được sự nuối tiếc rằng chúng không phải là những đứa con của Ralph? Tất cả vấn đề là ở chỗ đó, phải không? Mày hãy luôn luôn lặp lại rằng: cuộc đời của mày thuộc về mày, Meggie O'' Neill, mày không được làm hỏng nó bằng cách mơ mộng một người đàn ông và những đứa con mà mày không có quyền được có.
Thế đấy! Đã quyết định như thế đấy! Tự hành hạ mình với cái quá khứ cần chôn đi là việc làm vô ích. Duy nhất chỉ có tương lai và tương lai thuộc về Luke, những đứa con của Luke, nó không thuộc về Ralph. Ralph là quá khứ.
Meggie úp mặt xuống cát và khóc. Từ năm lên ba chưa bao giờ Meggie khóc như thế.
Hai ngày sau khi Meggie lên đường đi nghỉ ở đảo Matlock, Luke ghé Himmelhoch trên đường đi nhận việc làm mới ở nhà máy lọc đường Sydney. Đã đến lúc anh phải biết mặt con. Nếu đứa bé là con trai chắc anh đã về thăm ngay sau khi Meggie sinh, nhưng anh đã không giấu được sự thất vọng khi biết là con gái. Nếu Meggie nhất định có con thì ít ra nó phải kế nghiệp anh một ngày nào đó cai quản trang trại ở Kynuna. Con gái không lợi ích gì cả, lớn lên theo chồng. Anne bực bội nói với Luke:
- Tôi chán ngấy khi thấy anh cư xử với vợ như thế. Luke, anh hãy cư xử như người lớn, hãy nhận lấy trách nhiệm của mình! Anh có vợ và một đứa con! Anh phải xây dựng cho vợ con anh. Một mái nhà, làm chồng, làm cha chứ không thể là kẻ vô tích sự như thế.
- Tôi sẽ làm những điều đó, tôi sẽ làm. Nhưng bây giờ thì chưa được. Tôi phải tiếp tục đốn mía trong vài năm nữa để đề phòng lúc khó khăn sau này. Tôi không muốn sống nhờ vả vào tiền của Meggie.
- Ồ, toàn những chuyện phịa! Anne nói giọng mỉa mai, môi trề ra khinh bỉ. Vậy chớ không phải anh đã lấy Meggie vì tiền à?
Gương mặt rám của Luke đỏ lên. Ãnh mắt của Luke nhìn nơi khác tránh Anne.
- Tôi nhìn nhận là đồng tiền có vai trò, nhưng tôi cưới Meggie vì tôi vừa ý Meggie hơn các cô gái khác.
- Vừa ý, nhưng anh có yêu cô ấy không?
- Tình yêu? Tình yêu nghĩa là gì? Một phát minh của phụ nữ tốt bụng, thế thôi. Bây giờ nếu chị đã chấm dứt những lời lẽ dạy dỗ tôi thì, xin chị cho biết Meggie ở đâu?
- Cô ấy không được khỏe, tôi đã gởi cô ấy đi nghỉ ở xa. Ồ, anh đừng có cuống cuồng lên. Không phải với tiền của anh đâu. Tôi có dự tính thuyết phục anh cùng đi với Meggie nhưng tôi thấy rằng hoàn toàn vô ích.
- Không có chuyện đó. Arne và tôi đi Sydney ngay chiều tối hôm nay.
- Anh biến đi ngay đi Luke. Anh làm tôi phát chán. Anh không xứng đáng với những gì anh đang có. Anh cứ quay trở lại với thằng bạn bất hủ Arne của anh, với cây mía và công việc còng lưng của anh.
Luke dừng lại ở cửa:
- Vợ tôi đặt tên đứa bé là gì nhỉ? Tôi quên mất.
- Justine, Justine!
- Cái tên ngu ngốc. Anh ta lầm bầm và bỏ đi.
Hôm sau, một chiếc xe hơi kiểu thể thao màu đỏ tiếng máy nổ ròn rời đường cái Dunny rẽ xuống con đường dốc. Chiếc xe loại mới nhất và đắt tiền. Thoật đầu, Anne không nhận ra người đàn ông từ cửa xe bước ra vì ông ta ăn mặc theo người dân ở Queensland với chiếc quần tây ngắn. Trơi ơi đúng là một mẫu người đàn ông đẹp! Anne nghĩ thầm, trong lúc ông ta đang bước lên thềm nhanh nhẹn mỗi lúc hai bậc thang. Nhưng khi đến gần thì người đàn ông đó không còn trẻ như chị tưởng, hai bên mái tóc đã bạc. Mình chưa bao giờ gặp một anh thợ đốn mía đỏm dáng như thế này - Anne nghĩ trong bụng.
Nhưng khi đôi mắt trầm tĩnh và xa xôi ấy nhìn thẳng vào Anne chị mới nhận ra người khách:
- Trời ơi! Chị kêu lên và đánh rơi chiếc bình sửa của bé Justinẹ
Người đàn ông cúi nhặt bình sữa lên, trao lại cho Anne và tựa lưng vào bao lơn hiên nhà, đứng đối diện với chị:
- Không sao - người đàn ông nói - Núm vú bình sữa chưa chạm đất. Chị có thể tiếp tục cho em bé bú.
Đang đói, Justine bắt đầu cựa quậy, Anne liền đưa núm vú vào miệng cô bé:
- Thật bất ngờ, thưa Đức cha! Con phải thú thật rằng Đức cha không giống chút nào một Tổng giám mục mà lâu nay con đã hình dung. Con vẫn tưởng tượng các Tổng giám mục là những con người mập mạp, đầy đủ.
- Trong lúc này, tôi tự coi mình không phải là một Tổng giám mục; tôi chỉ là một tu sĩ đang nghỉ hè, cho nên chị có thể gọi tôi bằng Ralph. Có phải đây là con người nhỏ xíu đã gây ra bao nhiêu phiền phức cho Meggie khi tôi đến thăm cô ấy lần trước? Chị có thể cho tôi bế cháu một chút được không?
Ralph ngồi vào chiếc ghế bành bên cạnh Anne, bế đứa bé và nâng bình sữa cho nó bú, chân gác chéo một thách thong dong.
- Cuối cùng Meggie đặt cho nó tên Justine?
- Thưa vâng.
- Một cái tên đẹp. Chúa ơi, nhìn xem màu tóc của cô bé! Đúng là màu tóc của ông ngoại nó.
- Meggie cũng bảo thế.
Như tán đồng nhận xét của Ralph, Justine nhoẻn cười. Một lát sau, cô bé ngủ ngon.
- Meggie đâu rồi? Ralph hỏi.
- Hiện cô ấy không có ở đây. Cô ấy không hồi sức được sau khi sinh và mùa mưa lại đến, càng hại cho sức khỏe. Luđie và con đã gởi cô ấy đi nghỉ hai tháng. Meggie sẽ trở về vào đầu tháng ba, trong bảy tuần nữa.
Ralph thở dài.
- Đây là lần thứ hai tôi đến để giã từ Meggie mà không gặp cô ấy.
- Đức cha sẽ đi đâu?
- Đi La Mã, Vatican. Đức Hồng Y Di Contini Verchese giữ nhiệm vụ của Đức Hồng Y Monteverdi mới mất. Tôn trọng lời hứa của mình, Đức cha đã yêu cầu tôi phụ tá cho ngài. Đây là một vinh dự lớn. Tôi không thể từ chối.
Dừng một lúc, Ralph hỏi với giọng bình thường.
- Hiện cô ấy ở đâu?
- Meggie mướn một nhà sàn ở đảo Matlock.
- Ở đâu vậy?
- Đảo Matlock, ở gần eo biển Whitsunday, một nơi yên tĩnh. Trong năm cứ vào mùa này, đảo hoàn toàn vắng người. Đức cha đừng ngại chi hết, Đức cha không gặp ai đâu.
- Rất an tâm - Ralph vừa lẩm bẩm và nhẹ nhàng trao Justine còn ngủ cho Anne - Cảm ơn chị. Chị hoàn toàn hiểu lầm. Tôi chỉ muốn gặp Meggie, ngoài ra không có mục đích nào khác. Không bao giờ tôi để Meggie liên lụy vào bất cứ chuyện gì, hoặc để một sự đe dọa nào có thể làm hại linh hồn trong sáng và bất tử của cô ấy.
- Nhưng linh hồn của Đức cha thì sao? Trong hoàn cảnh này, con nghĩ rằng Đức cha nên đến đó dưới cái tên Luke O'' Neill. Ở đó người ta đang chờ đợi hắn đến. Như thế, Đức cha có thể an tâm rằng cả Meggie và Đức cha không có ai có thể bị hoen ố vì một vụ xicangdan.
- Nhưng nếu Luke xuất hiện?
- Không thể có chuyện đó. Hắn đã đi Sydney tháng ba mới trở về. Con là người duy nhất có thể nói cho hắn biết Meggie đang ở Matlock nhưng con đã không nói gì với hắn, thưa Đức cha.
Title: Re: Tiếng chim hót trong bụi mận gai (tiếp)
Post by: Serenade24 on 04/05/07, 16:21
Post by: Serenade24 on 04/05/07, 16:21
Chương 30
Khi chiếc xe già cỗi của Rob chạy dọc theo con đường cái thì Meggie đang đứng ngoài hiên nhà sàn như mọi khi, tay đưa cao báo cho Rob biết mọi chuyện đều yên ổn. Nhưng không, xe dừng lại ở nơi bình thường nó vẫn quay đầu. Từ trên xe một người đàn ông mặc chiếc quần tây ngắn, áo sơ mi, chân mang xangdan, tay xách vali bước xuống.
- Xin chào tạm biệt ông O'' Neill! Rob vừa rồ máy vừa hét tọ
Luke O'' Neill? Chưa bao giờ Meggie lẫn lộn giữa Luke O'' Neill với Ralph de Bricassart. Rõ ràng không phải Luke! Dù ở khoảng cách xa như thế này và trong ánh sáng đục của hoàng hôn đang đổ xuống, Meggie cũng không thể nào lầm lẫn được.
Nàng đứng như chết tại chỗ, mặt ngây ra và chờ đợi, trong khi đó thì người đàn ông ấy - Ralph đang đi xuống con đường dốc nhỏ dẫn đến nơi ở của Meggie. Thế là cuối cùng Ralph đã đến với Meggie. Ralph quyết định như thế. Không lý do nào khác có thể giải thích vì sao Ralph đến tìm nàng ở một nơi như thế này và lại đội lốt Luke O'' Neill.
Toàn thân Meggie như tê cứng: chân, đầu óc, và cả con tim. Ralph đến đây để đòi lại vật sở hữu của mình chăng? Nhưng tại sao Meggie lại không nghe thấy một cảm giác nào? Tại sao Meggie không hối hả chạy xuống con đường nhỏ, lao vào vòng tay của Ralph, hạnh phúc được gặp lại Ralph quá lớn khiến mọi thứ trên đời trở thành vô nghĩa? Đúng là Ralph, người mà Meggie luôn đòi hỏi có được trên cõi đời này. Có phải chăng Meggie vừa trải qua hơn một tuần thử tìm cách xua đuổi thực tế ấy. Chúa hãy đày chàng xuống địa ngục! Chúa hãy đày chàng xuống địa ngục! Tại sao chàng lại xuất hiện vào lúc nàng bắt đầu cố quên đi. Trời ơi, thế là mọi chuyện bắt đầu trở lại!
Ngây dại, toát mồ hôi, lòng bực bội, Meggie sững sờ và bất động như khúc gỗ, chờ đợi, quan sát cái vóc dáng dễ thương và quen thuộc ấy đang rõ dần.
- Chào anh, Ralph - Meggie nói, răng cắn chặt, mắt nhìn xa xăm.
- Chào em, Meggie.
- Anh đem vali vào trong. Anh uống một tách trà nóng nhé?
Meggie vừa nói vừa đi vào phòng nghỉ mắt vẫn không nhìn Ralph.
- Anh đang rất cần một tách trà - Ralph trả lời cũng lạnh lùng như Meggie. Ralph đi theo Meggie vào nhà bếp và nhìn Meggie lấy tách dĩa từ trong tủ gỗ.
Trong khi chờ đợi nước sôi, Meggie cho Ralph một hộp bánh bích-quy. Ralph nhẹ nhàng lấy mấy chiếc bánh đặt lên đĩa.
Căn nhà được xây với hai mái hiên, một hướng ra đường cái và một hướng xuống bãi biển. Cách bố trí của nhà sàn cho phép hai người có lý do để nhìn về hai hướng khác nhau. Bóng đêm vùng nhiệt đới nhanh chóng tràn ngập xuống.
Hai người uống trà mà không nói lời nào, mà cũng không làm sao nuốt trôi được một miếng bánh.
- Chuyện gì thế Meggie? - cuối cùng Ralph phải mở lời trước.
Giọng Ralph dịu dàng và âu yếm làm sao khiến cho Meggie nghe tim mình như chạm mạnh vào ngực. Nhưng ngay lúc ấy Meggie đau đớn nhận ra đó chỉ là một câu hỏi dịu dàng của người lớn khi đang âu yếm đứa trẻ con. Ồ, thì ra Ralph đến Matlock không phải để gặp một người đàn bà mà để gặp một cô bé. Anh đã yêu cô bé ấy chứ không phải người đàn bà này.
Meggie quay lại rồi ngước nhìn Ralph, ánh mắt đắm chìm, sửng sốt, tức giận, coi như mình vừa bị xúc phạm. Bây giờ một lần nữa anh ấy lại xem mình như một cô bé! Thời gian như ngừng lại và cứ thế Meggie nhìn Ralph khiến Ralph buộc phải nín thở nhìn người đàn bà trong đôi mắt xanh trong. Đôi mắt của Meggie. Ôi, Chúa, đôi mắt của Meggie!
Ralph rất thành thật với Anne Mueller khi ông nói rằng chỉ muốn gặp nàng chứ không có gì hơn. Dù yêu, Ralph vẫn không đến với Meggie như người tình được; đến chỉ để gặp nói chuyện trong tình bạn bè; ngủ lại trên chiếc đivăng ở phòng khách, đồng thời thử một lần loại trừ tận gốc rễ sự mê hoặc dai dẳng mà Meggie đã đặt lên ông. Ralph tưởng tượng nếu được nhìn thấy cái gốc rễ ấy và nhổ lên giữa ban ngày thì có khả năng tìm cách hủy diệt nó.
Thật khó khăn cho Ralph nếu phải thích nghi với một Meggie có vóc dáng nở nang đầy đủ của một người đàn bà. Khi Ralph nhìn vào mắt Meggie, ông nhận ra một ánh sáng tương tự với ánh sáng tỏa ra từ ngọn đèn trong giáo đường.
Ralph phải thú nhận điều này, ông đã thèm muốn thân xác Meggie từ khi hai người ôm hôn nhau lần đầu tiên, nhưng đòi hỏi nhục dục ấy chỉ là thứ yếu so với tình yêu bao la mà Ralph dành cho Meggie. Ralph đã phân đôi ra, xem hai điều ấy như tách rời nhau, chứ không như hai mặt của một tình cảm duy nhất.
Trong giây phút này, nếu có cách nào đó để rời đảo, Ralph đã trốn tránh Meggie ngay. Nhưng Ralph không thể làm điều đó được và tốt hơn ông nên can đảm ở lại đối diện với nàng thay vì trải qua một đêm lang thang. Tôi phải làm gì đây? Làm sao tôi có thể chuộc lại sai lầm đã phạm? Tôi đã yêu nàng! Và như thế thì tôi phải yêu nàng bằng những gì nàng đang có chứ không phải với hình ảnh kỷ niệm một thời của Meggie. Chính vì chiều sâu thăm thẳm rất phụ nữ của Meggie mà tôi đã mãi mãi yêu nàng. Vậy thì Ralph, hãy vứt bỏ đi những tấm chăn che mắt, hãy nhìn Meggie như nàng đang trước mắt, chứ không như lâu nay. Mười sáu năm, mười sáu năm dài và không thể nào tưởng tượng... Tôi đã bốn mươi tuổi và nàng hai mươi sáu. Không một ai trong hai chúng tôi còn bé bỏng nhưng giữa chúng tôi, chính tôi lại là người ngây thơ nhất.
Meggie vẫn tiếp tục nhìn Ralph chăm chăm, ánh mắt hổ thẹn và nhục nhã. Trong khi sắc mặt của Ralph biến đổi liên tục thì Meggie bỗng chốc ý thức được sự lố bịch của mình trong việc đánh giá sai lầm tình cảm của Ralph. Ralph đến đây vẫn với ý định đi tìm cô bé năm xưa!
â€Hãy đi đi Meggie, đi nhanh! Chạy đi, cút khỏi nơi đây với chút mảnh vụn tự ái mà ông ta còn để lại cho mày?†Ngay cái giây phút ý nghĩ ấy thoáng qua đầu, Meggie phóng ra khỏi chiếc ghế bành và chạy trốn. Ralph đuổi kịp Meggie trước khi nàng ra đến hiên. Do quá đà chạy Meggie chạm mạnh và ngã vào người Ralph làm cho Ralph lảo đảo. Tất cả sức mạnh ở Ralph bị ức chế lâu nay như chờ đợi lúc này để bùng nổ. Ralph chao đảo trong một thứ cảm giác mà dục vọng đã làm mờ đi lý trí, thể xác hình như đã khuất phục được ý chí của ông.
Meggie giang hai tay quấn lấy cổ Ralph, còn Ralph đón nhận sự sôi nổi của Meggie bằng cách siết chặt nàng vào lòng. Ralph cúi đầu xuống, tìm kiếm và bắt gặp đôi môi Meggiẹ Đôi môi ấy không còn là một kỷ niệm luôn bị xua đuổi, sợ sệt mà là một hiện thực. Meggie giữ chặt Ralph với tất cả sức mạnh như thể từ nay nàng không bao giờ chịu xa Ralph dù trong ý tưởng. Còn Ralph, biết bao năm tháng chờ đợi giây phút này; ông khao khát nhưng lại chối bỏ quyền lực mà Meggie đã áp đặt, thậm chí ông đã tự cấm đoán mình không được phép nhớ đến một người đàn bà như thế.
Ralph bế Meggie lại gần giường, hay những bước chân của họ đã đưa hai người đến đó? Có phải mình đã bế nàng, Ralph không nhớ được đã làm gì nhưng một điều hiển nhiên là Meggie đang nằm dài trên nệm. “ Lạy Chúa! Meggie của tôi! Người ta đã nuôi dưỡng tôi từ nhỏ như thế nào để tôi chỉ nhìn em như nhìn một thứ tội lỗi?†Trước mắt Ralph là Meggie nhưng hình như ông không nhận ra nàng là một con người riêng biệt. Ông mong muốn biến Meggie vĩnh viễn thành một phần của ông, dù một cành nhỏ tháp vào thân cây lớn nhưng nàng vẫn sẽ là ông chứ không là một con người như thế. Từ nay, mãi mãi không bao giờ Ralph xa lạ với sự rung động của thể xác này. Thật sự nàng đã được sinh ra cho Ralph vì rằng chính Ralph đã nhồi nặn ra. Trong mười sáu năm ông đã tạo nên một Meggie mà ông không hề ý thức và không rõ lý do tại sao ông làm như vậy. Ông quên đi rằng Meggie đã bỏ rơi ông, rằng một người đàn ông khác đã chỉ ra cho nàng biết sự kết thúc mà chính ông đã chuẩn bị. Vì rằng Meggie của ông là sự sa ngã, là hoa hồng, là những gì sáng tạo nhất. Đó là một giấc mơ mà Ralph sẽ không bao giờ tỉnh nếu ông không là một người đàn ông với một thân xác đàn ông. “Lạy Chúa! Tôi biết, tôi biết! Tôi biết tại sao tôi đã ôm ấp nàng trong lòng mà cứ như ôm giữ chặt một khái niệm mơ hồ và như ôm một đứa trẻ rất lâu sau khi nàng đã vược qua hai thời kỳ đó. Nhưng tại sao tôi lại ý thức như vậy nhỉâ€.
Cuối cùng Ralph hiểu mục tiêu mà ông muốn đạt đến là bản thân mình không như những người đàn ông khác. “Đức Chúa nhân từ, tại sao Người không tránh cho con sự thử thách này? Con là một người đàn ông, con sẽ không thể nào như Chúa được. Thật là một ảo tưởng muốn thần thánh hóa cuộc đời này. Chúng con đã chối từ hành động duy nhất chứng minh sẽ không thể phủ định thân phận làm người.â€
Ôm Meggie trong vòng tay, ông nhìn đôi mắt tràn đầy nước mắt, gương mặt bất động chỉ hơi rạng rỡ. Ông quan sát cái miệng hoa hồng hé mở, khẽ nói như trong hơi thở một lời sung sướng đến chính ông cũng ngạc nhiên. Meggie giữ Ralph bằng hai tay, cả hai chân nữa, như một sợi dây êm dịu, mượt mà, ray rứt, buộc chặt Ralph vào nàng. Ralph đặt cằm vào chỗ trũng của vai nàng, má Ralph áp vào má Meggie, bất chấp sự đòi hỏi điên dại của người đàn ông đang vật lộn với số mệnh của mình.
Như bị cuốn hút theo cơn lốc, Ralph buông tay, chìm đắm trong bóng tối dày đặc, tiếp đó là một thứ ánh sáng lóa mắt. Trong một lúc ông bơi trong ánh mặt trời rồi cái sáng rực ấy mờ dần chuyển sang màu nâu và tắt lịm. Như thế, đó là đàn ông và ông không thể làm khác hơn. Nhưng điều đó không phải là nguồn gốc của sự đau khổ mà chính là Ralph không chịu đựng được ý nghĩ ông phải xa Meggie một khi đã chiếm đoạt nàng. Tạo ra một Meggie cho riêng mình, Ralph đã bấu víu nàng như một người chết đuối bám vào một thanh gỗ giữa biển rộng bao la. Rồi không bao lâu, thật nhẹ nhàng Ralph trồi lên mặt biển, vượt lên trên một đợt sống dâng cao rồi lại ngã quỵ trước số mệnh không thoát ra được, số mệnh của một người đàn ông.
Meggie sung sướng tột cùng, trước đây nàng chưa bao giờ được sung sướng như thế. Ngay giây phút Ralph đưa nàng lên giường thì cũng là lúc bài ca thân xác cất cao, tất cả như quay cuồng: cánh tay, bàn tay, làn da và sự thỏa mãn trọn vẹn. “Tôi sinh ra cho anh ấy và chỉ cho anh ấy mà thôi... Chính vì thế mà tôi có rất ít cảm giác với Lukeâ€. Meggie thầm nghĩ.
Khi Ralph thức dậy, Meggie đọc thấy trong đôi mắt màu xanh của ông vẫn một tình yêu đã từng sưởi ấm, đã từng mang lại cho nàng một thứ ước mơ từ khi còn thơ dại. Đồng thời Meggie cũng nhận ra bóng dáng của sự mệt mỏi không phải của thể xác mà của tâm hồn. Lâu nay Ralph vẫn nghĩ suốt đời mình sẽ không khi nào ông thức dậy bên cạnh một người đàn bà. Giây phút này tràn đầy âu yếm hơn cả lúc gần gũi trước đó, dấu hiệu của những tình cảm khắng khít và mặn mà. Meggie ơi! Em đã đứng ngay giữa đường để chỉ cho anh thấy lòng tự hào của một linh mục nhưanh sai lầm và chủ quan đến mức nào; cũng như Lucifer, anh đã sa xuống địa ngục.
Ngày tiếp theo ngày, đêm tiếp theo đêm. Ngay cả những trận mưa to cũng khoác lên một vẻ đẹp, là cơ hội để đi dạo mà không cần mặc gì hết, để được nghe những tiếng tí tách trên mái tôn, nước cũng ấm và mơn trớn như ánh nắng mặt trời. Và khi mặt trời ló dạng thì hai người rảo bước trên đảo, ưỡn người ra tắm nắng, đùa với sóng; và Ralph tập bơi cho Meggie. Thỉnh thoảng, khi Ralph không hay mình bị chú ý, Meggie nhìn Ralph nồng nàn, cố khắc ghi lại từng nét một trong trí nhớ của nàng. Meggie nhớ lại dù nàng thương Frank biết bao nhưng sau đó khi xa nhau hình ảnh của người anh yêu mến vẫn mờ nhạt với thời gian. Nàng nhìn đôi mắt, mũi, miệng, hai bên thái dương bạc trắng tương phản với những lọn tóc đen, thân hình khỏe và chắc nịch vẫn thon và giữ được sự cường tráng của tuổi trẻ, dù rằng Ralph đã mất đi phần nào sự mềm mại. Và nếu quay lại, bắt gặp Meggie đang đắm đuối nhìn mình, thì Ralph biết rằng ông cũng đang nhìn Meggie chứa đựng sự đau khổ câm lặng, một chuyển biến buồn bã như sắp xảy đến. Meggie nhận ra cái thông điệp kín đáo ấy: đã đến lúc Ralph phải ra đi, trở về với Giáo hội, trở về với những bổn phận và trách nhiệm của chàng. Rất có thể Ralph sẽ không bao giờ có được trạng thái tinh thần như xưa nhưng chàng sẽ có đầy đủ khả năng để phục vụ. Vì rằng chỉ có những ai đã từng bị trượt té mới hiểu biết những cam go của con đường đi tới.
Một buổi chiều, lúc mà mặt trời xuống khá thấp nhuộm đỏ cả vùng biển và làm nhảy múa thứ ánh sáng màu vàng rực rỡ của những đồi cát và bãi san hô, lúc hai người đang nằm dài trên bãi thì Ralph quay đầu về phía Meggie:
- Meggie, anh chưa bao giờ thật hạnh phúc mà cũng chẳng bao giờ thật đau khổ.
- Em biết, Ralph.
- Vâng, anh tin em. Phải chăng chính vì thế mà anh yêu em? Em không có gì thật đặc biệt Meggie à, thế nhưng không giống bất cứ một ai khác. Anh yêu em, Meggie!
- Anh phải đi ngay à?
- Ngày mai, Bắt buộc như thế. Tàu của anh phải đến Genoa trong tuần này.
- Genoa?
- Vâng, anh phải đi Roma. Chắc phải ở lại đó rất lâu. Có thể luôn cả những năm tháng còn lại của đời anh. Anh cũng chưa biết rõ.
- Anh đừng lo, Ralph. Em sẽ không tìm cách giữ anh lại đâu. Với em cũng thế, thời gian nghỉ ở đây cũng sắp hết, rồi đây em sẽ chia tay với Luke và trở về Drogheda.
- Ồ, Meggie! Đâu phải do những gì vừa xảy ra, đâu phải do anh phải không?
- Không, dĩ nhiên là không, nàng khẳng định bằng những lời nói dối rất thành khẩn. Luke chẳng cần em. Em không gây một mất mát nào cho anh ấy. Nhưng em cần một mái nhà, một gia đình và từ này em nghĩ rằng Drogheda sẽ giúp em có được những điều ấy. Thật là bất công nếu cứ để Justine đáng thương lớn lên trong một gia đình mà mẹ nó đang là đày tớ gái, dù cho Anne và Luđie không hề cư xử với em như thế.
- Anh sẽ viết thư cho em, Meggie.
- Không, anh đừng viết gì cả. Anh tưởng rằng em cần những lá thư của anh sau khi chúng ta đã sống với nhau như thế này? Em không muốn một điều gì không hay xảy ra cho anh; những lá thư của anh có thể không được giữ kín đáo. Tốt hơn là anh đừng viết thư cho em. Nếu một mai anh đếnéUc, thì tự nhiên anh sẽ đến thăm Drogheda, nhưng em nói trước với anh, Ralph à, lúc ấy anh phải suy nghĩ kỹ trước khi quyết định. Trên thế gian này chỉ có hai nơi mà em được ưu tiên trước Chúa... Ở đây, Matlock và ở Drogheda.
Ralph kéo sát Meggie vào lòng, vuốt ve mái tóc của nàng.
- Meggie, trong tận đáy lòng anh ước ao được lấy em làm vợ, mãi mãi không xa lìa em. Anh không muốn chia tay em... Và một cách nào đó, mãi mãi anh không muốn được giải thoát khỏi em. Phải chi đừng bao giờ anh đến Matlock. Nhưng chúng ta đã không thể thay đổi được số phận của mình, biết đâu như thế vẫn tốt hơn. Anh đã tự khám phá được một số điều kín đáo mà trước đây chưa bao giờ anh để lộ ra và anh cũng không cần phải đối diện với những điều đó nếu anh không đến đây. Dù sao vật lộn với cái đã biết vẫn hơn cái chưa biết, đúng là một ẩn số. Anh yêu em. Anh đã luôn luôn yêu em và anh sẽ mãi mãi yêu em. Em đừng quên điều đó.
Hôm sau, Rob xuất hiện lần đầu tiên từ khi ông ta đưa Ralph đến đây. Rob kiên nhẫn chờ đợi hai người chia tay nhau.
- Tạm biệt em, Meggie.
- Tạm biệt anh, Ralph.
- Em nhớ giữ gìn sức khỏe.
- Vâng, anh cũng thế.
Ralph nghiêng đầu ôm hôn Meggie; mặc dù rất kiên quyết; nàng vẫn bấu chặt Ralph; nhưng khi Ralph gỡ đôi cánh tay Meggie đang quấn chặt lấy ông thì nàng rút tay lại đặt ra phía sau lưng và đứng yên như thế, Ralph bước lên xe và trong khi Rob cho xe lui, Ralph vẫn nhìn thẳng phía trước, không hề quay lưng nhìn về hướng ngôi nhà sàn nơi đó có Meggie đang một mình trông theo. Ãt có người đàn ông nào đủ can đảm làm như thế - Rob nghĩ thầm. Chưa bao giờ Rob thấy đôi mắt của ai lại vừa nhân bản lại vừa buồn như thế. Sự kiêu kỳ xa vắng đã vĩnh viễn xóa đi trong cái nhìn của Tổng giám mục Ralph de Bricassart.
Khi Meggie trở lại Himmelhoch, Anne biết trước rằng chị không còn giữ được Meggie ở lại với mình. Vẫn là một Meggie đó nhưng bây giờ đã rất khác.
Meggie bế Justine trên tay một cách âu yếm như thể chỉ đến bây giờ nàng mới hiểu được đứa con gái có ý nghĩa như thế nào với nàng. Meggie vừa khẽ ru con vừa nhìn chung quanh, cười với Anne một cách trìu mến.
- Không làm sao em cám ơn chị cho hết, Anne ạ.
- Nhưng về chuyện gì?
- Về chuyện nhờ chị mà Ralph đã gặp em ở Matlock. Em hết sức mang ơn chị. Trước đây như chị biết, em đã quyết định tiếp tục ở với Luke. Nhưng bây giờ, em sẽ trở về Drogheda và sẽ ở đó mãi mãi.
- Chị rất tiếc phải xa em và càng buồn hơn phải xa Justine, nhưng chị lại rất mừng cho hai mẹ con. Luke chẳng mang lại điều gì tốt đẹp cho em và Justine cả.
- Chị có biết hiện giờ anh ấy ở đâu không?
- Luke đã trở lại nhà máy lọc đường. Anh ta chặt mía gần Ingham.
- Em phải đi tìm anh ấy và phải tìm cách ngủ với anh ấy. Em đã bị trễ hai tuần. Kinh nguyệt của em rất đúng. Chắc chắn em đang có thai, Anne à.
- Lạy Chúa! Anne kêu lên, trố mắt nhìn Meggie như mới gặp lần đầu. Rất có thể chỉ là dấu hiệu giả thường có ở người phụ nữ, Anne lắp bắp trong miệng.
Nhưng Meggie lắc đầu với vẻ quả quyết.
Chuyến tàu hỏa đi Ingham chậm chạp và lắc lư, chỉ có ý nghĩ về đứa con trong bụng là của Ralph mới giúp Meggie đủ can đảm tìm Luke. Nếu không có mầm sống mới mà nàng biết chắc đang tượng hình thì việc ngủ với Luke giữa lúc này là một tội lỗi không thể tha thứ với chính mình. Nhưng vì con của Ralph, nàng sẵn sàng bắt tay với cả quỷ sứ.
Trong thực tế, dự tính của Meggie không phải dễ thực hiện, nàng hiểu điều đó. Nhưng nàng đã tính toán rất kỹ và lạ thay chính Luđie cũng đã góp ý cho Meggie trong vụ này.
Xế chiều thứ bảy, Meggie đến Ingham và đăng ký thuê phòng ở một khách sạn bên ngoài có vẻ khá nhất. Sau khi cất vali, Meggie trở xuống phòng tiếp khách tìm điện thoại. Nàng gọi được trại Brann nơi nhóm của Luke đang làm việc, nhờ người nhắn lại với Luke là vợ anh vừa đến Ingham và muốn gặp anh.
Ngay sau đó Meggie trở lên phòng, đột nhiên cảm thấy mất bình tĩnh và sợ hãi. Suốt cuộc hành trình nàng đã suy nghĩ đến cách nào hiệu nghiệm nhất để đạt mục đích. Tuy vậy nàng vẫn không tự tin ở mình.
Trong cái không khí nóng rực và ẩm thấp, Meggie vừa run rẩy vừa cởi hết quần áo và nằm dài trên giường, mắt nhắm lại, đầu óc ám ảnh bởi ý nghĩ làm sao để bảo vệ cho được đứa con của Ralph.
Luke đến khách sạn lúc chín giờ tối. Luđie đã tiên đoán đúng. Vào cuối tuần, Luke thanh thản, tỏ ra dễ chịu và cảm thấy thích thú có một sự thay đổi nào đó trong chương trình giải trí của mình. Khi con trai của ông chủ Brann chuyển lại lời nhắn của Meggie tại lán trại, Luke vừa rửa chén dĩa xong, định đạp xe xuống Ingham nhập với bọn của Arne dự cuộc vui chơi thường lệ tối thứ bảy. Vì vậy Luke đón nhận tin này vui vẻ, viễn ảnh gặp lại Meggie được xem như một dịp đổi chương trình.
Từ lúc nghỉ ở Atherton về, anh ngạc nhiên thấy mình thỉnh thoảng thèm muốn Meggie dù công việc hàng ngày có làm anh kiệt sức. Cái điệp khúc - nhà, tổ ấm, gia đình - là điều duy nhất làm cho anh phát chán và ngăn trở anh đi Himmelhoch gặp Meggie mỗi khi anh có việc đến vùng lân cận Dunny. Trước khi đến khách sạn, Luke thận trọng đi tìm mua bao cao su phòng ngừa nhưng tất cả cửa hàng dược phẩm điều đóng cửa. Khi anh bước xuống xe, một phần hăng hái đã biến đi nhưng anh nhún vai: đành phó thác cho sự may rủi vậy! Chỉ một đêm thôi và nếu có một đứa con, biết đâu với chút may mắn lần này nó sẽ là một thằng con trai.
Meggie giật mình, đầu óc căng thẳng khi nghe Luke gõ cửa phòng. Nàng nhảy xuống giường và đến gần cửa.
- Ai đó?
- Luke.
Nàng vặn chìa khóa và mở hé cửa, nép mình sang một bên. Luke đã bước vào, nàng thận trọng đóng cửa lại rồi lặng lẽ đứng nhìn Luke. Luke ngắm Meggie. Ngực nàng nở nang hơn, hấp dẫn hơn bao giờ. Hai núm vú đổi màu nhợt nhạt sang màu đỏ sậm từ khi nàng sinh con . Nếu anh ta cần có một sự kích thích thì với bộ ngực hấp dẫn này đã quá đủ. Anh bước tới, nhấc bổng nàng lên và đặt nàng xuống giường.
Khi trời đã sáng, nàng vẫn chưa nói một lời nào với Luke. Ngồi ở mép giường, nàng tỏ ra xa cách kỳ lạ với Luke.
Anh ta vươn vai một cách lười biếng, miếng ngáp rồi tằng hắng:
- Này, cái gì đã thúc đẩy em đến Ingham hở Meggie? Anh ta hỏi.
Nàng quay lại, nhìn Luke với đôi mắt tràn đầy khinh bỉ.
- Hả, cái gì đã thúc đẩy em đến đây? Luke lặp lại câu hỏi, giọng hơi bực bội.
Vẫn không trả lời, cái nhìn chăm chăm không thay đổi, Meggie không muốn nói lời nào. Nhưng rồi đôi môi hơi hé mở, Meggie mỉm cười:
- Em đến đây để báo với anh, em sẽ trở về Drogheda - nàng chỉ nói ngắn gọn có thế.
Trong một lúc, Luke không tin lời Meggie, anh ta nhìn nàng kỹ hơn và nhận ra rằng nàng không đùa.
- Tại sao vậy? - Anh ta hỏi.
- Em đã nói trước với anh chuyện gì sẽ xảy ra nếu anh đi Sydney mà không mang em theo - Nàng nói.
Luke chưa hết ngạc nhiên:
- Nhưng đó là chuyện xảy ra mười tám tháng trước đây và sau đó anh đã đưa em đi nghỉ mát! Bốn tuần ở Atherton rất tốn kém. Do đó anh không thể đưa em đi Sydney được.
- Từ đó đến nay anh đã đi Sydney hai lần, hai lần đều không có em - nàng tiếp tục nói. Lần đầu, em có thể thông cảm với anh vì em đang mai thai Justine, nhưng Chúa cũng dư biết rằng em sẵn sàng đi nghỉ vào mùa mưa, tháng giêng.
- Trời ơi!
- Anh là một thằng hà tiện hết cỡ, Luke à - Giọng Meggie nhẹ nhàng hơn. Anh có một sản nghiệp hai mươi ngàn bảng, tiền ấy thuộc quyền của em hoàn toàn, thế mà anh lại keo kiệt từng đồng vì sợ xài phí nếu có em trong chuyến đi Sydney. Anh và đồng tiền của anh làm em phát bệnh!
- Anh có đụng vào đó đồng xu nào đâu! Anh ta hét lên. Tiền ấy nằm trong ngân hàng tất cả, không thiếu một xu và tuần nào anh cũng bỏ thêm vào.
- Vâng, đúng thế. Nó ở trong ngân hàng, ở cái nơi mà nó sẽ mãi mãi ở đó. Anh không hề có ý định xài đến nó phải không? Anh chỉ muốn sùng bái nó như sùng bái con bò vàng. Hãy thú nhận như thế đi Luke. Anh là người keo kiệt. Và hơn thế ấy nữa anh là một thằng ngu hết chỗ nói! Đối xử với vợ và con gái mà còn thua cả đối với con chó. Anh không cần biết đến sự có mặt của vợ con, chứ đừng nói chi đến những nhu cầu của hai mẹ con em. Đồ ích kỷ, đẹp trai mà chẳng ra cái thứ gì, đồ đểu!
Mặt tái xanh, người run lên, Luke tìm lời lẽ để trả lời. Sự bất công trong các lời buộc tội của Meggie làm cho Luke bối rối, nhưng anh vẫn tự tin về ý đồ trong sáng của mình. Rất là đàn bà, Meggie chỉ nhìn thấy cái vẻ bên ngoài, hoàn toàn không nhận ra ý định tốt đẹp tiềm ẩn bên trong Luke.
- Meggie ơi! Luke kêu lên giọng đầy ngạc nhiên vừa thất vọng vừa nhẫn nhục. Anh có bao giờ đối xử tệ với em đâu. Không, không bao giờ! Không một ai có thể bảo rằng anh xử sự tàn nhẫn với em. Không một ai! Em được ăn uống đầy đủ, có một mái nhà, mùa đông được sưởi ấm...
- Ừ, phải rồi! Nàng cắt ngang. Về chuyện đó em thừa nhận. Đúng là em không bao giờ bị cóng rét, nhưng cũng chưa bao giờ em thấy người em nóng lên như lúc này. Đúng là em đang nói chuyện với bức tường.
- Anh cũng có thể nói ngược lại như thế.
- Anh cứ nói đi - Meggie đáp lại lạnh lùng, nàng bước xuống giường mặc quần áo vào. Em không đòi hỏi chúng ta ly dị, nàng nói tiếp. Em không có ý định tái giá. Còn về phía anh nếu anh muốn ly dị, thì anh biết em ở đâu để tìm. Về mặt pháp lý, em là người có lỗi phải không? Vì em bỏ anh... hay ít ra theo cái nhìn của pháp luật là thế.
- Meggie, anh không hề bỏ em, Luke nhấn mạnh.
- Anh có thể giữ lại cho anh số tiền hai chục ngàn bảng của em. Nhưng anh sẽ không có thêm một đồng xu nào của em nữa. Các lợi tức riêng của em được em dùng để nuôi Justine và biết đâu nuôi thêm một đứa con khác nếu em được may mắn.
- Thì ra đó là mục đích của em! Luke giận dữ. Tất cả điều em đeo đuổi là có thêm một đứa con nữa phải không? Chính vì thế mà em đã đến đây. Một tiếng hát của con thiên nga, một món quà nhỏ của thằng này để em mang về Drogheda! Với em, thằng này chỉ là một con ngựa giống! Lạy Chúa, còn gì khôi hài hơn!
- Phần đông phụ nữ nhìn bọn đàn ông dước góc độ ấy - Meggie nói giọng không có vẻ gì là tinh nghịch. Anh bực tức về tất cả những gì ở em phải không Luke và như thế anh càng không hiểu gì hết. Hãy tỏ ra một người chơi bạc thẳng thắn. Trong ba năm rưỡi, em đã mang lại cho anh nhiều tiền hơn là anh kiếm được nhờ chặt mía. Nếu em có thêm một đứa con, anh cũng khỏi phải bận lòng gì. Kể từ giây phút này, em mãi mãi không muốn gặp lại anh nữa, cho tới khi nào em còn sống.
Nàng mặc quần áo, cầm ví tay và xách chiếc vali nhỏ để gần cửa. Tay đặt lên quả đấm cửa, Meggie quay lại.
- Anh cho phép em có lời khuyên nhỏ với anh, Luke à. Nó rất có ích sau này nếu anh lấy một người phụ nữ khác, lúc mà anh đã quá già và mệt mỏi để tiếp tục hiến mình cho cây mía... Anh cần biết rằng anh hỗn như một con khỉ. Anh há miệng to quá, anh giống con trăn muốn nuốt chửng những người phụ nữ. Anh làm cho em phát tởm, Luke! Luke tự cao tự đại, anh chẳng ra làm sao cả!
Sau khi Meggie đi rồi, Luke yên lặng ngồi trên mép giường, mắt nhìn chăm chăm cánh cửa khép kín. Nhưng rồi anh đứng lên nhún vai và vội vàng mặc quần áo. Nếu sửa soạn thật nhanh thì kịp nhảy lên một xe tải và trở về lán trại gặp Arne và bè bạn. Thằng bạn lâu năm tốt bụng Arne! Đàn ông, thật ngu ngốc. Đi ngủ với một phụ nữ cũng thích đấy, nhưng sống với những thằng bạn trai thì vẫn thích hơn!
Không muốn báo trước cho ai ngày trở về, Meggie đến Drogheda trên một chiếc xe chở thư cùng với lão Bluey Williams; Justine nằm trong chiếc nôi bằng mây đặt trên nệm.
Drogheda, Drogheda! Bạch đàn và những cây hồ tiêu khổng lồ, êm ả đầy tiếng ong kêu. Bên này là những súc vật và những ngôi nhà tường bằng đá, và sỏi màu nhạt; bên kia là những thảm cỏ xanh đẹp lạ kỳ bao quanh tòa nhà lớn. Mùa thu trong vườn đầy hoa, nào là quế trúc, thược dược và nhiều loại cúc, đây đó đầy những hoa hồng.
Từ con đường trải sỏi phía sau nhà, bà Smith nhón chân nhìn ra, miếng há hốc, cười vui rồi bật khóc. Minnie và Cat chạy ào ra xe, Drogheda đúng là một tổ ấm, ở đây mãi mãi là trái tim của Meggie.
Fiona bước ra khỏi nhà xem có chuyện gì ồn ào như thế.
- Thưa mẹ, con đã trở về.
Không có chuyện gì có thể gây xáo động đôi mắt màu nâu ấy, đôi mắt giờ đây đã già dặn hơn. Meggie nhận ra ngaỵ Mẹ nàng vui mừng; có điều là bà không biết bày tỏ sự vui mừng ấy ra sao?
- Con đã bỏ Luke? Fiona hỏi lớn vì nghĩ rằng Smith và những người giúp việc đều có quyền được biết điều đó.
- Thưa vâng. Con sẽ không trở lại với Luke nữa. Anh ấy không muốn có một mái nhà, không đếm xỉa đến những đứa con, và cũng không cần một người vợ.
- Những đứa con?
- Vâng mẹ ạ, con đang chờ sinh đứa thứ hai.
Nhiều tiếng ô, a ngạc nhiên vang lên từ phía những người giúp việc và Fiona. Mẹ nàng nói ngay với giọng cân nhắc nhưng vẫn không giấu được niềm vui.
- Nếu thằng đó nó không cần con thì con hoàn toàn có lý do trở về mái nhà xưa. Ở đây mọi người sẽ lo cho con.
Phòng cũ của Meggie nhìn ra bãi chăn chính đầy những hoa, phòng kế bên dành cho Justine và đứa bé sẽ ra đời. Ôi, thật dễ chịu làm sao được sống ở tại nhà mình!
Bob rất vui mừng gặp lại em gái. Càng ngày Bob càng giống Pađy, lưng hơi khom, da sạm đỏ dưới ánh nắng mặt trời.
Tối hôm đó, cả gia đình Cleary có mặt đầy đủ để chuyển một xe tải ngũ cốc vào kho mà Jims và Patsy vừa mua từ hợp tác xã Gilly về.
Thoạt đầu Meggie được phân công trông chừng các bãi chăn gần nhất.
Con ngựa sắc hồng và con ngựa thiến đã chết. Bob tìm Martin King hỏi mua hai con khác. Kể cũng lạ, cái chết của con ngựa sắc hồng gây cho Meggie ấn tượng dữ dội hơn cả khi xa cách Ralph bởi đây chính là con ngựa chàng thường cỡi.
Khi bụng trở nên nặng nề không thể lên lưng ngựa nữa, Meggie ở nhà với bà Smith, Minnie và Cat, may và đan những chiếc áo chuẩn bị cho đứa bé đã bắt đầu cựa quậy. Thằng bé (nàng tin chắc là con trai) phải chăng hợp với nàng hơn Justine, do đó nàng không cảm thấy bị hành hạ và vui sướng chờ đợi ngày ra đời của con. Justine biết đi và biết nói rất sớm, vào lúc mới chín tháng. Nhưng có điều thật khó hiểu ở Justine là cô bé không bao giờ cười. Bà con ở Drogheda ai ai cũng tìm cách làm cho Justine vui, nhưng chẳng ai làm được điều đó. Đúng là Justine vượt qua bà ngoại về sự nghiêm nghị bẩm sinh ấy.
Ngày một tháng mười, Justine được mười sáu tháng thì con trai của Meggie chào đời tại Drogheda, sớm hơn bốn tuần lễ. Meggie sinh rất nhanh, không đau đớn như lần sinh trước.
Thằng bé thật đẹp! Chiếc lưng dài, thon thả, tóc hung, mắt xanh lợt. Đúng là đôi mắt của Ralph, bàn tay của Ralph, cái mũi, miệng và bàn chân cũng của Ralph. Meggie mừng thầm khi nghĩ rằng Luke cũng có vóc dáng tương tự và những nét gần giống Ralph.
- Con đã chọn cho nó một cái tên chưa? Fiona hỏi trìu mến và tỏ ra say mê thằng bé.
- Con sẽ đặt cho nó tên Dane.
- Cái tên nghe quái lạ! Tại sao con lại chọn tên ấy? Có phải vì đó là tên phổ biến trong dòng họ O'' Neill? Mẹ tưởng rằng con đã dứt khoát với dòng họ O'' Neill rồi mà?
- Cái tên Dane không dính dấp gì với Luke cả thưa mẹ. Đó là tên của chính thằng bé, chứ không phải của ai khác. Con đã đặt cho con gái tên Justine vì con thích tên đó và cũng vậy con đã đặt tên Dane.
Ngắm nhìn thằng bé mắt nhắm, lông mi dày lấp lánh màu vàng ánh, chân mày lông tơ, hai má nhỏ có vẻ háu ăn, Meggie nghe dâng lên trong lòng một tình yêu mãnh liệt và không hiểu sao cùng lúc ấy nàng cảm thấy nhói lên một nỗi xót xa trong lòng.
“Dane sẽ lấp đầy sự trống của đời tôi. Nó phải làm điều đó vì ngoài nó tôi không còn có ai khác. Ralph, anh đã yêu Chúa hơn yêu em và cũng chính vì Chúa mà anh sẽ không bao giờ biết em đã đánh cắp cái gì của anh cũng như đã đánh cắp cái gì của Chúa. Em sẽ không bao giờ nói cho anh biết về Dane. Ôi, con yêu quí của mẹ! (Nàng đặt thằng bé nằm êm ả trên những chiếc gối để nhìn rõ hơn gương mặt nhỏ đẹp tuyệt vời ấy). Con thương yêu của mẹ! Con là của riêng mẹ và mẹ sẽ không bao giờ giao con cho bất kỳ ai khác, nhất là ba con, một người, không có quyền nhìn nhận con. Như thế có tuyệt không hở con?
Chương 31
Chiếc tàu cập bến cảng Genoa đầu tháng tư. Tổng giám mục De Bricassart đặt chân lên một nước àtràn ngập ánh nắng mùa xuân Địa Trung Hải. Liền đó, ông lên tàu hỏa đi Roma. Nếu ông tỏ ý muốn, Vatican đã gởi đến một chiếc xe với tài xế để đưa ông về. Nhưng ông sợ lại chứng kiến cảnh Giáo hội một lần nữa đóng cửa với ông, do đó ông muốn đẩy lùi thời điểm thử thách ấy càng lâu càng tốt. Thành phố Vĩnh Cửu. Nó mang đúng cái tên của nó, ông vừa nghĩ thầm vừa nhìn qua cửa kiếng xe tắc-xi. Những lầu chuông và những vòm giáo đường, những quảng trường đầy chim bồ câu, những đài nước uy nghi, những hàng cột Roma đặt trên những nền ăn sâu hàng bao thế kỷ. Với ông, tất cả những thứ đó không đáng chú ý. Đối với ông điều quan tâm duy nhất là Vatican với những phòng tiếp tân lộng lẫy và những căn phòng riêng trông có vẻ khắc khổ.
Một tu sĩ dòng Saint Dominique hướng dẫn Ralph đi dọc theo những đại sảnh lát đá cẩm thạch, ngang qua vô số những bức tượng bằng đồng, bằng đá, tất cả xứng đáng có một vị trí trong viện bảo tàng. Phía sau là rất nhiều tranh được vẽ trên bức tường vĩ đại, tác phẩm của Giotto, Raphael, Botticelli và Fra Angelico.
Trong căn phòng màu vàng sáng chói, nổi bật lên là màu sắc của những bức tượng, những bức tranh, bàn ghế và thảm đều được đưa về từ Paris, Hồng Y Di Contini Verchese tiếp Ralph. Tổng giám mục De Bricassart quỳ xuống, hôn chiếc nhẫn.
- Con hãy ngồi xuống đây Ralph.
- Thưa Đức Hồng Y, con muốn được xưng tội.
- Khoan đã! Trước hết chúng ta phải nói chuyện với nhau bằng tiếng Anh. Ở đây tai vách mạch rừng nhưng cũng may, rất hiếm tai nghe được tiếng Anh. Con hãy ngồi xuống đây Ralph. Ồ, thật là thú vị gặp lại con. Vắng con, ta càng thấy những lời cố vấn khôn ngoan, tư tưởng hợp lý và quan niệm rất hay về tình bạn... cần thiết như thế nào đối với ta. Cho tới nay chưa có người phụ tá nào ta có thể dành một phần nhỏ thôi tình cảm mà ta dành cho con.
Sự mệt mỏi kinh khủng mà Ralph đã trải qua mấy tuần lễ bỗng nhiên như cất khỏi đôi vai của ông; ông tự hỏi tại sao mình lại lo ngại quá nhiều về cuộc gặp gỡ này trong khi tận đáy lòng, Ralph dư biết rằng ông sẽ được thông cảm và tha thứ. Nhưng vấn đề không phải ở chỗ đó. Ông thấy mình đã làm thất vọng một người quá tốt - một người bạn đúng nghĩa của mình. Ralph phải đối đầu với một con người trong sáng trong khi chính mình không còn trong sáng nữa.
- Ralph, chúng ta là những người tu hành nhưng không chỉ là như thế; chúng ta không thể thoát khỏi số mệnh của bản thân mặc dù chúng ta khao khát những cái gì đó rất tuyệt đối. Chúng ta là những con người với những yếu đuối và sai sót của con người. Ta đoán trước sẽ không có điều gì trong những điều con sẽ kể cho cha nghe lại làm vẩn đục hình ảnh mà ta đã có về con trong suốt những năm chúng ta cùng sống chung nhau. Dưới mắt ta cũng sẽ không có điều gì có thể làm mất uy tín của con và làm mờ nhạt tình cảm mà ta đã gởi gắm cho con. Trong yếu đuối của chúng ta, về thân phận con người chúng ta, nhưng ta biết rằng rồi đây con sẽ hiểu vì tất cả chúng ta cuối cùng đều hiểu như thế, ngay cả Đức Thánh Cha là người khiêm tốn và nhân từ nhất cũng hiểu như thế.
- Con đã không giữ lời khấn của con, thưa Đức cha. Không dễ dàng tha thứ đâu. Đó là tội phạm thượng.
- Từ nhiều năm nay con đã phạm lời khấn nguyện sống thanh bạch khi nhận gia tài bà Mary Carson. Điều đó đã làm cho chúng ta xa rời sự trong sáng và sự vâng lời Chúa phải không?
- Như thế cả ba lời khấn đều bị vi phạm, thưa Đức cha.
- Ta vẫn thích được con gọi bằng Vittorio như xưa. Ta không lấy làm khó chịu mà cũng chẳng thấy có gì phải buồn lòng. Tất cả những chuyện ấy đều là ý muốn của Chúa, và ta nghĩ rằng rất có thể đây là một bài học lớn mà con nên nhận lấy với một thái độ đừng tự hành hạ mình quá đáng. Những ý định của Chúa không phải đều dễ hiểu. Nhưng ta nghĩ rằng con đã hành động không dễ dãi, rằng con không đầu hàng trước khi đã đấu tranh. Ta rất hiểu con. Ta biết con rất tự phụ, nhiễm nặng địa vị tu sĩ của mình, rất ý thức về nỗi khát khao tìm đến cái gì đó rất tuyệt đối. Do đó, có thể con cần một bài học như thế để hạ bớt sự kiêu căng của con, để cho con hiểu rằng trước hết con chỉ là một con người, cho nên nó sẽ không bao giờ được nhào nắn hoàn thiện như con nghĩ. Có phải như thế không?
- Thưa đúng thế. Con thiếu sự khiêm tốn và con có cảm tưởng, hiểu theo cách nào đó, con muốn trở thành Chúa Trời. Con phạm tội rất nặng và không thể tha thứ. Con không thể tha thứ cho chính con, vậy thì làm sao con hy vọng sự tha thứ của Chúa?
- Lại kiêu căng nữa rồi, Ralph à! Kiêu căng! Quyền tha thứ không thuộc về con, con vẫn chưa hiểu điều đó sao? Chỉ có Chúa mới có quyền tha tội. Chỉ có Chúa mà thôi. Và Chúa sẽ tha tội cho những ai biết ăn năn chân thành. Chúa đã từng tha tội nặng hơn cho những vị thánh và cho cả những tên vô loại. Con tưởng rằng Lucifer không được tha tội sao? Nó đã được tha tội ngay khi nó chống lại Chúa. Số phận của nó - trở thành Chúa tể địa ngục - là chính nó chọn lựa chớ không phải Chúa. Có phải chính nó đã nói: Thà ngự trị dưới địa ngục còn hơn là phụng sự trên thiên đàng. Bởi rằng nó không chiến thắng nổi sự kiêu căng của nó, nó không chấp nhận được ý muốn của nó khuất phục trước ý muốn của một ai khác, dù cho ai khác đó là Chúa. Ta không cho rằng con phạm một sai lầm giống như vậy, người bạn thân yêu của ta. Sự khiêm tốn là đức tính duy nhất còn thiếu ở con, nhưng nó lại là đức tính chính yếu của một vị thánh... hay một con người vĩ đại. Cho tới khi nào con chưa chịu trả lại cho Chúa quyền tha tội thì con chưa đạt tới sự khiếm tốn thật sự.
Gương mặt đầy nghị lực của Ralph co rúm lại.
- Thưa vâng, con biết rằng Đức cha nói đúng. Con phải tuyệt đối chấp nhận con người hiện hữu của con, phải nỗ lực sửa mình mà không tự kiêu về mình. Con xin ăn năn; như vậy con sẽ xưng tội và chờ được tha tội. Con rất ăn năn và ăn năn thật sự.
Ralph thở ra, đôi mắt của ông không giấu được sự xúc động trong lòng mà những lời lẽ ôn tồn đã thể hiện.
- Vittorio à, tuy nhiên, khi nghĩ lại, con thấy con không thể hành động khác hơn. Hoặc là con hủy diệt nàng, hoặc là con nhận lấy sự hủy diệt ấy về phần con. Lúc đó, con không có sự lựa chọn nào khác vì rằng con yêu nàng một cách chân thành. Hoàn toàn không phải lỗi ở nàng nếu con không tiếp tục từ chối nối dài tình yêu trên phương diện xác thịt . Thân phận của nàng đáng quan tâm hơn thân phận của con. Cho đến lúc đó, con cứ tự coi mình ở một vị trí cao hơn nàng vì con là kẻ tu hành và con coi nàng như một hạng người ít được quan tâm. Nhưng con hiểu ngay rằng con là người có trách nhiệm, về tình trạng hiện nay của nàng... Đáng lý, con phải tránh xa nàng khi nàng còn là một cô bé, nhưng con đã không làm như thế. Con đã đem nàng ẩn náu trong trái tim con và nàng biết điều đó. Nếu con thật lòng muốn rứt nàng ra khỏi cuộc đời con thì chắc chắn nàng cũng giã biệt và con đã mất hết tất cả ảnh hưởng đối với nàng. Đức cha thấy, con có đủ lý do để mà ăn năn... Con đã thử tạo ra một tác phẩm nho nhỏ riêng của con.
- Có phải Hoa Hồng không?
- Thưa Đức cha, đâu còn ai khác nữa? Nàng là sự toan tính sáng tạo duy nhất của con.
- Nhưng Hoa Hồng có đau khổ không? Làm như thế có phải chăng con tạo ra cho cô ấy nhiều đau khổ hơn là con hắt hủi cô ấy?
- Con không biết được, Vittorio. Con rất muốn biết sự thật ra sao! Nhưng trong lúc này, con không thể hành động khác hơn. Hơn nữa chuyện ấy xảy ra... một cách tự nhiên. Tuy nhiên con nghĩ rằng con đã cho nàng cái điều nàng cần thiết, đó là ý thức về nhân cách phụ nữ của nàng. àcon không phải nói rằng nàng không biết mình là một người phụ nữ, nhưng là chính con, con không nhận ra điều đó. Nếu khi con gặp nàng, nàng đã là một phụ nữ, thì mọi việc có lẽ đã diễn tiến khác hơn; nhưng rất tiếc con đã gặp nàng khi nàng là một cô bé.
- Con vẫn cho thấy mình tự phụ Ralph à và chưa sẵn sàng để được tha tội. Thật xót xa phải không? Ta xót xa mà nhìn thấy con quá nhân đạo để bị rơi vào sự yếu đuối của con người. Con có thật sự hành động với tinh thần hy sinh cao cả không?
Ralph giật mình. Ông nhìn vào hai con mắt u buồn trước mặt và thấy trong đó phản chiếu hai gương mặt thật nhỏ với kích thước không nghĩa lý gì.
- Không, thưa Đức cha - Ralph nhìn nhận. Con là con người và với tư cách một con người con đã khám phá ở nàng một sự hoan lạc không thể chối cãi. Trước đây con hoàn toàn không biết rằng sự tiếp xúc với một người phụ nữ lại có kết quả như thế và nó lại là nguồn gốc của một sự khoái lạc sâu đậm như thế. Con muốn mãi mãi không bao giờ xa nàng, không phải chỉ vì vấn đề thân xác, mà đơn giản chỉ vì con thích ở gần nàng... nói chuyện với nàng, hay không nói chuyện, được ăn những món ăn do nàng nấu, cười với nàng, chia sẻ những suy nghĩ của nàng. Con cảm thấy thiếu vắng nàng mãi mãi khi con còn sống trên cõi đời này.
Có một điều gì đó xuất hiện trên gương mặt khổ hạnh, u buồn của Hồng Y và không hiểu sao khiến cho Ralph nhớ đến nét mặt của Meggie vào lúc hai người chia tay nhau. Nó phản ánh sự vững vàng của một con người bất chấp mọi nỗi khổ đau, buồn phiền, và vất vả để cứ nhìn ra phía trước mà đi. Con người ấy, mặc áo màu tím, bình thường tình cảm tưởng như chỉ dành riêng cho con mèo cái giống Abyssinian, đã biết gì về chuyện thầm kín của Ralph?
- Con không thể nào sám hối về những gì Meggie đã mang lại cho con - Ralph tiếp tục nói trước sự im lặng của Hồng Y. Con chỉ sám hối vì đã vi phạm những lời khấn hệ trọng và không thể quên. Con biết từ nay con không thể nào đến với công việc thuộc trách nhiệm của con như trước kia, nhất là với một nhiệt tình như xưa. Về điều này, con rất ăn năn. Nhưng về những gì liên quan đến Meggie thì...
Sắc mặt của Ralph thay đổi hẳn khi nhắc đến tên Meggie khiến cho Hồng Y phải quay về hướng khác để giấu đi những dằn vặt trong đầu ông.
- Sám hối những gì thuộc về Meggie chẳng khác nào con đã giết nàng - Ralph nói tiếp cùng lúc đưa bàn tay lên che hai mắt một cách mệt mỏi - Con không biết con nói có rõ ràng không hoặc lời nói của con có phản ảnh trung thực suy nghĩ của con không. Thưa Đức cha, con luôn cảm thấy gần như bất lực khi phải thể hiện bằng lời những tình cảm của con dành cho nàng.
Ralph ngồi hơi nghiêng người ra phía trước trong khi ánh mắt của Hồng Y Di Contini Verchese chiếu thẳng về phía Ralph. Ralph chú ý thấy hai bóng nhỏ của mình trong đôi mắt của Hồng Y hình như trở nên lớn hơn một chút. Đôi mắt của Vittorio như hai cái gương, chúng chỉ phản chiếu những gì chúng thấy nhưng không để bất cứ điều gì người khác phát hiện những gì ẩn chứa trong đôi mắt. Ngược lại, đôi mắt của Meggie mở rộng để Ralph có thể đi thẳng vào tâm hồn nàng.
- Với con, Meggie như một phép lành. Đột ngột Ralph nói. Nàng là hình ảnh của một thứ thánh lễ khác.
- Vâng, ta hiểu. Hồng Y tán đồng và thở dài. Con nhìn ra được một tình cảm như thế là tốt. Ta nghĩ, dưới mắt của Đức Thánh cha điều đó sẽ làm giảm nhẹ lỗi của con. Ta khuyên con nên xưng tội với cha Giorgio sẽ có lợi ích cho con hơn là với cha Guillermo. Cha Giorgio sẽ không hiểu lầm những tình cảm và lý lẽ của con. Còn cha Guillermo trực giác vốn không mạnh và có thể đánh giá không đúng những gì con thật sự ăn năn. Họ cũng là những con người, Ralph thân mến à, những con người lắng nghe lời xưng tội. Con đừng quên điều đó. Chỉ trong cái khung cảnh mục vụ mà họ làm chức năng của họ: nơi ở của Chúa. Ngoài ra họ cũng là những con người. Sự tha tội mà họ ban cho cũng là của Chúa nhưng tai mà họ nghe và đánh giá vẫn thuộc về con người.
Có người mang trà vào.
- Con thấy ngoài đường phố ở Genoa và Roma có rất nhiều người mặc áo sơ mi đen - Ralph nhận xét trong khi nhìn Hồng Y pha trà.
- Đó là những đám người của lãnh tụ Mussolini. Chúng ta phải đối đầu với một thời ký khó khăn, Ralph thân mến. Đức Thánh cha ra lệnh không để xảy ra sự đoạn giao giữa Giáo hội với chính quyền àvà Người có lý trong mọi việc. Tình hình diễn biến thế nào, nhân danh Chúa, chúng ta vẫn phải giữ được tự do của mình để có thể trông nom các con chiên dù cho con chiên có bị chia rẽ trong một cuộc chiến tranh. Bất kể sự chọn lựa của con tim thế nào, chúng ta bắt buộc phải luôn luôn giữ cho Giáo hội đứng trên mọi biến động, mọi chủ thuyết chính trị và những tranh chấp quốc tế. Ta muốn con gắn bó với ta vì ta nhận thấy những gì xuất hiện trên gương mặt con sẽ không bao giờ phản bội lại những suy nghĩ trong đầu ở bất cứ hoàn cảnh nào. Con đã là một nhà ngoại giao khi mới sinh ra.
- Con không nghĩ mình sẽ thành công - Tổng giám mục De Bricassart nói. Rồi đây không ai tán đồng thái độ của chúng ta và mọi phía sẽ lên án chúng ta.
- Ta biết điều đó. Và Đức Thánh cha cũng biết. Nhưng chúng ta không thể hành động khác hơn. Tuy nhiên không có gì có thể cấm cản trong lòng chúng ta cầu nguyện cho Mussolini và Hitler sụp đổ nhanh chóng.
- Đức cha tin thật sự chiến tranh sẽ bùng nổ?
- Ta không thấy có cách nào tránh khỏi.
Drogheda vừa có được nhiều radio. Nhờ các tiến bộ khoa học mà cuối cùng Gillanbone đã đặt một đài phát thanh.
Mỗi sáng, Fiona, Meggie và Smith mở máy để nghe tin tức trong vùng và bản tin khí tượng.
Khi đài phát thanh quốc gia thông báo rằng hôm thứ sáu 1 â€" 9 - 1939, Hitler đã xâm lăng Ba Lan, lúc ấy chỉ Fiona và Meggie có mặt ở nhà, nhưng cả hai đều không quan tâm trước tin này. Châu Âu ở đầu kia thế giới, chẳng dính dấp gì đến Drogheda, trung tâm của vũ trụ. Nhưng chiều ngày ba tháng chín, thử tướng Úc Rober Gordon Menzies nói chuyện trên đài giải thích cho nhân dân hiểu được cuộc xâm lược Ba Lan cuối cùng đã buộc Anh tuyên chiến với Hitler và Úc không thể đứng ngoài cuộc xung đột.
Sau bài diễn văn của thủ tướng Úc, Bob phát biểu:
- Nếu tính luôn Frank, gia đình chúng ta có tất cả sáu người đàn ông. Ngoại trừ trường hợp Frank, tất cả chúng ta đều được coi là thợ chăn nuôi do đó không được gọi nhập ngũ. Trong số thợ chăn nuôi thuộc quyền chúng ta hiện nay, theo tôi chỉ có sáu người muốn lên đường và hai người ở lại.
- Em muốn đăng ký nhập ngũ! Jack nói to lên, mắt sáng ngời.
- Em cũng thế, tiếng nói của Hughie.
- Và cả hai đứa tụi này nữa! Jims khẳng định thái độ của mình và cho cả Patsy.
- Hợp lý hơn hết là Jims và Patsy vì cả hai trẻ nhất và ít kinh nghiệm nhất trong nghề chăn nuôi, và nếu nhập ngũ thì tất cả chúng ta đều là lính mới. Nhưng cả hai anh em đừng quên rằng mới mười sáu tuổi...
Mặc dù Jims và Patsy phản đối nhưng lúc đó chưa có một thành viên nào của gia đình Cleary lên đường tòng quân.
Phải chờ thêm một năm nữa, chiến tranh mới xâm nhập vào cái thế giới bé nhỏ Drogeda. Trong một năm đó, từng người một, các thợ chăn nuôi từ giã trang trại lên đường nhập ngũ.
Đầu tháng sáu năm 1940, người ta được tin đoàn quân viễn chinh thuộc đế quốc Anh buột phải rút khỏi châu Âu qua ngã Dunkerque; những người tình nguyện vào lực lượng thứ hai Hoàng gia Úc đã đổ xô đến các trung tâm tuyển mộ. Trong số đó có Jims và Patsy, cả hai đăng ký ở Dubbo nhưng được chuyển đến trại huấn luyện ở Ingleburn, ngoại ô Sydney. Gia đình có mặt đông đủ để tiễn Jims và Patsy lên tàu hỏa.
Jims và Patsy được sung vào sư đoàn 9 Úc theo yêu cầu của họ và được gởi đến chiến trường Ai Cập đầu năm 1941, vừa kịp lúc tham gia vào trận Benghazi. Giữa lúc các lực lượng Anh rút lui dước áp lực của Afrika Korps - đoàn quân Đức quốc xã tinh nhuệ của tướng Rommel - thì sư đoàn 9 Úc được lệnh chiếm và tử chiến bảo vệ Tobruk.
Trong khi đó tại Drogheda, Meggie nhận được thư của Luke cho biết hắn vẫn làm cái công việc đốn mía, Luke nói rõ trong thư cho Meggie an lòng đừng sợ anh ta bị nhập ngũ. Nội dung bức thư cho thấy Luke coi như chẳng có gì xảy ra sau cái ngày Meggie đã nói với hắn như tát nước vào mặt tại khách sạn ở Ingham. Với một nụ cười chán ngấy, Meggie lắc đầu rồi ném lá thư của Luke vào giỏ giấy vụn.
Năm 1941 thật tệ hại cho Drogheda. Đây là năm thứ năm liên tiếp bị hạn hán. Meggie, Bob, Jack, Hughie và Fiona gần như bó tay. Tiền của trang trại Drogheda gởi trong ngân hàng vẫn đủ để mua thức ăn cứu sống những đàn cừu nhưng phần nhiều chúng lại không chịu ăn. Mỗi đàn cừu đều có một con đầu đàn, một thứ thủ lĩnh tự nhiên của chúng. Phải ép cho được con này chịu ăn thì các con còn lại mới ăn theo. Nhưng tình trạng nguy ngập đến nỗi có những lúc con cừu đầu đàn chịu ăn thế mà các con cừu còn lại vẫn không thèm ngó ngàng đến thức ăn để sẵn trong các bãi. Trang trại Drogheda chỉ còn giữ được một người thợ chăn nuôi duy nhất. Meggie phải có mặt bảy ngày trong một tuần ở các bãi chăn. Mặc dù Meggie dành rất ít thời giờ để chăm sóc Justine và Dane nhưng hai đứa trẻ vẫn được nuôi chu đáo. Nàng vẫn nghĩ lúc này Bob cần nàng nhiều hơn hai đứa con. Nhưng thật sự Justine và Dane rất thèm được mẹ ẵm bồng gần gũi. Có khi cả tuần liền Meggie không thấy mặt con vì từ các bãi chăn về nhà lúc nào trời cũng đã tối sẫm. Thế nhưng mỗi lần ngắm nhìn Dane, lòng Meggie xao xuyến lạ lùng. Thật là một thằng bé tuyệt vời, hình như luôn luôn mỉm cười với mẹ. Ở Dane thoát lên sự hân hoan và tự tin kết hợp với sự nghiêm nghị của người lớn. Ãt có chuyện gì có thể làm cho nó giận dữ. Dưới cái nhìn của Meggie có những lúc nó giống Ralph một cách đáng kinh ngạc nhưng rất may không ai chú ý điều này. Ralph đã rời Gillanbone từ lâu.
Justine rất yêu em. Dane muốn gì Justine cũng chìu. Khi Dane mới biết đi chập chững, Justine không rời em một bước.
Thiếu mẹ, Justine và Dane càng gắn bó với nhau.
Khi chiếc xe già cỗi của Rob chạy dọc theo con đường cái thì Meggie đang đứng ngoài hiên nhà sàn như mọi khi, tay đưa cao báo cho Rob biết mọi chuyện đều yên ổn. Nhưng không, xe dừng lại ở nơi bình thường nó vẫn quay đầu. Từ trên xe một người đàn ông mặc chiếc quần tây ngắn, áo sơ mi, chân mang xangdan, tay xách vali bước xuống.
- Xin chào tạm biệt ông O'' Neill! Rob vừa rồ máy vừa hét tọ
Luke O'' Neill? Chưa bao giờ Meggie lẫn lộn giữa Luke O'' Neill với Ralph de Bricassart. Rõ ràng không phải Luke! Dù ở khoảng cách xa như thế này và trong ánh sáng đục của hoàng hôn đang đổ xuống, Meggie cũng không thể nào lầm lẫn được.
Nàng đứng như chết tại chỗ, mặt ngây ra và chờ đợi, trong khi đó thì người đàn ông ấy - Ralph đang đi xuống con đường dốc nhỏ dẫn đến nơi ở của Meggie. Thế là cuối cùng Ralph đã đến với Meggie. Ralph quyết định như thế. Không lý do nào khác có thể giải thích vì sao Ralph đến tìm nàng ở một nơi như thế này và lại đội lốt Luke O'' Neill.
Toàn thân Meggie như tê cứng: chân, đầu óc, và cả con tim. Ralph đến đây để đòi lại vật sở hữu của mình chăng? Nhưng tại sao Meggie lại không nghe thấy một cảm giác nào? Tại sao Meggie không hối hả chạy xuống con đường nhỏ, lao vào vòng tay của Ralph, hạnh phúc được gặp lại Ralph quá lớn khiến mọi thứ trên đời trở thành vô nghĩa? Đúng là Ralph, người mà Meggie luôn đòi hỏi có được trên cõi đời này. Có phải chăng Meggie vừa trải qua hơn một tuần thử tìm cách xua đuổi thực tế ấy. Chúa hãy đày chàng xuống địa ngục! Chúa hãy đày chàng xuống địa ngục! Tại sao chàng lại xuất hiện vào lúc nàng bắt đầu cố quên đi. Trời ơi, thế là mọi chuyện bắt đầu trở lại!
Ngây dại, toát mồ hôi, lòng bực bội, Meggie sững sờ và bất động như khúc gỗ, chờ đợi, quan sát cái vóc dáng dễ thương và quen thuộc ấy đang rõ dần.
- Chào anh, Ralph - Meggie nói, răng cắn chặt, mắt nhìn xa xăm.
- Chào em, Meggie.
- Anh đem vali vào trong. Anh uống một tách trà nóng nhé?
Meggie vừa nói vừa đi vào phòng nghỉ mắt vẫn không nhìn Ralph.
- Anh đang rất cần một tách trà - Ralph trả lời cũng lạnh lùng như Meggie. Ralph đi theo Meggie vào nhà bếp và nhìn Meggie lấy tách dĩa từ trong tủ gỗ.
Trong khi chờ đợi nước sôi, Meggie cho Ralph một hộp bánh bích-quy. Ralph nhẹ nhàng lấy mấy chiếc bánh đặt lên đĩa.
Căn nhà được xây với hai mái hiên, một hướng ra đường cái và một hướng xuống bãi biển. Cách bố trí của nhà sàn cho phép hai người có lý do để nhìn về hai hướng khác nhau. Bóng đêm vùng nhiệt đới nhanh chóng tràn ngập xuống.
Hai người uống trà mà không nói lời nào, mà cũng không làm sao nuốt trôi được một miếng bánh.
- Chuyện gì thế Meggie? - cuối cùng Ralph phải mở lời trước.
Giọng Ralph dịu dàng và âu yếm làm sao khiến cho Meggie nghe tim mình như chạm mạnh vào ngực. Nhưng ngay lúc ấy Meggie đau đớn nhận ra đó chỉ là một câu hỏi dịu dàng của người lớn khi đang âu yếm đứa trẻ con. Ồ, thì ra Ralph đến Matlock không phải để gặp một người đàn bà mà để gặp một cô bé. Anh đã yêu cô bé ấy chứ không phải người đàn bà này.
Meggie quay lại rồi ngước nhìn Ralph, ánh mắt đắm chìm, sửng sốt, tức giận, coi như mình vừa bị xúc phạm. Bây giờ một lần nữa anh ấy lại xem mình như một cô bé! Thời gian như ngừng lại và cứ thế Meggie nhìn Ralph khiến Ralph buộc phải nín thở nhìn người đàn bà trong đôi mắt xanh trong. Đôi mắt của Meggie. Ôi, Chúa, đôi mắt của Meggie!
Ralph rất thành thật với Anne Mueller khi ông nói rằng chỉ muốn gặp nàng chứ không có gì hơn. Dù yêu, Ralph vẫn không đến với Meggie như người tình được; đến chỉ để gặp nói chuyện trong tình bạn bè; ngủ lại trên chiếc đivăng ở phòng khách, đồng thời thử một lần loại trừ tận gốc rễ sự mê hoặc dai dẳng mà Meggie đã đặt lên ông. Ralph tưởng tượng nếu được nhìn thấy cái gốc rễ ấy và nhổ lên giữa ban ngày thì có khả năng tìm cách hủy diệt nó.
Thật khó khăn cho Ralph nếu phải thích nghi với một Meggie có vóc dáng nở nang đầy đủ của một người đàn bà. Khi Ralph nhìn vào mắt Meggie, ông nhận ra một ánh sáng tương tự với ánh sáng tỏa ra từ ngọn đèn trong giáo đường.
Ralph phải thú nhận điều này, ông đã thèm muốn thân xác Meggie từ khi hai người ôm hôn nhau lần đầu tiên, nhưng đòi hỏi nhục dục ấy chỉ là thứ yếu so với tình yêu bao la mà Ralph dành cho Meggie. Ralph đã phân đôi ra, xem hai điều ấy như tách rời nhau, chứ không như hai mặt của một tình cảm duy nhất.
Trong giây phút này, nếu có cách nào đó để rời đảo, Ralph đã trốn tránh Meggie ngay. Nhưng Ralph không thể làm điều đó được và tốt hơn ông nên can đảm ở lại đối diện với nàng thay vì trải qua một đêm lang thang. Tôi phải làm gì đây? Làm sao tôi có thể chuộc lại sai lầm đã phạm? Tôi đã yêu nàng! Và như thế thì tôi phải yêu nàng bằng những gì nàng đang có chứ không phải với hình ảnh kỷ niệm một thời của Meggie. Chính vì chiều sâu thăm thẳm rất phụ nữ của Meggie mà tôi đã mãi mãi yêu nàng. Vậy thì Ralph, hãy vứt bỏ đi những tấm chăn che mắt, hãy nhìn Meggie như nàng đang trước mắt, chứ không như lâu nay. Mười sáu năm, mười sáu năm dài và không thể nào tưởng tượng... Tôi đã bốn mươi tuổi và nàng hai mươi sáu. Không một ai trong hai chúng tôi còn bé bỏng nhưng giữa chúng tôi, chính tôi lại là người ngây thơ nhất.
Meggie vẫn tiếp tục nhìn Ralph chăm chăm, ánh mắt hổ thẹn và nhục nhã. Trong khi sắc mặt của Ralph biến đổi liên tục thì Meggie bỗng chốc ý thức được sự lố bịch của mình trong việc đánh giá sai lầm tình cảm của Ralph. Ralph đến đây vẫn với ý định đi tìm cô bé năm xưa!
â€Hãy đi đi Meggie, đi nhanh! Chạy đi, cút khỏi nơi đây với chút mảnh vụn tự ái mà ông ta còn để lại cho mày?†Ngay cái giây phút ý nghĩ ấy thoáng qua đầu, Meggie phóng ra khỏi chiếc ghế bành và chạy trốn. Ralph đuổi kịp Meggie trước khi nàng ra đến hiên. Do quá đà chạy Meggie chạm mạnh và ngã vào người Ralph làm cho Ralph lảo đảo. Tất cả sức mạnh ở Ralph bị ức chế lâu nay như chờ đợi lúc này để bùng nổ. Ralph chao đảo trong một thứ cảm giác mà dục vọng đã làm mờ đi lý trí, thể xác hình như đã khuất phục được ý chí của ông.
Meggie giang hai tay quấn lấy cổ Ralph, còn Ralph đón nhận sự sôi nổi của Meggie bằng cách siết chặt nàng vào lòng. Ralph cúi đầu xuống, tìm kiếm và bắt gặp đôi môi Meggiẹ Đôi môi ấy không còn là một kỷ niệm luôn bị xua đuổi, sợ sệt mà là một hiện thực. Meggie giữ chặt Ralph với tất cả sức mạnh như thể từ nay nàng không bao giờ chịu xa Ralph dù trong ý tưởng. Còn Ralph, biết bao năm tháng chờ đợi giây phút này; ông khao khát nhưng lại chối bỏ quyền lực mà Meggie đã áp đặt, thậm chí ông đã tự cấm đoán mình không được phép nhớ đến một người đàn bà như thế.
Ralph bế Meggie lại gần giường, hay những bước chân của họ đã đưa hai người đến đó? Có phải mình đã bế nàng, Ralph không nhớ được đã làm gì nhưng một điều hiển nhiên là Meggie đang nằm dài trên nệm. “ Lạy Chúa! Meggie của tôi! Người ta đã nuôi dưỡng tôi từ nhỏ như thế nào để tôi chỉ nhìn em như nhìn một thứ tội lỗi?†Trước mắt Ralph là Meggie nhưng hình như ông không nhận ra nàng là một con người riêng biệt. Ông mong muốn biến Meggie vĩnh viễn thành một phần của ông, dù một cành nhỏ tháp vào thân cây lớn nhưng nàng vẫn sẽ là ông chứ không là một con người như thế. Từ nay, mãi mãi không bao giờ Ralph xa lạ với sự rung động của thể xác này. Thật sự nàng đã được sinh ra cho Ralph vì rằng chính Ralph đã nhồi nặn ra. Trong mười sáu năm ông đã tạo nên một Meggie mà ông không hề ý thức và không rõ lý do tại sao ông làm như vậy. Ông quên đi rằng Meggie đã bỏ rơi ông, rằng một người đàn ông khác đã chỉ ra cho nàng biết sự kết thúc mà chính ông đã chuẩn bị. Vì rằng Meggie của ông là sự sa ngã, là hoa hồng, là những gì sáng tạo nhất. Đó là một giấc mơ mà Ralph sẽ không bao giờ tỉnh nếu ông không là một người đàn ông với một thân xác đàn ông. “Lạy Chúa! Tôi biết, tôi biết! Tôi biết tại sao tôi đã ôm ấp nàng trong lòng mà cứ như ôm giữ chặt một khái niệm mơ hồ và như ôm một đứa trẻ rất lâu sau khi nàng đã vược qua hai thời kỳ đó. Nhưng tại sao tôi lại ý thức như vậy nhỉâ€.
Cuối cùng Ralph hiểu mục tiêu mà ông muốn đạt đến là bản thân mình không như những người đàn ông khác. “Đức Chúa nhân từ, tại sao Người không tránh cho con sự thử thách này? Con là một người đàn ông, con sẽ không thể nào như Chúa được. Thật là một ảo tưởng muốn thần thánh hóa cuộc đời này. Chúng con đã chối từ hành động duy nhất chứng minh sẽ không thể phủ định thân phận làm người.â€
Ôm Meggie trong vòng tay, ông nhìn đôi mắt tràn đầy nước mắt, gương mặt bất động chỉ hơi rạng rỡ. Ông quan sát cái miệng hoa hồng hé mở, khẽ nói như trong hơi thở một lời sung sướng đến chính ông cũng ngạc nhiên. Meggie giữ Ralph bằng hai tay, cả hai chân nữa, như một sợi dây êm dịu, mượt mà, ray rứt, buộc chặt Ralph vào nàng. Ralph đặt cằm vào chỗ trũng của vai nàng, má Ralph áp vào má Meggie, bất chấp sự đòi hỏi điên dại của người đàn ông đang vật lộn với số mệnh của mình.
Như bị cuốn hút theo cơn lốc, Ralph buông tay, chìm đắm trong bóng tối dày đặc, tiếp đó là một thứ ánh sáng lóa mắt. Trong một lúc ông bơi trong ánh mặt trời rồi cái sáng rực ấy mờ dần chuyển sang màu nâu và tắt lịm. Như thế, đó là đàn ông và ông không thể làm khác hơn. Nhưng điều đó không phải là nguồn gốc của sự đau khổ mà chính là Ralph không chịu đựng được ý nghĩ ông phải xa Meggie một khi đã chiếm đoạt nàng. Tạo ra một Meggie cho riêng mình, Ralph đã bấu víu nàng như một người chết đuối bám vào một thanh gỗ giữa biển rộng bao la. Rồi không bao lâu, thật nhẹ nhàng Ralph trồi lên mặt biển, vượt lên trên một đợt sống dâng cao rồi lại ngã quỵ trước số mệnh không thoát ra được, số mệnh của một người đàn ông.
Meggie sung sướng tột cùng, trước đây nàng chưa bao giờ được sung sướng như thế. Ngay giây phút Ralph đưa nàng lên giường thì cũng là lúc bài ca thân xác cất cao, tất cả như quay cuồng: cánh tay, bàn tay, làn da và sự thỏa mãn trọn vẹn. “Tôi sinh ra cho anh ấy và chỉ cho anh ấy mà thôi... Chính vì thế mà tôi có rất ít cảm giác với Lukeâ€. Meggie thầm nghĩ.
Khi Ralph thức dậy, Meggie đọc thấy trong đôi mắt màu xanh của ông vẫn một tình yêu đã từng sưởi ấm, đã từng mang lại cho nàng một thứ ước mơ từ khi còn thơ dại. Đồng thời Meggie cũng nhận ra bóng dáng của sự mệt mỏi không phải của thể xác mà của tâm hồn. Lâu nay Ralph vẫn nghĩ suốt đời mình sẽ không khi nào ông thức dậy bên cạnh một người đàn bà. Giây phút này tràn đầy âu yếm hơn cả lúc gần gũi trước đó, dấu hiệu của những tình cảm khắng khít và mặn mà. Meggie ơi! Em đã đứng ngay giữa đường để chỉ cho anh thấy lòng tự hào của một linh mục nhưanh sai lầm và chủ quan đến mức nào; cũng như Lucifer, anh đã sa xuống địa ngục.
Ngày tiếp theo ngày, đêm tiếp theo đêm. Ngay cả những trận mưa to cũng khoác lên một vẻ đẹp, là cơ hội để đi dạo mà không cần mặc gì hết, để được nghe những tiếng tí tách trên mái tôn, nước cũng ấm và mơn trớn như ánh nắng mặt trời. Và khi mặt trời ló dạng thì hai người rảo bước trên đảo, ưỡn người ra tắm nắng, đùa với sóng; và Ralph tập bơi cho Meggie. Thỉnh thoảng, khi Ralph không hay mình bị chú ý, Meggie nhìn Ralph nồng nàn, cố khắc ghi lại từng nét một trong trí nhớ của nàng. Meggie nhớ lại dù nàng thương Frank biết bao nhưng sau đó khi xa nhau hình ảnh của người anh yêu mến vẫn mờ nhạt với thời gian. Nàng nhìn đôi mắt, mũi, miệng, hai bên thái dương bạc trắng tương phản với những lọn tóc đen, thân hình khỏe và chắc nịch vẫn thon và giữ được sự cường tráng của tuổi trẻ, dù rằng Ralph đã mất đi phần nào sự mềm mại. Và nếu quay lại, bắt gặp Meggie đang đắm đuối nhìn mình, thì Ralph biết rằng ông cũng đang nhìn Meggie chứa đựng sự đau khổ câm lặng, một chuyển biến buồn bã như sắp xảy đến. Meggie nhận ra cái thông điệp kín đáo ấy: đã đến lúc Ralph phải ra đi, trở về với Giáo hội, trở về với những bổn phận và trách nhiệm của chàng. Rất có thể Ralph sẽ không bao giờ có được trạng thái tinh thần như xưa nhưng chàng sẽ có đầy đủ khả năng để phục vụ. Vì rằng chỉ có những ai đã từng bị trượt té mới hiểu biết những cam go của con đường đi tới.
Một buổi chiều, lúc mà mặt trời xuống khá thấp nhuộm đỏ cả vùng biển và làm nhảy múa thứ ánh sáng màu vàng rực rỡ của những đồi cát và bãi san hô, lúc hai người đang nằm dài trên bãi thì Ralph quay đầu về phía Meggie:
- Meggie, anh chưa bao giờ thật hạnh phúc mà cũng chẳng bao giờ thật đau khổ.
- Em biết, Ralph.
- Vâng, anh tin em. Phải chăng chính vì thế mà anh yêu em? Em không có gì thật đặc biệt Meggie à, thế nhưng không giống bất cứ một ai khác. Anh yêu em, Meggie!
- Anh phải đi ngay à?
- Ngày mai, Bắt buộc như thế. Tàu của anh phải đến Genoa trong tuần này.
- Genoa?
- Vâng, anh phải đi Roma. Chắc phải ở lại đó rất lâu. Có thể luôn cả những năm tháng còn lại của đời anh. Anh cũng chưa biết rõ.
- Anh đừng lo, Ralph. Em sẽ không tìm cách giữ anh lại đâu. Với em cũng thế, thời gian nghỉ ở đây cũng sắp hết, rồi đây em sẽ chia tay với Luke và trở về Drogheda.
- Ồ, Meggie! Đâu phải do những gì vừa xảy ra, đâu phải do anh phải không?
- Không, dĩ nhiên là không, nàng khẳng định bằng những lời nói dối rất thành khẩn. Luke chẳng cần em. Em không gây một mất mát nào cho anh ấy. Nhưng em cần một mái nhà, một gia đình và từ này em nghĩ rằng Drogheda sẽ giúp em có được những điều ấy. Thật là bất công nếu cứ để Justine đáng thương lớn lên trong một gia đình mà mẹ nó đang là đày tớ gái, dù cho Anne và Luđie không hề cư xử với em như thế.
- Anh sẽ viết thư cho em, Meggie.
- Không, anh đừng viết gì cả. Anh tưởng rằng em cần những lá thư của anh sau khi chúng ta đã sống với nhau như thế này? Em không muốn một điều gì không hay xảy ra cho anh; những lá thư của anh có thể không được giữ kín đáo. Tốt hơn là anh đừng viết thư cho em. Nếu một mai anh đếnéUc, thì tự nhiên anh sẽ đến thăm Drogheda, nhưng em nói trước với anh, Ralph à, lúc ấy anh phải suy nghĩ kỹ trước khi quyết định. Trên thế gian này chỉ có hai nơi mà em được ưu tiên trước Chúa... Ở đây, Matlock và ở Drogheda.
Ralph kéo sát Meggie vào lòng, vuốt ve mái tóc của nàng.
- Meggie, trong tận đáy lòng anh ước ao được lấy em làm vợ, mãi mãi không xa lìa em. Anh không muốn chia tay em... Và một cách nào đó, mãi mãi anh không muốn được giải thoát khỏi em. Phải chi đừng bao giờ anh đến Matlock. Nhưng chúng ta đã không thể thay đổi được số phận của mình, biết đâu như thế vẫn tốt hơn. Anh đã tự khám phá được một số điều kín đáo mà trước đây chưa bao giờ anh để lộ ra và anh cũng không cần phải đối diện với những điều đó nếu anh không đến đây. Dù sao vật lộn với cái đã biết vẫn hơn cái chưa biết, đúng là một ẩn số. Anh yêu em. Anh đã luôn luôn yêu em và anh sẽ mãi mãi yêu em. Em đừng quên điều đó.
Hôm sau, Rob xuất hiện lần đầu tiên từ khi ông ta đưa Ralph đến đây. Rob kiên nhẫn chờ đợi hai người chia tay nhau.
- Tạm biệt em, Meggie.
- Tạm biệt anh, Ralph.
- Em nhớ giữ gìn sức khỏe.
- Vâng, anh cũng thế.
Ralph nghiêng đầu ôm hôn Meggie; mặc dù rất kiên quyết; nàng vẫn bấu chặt Ralph; nhưng khi Ralph gỡ đôi cánh tay Meggie đang quấn chặt lấy ông thì nàng rút tay lại đặt ra phía sau lưng và đứng yên như thế, Ralph bước lên xe và trong khi Rob cho xe lui, Ralph vẫn nhìn thẳng phía trước, không hề quay lưng nhìn về hướng ngôi nhà sàn nơi đó có Meggie đang một mình trông theo. Ãt có người đàn ông nào đủ can đảm làm như thế - Rob nghĩ thầm. Chưa bao giờ Rob thấy đôi mắt của ai lại vừa nhân bản lại vừa buồn như thế. Sự kiêu kỳ xa vắng đã vĩnh viễn xóa đi trong cái nhìn của Tổng giám mục Ralph de Bricassart.
Khi Meggie trở lại Himmelhoch, Anne biết trước rằng chị không còn giữ được Meggie ở lại với mình. Vẫn là một Meggie đó nhưng bây giờ đã rất khác.
Meggie bế Justine trên tay một cách âu yếm như thể chỉ đến bây giờ nàng mới hiểu được đứa con gái có ý nghĩa như thế nào với nàng. Meggie vừa khẽ ru con vừa nhìn chung quanh, cười với Anne một cách trìu mến.
- Không làm sao em cám ơn chị cho hết, Anne ạ.
- Nhưng về chuyện gì?
- Về chuyện nhờ chị mà Ralph đã gặp em ở Matlock. Em hết sức mang ơn chị. Trước đây như chị biết, em đã quyết định tiếp tục ở với Luke. Nhưng bây giờ, em sẽ trở về Drogheda và sẽ ở đó mãi mãi.
- Chị rất tiếc phải xa em và càng buồn hơn phải xa Justine, nhưng chị lại rất mừng cho hai mẹ con. Luke chẳng mang lại điều gì tốt đẹp cho em và Justine cả.
- Chị có biết hiện giờ anh ấy ở đâu không?
- Luke đã trở lại nhà máy lọc đường. Anh ta chặt mía gần Ingham.
- Em phải đi tìm anh ấy và phải tìm cách ngủ với anh ấy. Em đã bị trễ hai tuần. Kinh nguyệt của em rất đúng. Chắc chắn em đang có thai, Anne à.
- Lạy Chúa! Anne kêu lên, trố mắt nhìn Meggie như mới gặp lần đầu. Rất có thể chỉ là dấu hiệu giả thường có ở người phụ nữ, Anne lắp bắp trong miệng.
Nhưng Meggie lắc đầu với vẻ quả quyết.
Chuyến tàu hỏa đi Ingham chậm chạp và lắc lư, chỉ có ý nghĩ về đứa con trong bụng là của Ralph mới giúp Meggie đủ can đảm tìm Luke. Nếu không có mầm sống mới mà nàng biết chắc đang tượng hình thì việc ngủ với Luke giữa lúc này là một tội lỗi không thể tha thứ với chính mình. Nhưng vì con của Ralph, nàng sẵn sàng bắt tay với cả quỷ sứ.
Trong thực tế, dự tính của Meggie không phải dễ thực hiện, nàng hiểu điều đó. Nhưng nàng đã tính toán rất kỹ và lạ thay chính Luđie cũng đã góp ý cho Meggie trong vụ này.
Xế chiều thứ bảy, Meggie đến Ingham và đăng ký thuê phòng ở một khách sạn bên ngoài có vẻ khá nhất. Sau khi cất vali, Meggie trở xuống phòng tiếp khách tìm điện thoại. Nàng gọi được trại Brann nơi nhóm của Luke đang làm việc, nhờ người nhắn lại với Luke là vợ anh vừa đến Ingham và muốn gặp anh.
Ngay sau đó Meggie trở lên phòng, đột nhiên cảm thấy mất bình tĩnh và sợ hãi. Suốt cuộc hành trình nàng đã suy nghĩ đến cách nào hiệu nghiệm nhất để đạt mục đích. Tuy vậy nàng vẫn không tự tin ở mình.
Trong cái không khí nóng rực và ẩm thấp, Meggie vừa run rẩy vừa cởi hết quần áo và nằm dài trên giường, mắt nhắm lại, đầu óc ám ảnh bởi ý nghĩ làm sao để bảo vệ cho được đứa con của Ralph.
Luke đến khách sạn lúc chín giờ tối. Luđie đã tiên đoán đúng. Vào cuối tuần, Luke thanh thản, tỏ ra dễ chịu và cảm thấy thích thú có một sự thay đổi nào đó trong chương trình giải trí của mình. Khi con trai của ông chủ Brann chuyển lại lời nhắn của Meggie tại lán trại, Luke vừa rửa chén dĩa xong, định đạp xe xuống Ingham nhập với bọn của Arne dự cuộc vui chơi thường lệ tối thứ bảy. Vì vậy Luke đón nhận tin này vui vẻ, viễn ảnh gặp lại Meggie được xem như một dịp đổi chương trình.
Từ lúc nghỉ ở Atherton về, anh ngạc nhiên thấy mình thỉnh thoảng thèm muốn Meggie dù công việc hàng ngày có làm anh kiệt sức. Cái điệp khúc - nhà, tổ ấm, gia đình - là điều duy nhất làm cho anh phát chán và ngăn trở anh đi Himmelhoch gặp Meggie mỗi khi anh có việc đến vùng lân cận Dunny. Trước khi đến khách sạn, Luke thận trọng đi tìm mua bao cao su phòng ngừa nhưng tất cả cửa hàng dược phẩm điều đóng cửa. Khi anh bước xuống xe, một phần hăng hái đã biến đi nhưng anh nhún vai: đành phó thác cho sự may rủi vậy! Chỉ một đêm thôi và nếu có một đứa con, biết đâu với chút may mắn lần này nó sẽ là một thằng con trai.
Meggie giật mình, đầu óc căng thẳng khi nghe Luke gõ cửa phòng. Nàng nhảy xuống giường và đến gần cửa.
- Ai đó?
- Luke.
Nàng vặn chìa khóa và mở hé cửa, nép mình sang một bên. Luke đã bước vào, nàng thận trọng đóng cửa lại rồi lặng lẽ đứng nhìn Luke. Luke ngắm Meggie. Ngực nàng nở nang hơn, hấp dẫn hơn bao giờ. Hai núm vú đổi màu nhợt nhạt sang màu đỏ sậm từ khi nàng sinh con . Nếu anh ta cần có một sự kích thích thì với bộ ngực hấp dẫn này đã quá đủ. Anh bước tới, nhấc bổng nàng lên và đặt nàng xuống giường.
Khi trời đã sáng, nàng vẫn chưa nói một lời nào với Luke. Ngồi ở mép giường, nàng tỏ ra xa cách kỳ lạ với Luke.
Anh ta vươn vai một cách lười biếng, miếng ngáp rồi tằng hắng:
- Này, cái gì đã thúc đẩy em đến Ingham hở Meggie? Anh ta hỏi.
Nàng quay lại, nhìn Luke với đôi mắt tràn đầy khinh bỉ.
- Hả, cái gì đã thúc đẩy em đến đây? Luke lặp lại câu hỏi, giọng hơi bực bội.
Vẫn không trả lời, cái nhìn chăm chăm không thay đổi, Meggie không muốn nói lời nào. Nhưng rồi đôi môi hơi hé mở, Meggie mỉm cười:
- Em đến đây để báo với anh, em sẽ trở về Drogheda - nàng chỉ nói ngắn gọn có thế.
Trong một lúc, Luke không tin lời Meggie, anh ta nhìn nàng kỹ hơn và nhận ra rằng nàng không đùa.
- Tại sao vậy? - Anh ta hỏi.
- Em đã nói trước với anh chuyện gì sẽ xảy ra nếu anh đi Sydney mà không mang em theo - Nàng nói.
Luke chưa hết ngạc nhiên:
- Nhưng đó là chuyện xảy ra mười tám tháng trước đây và sau đó anh đã đưa em đi nghỉ mát! Bốn tuần ở Atherton rất tốn kém. Do đó anh không thể đưa em đi Sydney được.
- Từ đó đến nay anh đã đi Sydney hai lần, hai lần đều không có em - nàng tiếp tục nói. Lần đầu, em có thể thông cảm với anh vì em đang mai thai Justine, nhưng Chúa cũng dư biết rằng em sẵn sàng đi nghỉ vào mùa mưa, tháng giêng.
- Trời ơi!
- Anh là một thằng hà tiện hết cỡ, Luke à - Giọng Meggie nhẹ nhàng hơn. Anh có một sản nghiệp hai mươi ngàn bảng, tiền ấy thuộc quyền của em hoàn toàn, thế mà anh lại keo kiệt từng đồng vì sợ xài phí nếu có em trong chuyến đi Sydney. Anh và đồng tiền của anh làm em phát bệnh!
- Anh có đụng vào đó đồng xu nào đâu! Anh ta hét lên. Tiền ấy nằm trong ngân hàng tất cả, không thiếu một xu và tuần nào anh cũng bỏ thêm vào.
- Vâng, đúng thế. Nó ở trong ngân hàng, ở cái nơi mà nó sẽ mãi mãi ở đó. Anh không hề có ý định xài đến nó phải không? Anh chỉ muốn sùng bái nó như sùng bái con bò vàng. Hãy thú nhận như thế đi Luke. Anh là người keo kiệt. Và hơn thế ấy nữa anh là một thằng ngu hết chỗ nói! Đối xử với vợ và con gái mà còn thua cả đối với con chó. Anh không cần biết đến sự có mặt của vợ con, chứ đừng nói chi đến những nhu cầu của hai mẹ con em. Đồ ích kỷ, đẹp trai mà chẳng ra cái thứ gì, đồ đểu!
Mặt tái xanh, người run lên, Luke tìm lời lẽ để trả lời. Sự bất công trong các lời buộc tội của Meggie làm cho Luke bối rối, nhưng anh vẫn tự tin về ý đồ trong sáng của mình. Rất là đàn bà, Meggie chỉ nhìn thấy cái vẻ bên ngoài, hoàn toàn không nhận ra ý định tốt đẹp tiềm ẩn bên trong Luke.
- Meggie ơi! Luke kêu lên giọng đầy ngạc nhiên vừa thất vọng vừa nhẫn nhục. Anh có bao giờ đối xử tệ với em đâu. Không, không bao giờ! Không một ai có thể bảo rằng anh xử sự tàn nhẫn với em. Không một ai! Em được ăn uống đầy đủ, có một mái nhà, mùa đông được sưởi ấm...
- Ừ, phải rồi! Nàng cắt ngang. Về chuyện đó em thừa nhận. Đúng là em không bao giờ bị cóng rét, nhưng cũng chưa bao giờ em thấy người em nóng lên như lúc này. Đúng là em đang nói chuyện với bức tường.
- Anh cũng có thể nói ngược lại như thế.
- Anh cứ nói đi - Meggie đáp lại lạnh lùng, nàng bước xuống giường mặc quần áo vào. Em không đòi hỏi chúng ta ly dị, nàng nói tiếp. Em không có ý định tái giá. Còn về phía anh nếu anh muốn ly dị, thì anh biết em ở đâu để tìm. Về mặt pháp lý, em là người có lỗi phải không? Vì em bỏ anh... hay ít ra theo cái nhìn của pháp luật là thế.
- Meggie, anh không hề bỏ em, Luke nhấn mạnh.
- Anh có thể giữ lại cho anh số tiền hai chục ngàn bảng của em. Nhưng anh sẽ không có thêm một đồng xu nào của em nữa. Các lợi tức riêng của em được em dùng để nuôi Justine và biết đâu nuôi thêm một đứa con khác nếu em được may mắn.
- Thì ra đó là mục đích của em! Luke giận dữ. Tất cả điều em đeo đuổi là có thêm một đứa con nữa phải không? Chính vì thế mà em đã đến đây. Một tiếng hát của con thiên nga, một món quà nhỏ của thằng này để em mang về Drogheda! Với em, thằng này chỉ là một con ngựa giống! Lạy Chúa, còn gì khôi hài hơn!
- Phần đông phụ nữ nhìn bọn đàn ông dước góc độ ấy - Meggie nói giọng không có vẻ gì là tinh nghịch. Anh bực tức về tất cả những gì ở em phải không Luke và như thế anh càng không hiểu gì hết. Hãy tỏ ra một người chơi bạc thẳng thắn. Trong ba năm rưỡi, em đã mang lại cho anh nhiều tiền hơn là anh kiếm được nhờ chặt mía. Nếu em có thêm một đứa con, anh cũng khỏi phải bận lòng gì. Kể từ giây phút này, em mãi mãi không muốn gặp lại anh nữa, cho tới khi nào em còn sống.
Nàng mặc quần áo, cầm ví tay và xách chiếc vali nhỏ để gần cửa. Tay đặt lên quả đấm cửa, Meggie quay lại.
- Anh cho phép em có lời khuyên nhỏ với anh, Luke à. Nó rất có ích sau này nếu anh lấy một người phụ nữ khác, lúc mà anh đã quá già và mệt mỏi để tiếp tục hiến mình cho cây mía... Anh cần biết rằng anh hỗn như một con khỉ. Anh há miệng to quá, anh giống con trăn muốn nuốt chửng những người phụ nữ. Anh làm cho em phát tởm, Luke! Luke tự cao tự đại, anh chẳng ra làm sao cả!
Sau khi Meggie đi rồi, Luke yên lặng ngồi trên mép giường, mắt nhìn chăm chăm cánh cửa khép kín. Nhưng rồi anh đứng lên nhún vai và vội vàng mặc quần áo. Nếu sửa soạn thật nhanh thì kịp nhảy lên một xe tải và trở về lán trại gặp Arne và bè bạn. Thằng bạn lâu năm tốt bụng Arne! Đàn ông, thật ngu ngốc. Đi ngủ với một phụ nữ cũng thích đấy, nhưng sống với những thằng bạn trai thì vẫn thích hơn!
Không muốn báo trước cho ai ngày trở về, Meggie đến Drogheda trên một chiếc xe chở thư cùng với lão Bluey Williams; Justine nằm trong chiếc nôi bằng mây đặt trên nệm.
Drogheda, Drogheda! Bạch đàn và những cây hồ tiêu khổng lồ, êm ả đầy tiếng ong kêu. Bên này là những súc vật và những ngôi nhà tường bằng đá, và sỏi màu nhạt; bên kia là những thảm cỏ xanh đẹp lạ kỳ bao quanh tòa nhà lớn. Mùa thu trong vườn đầy hoa, nào là quế trúc, thược dược và nhiều loại cúc, đây đó đầy những hoa hồng.
Từ con đường trải sỏi phía sau nhà, bà Smith nhón chân nhìn ra, miếng há hốc, cười vui rồi bật khóc. Minnie và Cat chạy ào ra xe, Drogheda đúng là một tổ ấm, ở đây mãi mãi là trái tim của Meggie.
Fiona bước ra khỏi nhà xem có chuyện gì ồn ào như thế.
- Thưa mẹ, con đã trở về.
Không có chuyện gì có thể gây xáo động đôi mắt màu nâu ấy, đôi mắt giờ đây đã già dặn hơn. Meggie nhận ra ngaỵ Mẹ nàng vui mừng; có điều là bà không biết bày tỏ sự vui mừng ấy ra sao?
- Con đã bỏ Luke? Fiona hỏi lớn vì nghĩ rằng Smith và những người giúp việc đều có quyền được biết điều đó.
- Thưa vâng. Con sẽ không trở lại với Luke nữa. Anh ấy không muốn có một mái nhà, không đếm xỉa đến những đứa con, và cũng không cần một người vợ.
- Những đứa con?
- Vâng mẹ ạ, con đang chờ sinh đứa thứ hai.
Nhiều tiếng ô, a ngạc nhiên vang lên từ phía những người giúp việc và Fiona. Mẹ nàng nói ngay với giọng cân nhắc nhưng vẫn không giấu được niềm vui.
- Nếu thằng đó nó không cần con thì con hoàn toàn có lý do trở về mái nhà xưa. Ở đây mọi người sẽ lo cho con.
Phòng cũ của Meggie nhìn ra bãi chăn chính đầy những hoa, phòng kế bên dành cho Justine và đứa bé sẽ ra đời. Ôi, thật dễ chịu làm sao được sống ở tại nhà mình!
Bob rất vui mừng gặp lại em gái. Càng ngày Bob càng giống Pađy, lưng hơi khom, da sạm đỏ dưới ánh nắng mặt trời.
Tối hôm đó, cả gia đình Cleary có mặt đầy đủ để chuyển một xe tải ngũ cốc vào kho mà Jims và Patsy vừa mua từ hợp tác xã Gilly về.
Thoạt đầu Meggie được phân công trông chừng các bãi chăn gần nhất.
Con ngựa sắc hồng và con ngựa thiến đã chết. Bob tìm Martin King hỏi mua hai con khác. Kể cũng lạ, cái chết của con ngựa sắc hồng gây cho Meggie ấn tượng dữ dội hơn cả khi xa cách Ralph bởi đây chính là con ngựa chàng thường cỡi.
Khi bụng trở nên nặng nề không thể lên lưng ngựa nữa, Meggie ở nhà với bà Smith, Minnie và Cat, may và đan những chiếc áo chuẩn bị cho đứa bé đã bắt đầu cựa quậy. Thằng bé (nàng tin chắc là con trai) phải chăng hợp với nàng hơn Justine, do đó nàng không cảm thấy bị hành hạ và vui sướng chờ đợi ngày ra đời của con. Justine biết đi và biết nói rất sớm, vào lúc mới chín tháng. Nhưng có điều thật khó hiểu ở Justine là cô bé không bao giờ cười. Bà con ở Drogheda ai ai cũng tìm cách làm cho Justine vui, nhưng chẳng ai làm được điều đó. Đúng là Justine vượt qua bà ngoại về sự nghiêm nghị bẩm sinh ấy.
Ngày một tháng mười, Justine được mười sáu tháng thì con trai của Meggie chào đời tại Drogheda, sớm hơn bốn tuần lễ. Meggie sinh rất nhanh, không đau đớn như lần sinh trước.
Thằng bé thật đẹp! Chiếc lưng dài, thon thả, tóc hung, mắt xanh lợt. Đúng là đôi mắt của Ralph, bàn tay của Ralph, cái mũi, miệng và bàn chân cũng của Ralph. Meggie mừng thầm khi nghĩ rằng Luke cũng có vóc dáng tương tự và những nét gần giống Ralph.
- Con đã chọn cho nó một cái tên chưa? Fiona hỏi trìu mến và tỏ ra say mê thằng bé.
- Con sẽ đặt cho nó tên Dane.
- Cái tên nghe quái lạ! Tại sao con lại chọn tên ấy? Có phải vì đó là tên phổ biến trong dòng họ O'' Neill? Mẹ tưởng rằng con đã dứt khoát với dòng họ O'' Neill rồi mà?
- Cái tên Dane không dính dấp gì với Luke cả thưa mẹ. Đó là tên của chính thằng bé, chứ không phải của ai khác. Con đã đặt cho con gái tên Justine vì con thích tên đó và cũng vậy con đã đặt tên Dane.
Ngắm nhìn thằng bé mắt nhắm, lông mi dày lấp lánh màu vàng ánh, chân mày lông tơ, hai má nhỏ có vẻ háu ăn, Meggie nghe dâng lên trong lòng một tình yêu mãnh liệt và không hiểu sao cùng lúc ấy nàng cảm thấy nhói lên một nỗi xót xa trong lòng.
“Dane sẽ lấp đầy sự trống của đời tôi. Nó phải làm điều đó vì ngoài nó tôi không còn có ai khác. Ralph, anh đã yêu Chúa hơn yêu em và cũng chính vì Chúa mà anh sẽ không bao giờ biết em đã đánh cắp cái gì của anh cũng như đã đánh cắp cái gì của Chúa. Em sẽ không bao giờ nói cho anh biết về Dane. Ôi, con yêu quí của mẹ! (Nàng đặt thằng bé nằm êm ả trên những chiếc gối để nhìn rõ hơn gương mặt nhỏ đẹp tuyệt vời ấy). Con thương yêu của mẹ! Con là của riêng mẹ và mẹ sẽ không bao giờ giao con cho bất kỳ ai khác, nhất là ba con, một người, không có quyền nhìn nhận con. Như thế có tuyệt không hở con?
Chương 31
Chiếc tàu cập bến cảng Genoa đầu tháng tư. Tổng giám mục De Bricassart đặt chân lên một nước àtràn ngập ánh nắng mùa xuân Địa Trung Hải. Liền đó, ông lên tàu hỏa đi Roma. Nếu ông tỏ ý muốn, Vatican đã gởi đến một chiếc xe với tài xế để đưa ông về. Nhưng ông sợ lại chứng kiến cảnh Giáo hội một lần nữa đóng cửa với ông, do đó ông muốn đẩy lùi thời điểm thử thách ấy càng lâu càng tốt. Thành phố Vĩnh Cửu. Nó mang đúng cái tên của nó, ông vừa nghĩ thầm vừa nhìn qua cửa kiếng xe tắc-xi. Những lầu chuông và những vòm giáo đường, những quảng trường đầy chim bồ câu, những đài nước uy nghi, những hàng cột Roma đặt trên những nền ăn sâu hàng bao thế kỷ. Với ông, tất cả những thứ đó không đáng chú ý. Đối với ông điều quan tâm duy nhất là Vatican với những phòng tiếp tân lộng lẫy và những căn phòng riêng trông có vẻ khắc khổ.
Một tu sĩ dòng Saint Dominique hướng dẫn Ralph đi dọc theo những đại sảnh lát đá cẩm thạch, ngang qua vô số những bức tượng bằng đồng, bằng đá, tất cả xứng đáng có một vị trí trong viện bảo tàng. Phía sau là rất nhiều tranh được vẽ trên bức tường vĩ đại, tác phẩm của Giotto, Raphael, Botticelli và Fra Angelico.
Trong căn phòng màu vàng sáng chói, nổi bật lên là màu sắc của những bức tượng, những bức tranh, bàn ghế và thảm đều được đưa về từ Paris, Hồng Y Di Contini Verchese tiếp Ralph. Tổng giám mục De Bricassart quỳ xuống, hôn chiếc nhẫn.
- Con hãy ngồi xuống đây Ralph.
- Thưa Đức Hồng Y, con muốn được xưng tội.
- Khoan đã! Trước hết chúng ta phải nói chuyện với nhau bằng tiếng Anh. Ở đây tai vách mạch rừng nhưng cũng may, rất hiếm tai nghe được tiếng Anh. Con hãy ngồi xuống đây Ralph. Ồ, thật là thú vị gặp lại con. Vắng con, ta càng thấy những lời cố vấn khôn ngoan, tư tưởng hợp lý và quan niệm rất hay về tình bạn... cần thiết như thế nào đối với ta. Cho tới nay chưa có người phụ tá nào ta có thể dành một phần nhỏ thôi tình cảm mà ta dành cho con.
Sự mệt mỏi kinh khủng mà Ralph đã trải qua mấy tuần lễ bỗng nhiên như cất khỏi đôi vai của ông; ông tự hỏi tại sao mình lại lo ngại quá nhiều về cuộc gặp gỡ này trong khi tận đáy lòng, Ralph dư biết rằng ông sẽ được thông cảm và tha thứ. Nhưng vấn đề không phải ở chỗ đó. Ông thấy mình đã làm thất vọng một người quá tốt - một người bạn đúng nghĩa của mình. Ralph phải đối đầu với một con người trong sáng trong khi chính mình không còn trong sáng nữa.
- Ralph, chúng ta là những người tu hành nhưng không chỉ là như thế; chúng ta không thể thoát khỏi số mệnh của bản thân mặc dù chúng ta khao khát những cái gì đó rất tuyệt đối. Chúng ta là những con người với những yếu đuối và sai sót của con người. Ta đoán trước sẽ không có điều gì trong những điều con sẽ kể cho cha nghe lại làm vẩn đục hình ảnh mà ta đã có về con trong suốt những năm chúng ta cùng sống chung nhau. Dưới mắt ta cũng sẽ không có điều gì có thể làm mất uy tín của con và làm mờ nhạt tình cảm mà ta đã gởi gắm cho con. Trong yếu đuối của chúng ta, về thân phận con người chúng ta, nhưng ta biết rằng rồi đây con sẽ hiểu vì tất cả chúng ta cuối cùng đều hiểu như thế, ngay cả Đức Thánh Cha là người khiêm tốn và nhân từ nhất cũng hiểu như thế.
- Con đã không giữ lời khấn của con, thưa Đức cha. Không dễ dàng tha thứ đâu. Đó là tội phạm thượng.
- Từ nhiều năm nay con đã phạm lời khấn nguyện sống thanh bạch khi nhận gia tài bà Mary Carson. Điều đó đã làm cho chúng ta xa rời sự trong sáng và sự vâng lời Chúa phải không?
- Như thế cả ba lời khấn đều bị vi phạm, thưa Đức cha.
- Ta vẫn thích được con gọi bằng Vittorio như xưa. Ta không lấy làm khó chịu mà cũng chẳng thấy có gì phải buồn lòng. Tất cả những chuyện ấy đều là ý muốn của Chúa, và ta nghĩ rằng rất có thể đây là một bài học lớn mà con nên nhận lấy với một thái độ đừng tự hành hạ mình quá đáng. Những ý định của Chúa không phải đều dễ hiểu. Nhưng ta nghĩ rằng con đã hành động không dễ dãi, rằng con không đầu hàng trước khi đã đấu tranh. Ta rất hiểu con. Ta biết con rất tự phụ, nhiễm nặng địa vị tu sĩ của mình, rất ý thức về nỗi khát khao tìm đến cái gì đó rất tuyệt đối. Do đó, có thể con cần một bài học như thế để hạ bớt sự kiêu căng của con, để cho con hiểu rằng trước hết con chỉ là một con người, cho nên nó sẽ không bao giờ được nhào nắn hoàn thiện như con nghĩ. Có phải như thế không?
- Thưa đúng thế. Con thiếu sự khiêm tốn và con có cảm tưởng, hiểu theo cách nào đó, con muốn trở thành Chúa Trời. Con phạm tội rất nặng và không thể tha thứ. Con không thể tha thứ cho chính con, vậy thì làm sao con hy vọng sự tha thứ của Chúa?
- Lại kiêu căng nữa rồi, Ralph à! Kiêu căng! Quyền tha thứ không thuộc về con, con vẫn chưa hiểu điều đó sao? Chỉ có Chúa mới có quyền tha tội. Chỉ có Chúa mà thôi. Và Chúa sẽ tha tội cho những ai biết ăn năn chân thành. Chúa đã từng tha tội nặng hơn cho những vị thánh và cho cả những tên vô loại. Con tưởng rằng Lucifer không được tha tội sao? Nó đã được tha tội ngay khi nó chống lại Chúa. Số phận của nó - trở thành Chúa tể địa ngục - là chính nó chọn lựa chớ không phải Chúa. Có phải chính nó đã nói: Thà ngự trị dưới địa ngục còn hơn là phụng sự trên thiên đàng. Bởi rằng nó không chiến thắng nổi sự kiêu căng của nó, nó không chấp nhận được ý muốn của nó khuất phục trước ý muốn của một ai khác, dù cho ai khác đó là Chúa. Ta không cho rằng con phạm một sai lầm giống như vậy, người bạn thân yêu của ta. Sự khiêm tốn là đức tính duy nhất còn thiếu ở con, nhưng nó lại là đức tính chính yếu của một vị thánh... hay một con người vĩ đại. Cho tới khi nào con chưa chịu trả lại cho Chúa quyền tha tội thì con chưa đạt tới sự khiếm tốn thật sự.
Gương mặt đầy nghị lực của Ralph co rúm lại.
- Thưa vâng, con biết rằng Đức cha nói đúng. Con phải tuyệt đối chấp nhận con người hiện hữu của con, phải nỗ lực sửa mình mà không tự kiêu về mình. Con xin ăn năn; như vậy con sẽ xưng tội và chờ được tha tội. Con rất ăn năn và ăn năn thật sự.
Ralph thở ra, đôi mắt của ông không giấu được sự xúc động trong lòng mà những lời lẽ ôn tồn đã thể hiện.
- Vittorio à, tuy nhiên, khi nghĩ lại, con thấy con không thể hành động khác hơn. Hoặc là con hủy diệt nàng, hoặc là con nhận lấy sự hủy diệt ấy về phần con. Lúc đó, con không có sự lựa chọn nào khác vì rằng con yêu nàng một cách chân thành. Hoàn toàn không phải lỗi ở nàng nếu con không tiếp tục từ chối nối dài tình yêu trên phương diện xác thịt . Thân phận của nàng đáng quan tâm hơn thân phận của con. Cho đến lúc đó, con cứ tự coi mình ở một vị trí cao hơn nàng vì con là kẻ tu hành và con coi nàng như một hạng người ít được quan tâm. Nhưng con hiểu ngay rằng con là người có trách nhiệm, về tình trạng hiện nay của nàng... Đáng lý, con phải tránh xa nàng khi nàng còn là một cô bé, nhưng con đã không làm như thế. Con đã đem nàng ẩn náu trong trái tim con và nàng biết điều đó. Nếu con thật lòng muốn rứt nàng ra khỏi cuộc đời con thì chắc chắn nàng cũng giã biệt và con đã mất hết tất cả ảnh hưởng đối với nàng. Đức cha thấy, con có đủ lý do để mà ăn năn... Con đã thử tạo ra một tác phẩm nho nhỏ riêng của con.
- Có phải Hoa Hồng không?
- Thưa Đức cha, đâu còn ai khác nữa? Nàng là sự toan tính sáng tạo duy nhất của con.
- Nhưng Hoa Hồng có đau khổ không? Làm như thế có phải chăng con tạo ra cho cô ấy nhiều đau khổ hơn là con hắt hủi cô ấy?
- Con không biết được, Vittorio. Con rất muốn biết sự thật ra sao! Nhưng trong lúc này, con không thể hành động khác hơn. Hơn nữa chuyện ấy xảy ra... một cách tự nhiên. Tuy nhiên con nghĩ rằng con đã cho nàng cái điều nàng cần thiết, đó là ý thức về nhân cách phụ nữ của nàng. àcon không phải nói rằng nàng không biết mình là một người phụ nữ, nhưng là chính con, con không nhận ra điều đó. Nếu khi con gặp nàng, nàng đã là một phụ nữ, thì mọi việc có lẽ đã diễn tiến khác hơn; nhưng rất tiếc con đã gặp nàng khi nàng là một cô bé.
- Con vẫn cho thấy mình tự phụ Ralph à và chưa sẵn sàng để được tha tội. Thật xót xa phải không? Ta xót xa mà nhìn thấy con quá nhân đạo để bị rơi vào sự yếu đuối của con người. Con có thật sự hành động với tinh thần hy sinh cao cả không?
Ralph giật mình. Ông nhìn vào hai con mắt u buồn trước mặt và thấy trong đó phản chiếu hai gương mặt thật nhỏ với kích thước không nghĩa lý gì.
- Không, thưa Đức cha - Ralph nhìn nhận. Con là con người và với tư cách một con người con đã khám phá ở nàng một sự hoan lạc không thể chối cãi. Trước đây con hoàn toàn không biết rằng sự tiếp xúc với một người phụ nữ lại có kết quả như thế và nó lại là nguồn gốc của một sự khoái lạc sâu đậm như thế. Con muốn mãi mãi không bao giờ xa nàng, không phải chỉ vì vấn đề thân xác, mà đơn giản chỉ vì con thích ở gần nàng... nói chuyện với nàng, hay không nói chuyện, được ăn những món ăn do nàng nấu, cười với nàng, chia sẻ những suy nghĩ của nàng. Con cảm thấy thiếu vắng nàng mãi mãi khi con còn sống trên cõi đời này.
Có một điều gì đó xuất hiện trên gương mặt khổ hạnh, u buồn của Hồng Y và không hiểu sao khiến cho Ralph nhớ đến nét mặt của Meggie vào lúc hai người chia tay nhau. Nó phản ánh sự vững vàng của một con người bất chấp mọi nỗi khổ đau, buồn phiền, và vất vả để cứ nhìn ra phía trước mà đi. Con người ấy, mặc áo màu tím, bình thường tình cảm tưởng như chỉ dành riêng cho con mèo cái giống Abyssinian, đã biết gì về chuyện thầm kín của Ralph?
- Con không thể nào sám hối về những gì Meggie đã mang lại cho con - Ralph tiếp tục nói trước sự im lặng của Hồng Y. Con chỉ sám hối vì đã vi phạm những lời khấn hệ trọng và không thể quên. Con biết từ nay con không thể nào đến với công việc thuộc trách nhiệm của con như trước kia, nhất là với một nhiệt tình như xưa. Về điều này, con rất ăn năn. Nhưng về những gì liên quan đến Meggie thì...
Sắc mặt của Ralph thay đổi hẳn khi nhắc đến tên Meggie khiến cho Hồng Y phải quay về hướng khác để giấu đi những dằn vặt trong đầu ông.
- Sám hối những gì thuộc về Meggie chẳng khác nào con đã giết nàng - Ralph nói tiếp cùng lúc đưa bàn tay lên che hai mắt một cách mệt mỏi - Con không biết con nói có rõ ràng không hoặc lời nói của con có phản ảnh trung thực suy nghĩ của con không. Thưa Đức cha, con luôn cảm thấy gần như bất lực khi phải thể hiện bằng lời những tình cảm của con dành cho nàng.
Ralph ngồi hơi nghiêng người ra phía trước trong khi ánh mắt của Hồng Y Di Contini Verchese chiếu thẳng về phía Ralph. Ralph chú ý thấy hai bóng nhỏ của mình trong đôi mắt của Hồng Y hình như trở nên lớn hơn một chút. Đôi mắt của Vittorio như hai cái gương, chúng chỉ phản chiếu những gì chúng thấy nhưng không để bất cứ điều gì người khác phát hiện những gì ẩn chứa trong đôi mắt. Ngược lại, đôi mắt của Meggie mở rộng để Ralph có thể đi thẳng vào tâm hồn nàng.
- Với con, Meggie như một phép lành. Đột ngột Ralph nói. Nàng là hình ảnh của một thứ thánh lễ khác.
- Vâng, ta hiểu. Hồng Y tán đồng và thở dài. Con nhìn ra được một tình cảm như thế là tốt. Ta nghĩ, dưới mắt của Đức Thánh cha điều đó sẽ làm giảm nhẹ lỗi của con. Ta khuyên con nên xưng tội với cha Giorgio sẽ có lợi ích cho con hơn là với cha Guillermo. Cha Giorgio sẽ không hiểu lầm những tình cảm và lý lẽ của con. Còn cha Guillermo trực giác vốn không mạnh và có thể đánh giá không đúng những gì con thật sự ăn năn. Họ cũng là những con người, Ralph thân mến à, những con người lắng nghe lời xưng tội. Con đừng quên điều đó. Chỉ trong cái khung cảnh mục vụ mà họ làm chức năng của họ: nơi ở của Chúa. Ngoài ra họ cũng là những con người. Sự tha tội mà họ ban cho cũng là của Chúa nhưng tai mà họ nghe và đánh giá vẫn thuộc về con người.
Có người mang trà vào.
- Con thấy ngoài đường phố ở Genoa và Roma có rất nhiều người mặc áo sơ mi đen - Ralph nhận xét trong khi nhìn Hồng Y pha trà.
- Đó là những đám người của lãnh tụ Mussolini. Chúng ta phải đối đầu với một thời ký khó khăn, Ralph thân mến. Đức Thánh cha ra lệnh không để xảy ra sự đoạn giao giữa Giáo hội với chính quyền àvà Người có lý trong mọi việc. Tình hình diễn biến thế nào, nhân danh Chúa, chúng ta vẫn phải giữ được tự do của mình để có thể trông nom các con chiên dù cho con chiên có bị chia rẽ trong một cuộc chiến tranh. Bất kể sự chọn lựa của con tim thế nào, chúng ta bắt buộc phải luôn luôn giữ cho Giáo hội đứng trên mọi biến động, mọi chủ thuyết chính trị và những tranh chấp quốc tế. Ta muốn con gắn bó với ta vì ta nhận thấy những gì xuất hiện trên gương mặt con sẽ không bao giờ phản bội lại những suy nghĩ trong đầu ở bất cứ hoàn cảnh nào. Con đã là một nhà ngoại giao khi mới sinh ra.
- Con không nghĩ mình sẽ thành công - Tổng giám mục De Bricassart nói. Rồi đây không ai tán đồng thái độ của chúng ta và mọi phía sẽ lên án chúng ta.
- Ta biết điều đó. Và Đức Thánh cha cũng biết. Nhưng chúng ta không thể hành động khác hơn. Tuy nhiên không có gì có thể cấm cản trong lòng chúng ta cầu nguyện cho Mussolini và Hitler sụp đổ nhanh chóng.
- Đức cha tin thật sự chiến tranh sẽ bùng nổ?
- Ta không thấy có cách nào tránh khỏi.
Drogheda vừa có được nhiều radio. Nhờ các tiến bộ khoa học mà cuối cùng Gillanbone đã đặt một đài phát thanh.
Mỗi sáng, Fiona, Meggie và Smith mở máy để nghe tin tức trong vùng và bản tin khí tượng.
Khi đài phát thanh quốc gia thông báo rằng hôm thứ sáu 1 â€" 9 - 1939, Hitler đã xâm lăng Ba Lan, lúc ấy chỉ Fiona và Meggie có mặt ở nhà, nhưng cả hai đều không quan tâm trước tin này. Châu Âu ở đầu kia thế giới, chẳng dính dấp gì đến Drogheda, trung tâm của vũ trụ. Nhưng chiều ngày ba tháng chín, thử tướng Úc Rober Gordon Menzies nói chuyện trên đài giải thích cho nhân dân hiểu được cuộc xâm lược Ba Lan cuối cùng đã buộc Anh tuyên chiến với Hitler và Úc không thể đứng ngoài cuộc xung đột.
Sau bài diễn văn của thủ tướng Úc, Bob phát biểu:
- Nếu tính luôn Frank, gia đình chúng ta có tất cả sáu người đàn ông. Ngoại trừ trường hợp Frank, tất cả chúng ta đều được coi là thợ chăn nuôi do đó không được gọi nhập ngũ. Trong số thợ chăn nuôi thuộc quyền chúng ta hiện nay, theo tôi chỉ có sáu người muốn lên đường và hai người ở lại.
- Em muốn đăng ký nhập ngũ! Jack nói to lên, mắt sáng ngời.
- Em cũng thế, tiếng nói của Hughie.
- Và cả hai đứa tụi này nữa! Jims khẳng định thái độ của mình và cho cả Patsy.
- Hợp lý hơn hết là Jims và Patsy vì cả hai trẻ nhất và ít kinh nghiệm nhất trong nghề chăn nuôi, và nếu nhập ngũ thì tất cả chúng ta đều là lính mới. Nhưng cả hai anh em đừng quên rằng mới mười sáu tuổi...
Mặc dù Jims và Patsy phản đối nhưng lúc đó chưa có một thành viên nào của gia đình Cleary lên đường tòng quân.
Phải chờ thêm một năm nữa, chiến tranh mới xâm nhập vào cái thế giới bé nhỏ Drogeda. Trong một năm đó, từng người một, các thợ chăn nuôi từ giã trang trại lên đường nhập ngũ.
Đầu tháng sáu năm 1940, người ta được tin đoàn quân viễn chinh thuộc đế quốc Anh buột phải rút khỏi châu Âu qua ngã Dunkerque; những người tình nguyện vào lực lượng thứ hai Hoàng gia Úc đã đổ xô đến các trung tâm tuyển mộ. Trong số đó có Jims và Patsy, cả hai đăng ký ở Dubbo nhưng được chuyển đến trại huấn luyện ở Ingleburn, ngoại ô Sydney. Gia đình có mặt đông đủ để tiễn Jims và Patsy lên tàu hỏa.
Jims và Patsy được sung vào sư đoàn 9 Úc theo yêu cầu của họ và được gởi đến chiến trường Ai Cập đầu năm 1941, vừa kịp lúc tham gia vào trận Benghazi. Giữa lúc các lực lượng Anh rút lui dước áp lực của Afrika Korps - đoàn quân Đức quốc xã tinh nhuệ của tướng Rommel - thì sư đoàn 9 Úc được lệnh chiếm và tử chiến bảo vệ Tobruk.
Trong khi đó tại Drogheda, Meggie nhận được thư của Luke cho biết hắn vẫn làm cái công việc đốn mía, Luke nói rõ trong thư cho Meggie an lòng đừng sợ anh ta bị nhập ngũ. Nội dung bức thư cho thấy Luke coi như chẳng có gì xảy ra sau cái ngày Meggie đã nói với hắn như tát nước vào mặt tại khách sạn ở Ingham. Với một nụ cười chán ngấy, Meggie lắc đầu rồi ném lá thư của Luke vào giỏ giấy vụn.
Năm 1941 thật tệ hại cho Drogheda. Đây là năm thứ năm liên tiếp bị hạn hán. Meggie, Bob, Jack, Hughie và Fiona gần như bó tay. Tiền của trang trại Drogheda gởi trong ngân hàng vẫn đủ để mua thức ăn cứu sống những đàn cừu nhưng phần nhiều chúng lại không chịu ăn. Mỗi đàn cừu đều có một con đầu đàn, một thứ thủ lĩnh tự nhiên của chúng. Phải ép cho được con này chịu ăn thì các con còn lại mới ăn theo. Nhưng tình trạng nguy ngập đến nỗi có những lúc con cừu đầu đàn chịu ăn thế mà các con cừu còn lại vẫn không thèm ngó ngàng đến thức ăn để sẵn trong các bãi. Trang trại Drogheda chỉ còn giữ được một người thợ chăn nuôi duy nhất. Meggie phải có mặt bảy ngày trong một tuần ở các bãi chăn. Mặc dù Meggie dành rất ít thời giờ để chăm sóc Justine và Dane nhưng hai đứa trẻ vẫn được nuôi chu đáo. Nàng vẫn nghĩ lúc này Bob cần nàng nhiều hơn hai đứa con. Nhưng thật sự Justine và Dane rất thèm được mẹ ẵm bồng gần gũi. Có khi cả tuần liền Meggie không thấy mặt con vì từ các bãi chăn về nhà lúc nào trời cũng đã tối sẫm. Thế nhưng mỗi lần ngắm nhìn Dane, lòng Meggie xao xuyến lạ lùng. Thật là một thằng bé tuyệt vời, hình như luôn luôn mỉm cười với mẹ. Ở Dane thoát lên sự hân hoan và tự tin kết hợp với sự nghiêm nghị của người lớn. Ãt có chuyện gì có thể làm cho nó giận dữ. Dưới cái nhìn của Meggie có những lúc nó giống Ralph một cách đáng kinh ngạc nhưng rất may không ai chú ý điều này. Ralph đã rời Gillanbone từ lâu.
Justine rất yêu em. Dane muốn gì Justine cũng chìu. Khi Dane mới biết đi chập chững, Justine không rời em một bước.
Thiếu mẹ, Justine và Dane càng gắn bó với nhau.
Title: Re: Tiếng chim hót trong bụi mận gai (tiếp)
Post by: Serenade24 on 04/05/07, 16:26
Post by: Serenade24 on 04/05/07, 16:26
Chương 32
Ngày Giáng Sinh năm 1941, Hồng Kông thất thủ. Sau đó, tin quân Nhật đã đổ bộ lên Mã Lai và Phi Luật Tân. Rồi ngày 8 tháng 7 năm 1942, quân Nhật vượt qua eo biển Johore, đặt chân liên phía bắc Singabore và chiếm thành phố này không tốn một viên đạn.
Đến đây, thủ tướng Úc Curtin, bất chấp sự nổi giận của thủ tướng Anh Churchill, đòi rút tất cả lực lượng của Úc ở Bắc châu Phi về nước. Ông tuyên bố đã đến lúc nước Úc cần những đứa con của mình để bảo vệ quê hương. Tin này mang lại cho Fiona hy vọng sớm gặp lại hai đứa con trai út của bà. Nhưng thật không may, tình hình ở Bắc Phi bỗng xấu đi, cuối cùng sư đoàn của Úc bị kẹt lại không thể rút ngay. Điều bất ngờ là với một lực lượng huấn luyện chưa tốt, trang bị thiếu thốn, nhưng sư đoàn 9 Úc đã hai lần đối đầu thành công trước lực lượng hùng hổ của Rommel. Cuối năm 1942, sư đoàn 9 Úc được gọi về, chuẩn bị sang Tân Guinee đối đầu với bọn Nhật. Jims và Patsy trở về nước bình yên. Dĩ nhiên là hai anh em được phép về thăm Drogheda. Bob ra ga đón Jims và Patsy. Khi chiếc xe Rolls tiến vào trong sân nhà thì mọi phụ nữ trong trang trại đều có mặt, Jack và Hughie đứng hơi tụt đằng sau. Hôm nay là ngày lễ, dù cho tất cả cừu ở Drogheda ngã lăn ra chết cũng mặc kệ.
Xe đã dừng lại rồi nhưng vẫn không có một ai nhúc nhích, đến khi hai anh em song sinh từ trên xe bước xuống mọi người vẫn đứng yên. Hai năm sống trên sa mạc đã thay đổi hẳn Jims và Patsy. Cả hai cao hơn các anh một cái đầu, không còn là những chàng trai vị thành niên nữa, Jims và Patsy đã trở thành những người đàn ông; nhưng là những người đàn ông không giống cái kiểu Bob, Jack và Hughie. Thử thách về nhiều mặt, hưng phấn của chiến trường, với những cái chết bi thảm được chứng kiến đã biến Jims và Patsy thành những con người mà Drogheda không thể nào tạo nên được.
- Con trai của mẹ! Các con trai của mẹ! Bà Fiona gọi to lên, mặt đầy nước mắt chạy đến ôm hai con.
Bất cần chúng đã làm gì, chúng đã thay đổi đến đâu, chúng vẫn là những đứa con nhỏ bé mà bà đã tắm rửa, thay tã, đút ăn, mà bà đã dỗ dành khi chúng khóc, ôm ấp khi chúng về nhà mang những thương tích. Nhưng những thương tích hằn lên chúng bây giờ đã vượt khỏi khả năng chăm sóc của bà.
Drogheda đã mở tiệc khoản đãi Jims và Patsy. Có điều rất lạ là cả hai rất thích kể chuyện hàng giờ về Bắc Phi, về cách ăn ở những nơi mà chúng đã đặt chân đến, về viện bảo tàng ở Cairo, về cuộc sống trong quân ngũ nhưng tuyệt đối không đề cập đến những trận đánh nhau. Bất đắc dĩ cả hai mới trả lời qua loa về những trận ác liệt diễn ra tại Gazala, Benghazi, Tobruk, El Alamein. Các bà các cô quây quanh hai người anh hùng của dòng họ Cleary nhưng cả hai đều tìm cách lẩn trốn, sợ hãi hơn cả khi ra trận.
Meggie rất vui thấy Jims và Patsy đùa chơi hàng giờ với Dane. Còn Justine, chúng tỏ ra rụt rè và vụng về cũng như khi đối đầu với phái nữ nói chung.
Jims theo dõi chị mình đang nhìn âu yếm Dane. Thằng bé cười như pháo nổ vì Patsy đang đùa với nó.
- Chị đừng bao giờ để nó rời khỏi Drogheda. Jims nói thấp giọng. Ở Drogheda, nó sẽ có một cuộc sống bình yên, không thể xảy ra điều gì bất hạnh cho nó.
Chương 33
Tổng giám mục Ralph vội vã đi dọc dãy hành lang cao và lộng lẫy dường như không chú ý đến những ánh mắt ngạc nhiên quay về hướng ông. Ralph xuất hiện đột ngột trong phòng tiếp khách của Hồng Y và đứng sựng lại. Đức cha đang tiếp ông Papee, đại sứ của chính phủ Ba Lan lưu vong đặt bên cạnh Tòa thánh.
- Ồ, Ralph! Có chuyện gì thế?
- Xong rồi, Vittorio Mussolini đã bị lật đổ.
- Lạy Chúa! Đức Thánh cha đã hay tin chưa?
- Chính con đã gọi điện đến Castel Gandolfo nhưng trong chốc lát đài phát thanh sẽ loan tin. Con biết trước là nhờ một người bạn ở tổng hành dinh Đức cho hay.
Ông Papee đứng lên.
- Con xin phép được kiếu từ, thưa Đức cha. Con đại diện cho một chính phủ thù nghịch với nước Đức. Nếu Đức Thánh cha không an toàn thì con cũng sẽ lâm vào tình cảnh ấy. Con cần phải thu xếp gấp các tài liệu trong văn phòng của con.
Ăn nói thận trọng, lời lẽ chính xác, đúng là một nhà ngoại giao từ đầu đến chân, Papee chào hai vị chức sắc của tòa thánh rồi ra về.
- Có phải ông ấy đã đến đây để yêu cầu chúng ta can thiệp cho nhân dân Ba Lan đang bị người Đức đàn áp?
- Vâng, thật tội nghiệp. Ông ấy rất lo cho đất nước.
- Còn chúng ta? Chúng ta có chút lo lắng gì dành cho đất nước Ba Lan khốn khổ ấy không?
- Dĩ nhiên là có, Ralph ạ! Nhưng ông ấy không hiểu rằng tình hình gay go như thế nào.
- Đó là sự thật nhưng không ai chịu tin như thế.
- Ralph!
- Có đúng như thế này không! Thời niên thiếu Đức Thánh cha đã trải qua những năm tháng tại Munich và Người đã có một sự say mê đặc biệt dành cho người Đức! Đức Thánh cha đã tiếp tục yêu người Đức dù có xảy ra bất cứ chuyện gì. Ngay cả khi bằng chứng về sự ô nhục do các người bạn của nước Đức gây ra được phơi bày trên những thân thể đáng thương vì bị họ hành hạ, cắt xẻo thì Đức Thánh cha cũng có thể tuyên bố đó là tác phẩm của người Nga; chứ một dân tộc có văn hóa và văn minh đến mức ấy không thể có những hành động khủng khiếp như thế.
- Ralph, chỉ có một lời tố giác của chúng ta về những gì xảy ra ở Ba Lan là Adolf Hitler sẽ đè bẹp chúng ta ngay - Sự can thiệp của ta sẽ mang lại lợi lộc gì hở ông bạn? Chúng ta không có quân đội. Các cuộc trả thù sẽ diễn ra tức khắc và Đức Thánh cha sẽ bị đưa đi Berlin, đó là điều mà Đức Thánh cha lo ngại. Ông bạn có nhớ Giáo hoàng bù nhìn ở Avignon cách đây vài thế kỷ ông bạn có muốn thấy Giáo hoàng của chúng ta bị biến thành bù nhìn ở Berlin?
- Con rất buồn, Vittorio ạ. Nhưng con không nhìn các sự kiện dước góc cạnh ấy. Con cho rằng chúng ta phải tố giác các thủ đoạn của Hitler trước thế giới, công bố những hành động dã man, hét to lên cho mọi người biết! Nếu hắn xử bắn chúng ta, chúng ta sẽ chết như những người tử vì đạo và sự hy sinh của chúng ta càng có kết quả.
- Ông bạn Ralph thân mến, nên tỏ ra sáng suốt hơn một chút! Không có vần đề xử bắn chúng ta. Hitler cũng thừa hiểu rằng sẽ không chính trị chút nào nếu biến chúng ta thành những người tử vì đạo. Đức Thánh cha sẽ bị đưa đi Berlin, còn chúng ta sẽ được bí mật đưa đi Ba Lan. Đi Ba Lan, Ralph! ông bạn có muốn chết ở Ba Lan không? Điều đó có ích gì so với việc tiếp tục ở lại đây hiện nay?
Tổng giám mục De Bricassart ngồi xuống, hai bàn tay siết chặt nhau đặt trên đầu gối, ném một tia nhìn tức giận ra hướng cửa sổ. Phía ngoài những con chim bồ câu bay qua bay lại dưới ánh nắng màu vàng rực rỡ của trời chiều. Vào tuổi bốn mươi bảy, Ralph vẫn tráng kiện hơn lúc nào hết.
- Ralph, chúng ta vẫn là chúng ta, vẫn là những con người, nhưng đó là thứ yếu. Trước hết, chúng ta là những tu sĩ.
- Đức cha đã không sắp xếp một thứ tự ưu tiên như thế trước đây khi con trở lại Úc.
- Thời kỳ ấy, cha đứng trên bình diện khác và con dư biết điều ấy. Con có đầu óc thích chống chế! Trong tình hình hiện nay, không thể nào suy nghĩ với tư cách con người, chúng ta phải suy nghĩ với tư cách tu sĩ vì rằng đó là mặt chính của cuộc sống chúng ta. Dù cho chúng ta có suy nghĩ gì và dù chúng ta có muốn hành động như thế nào với tư cách con người chúng ta vẫn buộc phải trung thành với Giáo hội chứ không phải với một quyền hành thế tục! Chúng ta buộc phải trung thành duy nhất với Giáo hội! Con đã có lời khấn phục tùng, Ralph. Hay con lại định vi phạm lần nữa? Đức Thánh cha không thể sai lầm khi hành động vì quyền lợi của Giáo hội.
- Đức Thánh cha đã sai lầm! Sự đánh giá của Người có thiên vị. Đức Thánh cha đã tập trung tất cả sức lực cho cuộc đấu tranh chống cộng sản. Đức Thánh cha coi nước Đức như là đối thủ có tầm cỡ nhất để chống lại chủ thuyết ấy; và Người đã nhìn nước Đức như cường quốc duy nhất có khả năng ngăn chặn ảnh hưởng cộng sản đối với phương Tây. Đức Thánh cha mong muốn Hitler ngồi vững trong địa vị của hắn, cũng như Đức Thánh cha hài lòng khi nhìn thấy Mussolini ngự trị ở Ã.
- Hãy tin cha, Ralph à, còn nhiều điều con không biết hết. Là Giáo hoàng, Đức Thánh cha không thể sai lầm. Nếu con hoài nghi thì coi như con đã từ bỏ đức tin của mình rồi đó.
Tối hôm ấy, Tổng giám mục De Bricassart cảm thấy mệt mỏi và căng thẳng. Theo ông, Giáo hội không có hành động cụ thể nào khả dĩ đóng góp vào việc chấm dứt chiến tranh; vai trò của riêng ông thì giới hạn trong việc can thiệp nhằm cứu vài bức tượng và tác phẩm nghệ thuật; do đó Ralph oán ghét sự an phận của Vatican. Mặc dù Ralph có phần nào bảo thủ nhưng sự dè vặt và nhút nhát quá mức của các chức sắc cao cấp bên cạnh Giáo hoàng vẫn gây cho ông một sự bực bội nặng nề.
Chương 34
Tổng giám mục De Bricassart đi xuống ngả cầu thang riêng của giáo đường Thánh Pierre, ngả mà trước đó ông đã đi vào. Đột ngột nghe có tiếng ai đó thở hổn hển, ông chiếu thẳng chiếc đèn pin về hướng đó. ánh sáng làm lộ ra tác phẩm điêu khắc đẹp nhất: tượng Đức bà đau khổ của Michel Ange. Nhưng ở dưới gương mặt bất động ấy có một gương mặt khác, không phải bằng đá hoa nhưng bằng xương bằng thịt, nổi bật giữa bóng đêm như một chiếc đầu lâu.
Tổng giám mục mỉm cười gọi khẽ bằng tiếng Đức, không có tiếng trả lời nhưng ông nhìn kỹ thấy bộ quân phục binh nhì linh bộ binh Đức.
- Wie geht'' s - ông hỏi vẫn với nụ cười.
Người lạ mặt hơi giật mình, bước ra khỏi bóng tối. Trên vầng trán thông minh có những giọt mồ hôi.
- Du bist brank? Tổng giám mục lại hỏi anh thanh niên có phải bị bệnh không?
Có tiếng trả lời:
- Nein (không).
Tổng giám mục De Bricassart đặt cây đèn pin xuống đất và tiến đến gần, ông đưa tay nâng nhẹ cằm của người lính lên để nhìn rõ đôi mắt u buồn của anh tạ
- Có chuyện gì? ông hỏi bằng tiếng Đức.
- Con đến để cầu nguyện, anh thanh niên giải thích bằng một giọng nói vùng Bavarian hơi nặng.
- Thế thì chuyện gì đã xảy ra? Có phải anh bị kẹt trong này khi Nhà thờ đóng cửa?
- Vâng, nhưng không phải điều đó làm con lo.
Tổng giám mục cúi xuống cầm đèn lên.
- Dù sao anh cũng không thể ở ngoài này suốt đêm và tôi cũng có chìa khóa cổng. Tình cờ tôi đến đây cũng để cầu nguyện. Bộ chỉ huy tối cao của anh đã dành cho tôi một ngày thật gay go. Đi ngõ này, đúng. Hy vọng rằng những người canh gác sẽ không hiểu lầm rằng tôi đã bị bắt giữ và họ sẽ nhận ra chính tôi hộ tống anh chứ không phải anh hộ tống tôi.
Cuối cùng, Tổng giám mục đưa người thanh niên vào một phòng tiếp khách nhỏ bày diện rất giản dị. Ông chỉ bật sáng một bóng đèn nhỏ và đóng cửa lại.
Hai người nhìn nhau. Anh lính Đức nhìn thấy một người đàn ông cao lớn, gương mặt thanh tú, mắt xanh và sắc. Tổng giám mục nhìn thấy một cậu bé lỏng thỏng trong bộ quân phục mà cả châu Âu đã bắt đầu khiếp sợ. Đúng là một cậu bé, chắc chắn không quá mười sáu tuổi. Chiều cao trung bình, dáng người mảnh khảnh, hai cánh tay rất dài.
- Anh ngồi xuống đi, ông vừa nói vừa đi đến chiếc tủ nhỏ lấy ra chai rượu vang trắng Marsala.
Tổng giám mục rót rượu vào hai ly, trao cho anh thanh niên một, rồi ông ngả lưng vào chiếc ghế bành trong tư thế có thể quan sát thoải mái nét mặt có sức thu hút của người khách.
- Nước Đức chẳng lẽ bắt buộc phải động viên cả những trẻ con? ông vừa nói vừa ghác chéo hai chân.
- Con không biết, cậu trai trả lời. Con đang ở trong cô nhi viện và con muốn ra khỏi nơi đó bằng mọi cách.
- Con tên gì?
- Rainer Moerling Hartheim, anh thanh niên trả lời không giấu vẻ tự hào.
- Thật là một cái tên đẹp tuyệt, vị tu sĩ nhận xét nghiêm trang.
- Thưa, đẹp thật sự phải không? Chính con đã chọn cái tên ấy. Ở cô nhi viện người ta gọi con là Rainer Schmidt nhưng khi con bị động viên, con đã đổi tên ấy bằng một cái tên mà con vẫn ao ước.
- Cha mẹ con đều mất?
- Các dì phước gọi con là đứa con của tình yêu.
Tổng giám mục cố nín cười. Cậu trai tỏ ra có phẩm cách và tự tin sau khi sự sợ hãi không còn thấy trên gương mặt. Thế thì lúc nãy, cậu ta sợ hãi điều gì?
- Tại sao lúc nãy con tỏ ra quá sợ hãi, Rainer?
Anh lính trẻ hớp một ngụm rượu, rồi ngước mặt nhìn lên với vẻ hài lòng.
- Ngon tuyệt. Rượu rất dịu. Con muốn được nhìn tận mắt Giáo đường Thánh Pierre vì rằng các dì phước đã nhắc đến luôn và cho xem nhiều ảnh. Vì vậy khi con được đưa sang La Mã con rất vui mừng. Chúng con vừa đến buổi sáng, liền sau đó con tìm cách đến đây. Nhưng con đã thất vọng. Con tưởng sẽ cảm thấy gần gũi với Chúa hơn trong chính Nhà thờ của Chúa; trái lại ở đây quá to lớn và lạnh lẽo. Con không cảm nhận được sự hiện diện của Chúa.
Tổng giám mục cười.
- Ta hiểu con muốn nói gì - Nhưng Giáo đường Thánh Pierre không phải là một Nhà thờ đúng nghĩa của nó. Giáo đường Thánh Pierre là Giáo hội. Chính ta cũng phải trải qua một thời gian khá lâu để tập cho mình quen với suy nghĩ đó.
- Con muốn cầu nguyện hai điều.
- Về những điều làm con sợ hãi?
- Dạ. Con nghĩ rằng chỉ riêng việc con được ở trong Giáo đường này cũng đã có thể giúp con.
- Nhưng điều gì làm cho con sợ hãi, Rainer?
- Người ta đã phát hiện con là người Do Thái và đơn vị của con rồi sẽ bị gởi sang mặt trận Nga.
- Ta hiểu và không ngạc nhiên về sự sợ hãi của con. Có cái gì cụ thể để người ta tố cáo con là người Do Thái?
- Đức cha cứ nhìn con! Cậu con trai trả lời đơn giản. Vào lúc con đăng ký vào quân đội, khi làm lý lịch của con, họ có nói cần phải kiểm tra lại. Con không đoán được họ có khả năng làm việc đó hay không, nhưng con đặt giả thiết các dì phước biết rất nhiều so với những điều các dì nói với con.
- Con hãy nói cho ta biết về con, Rainer.
Trên gương mặt trẻ trung ấy hiện lên một nét tự hào lạ lùng.
- Con là người Đức và công giáo. Con mong muốn nước Đức trở thành một nước mà các vấn đề chủng tộc và tôn giáo không đưa đến những sự ngược đãi và đàn áp Con sẽ hiến cuộc đời con cho mục đích ấy... nếu con còn sống.
- Ta sẽ cầu nguyện cho con... để cho con vẫn sống và đạt mục đích đời con.
Hai người nói chuyện với nhau đến khi bình minh nhuộm hồng những vòm gác chuông nhà thờ và những tiếng xào xạc của cánh chim bồ câu nghe vọng lại từ bên ngoài cửa sổ.
... Ngày 5 tháng 9 năm 1943, sư đoàn 9 của Úc đổ bộ lên đảo New Guinea. Mười lăm ngày sau, nơi sư đoàn này đến đóng - phía đông đảo thuộc vùng Lae - không còn một tên lính Nhật. Jims và Patsy dạo chơi trên một đồng cỏ cao gợi cho hai anh em nhớ Drogeda.
- Chúng mình sắp sửa được về nhà, Patsy. Bọn Nhật đã rút chạy. Trở về nhà Patsy ạ. Trở về Drogheda, anh sốt ruột quá. Jims xúc động nói.
- Đúng vậy, Patsy đáp lại.
Cười vui, Patsy chạy rượt đuổi theo một con vẹt, tay cầm nón đưa ra phía trước như thể anh tin chắc rằng mình sẽ túm được nó. Jims nhìn theo em mỉm cười.
Patsy chạy được khoảng hai mươi mét thì một loạt đạn đại liên nổ dòn, làm tung lên đám cỏ xung quanh. Jims nhìn thấy em mình hai tay đưa lên, thân người quay tròn. Từ ngang bụng xuống đầu gối đầy máu; sự sống như đang buông khỏi Patsy.
- Patsy! Patsy! Jims hét lên.
Anh cảm thấy như chính da thịt mình đón nhận những viên đạn ấy; anh tưởng như mình đang hấp hối và sắp chết. Anh vạch cỏ định lao tới tìm em mình nhưng sự thận trọng của người lính kịp ngăn anh lại. Jims lao đầu xuống cỏ đúng khoảnh khắc một tràng đạn thứ hai nổ dòn.
- Patsy! Patsy! Có sao không? Jims hỏi to một cách ngớ ngẩn vì rằng chính mắt anh đã thấy người Patsy đầy máu.
Thế mà, ngoài sự chờ đợi của Jims, vọng lại một tiếng trả lời khẽ.
- Không sao.
Từng phân một, Jims trườn trên cỏ, hướng tới phía trước, mùi cỏ thơm ngát, tai lắng nghe mọi động tĩnh, tiếng gió và tiếng xào xạc mỗi khi anh chuyển mình. Khi Jims tới chỗ của em mình, anh ngả đầu lên vai trần của Patsy và khóc.
- Ồ, anh đừng khóc, Patsy nói. Em có chết đâu!
Patsy kéo cái quần ngắn ướt đẫm máu xuống để lộ da thịt bị nát, đỏ tươi và run rẩy.
Bấy giờ đã có nhiều người xuất hiện và vây quanh, kể cả những đấu thủ đánh cầu còn mang găng tay và miếng lót bảo vệ ống quyển. Một người chạy đi tìm băng ca và số người còn lại tiến lên để dập tắt họng súng máy đặt bên kia bìa rừng. Cuộc săn tìm để diệt trừ ổ súng diễn ra đầy phẫn nộ vì mọi người đều yêu thương Patsy.
- Patsy may mắn vô cùng, viên sĩ nói với Jims. Cậu ta hứng ít nhất cũng một chục viên đạn nhưng phần nhiều trúng đùi. Theo xét đoán của tôi, ruột còn nguyên vẹn, bọng [em xin lỗi, em là người chửi bậy] cũng thế... Chỉ có...
- Sao? Jims sốt ruột hỏi, người run lên, môi tím lại vì mím chặt.
- Bây giờ thì hơi quá sớm để kết luận. Tôi không phải là một nhà giải phẫu tài năng như một vài tay sừng sỏ ở Moresby. Những bậc ấy có thể nói rõ hơn với bạn, nhưng ống [em xin lỗi, em là người chửi bậy] đã bị tổn thương cùng rất nhiều dây thần kinh li ti ở vùng xương chậu. Tôi tin chắc rằng có thể lành lặn tất cả nhưng có một số dây thần kinh không còn sử dụng được nữa. Điều mà tôi muốn nói với anh là rất có thể Patsy không còn cảm giác ở vùng bộ phận sinh dục.
Jims cúi đầu nhìn xuống đất qua màn nước mắt.
- Cái chính là Patsy vẫn còn sống, anh nói.
Tại cảng Moresby, sự đánh giá của viên y sĩ sư đoàn 9 về tình trạng của Patsy được xác nhận đúng.
- Chẳng quan trọng gì - Patsy nằm trên băng ca nói với Jims giữa lúc cậu ta được đưa lên máy bay về Sydney - Dù sự thể có thế nào, thật ra em cũng không thích các cô gái . Anh ở lại nhớ thận trọng hơn lúc nào hết, Jims. Em rất buồn khi phải xa anh.
- Không sao đâu, anh sẽ rất cẩn thận - Jims nói cho Patsy yên tâm và siết bàn tay của em mình - Em có biết không tiếp tục chiến đấu mà không có người bạn thân chí cốt thì... Anh sẽ viết thư kể cho em nghe những gì xảy ra ở đây. Em hãy hôn mẹ, Meggie, bà Smith và cho anh gởi lời thăm bạn bè. Dù sao em vẫn được may mắn sớm trở về Drogheda.
Fiona và bà Smith đến Sydney bằng máy bay để kịp đón Patsy từ Townsville đến. Fiona chỉ ở lại Sydney vài ngày còn bà Smith phải thuê phòng ở khách sạn Rankwick gần quân y viện Hoàng tử Xứ Wales. Patsy tiếp tục chữa trị tại đây trong ba tháng. Sự nghiệp trong quân đội của anh đến đây coi như chấm dứt.
Khi Patsy được phép rời quân y viện, Meggie lái chiếc Rolls đến rước. Meggie và bà Smith dìu Patsy ngồi băng sau có sẵn chăn mền và sách báo. Bây giờ gia đình Cleary lại cầu nguyện Chúa ban cho họ một đặc ân khác: sự trở về của Jims.
Ngày Giáng Sinh năm 1941, Hồng Kông thất thủ. Sau đó, tin quân Nhật đã đổ bộ lên Mã Lai và Phi Luật Tân. Rồi ngày 8 tháng 7 năm 1942, quân Nhật vượt qua eo biển Johore, đặt chân liên phía bắc Singabore và chiếm thành phố này không tốn một viên đạn.
Đến đây, thủ tướng Úc Curtin, bất chấp sự nổi giận của thủ tướng Anh Churchill, đòi rút tất cả lực lượng của Úc ở Bắc châu Phi về nước. Ông tuyên bố đã đến lúc nước Úc cần những đứa con của mình để bảo vệ quê hương. Tin này mang lại cho Fiona hy vọng sớm gặp lại hai đứa con trai út của bà. Nhưng thật không may, tình hình ở Bắc Phi bỗng xấu đi, cuối cùng sư đoàn của Úc bị kẹt lại không thể rút ngay. Điều bất ngờ là với một lực lượng huấn luyện chưa tốt, trang bị thiếu thốn, nhưng sư đoàn 9 Úc đã hai lần đối đầu thành công trước lực lượng hùng hổ của Rommel. Cuối năm 1942, sư đoàn 9 Úc được gọi về, chuẩn bị sang Tân Guinee đối đầu với bọn Nhật. Jims và Patsy trở về nước bình yên. Dĩ nhiên là hai anh em được phép về thăm Drogheda. Bob ra ga đón Jims và Patsy. Khi chiếc xe Rolls tiến vào trong sân nhà thì mọi phụ nữ trong trang trại đều có mặt, Jack và Hughie đứng hơi tụt đằng sau. Hôm nay là ngày lễ, dù cho tất cả cừu ở Drogheda ngã lăn ra chết cũng mặc kệ.
Xe đã dừng lại rồi nhưng vẫn không có một ai nhúc nhích, đến khi hai anh em song sinh từ trên xe bước xuống mọi người vẫn đứng yên. Hai năm sống trên sa mạc đã thay đổi hẳn Jims và Patsy. Cả hai cao hơn các anh một cái đầu, không còn là những chàng trai vị thành niên nữa, Jims và Patsy đã trở thành những người đàn ông; nhưng là những người đàn ông không giống cái kiểu Bob, Jack và Hughie. Thử thách về nhiều mặt, hưng phấn của chiến trường, với những cái chết bi thảm được chứng kiến đã biến Jims và Patsy thành những con người mà Drogheda không thể nào tạo nên được.
- Con trai của mẹ! Các con trai của mẹ! Bà Fiona gọi to lên, mặt đầy nước mắt chạy đến ôm hai con.
Bất cần chúng đã làm gì, chúng đã thay đổi đến đâu, chúng vẫn là những đứa con nhỏ bé mà bà đã tắm rửa, thay tã, đút ăn, mà bà đã dỗ dành khi chúng khóc, ôm ấp khi chúng về nhà mang những thương tích. Nhưng những thương tích hằn lên chúng bây giờ đã vượt khỏi khả năng chăm sóc của bà.
Drogheda đã mở tiệc khoản đãi Jims và Patsy. Có điều rất lạ là cả hai rất thích kể chuyện hàng giờ về Bắc Phi, về cách ăn ở những nơi mà chúng đã đặt chân đến, về viện bảo tàng ở Cairo, về cuộc sống trong quân ngũ nhưng tuyệt đối không đề cập đến những trận đánh nhau. Bất đắc dĩ cả hai mới trả lời qua loa về những trận ác liệt diễn ra tại Gazala, Benghazi, Tobruk, El Alamein. Các bà các cô quây quanh hai người anh hùng của dòng họ Cleary nhưng cả hai đều tìm cách lẩn trốn, sợ hãi hơn cả khi ra trận.
Meggie rất vui thấy Jims và Patsy đùa chơi hàng giờ với Dane. Còn Justine, chúng tỏ ra rụt rè và vụng về cũng như khi đối đầu với phái nữ nói chung.
Jims theo dõi chị mình đang nhìn âu yếm Dane. Thằng bé cười như pháo nổ vì Patsy đang đùa với nó.
- Chị đừng bao giờ để nó rời khỏi Drogheda. Jims nói thấp giọng. Ở Drogheda, nó sẽ có một cuộc sống bình yên, không thể xảy ra điều gì bất hạnh cho nó.
Chương 33
Tổng giám mục Ralph vội vã đi dọc dãy hành lang cao và lộng lẫy dường như không chú ý đến những ánh mắt ngạc nhiên quay về hướng ông. Ralph xuất hiện đột ngột trong phòng tiếp khách của Hồng Y và đứng sựng lại. Đức cha đang tiếp ông Papee, đại sứ của chính phủ Ba Lan lưu vong đặt bên cạnh Tòa thánh.
- Ồ, Ralph! Có chuyện gì thế?
- Xong rồi, Vittorio Mussolini đã bị lật đổ.
- Lạy Chúa! Đức Thánh cha đã hay tin chưa?
- Chính con đã gọi điện đến Castel Gandolfo nhưng trong chốc lát đài phát thanh sẽ loan tin. Con biết trước là nhờ một người bạn ở tổng hành dinh Đức cho hay.
Ông Papee đứng lên.
- Con xin phép được kiếu từ, thưa Đức cha. Con đại diện cho một chính phủ thù nghịch với nước Đức. Nếu Đức Thánh cha không an toàn thì con cũng sẽ lâm vào tình cảnh ấy. Con cần phải thu xếp gấp các tài liệu trong văn phòng của con.
Ăn nói thận trọng, lời lẽ chính xác, đúng là một nhà ngoại giao từ đầu đến chân, Papee chào hai vị chức sắc của tòa thánh rồi ra về.
- Có phải ông ấy đã đến đây để yêu cầu chúng ta can thiệp cho nhân dân Ba Lan đang bị người Đức đàn áp?
- Vâng, thật tội nghiệp. Ông ấy rất lo cho đất nước.
- Còn chúng ta? Chúng ta có chút lo lắng gì dành cho đất nước Ba Lan khốn khổ ấy không?
- Dĩ nhiên là có, Ralph ạ! Nhưng ông ấy không hiểu rằng tình hình gay go như thế nào.
- Đó là sự thật nhưng không ai chịu tin như thế.
- Ralph!
- Có đúng như thế này không! Thời niên thiếu Đức Thánh cha đã trải qua những năm tháng tại Munich và Người đã có một sự say mê đặc biệt dành cho người Đức! Đức Thánh cha đã tiếp tục yêu người Đức dù có xảy ra bất cứ chuyện gì. Ngay cả khi bằng chứng về sự ô nhục do các người bạn của nước Đức gây ra được phơi bày trên những thân thể đáng thương vì bị họ hành hạ, cắt xẻo thì Đức Thánh cha cũng có thể tuyên bố đó là tác phẩm của người Nga; chứ một dân tộc có văn hóa và văn minh đến mức ấy không thể có những hành động khủng khiếp như thế.
- Ralph, chỉ có một lời tố giác của chúng ta về những gì xảy ra ở Ba Lan là Adolf Hitler sẽ đè bẹp chúng ta ngay - Sự can thiệp của ta sẽ mang lại lợi lộc gì hở ông bạn? Chúng ta không có quân đội. Các cuộc trả thù sẽ diễn ra tức khắc và Đức Thánh cha sẽ bị đưa đi Berlin, đó là điều mà Đức Thánh cha lo ngại. Ông bạn có nhớ Giáo hoàng bù nhìn ở Avignon cách đây vài thế kỷ ông bạn có muốn thấy Giáo hoàng của chúng ta bị biến thành bù nhìn ở Berlin?
- Con rất buồn, Vittorio ạ. Nhưng con không nhìn các sự kiện dước góc cạnh ấy. Con cho rằng chúng ta phải tố giác các thủ đoạn của Hitler trước thế giới, công bố những hành động dã man, hét to lên cho mọi người biết! Nếu hắn xử bắn chúng ta, chúng ta sẽ chết như những người tử vì đạo và sự hy sinh của chúng ta càng có kết quả.
- Ông bạn Ralph thân mến, nên tỏ ra sáng suốt hơn một chút! Không có vần đề xử bắn chúng ta. Hitler cũng thừa hiểu rằng sẽ không chính trị chút nào nếu biến chúng ta thành những người tử vì đạo. Đức Thánh cha sẽ bị đưa đi Berlin, còn chúng ta sẽ được bí mật đưa đi Ba Lan. Đi Ba Lan, Ralph! ông bạn có muốn chết ở Ba Lan không? Điều đó có ích gì so với việc tiếp tục ở lại đây hiện nay?
Tổng giám mục De Bricassart ngồi xuống, hai bàn tay siết chặt nhau đặt trên đầu gối, ném một tia nhìn tức giận ra hướng cửa sổ. Phía ngoài những con chim bồ câu bay qua bay lại dưới ánh nắng màu vàng rực rỡ của trời chiều. Vào tuổi bốn mươi bảy, Ralph vẫn tráng kiện hơn lúc nào hết.
- Ralph, chúng ta vẫn là chúng ta, vẫn là những con người, nhưng đó là thứ yếu. Trước hết, chúng ta là những tu sĩ.
- Đức cha đã không sắp xếp một thứ tự ưu tiên như thế trước đây khi con trở lại Úc.
- Thời kỳ ấy, cha đứng trên bình diện khác và con dư biết điều ấy. Con có đầu óc thích chống chế! Trong tình hình hiện nay, không thể nào suy nghĩ với tư cách con người, chúng ta phải suy nghĩ với tư cách tu sĩ vì rằng đó là mặt chính của cuộc sống chúng ta. Dù cho chúng ta có suy nghĩ gì và dù chúng ta có muốn hành động như thế nào với tư cách con người chúng ta vẫn buộc phải trung thành với Giáo hội chứ không phải với một quyền hành thế tục! Chúng ta buộc phải trung thành duy nhất với Giáo hội! Con đã có lời khấn phục tùng, Ralph. Hay con lại định vi phạm lần nữa? Đức Thánh cha không thể sai lầm khi hành động vì quyền lợi của Giáo hội.
- Đức Thánh cha đã sai lầm! Sự đánh giá của Người có thiên vị. Đức Thánh cha đã tập trung tất cả sức lực cho cuộc đấu tranh chống cộng sản. Đức Thánh cha coi nước Đức như là đối thủ có tầm cỡ nhất để chống lại chủ thuyết ấy; và Người đã nhìn nước Đức như cường quốc duy nhất có khả năng ngăn chặn ảnh hưởng cộng sản đối với phương Tây. Đức Thánh cha mong muốn Hitler ngồi vững trong địa vị của hắn, cũng như Đức Thánh cha hài lòng khi nhìn thấy Mussolini ngự trị ở Ã.
- Hãy tin cha, Ralph à, còn nhiều điều con không biết hết. Là Giáo hoàng, Đức Thánh cha không thể sai lầm. Nếu con hoài nghi thì coi như con đã từ bỏ đức tin của mình rồi đó.
Tối hôm ấy, Tổng giám mục De Bricassart cảm thấy mệt mỏi và căng thẳng. Theo ông, Giáo hội không có hành động cụ thể nào khả dĩ đóng góp vào việc chấm dứt chiến tranh; vai trò của riêng ông thì giới hạn trong việc can thiệp nhằm cứu vài bức tượng và tác phẩm nghệ thuật; do đó Ralph oán ghét sự an phận của Vatican. Mặc dù Ralph có phần nào bảo thủ nhưng sự dè vặt và nhút nhát quá mức của các chức sắc cao cấp bên cạnh Giáo hoàng vẫn gây cho ông một sự bực bội nặng nề.
Chương 34
Tổng giám mục De Bricassart đi xuống ngả cầu thang riêng của giáo đường Thánh Pierre, ngả mà trước đó ông đã đi vào. Đột ngột nghe có tiếng ai đó thở hổn hển, ông chiếu thẳng chiếc đèn pin về hướng đó. ánh sáng làm lộ ra tác phẩm điêu khắc đẹp nhất: tượng Đức bà đau khổ của Michel Ange. Nhưng ở dưới gương mặt bất động ấy có một gương mặt khác, không phải bằng đá hoa nhưng bằng xương bằng thịt, nổi bật giữa bóng đêm như một chiếc đầu lâu.
Tổng giám mục mỉm cười gọi khẽ bằng tiếng Đức, không có tiếng trả lời nhưng ông nhìn kỹ thấy bộ quân phục binh nhì linh bộ binh Đức.
- Wie geht'' s - ông hỏi vẫn với nụ cười.
Người lạ mặt hơi giật mình, bước ra khỏi bóng tối. Trên vầng trán thông minh có những giọt mồ hôi.
- Du bist brank? Tổng giám mục lại hỏi anh thanh niên có phải bị bệnh không?
Có tiếng trả lời:
- Nein (không).
Tổng giám mục De Bricassart đặt cây đèn pin xuống đất và tiến đến gần, ông đưa tay nâng nhẹ cằm của người lính lên để nhìn rõ đôi mắt u buồn của anh tạ
- Có chuyện gì? ông hỏi bằng tiếng Đức.
- Con đến để cầu nguyện, anh thanh niên giải thích bằng một giọng nói vùng Bavarian hơi nặng.
- Thế thì chuyện gì đã xảy ra? Có phải anh bị kẹt trong này khi Nhà thờ đóng cửa?
- Vâng, nhưng không phải điều đó làm con lo.
Tổng giám mục cúi xuống cầm đèn lên.
- Dù sao anh cũng không thể ở ngoài này suốt đêm và tôi cũng có chìa khóa cổng. Tình cờ tôi đến đây cũng để cầu nguyện. Bộ chỉ huy tối cao của anh đã dành cho tôi một ngày thật gay go. Đi ngõ này, đúng. Hy vọng rằng những người canh gác sẽ không hiểu lầm rằng tôi đã bị bắt giữ và họ sẽ nhận ra chính tôi hộ tống anh chứ không phải anh hộ tống tôi.
Cuối cùng, Tổng giám mục đưa người thanh niên vào một phòng tiếp khách nhỏ bày diện rất giản dị. Ông chỉ bật sáng một bóng đèn nhỏ và đóng cửa lại.
Hai người nhìn nhau. Anh lính Đức nhìn thấy một người đàn ông cao lớn, gương mặt thanh tú, mắt xanh và sắc. Tổng giám mục nhìn thấy một cậu bé lỏng thỏng trong bộ quân phục mà cả châu Âu đã bắt đầu khiếp sợ. Đúng là một cậu bé, chắc chắn không quá mười sáu tuổi. Chiều cao trung bình, dáng người mảnh khảnh, hai cánh tay rất dài.
- Anh ngồi xuống đi, ông vừa nói vừa đi đến chiếc tủ nhỏ lấy ra chai rượu vang trắng Marsala.
Tổng giám mục rót rượu vào hai ly, trao cho anh thanh niên một, rồi ông ngả lưng vào chiếc ghế bành trong tư thế có thể quan sát thoải mái nét mặt có sức thu hút của người khách.
- Nước Đức chẳng lẽ bắt buộc phải động viên cả những trẻ con? ông vừa nói vừa ghác chéo hai chân.
- Con không biết, cậu trai trả lời. Con đang ở trong cô nhi viện và con muốn ra khỏi nơi đó bằng mọi cách.
- Con tên gì?
- Rainer Moerling Hartheim, anh thanh niên trả lời không giấu vẻ tự hào.
- Thật là một cái tên đẹp tuyệt, vị tu sĩ nhận xét nghiêm trang.
- Thưa, đẹp thật sự phải không? Chính con đã chọn cái tên ấy. Ở cô nhi viện người ta gọi con là Rainer Schmidt nhưng khi con bị động viên, con đã đổi tên ấy bằng một cái tên mà con vẫn ao ước.
- Cha mẹ con đều mất?
- Các dì phước gọi con là đứa con của tình yêu.
Tổng giám mục cố nín cười. Cậu trai tỏ ra có phẩm cách và tự tin sau khi sự sợ hãi không còn thấy trên gương mặt. Thế thì lúc nãy, cậu ta sợ hãi điều gì?
- Tại sao lúc nãy con tỏ ra quá sợ hãi, Rainer?
Anh lính trẻ hớp một ngụm rượu, rồi ngước mặt nhìn lên với vẻ hài lòng.
- Ngon tuyệt. Rượu rất dịu. Con muốn được nhìn tận mắt Giáo đường Thánh Pierre vì rằng các dì phước đã nhắc đến luôn và cho xem nhiều ảnh. Vì vậy khi con được đưa sang La Mã con rất vui mừng. Chúng con vừa đến buổi sáng, liền sau đó con tìm cách đến đây. Nhưng con đã thất vọng. Con tưởng sẽ cảm thấy gần gũi với Chúa hơn trong chính Nhà thờ của Chúa; trái lại ở đây quá to lớn và lạnh lẽo. Con không cảm nhận được sự hiện diện của Chúa.
Tổng giám mục cười.
- Ta hiểu con muốn nói gì - Nhưng Giáo đường Thánh Pierre không phải là một Nhà thờ đúng nghĩa của nó. Giáo đường Thánh Pierre là Giáo hội. Chính ta cũng phải trải qua một thời gian khá lâu để tập cho mình quen với suy nghĩ đó.
- Con muốn cầu nguyện hai điều.
- Về những điều làm con sợ hãi?
- Dạ. Con nghĩ rằng chỉ riêng việc con được ở trong Giáo đường này cũng đã có thể giúp con.
- Nhưng điều gì làm cho con sợ hãi, Rainer?
- Người ta đã phát hiện con là người Do Thái và đơn vị của con rồi sẽ bị gởi sang mặt trận Nga.
- Ta hiểu và không ngạc nhiên về sự sợ hãi của con. Có cái gì cụ thể để người ta tố cáo con là người Do Thái?
- Đức cha cứ nhìn con! Cậu con trai trả lời đơn giản. Vào lúc con đăng ký vào quân đội, khi làm lý lịch của con, họ có nói cần phải kiểm tra lại. Con không đoán được họ có khả năng làm việc đó hay không, nhưng con đặt giả thiết các dì phước biết rất nhiều so với những điều các dì nói với con.
- Con hãy nói cho ta biết về con, Rainer.
Trên gương mặt trẻ trung ấy hiện lên một nét tự hào lạ lùng.
- Con là người Đức và công giáo. Con mong muốn nước Đức trở thành một nước mà các vấn đề chủng tộc và tôn giáo không đưa đến những sự ngược đãi và đàn áp Con sẽ hiến cuộc đời con cho mục đích ấy... nếu con còn sống.
- Ta sẽ cầu nguyện cho con... để cho con vẫn sống và đạt mục đích đời con.
Hai người nói chuyện với nhau đến khi bình minh nhuộm hồng những vòm gác chuông nhà thờ và những tiếng xào xạc của cánh chim bồ câu nghe vọng lại từ bên ngoài cửa sổ.
... Ngày 5 tháng 9 năm 1943, sư đoàn 9 của Úc đổ bộ lên đảo New Guinea. Mười lăm ngày sau, nơi sư đoàn này đến đóng - phía đông đảo thuộc vùng Lae - không còn một tên lính Nhật. Jims và Patsy dạo chơi trên một đồng cỏ cao gợi cho hai anh em nhớ Drogeda.
- Chúng mình sắp sửa được về nhà, Patsy. Bọn Nhật đã rút chạy. Trở về nhà Patsy ạ. Trở về Drogheda, anh sốt ruột quá. Jims xúc động nói.
- Đúng vậy, Patsy đáp lại.
Cười vui, Patsy chạy rượt đuổi theo một con vẹt, tay cầm nón đưa ra phía trước như thể anh tin chắc rằng mình sẽ túm được nó. Jims nhìn theo em mỉm cười.
Patsy chạy được khoảng hai mươi mét thì một loạt đạn đại liên nổ dòn, làm tung lên đám cỏ xung quanh. Jims nhìn thấy em mình hai tay đưa lên, thân người quay tròn. Từ ngang bụng xuống đầu gối đầy máu; sự sống như đang buông khỏi Patsy.
- Patsy! Patsy! Jims hét lên.
Anh cảm thấy như chính da thịt mình đón nhận những viên đạn ấy; anh tưởng như mình đang hấp hối và sắp chết. Anh vạch cỏ định lao tới tìm em mình nhưng sự thận trọng của người lính kịp ngăn anh lại. Jims lao đầu xuống cỏ đúng khoảnh khắc một tràng đạn thứ hai nổ dòn.
- Patsy! Patsy! Có sao không? Jims hỏi to một cách ngớ ngẩn vì rằng chính mắt anh đã thấy người Patsy đầy máu.
Thế mà, ngoài sự chờ đợi của Jims, vọng lại một tiếng trả lời khẽ.
- Không sao.
Từng phân một, Jims trườn trên cỏ, hướng tới phía trước, mùi cỏ thơm ngát, tai lắng nghe mọi động tĩnh, tiếng gió và tiếng xào xạc mỗi khi anh chuyển mình. Khi Jims tới chỗ của em mình, anh ngả đầu lên vai trần của Patsy và khóc.
- Ồ, anh đừng khóc, Patsy nói. Em có chết đâu!
Patsy kéo cái quần ngắn ướt đẫm máu xuống để lộ da thịt bị nát, đỏ tươi và run rẩy.
Bấy giờ đã có nhiều người xuất hiện và vây quanh, kể cả những đấu thủ đánh cầu còn mang găng tay và miếng lót bảo vệ ống quyển. Một người chạy đi tìm băng ca và số người còn lại tiến lên để dập tắt họng súng máy đặt bên kia bìa rừng. Cuộc săn tìm để diệt trừ ổ súng diễn ra đầy phẫn nộ vì mọi người đều yêu thương Patsy.
- Patsy may mắn vô cùng, viên sĩ nói với Jims. Cậu ta hứng ít nhất cũng một chục viên đạn nhưng phần nhiều trúng đùi. Theo xét đoán của tôi, ruột còn nguyên vẹn, bọng [em xin lỗi, em là người chửi bậy] cũng thế... Chỉ có...
- Sao? Jims sốt ruột hỏi, người run lên, môi tím lại vì mím chặt.
- Bây giờ thì hơi quá sớm để kết luận. Tôi không phải là một nhà giải phẫu tài năng như một vài tay sừng sỏ ở Moresby. Những bậc ấy có thể nói rõ hơn với bạn, nhưng ống [em xin lỗi, em là người chửi bậy] đã bị tổn thương cùng rất nhiều dây thần kinh li ti ở vùng xương chậu. Tôi tin chắc rằng có thể lành lặn tất cả nhưng có một số dây thần kinh không còn sử dụng được nữa. Điều mà tôi muốn nói với anh là rất có thể Patsy không còn cảm giác ở vùng bộ phận sinh dục.
Jims cúi đầu nhìn xuống đất qua màn nước mắt.
- Cái chính là Patsy vẫn còn sống, anh nói.
Tại cảng Moresby, sự đánh giá của viên y sĩ sư đoàn 9 về tình trạng của Patsy được xác nhận đúng.
- Chẳng quan trọng gì - Patsy nằm trên băng ca nói với Jims giữa lúc cậu ta được đưa lên máy bay về Sydney - Dù sự thể có thế nào, thật ra em cũng không thích các cô gái . Anh ở lại nhớ thận trọng hơn lúc nào hết, Jims. Em rất buồn khi phải xa anh.
- Không sao đâu, anh sẽ rất cẩn thận - Jims nói cho Patsy yên tâm và siết bàn tay của em mình - Em có biết không tiếp tục chiến đấu mà không có người bạn thân chí cốt thì... Anh sẽ viết thư kể cho em nghe những gì xảy ra ở đây. Em hãy hôn mẹ, Meggie, bà Smith và cho anh gởi lời thăm bạn bè. Dù sao em vẫn được may mắn sớm trở về Drogheda.
Fiona và bà Smith đến Sydney bằng máy bay để kịp đón Patsy từ Townsville đến. Fiona chỉ ở lại Sydney vài ngày còn bà Smith phải thuê phòng ở khách sạn Rankwick gần quân y viện Hoàng tử Xứ Wales. Patsy tiếp tục chữa trị tại đây trong ba tháng. Sự nghiệp trong quân đội của anh đến đây coi như chấm dứt.
Khi Patsy được phép rời quân y viện, Meggie lái chiếc Rolls đến rước. Meggie và bà Smith dìu Patsy ngồi băng sau có sẵn chăn mền và sách báo. Bây giờ gia đình Cleary lại cầu nguyện Chúa ban cho họ một đặc ân khác: sự trở về của Jims.
Title: Re: Tiếng chim hót trong bụi mận gai (tiếp)
Post by: Serenade24 on 08/05/07, 10:39
Post by: Serenade24 on 08/05/07, 10:39
Chương 35
Phải chờ đến khi đại diện của Hoàng đế Hiro Hito chính thức ký tên đầu hàng thì Gillanbone mới tin chắc chiến tranh đã chấm dứt. Tin vui ấy lan truyền trong ngày chủ nhật 2 tháng 9 năm 1945, đúng sáu năm sau ngày chiến tranh bùng nổ. Sáu năm đầy lo âu, có quá nhiều sự mất mát: Rory, con trai của Dominic O'' Rourke; John, con trai của Horry Hopeton; Cormac, con trai của Eden Carmichael. Đứa con trai út của Ross Mac Queen, Angus, vĩnh viễn không đi được nữa; David; con trai của Anthony King, thì vẫn đi được nhưng không thấy được nó đi đâu; Patsy, con trai của Pađy Cleary sẽ không bao giờ có được con. Và còn những người mà các vết thương không lộ ra nhưng mãi mãi ăn sâu; đó là những người ra đi vui vẻ; hăng hái, hay cười đùa nhưng lặng lẽ trở về, ít nói và nụ cười bỗng nhiên hiếm hoi. Vào cái lúc vừa tuyên chiến, có ai lại nghĩ rằng cuộc xung đột lại kéo dài lâu đến thế và phải trả một cái giá như thế?
... Bob, Jack, Hughie và Patsy trở lại các bãi chăn và lập ra kế hoạch phục hồi đàn súc vật. Meggie biết rằng cuộc sống vất vả trên lưng ngựa sắp chấm dứt vì không bao lâu nữa Jims sẽ trở về và có nhiều người đàn ông đến xin việc.
Một thời gian sau, Meggie nhận được một lá thư nữa của Luke, lá thứ hai từ khi nàng bỏ Luke. Bức thư viết:
Không còn bao lâu nữa, anh tin như vậy. Chỉ một vài năm chặt mía là anh sẽ đạt mục đích. Sau này anh thường đau ở vùng thắt lưng nhưng anh vẫn còn đủ khả năng thi tài với những tay chặt mía giỏi nhất, từ tám đến chín tấn. Arne và anh có mười hai ê-kíp khác làm việc; tất cả đều là những người dũng cảm. Tiền lưu thông dễ dàng hơn, châu Âu cần đường, chúng ta sản xuất bao nhiêu hết bấy nhiêu. Anh làm được hơn năm ngàn bảng mỗi năm và anh đã để dành gần hết. Không còn bao lâu nữa, Meggie, anh sẽ đi Kynuna. Biết đâu khi anh chuẩn bị đủ mọi thứ, em lại muốn trở lại với anh. Có phải là anh đã mang lại cho em thằng bé mà em mong muốn không? Đàn bà thật kỳ lạ, chỉ thích con trai. Có phải chỉ vì thế mà chúng ta xa nhau? Cho anh biết bây giờ em ra sao và Drogheda đã chống lại hạn hán như thế nào. Chúc em mọi sự tốt đẹp. Luke.
Fiona bước ra hiên, nơi Meggie đang ngồi, tay còn cầm lá thư, mắt nhìn lơ đãng những bãi cỏ màu xanh tươi mát.
- Luke thế nào?
- Vẫn thế, thưa mẹ. Không một chút thay đổi. Lại chỉ cần một thời gian chặt mấy cây mía quái quỷ rồi một ngày nào đó anh ấy sẽ mua trang trại gần Kynuna.
- Con có định tìm gặp lại Luke?
- Không bao giờ.
Fiona buông người xuống chiếc ghế bành bằng mây được đặt xích lại để có thể nhìn rõ mặt con gái.
- Meggie, tại sao con không ly dị để lập gia đình thêm lần nữa? Đột ngột Fiona hỏi. Enoch Davies sẵn sàng cưới con ngay; không có một phụ nữ nào thu hút được sự chú ý của Davies ngoài con.
Meggie nhìn mẹ kinh ngạc:
- Lạy Chúa, con có cảm tưởng như mẹ nói chuyện với con một cách... ngang ngửa như thể mẹ nói chuyện với một người đàn bà nào khác cùng trang lứa.
Fiona không cười. Bà rất ít khi cười.
- Này nhé, nếu bây giờ con không là một người đàn bà thì mãi mãi con sẽ không trở thành đàn bà được. Về phần mẹ, mẹ nghĩ con có đủ điều kiện. Rồi đây mẹ sẽ già đi và mẹ thèm được nói chuyện với con.
Meggie cười, vui sướng thấy mẹ mình ở trong một tân trạng như vậy.
- Mưa xuống mẹ ạ. Ồ, thật tuyệt khi nhìn thấy cỏ ở Drogheda lại xanh tươi.
- Đúng rồi. Nhưng con lẩn tránh câu hỏi của mẹ. Tại sao con không ly dị và bước thêm một bước nữa?
- Như thế là đi ngược lại luật của Giáo hội.
- Thật là chuyện không vào đâu cả! Fiona nói lớn. Một nửa con là của mẹ nhưng mẹ không phải là người công giáo. Con đừng nói những chuyện vớ vẩn với mẹ. Meggie à. Nếu quả thật muốn lấy chồng lần nữa thì con đã ly dị với Luke rồi.
- Thưa mẹ đúng thế, rất có thể. Nhưng con không muốn lại lập gia đình, hai đứa nhỏ và Drogheda đã đủ mang lại hạnh phúc cho con rồi.
Đúng lúc đó Justine và Dane xuất hiện. Justine cao và gầy, không đẹp nhưng chỉ cần một lần gặp mặt thôi cũng đã khó quên đôi mắt và tính tình cô bé ấy. Justine đã tám tuổi và người duy nhất thật sự gần gũi với Justine là Dane.
- Dane và Justine rất khác nhau mẹ à, thế mà lại rất hợp nhau, Meggie nhận xét. Con ngạc nhiên về điều ấy. Hình như chưa bao giờ con thấy hai đứa gây gổ và đôi khi con phải tự hỏi làm thế nào mà Dane lại có thể tránh được những lần cãi vã với một đứa bướng bỉnh như Justinẹ
Thế nhưng Fiona lại suy nghĩ khác về Dane:
- Lạy Chúa, đúng là gương mặt của cha nó cắt sang. Vừa nói bà vừa quan sát Dane, cậu bé đang chui vào vòm lá non um tùm của những cây hồ tiêu, rồi sau đó mất dạng.
Dường như có một luồng khi lạnh đột ngột đến với Meggie, nàng không kịp phản ứng trước những nhận xét của Fiona dù rằng nàng đã nghe lặp đi lặp lại câu nói này cả trăm lần suốt những năm qua. Tất nhiên đó là phản ứng mặc cảm tội lỗi. Nhiều người vẫn nói xa nói gần nhưng thế thì đã sao đâu? Giữa Luke và Ralph cũng có những nét giống nhau kia mà. Tuy nhiên, dù cố che giấu thế nào đi nữa, Meggie vẫn không giữ được tự nhiên mỗi khi có ai đó nói về sự giống nhau giữa Dane và cha nó.
Nàng hít một hơi thật sâu rồi tỏ ra tự nhiên:
- Mẹ cũng thấy thế? Nàng hỏi lại, một chân đong đưa có vẻ lơ đễnh. Con thấy chẳng giống bao nhiêu. Dane không có nét gì của Luke kể cả tính tình lẫn vóc dáng.
Fiona cười mũi - một phần vì tuổi tác phần khác đôi mắt của Fiona như mờ đi do ảnh hưởng vởi chứng vẩy cá - nhưng trong cái nhìn hình như có chút gì trêu cợt khiến cho Meggie lúng túng.
- Con tưởng là mẹ ngu đần lắm sao? Mẹ đâu có bảo Dane giống Luke. Mẹ thấy Dane giống Ralph.
Cảm giác nặng trĩu. Đôi chân của Meggie đang đong đưa bỗng nhiên như bị một khối chì kéo xuống và rơi trên nền gạch ô vuông. Người của nàng cũng như thể bị nén lại thành khối, sức nặng ngàn cân cột chặt. Hãy đập đi chứ trái tim của ta, Chúa ơi! Hãy tiếp tục đập! Vì con trai ta, mi hãy tiếp tục đập đi.
- Nhưng, mẹ à! Meggie chỉ mấp máy được một hai tiếng, bằng thứ âm thanh thật nặng nề. Nhưng, mẹ à, mẹ nói thật là kỳ quặc! Sao mẹ lại nhắc đến tên Ralph vào đây?
- Con quen tất cả mấy người mang cái tên ấy đâu? Luke chưa bao giờ có con trai với con. Dane là con của Ralph. Mẹ đã biết điều đó ngay giây phút đầu tiên Dane chào đời.
- Thế thì... tại sao lâu nay mẹ vẫn không nói gì hết? Tại sao mẹ chờ cho Dane được bảy tuổi mới kết án con một cách vô lý và hoàn toàn thiếu chứng cớ như vậy?
Fiona duỗi thẳng người, đặt hai bàn chân tréo vào nhau.
- Bây giờ mẹ đã già rồi, Meggie ạ, và những điều mẹ nghĩ nay cũng làm cho mẹ đau lòng. Tuổi già đúng là một ân huệ! Mẹ sung sướng được thấy Drogheda hồi sinh. Có lẽ vì thế mà mẹ cảm thấy mạnh khỏe hơn. Lần đầu tiên trong nhiều năm, mẹ muốn được nói chuyện...
- Đúng là khi mẹ quyết định nói điều gì đó mẹ có cả một nghệ thuật để chọn lựa đề tài! Meggie nói bằng một giọng run run gần như tuyệt vọng mà vẫn chưa biết Fiona sẽ đưa câu chuyện đến đâu, tra tấn tinh thần hay sẽ thương hại mình?
Có vẻ như tình cờ, bàn tay Fiona đưa lên rồi đặt nhẹ xuống đầu gối của Meggie. Bà mỉm cười - không hề tỏ ra chua cay hay khinh bỉ mà với một sự cảm thông kỳ lạ.
- Con không nên nói dối với mẹ, Meggie ạ! Con có thể nói dối với bất cứ ai, nhưng không nên làm như thế với mẹ. Con không có cách nào để thuyết phục được mẹ tin rằng Luke là cha của Dane. Mẹ không ngu đâu, mẹ có mắt. Rõ ràng không thể tìm thấy một nét nào của Luke ở thằng bé ấy. Không có gì cả vì làm sao có được khi Dane chính là hình ảnh của Ralph. Con nhìn xem, hai bàn tay, mớ tóc với những lọn quăn rơi xuống trán, hình dáng, gương mặt, chân mày, cái miệng nữa. Ngay cả dáng đi cũng thế. Ralph chớ còn ai vào đây.
Meggie đành chịu thua nhưng đồng thời nàng cảm giác như vừa trút được gánh nặng, bây giờ Meggie thấy hết sức nhẹ nhàng và dễ chịu.
- Trong khi ánh mắt của Dane có sự kiÃ; t&ªu kỳ. Theo con, đó là điểm giống nhất. Phải chăng nó giống Ralph có quá lộ liễu và mọi người đều biết chuyện này cả rồi phải không mẹ?
- Dĩ nhiên là chưa, Fiona quả quyết. Thiên hạ không tìm hiểu xa hơn màu mắt, cái mũi và hình dáng chung chung. Chính tất cả những điều này làm người ta nhớ đến Luke. Chỉ có mẹ biết rõ vì suốt trong nhiều năm mẹ đã theo dõi con và Ralph. Mẹ biết cha Ralph chỉ cần đưa một ngón tay lên là con đã sẵn sàng lao vào vòng tay ông ấy. Thế thì khi mẹ nói với con chuyện ly dị Luke, đáng lý con không nên trả lời theo cái kiểu trái với luật lệ của Giáo hội. Chính con khao khát vi phạm điều luật của Giáo hội hơn gấp bội so với điều luật ly dị kia mà. Chuyện con đã làm không được đàng hoàng đâu Meggie ạ. Con đã gặp một người đàn ông rất bướng bỉnh. Trước hết, ông ta muốn trở thành một linh mục hoàn toàn về mọi mặt vì vậy với ông ấy, con trở nên thứ yếu. Thật là ngu ngốc! Cuối cùng thì điều đó chẳng giúp ích gì cho Ralph để rồi theo thời gian điều không thể tránh được chuyện ấy đã xảy ra.
Ngừng một lát, Fiona nói tiếp:
- Con cứ tưởng đánh lừa được mẹ khi từ chối để Ralph làm lễ hôn phối cho con với Luke? Mẹ không dễ bị lừa đâu. Con muốn Ralph là chồng con chứ không phải với tư cách người làm lễ trong đám cưới này. Chắc con vẫn nhớ trước khi lên đường đi Athens, Ralph đã ghé lại Drogheda, lúc ấy con không còn ở đây nữa, Ralph lang thang khắp trang trại như kẻ mất hồn, tức khắc mẹ đoán ngay ông ấy sẽ đi tìm con và sẽ gặp con. Con đã tính toán rất kỹ để rồi quyết định lấy Luke. Khi con nhớ nhung mỏi mòn thì Ralph không cần đến con nhưng ngay cái giây phút hay tin con thuộc về người đàn ông khác thì Ralph lại đeo bám con như con chó của người làm vườn. Tất nhiên, Ralph tự lừa dối với chính mình rằngsự gắn bó của ông ta với con là trong sáng thật sự, nhưng rõ ràng là ông ta cần con. Con cần cho cuộc đời của ông ấy hơn bất cứ người phụ nữ nào, trước đây cũng như sau này. Lạ thật - Fiona lại nói tiếp với vẻ suy nghĩ trang nghiêm - có lúc mẹ tự hỏi ông ấy có thể tìm thấy gì ở con, rồi mẹ lại cho rằng các bà mẹ đều ít nhiều bị mù khi xét đoán những gì liên quan đến con gái của mình, ít ra cũng cho đến khi các bà đã quá già và mang tâm lý ghen tị về nét thanh xuân của con gái.
Bà ngả người ra phía sau, dựa vào lưng ghế, người lắc lư nhẹ, mắt lim dim nhưng vẫn không ngừng theo dõi Meggie.
- Mẹ không biết ông ấy đã khám phá ở con điều gì nhưng ông ấy đã tìm thấy điều đó ngay phút đầu tiên gặp con và từ đó con không ngớt làm ông ấy say mê. Điều khổ tâm nhất đối với ông ấy là nhìn thấy con lớn lên một cách hồn nhiên và trọn vẹn. Nỗi khổ ấy không thể giấu diếm được ai khi Ralph đến đây, hay tin con đã có chồng và đã ra đi. Tội nghiệp Ralph! Chỉ còn có mỗi một sự chọn lựa là đi tìm con và Ralph đã toại nguyện, có đúng vậy không Meggie? Mẹ biết ngay chuyện gì xảy ra khi con trở về nhà trước ngày sinh Dane. Ngay lúc chiếm đoạt Ralph con đã cảm thấy không còn cần thiết tiếp tục ở lại với Luke nữa.
- Dạ đúng thế, Meggie thú nhận bằng một tiếng thở dài - Ralph đã tìm gặp con nhưng điều đó cũng không giải quyết được gì. Con biết Ralph sẽ không bao giờ bỏ Chúa. Chính vì lý do đó mà con quyết định chiếm lấy ở Ralph điều duy nhất mà con có thể hy vọng: một đứa con, một đứa con trai, Dane.
- Mẹ có cảm tưởng như nghe một tiếng vọng nào đó, bà vừa nói vừa cười chua chát. Hình như mẹ đã từng nói những lời giống hệt như thế.
- Về chuyện của anh Frank?
Chiếc ghế bành nghiến xuống nền gạch; Fiona đứng lên, đi tới đi lui, gót giày nện mạnh; cuối cùng bà quay trở lại đứng trước con gái và nhìn chăm chăm:
- Có phải con định trả đũa mẹ, Meggie? Con đã biết chuyện đó từ bao giờ?
- Từ khi... còn nhỏ. Từ ngày Frank bỏ nhà ra đi!
Im lặng một lúc, Fiona lại lên tiếng:
- Con che mắt thế gian rất khéo, Meggie ạ! Xưa kia ông ngoại đã mua cho mẹ một người chồng để kiếm một cái tên cho Frank rồi ném mẹ ra khỏi nhà. Số phận của con sẽ không hơn gì mẹ đâu. Con sẽ phải trả giá. Hãy tin đi, rồi đây con sẽ phải trả giá. Mẹ đã mất Frank một cách hết sức đau đớn, nỗi đau đớn nhất của một người mẹ mất con. Đến bây giờ mà mẹ vô cùng... Con sẽ thấy... Rồi con cũng vậy, sẽ mất Dane.
- Con có cách giữ Dane mẹ ạ. Mẹ mất Frank vì không thể đặt Frank vào ngồi chung một cỗ xe với ba. Phần con, nhất định Dane sẽ không có một người cha nào để kìm kẹp. Con sẽ buộc chặt Dane vào Drogheda này, ở đây Dane rất an toàn.
Mùa mưa đến rồi lại qua đi, nhưng nhờ ơn Chúa, cả vùng không phải chịu những trận hạn hán. Thiên hạ nói với nhau sau những năm khó khăn, nay Drogheda được bù lại. Thu nhập của trang trại vượt qua mọi dựđoán, mỗi năm hàng triệu bảng. Ngồi trước bàn viết, Fiona vui ra mặt. Bob vừa ghi thêm vào danh sách nhân công, tên hai thợ chăn nuôi vừa mướn.
Ở tòa nhà lớn, cuộc sống của gia đình Cleary trở nên hết sức dễ chịu.
Sống xa không khí vội vàng của những thị trấn đông dân, hai con của Meggie ít ốm đau. Năm Dane lên mười và Justine mười một, cả hai được gởi đi học nội trú ở Sydney. Dane vào trường Riverview còn Justine vào trường Kincoppal. Lần đầu đưa các con lên máy bay, Meggie ngắm rất lâu hai gương mặt nhỏ bé áp vào cửa kiếng, tay cầm khăn vẫy về hướng nàng. Chưa bao giờ hai đứa rời khỏi nhà đi xa. Meggie hết sức mong muốn được cùng đi với con đến Sydney xem chúng ăn ở ra sao, nhưng tất cả những người trong gia đình đều phản đối dữ dội. Từ mẹ nàng cho đến Jims và Patsy đều cho rằng tốt hơn là hãy để cho Dane và Justine được bay bằng chính đôi cánh của chúng nó.
Ngày tháng qua, Justine nhanh chóng quen thuộc với cuộc sống xa nhà, thích nghe với thành phố Sydney như đã biết nơi đó từ lâu. Mỗi lần về nhà nghỉ hè, Dane còn phần nào quyến luyến Drogheda nhưng còn Justine thì nao nức chờ ngày được sớm quay trở lại thủ đô.
Ngày 4 tháng 8 năm 1952, tờ Diễn đàn buổi sáng Sydney thường khi chỉ đăng một ảnh trên trang nhất. Trong số báo hôm nay, đặt trang trọng ở giữa và trên cao là ảnh chân dung rất đẹp của Ralph de Bricassart:
Đức Tổng giám mục Ralph de Bricassart, hiện là phụ tá Quốc vụ khanh đặc trách ngoại giao Tòa thánh La Mã, vừa mới được Đức Thánh Cha Pie XII phong Hồng Y De Bricassart.
Hồng Y Ralph đã xuất sắc phục vụ trong một thời gian rất lâu Nhà thờ công giáo tại Úc. Ngài đến đấy từ tháng bảy năm 1919, lúc đó vừa thụ phong linh mục cho đến tháng ba năm 1933, ngày lên đường sang Vatican.
Sinh ngày 23 tháng 9 năm 1893 tại Cộng hòa Ireland, Hồng Y De Bricassart là con trai kế của một gia đình có liên quan đến dòng họ Nam tước Ranulf de Bricassart, dòng họ thân cận của William the Conqueror đổ bộ lên nước Anh năm 1066. Vào tu viện năm mười bảy tuổi, Ngài được đưa sang Úc ngay sau khi được thụ phong linh mục và Ngài đã trải qua những tháng đầu tiên trên đất nước chúng ta dưới quyền của cố giám mục Michael Clabby, địa phận Winnemurra.
Tháng sáu năm 1920, Ngài được đổi sang giáo khu Gillanbone, Tây Bắc xứ New South Wales. Ngài tiếp tục phục vụ tại đây cho đến tháng mười hai 1928. Sau đó Ngài làm bí thư cho Đức Tổng giám mục Cluny Dark và tiếp tục nhiệm vụ đó cho Đức khâm mạng Tòa thánh bấy giờ là Tổng giám mục Di Contini Verchese. Chính lúc đó Ngài được phong giám mục, khi Đức Tổng giám mục Di Contini Verchese nhận nhiệm vụ ở La Mã và bắt đầu một sự nghiệp thành công nổi bật tại La Mã.
Ngài De Bricassart được phong Tổng giám mục và từ Athens trở về đất nước chúng ta trong nhiệm vụ đại diện Đức giáo hoàng. Ngài đảm trách sứ mạng quan trọng này cho đến ngày Ngài nhận nhiệm vụ mới ở La Mã năm 1938; từ đó tại trung tâm quyền lực của Giáo hội giáo, sự nghiệp của Ngài không ngừng đi lên một cách ngoạn mục. Hiện Ngài 58 tuổi, được coi là một trong những nhân vật hiếm hoi có ảnh hưởng lớn trong đường lối của Giáo hội.
Đặc phái viên báo “Diễn đàn buổi sáng Sydney†hôm qua đã có dịp trao đổi với nhiều giáo dân trước đây dưới quyền cai quản của Hồng Y De Bricassart tại thị xã Gillanbone. Kỷ niệm về Ngài vẫn còn sinh động và đượm nhiều tình cảm. Vùng chăn nuôi cừu giàu có này đa số theo đạo Công giáo. Linh mục De Bricassart là người xây dựng thư viện Thánh giá, thị trưởng Gillanbone, ông Harry Gough đã nói với chúng tôi. Vào thời đó, thư viện này đã có nhiều đóng góp đáng quí, ngay lúc đầu đã có sự giúp đỡ rất lớn của góa phụ Mary Carson, sau này khi bà qua đời, chính Hồng Y tiếp tục đỡ đần, Ngài luôn luôn nhớ và giúp đỡ chúng tôi.
Hồng Y De Bricassart là một con người tao nhã mà tôi được gặp, bà Fiona Cleary đã nói với chúng tôi. Bà Cleary là một phụ nữ uy tín ở Drogheda, quản lý một trong những trang trại rộng lớn và phát đạt ở Xứ New South Wales. Trong thời gian Ngài ở Gilly, Ngài đã mang lại một sự hỗ trợ tinh thần rất lớn cho giáo dân và đặc biệt cho những người ở trang trại Drogheda, nay thuộc về tài sản của Giáo hội Công giáo. Trong thời gian lũ lụt, Ngài đã giúp chúng tôi cứu các đàn gia súc; Ngài cũng tiếp tay chúng tôi trong những cơn hỏa hoạn, kể cả việc chôn cất những người thân yêu qua đời. Nói tóm lại, đó là một con người phi thường trên mọi lĩnh vực và có một sức quyến rũ rất lớn. Chúng tôi vẫn nhớ Ngài rất rõ dù rằng Ngài đã rời khỏi nơi đây trên hai mươi năm. Vâng, đúng là điều đó đã gây ra trong lòng của rất nhiều người một sự thiếu vắng không có gì có thể bù đắp được.
Trong chiến tranh, Tổng giám mục De Bricassart đã phục vụ Đức Thánh Cha một cách trung thành và kiên trì không gì lay chuyển. Ngài đã vận dụng mọi cách để thuyết phục Thống chết Albert Kesslring tuyên bố La Mã là thành phố bỏ ngỏ sau khi nước àtrở thành thù địch với nước Đức. Florence cũng từng yêu cầu một đặc ân như thế mà không được, đã phải chịu mất nhiều kho báu, và chỉ được phục hồi khi nước Đức bại trận. Những năm sau chiến tranh, Hồng Y De Bricassart đã giúp hàng chục ngàn người di cư tìm được chỗ nương thân ở những nước mới đến và đóng góp tích cực vào chương trình nhập cư của Úc. Dù rằng là người gốc Ireland và trong thực tế, với tư cách Hồng Y, có thể ảnh hưởng của Ngài sẽ không nhiều trên đất nước chúng ta, nhưng điều đó không ngăn cản chúng ta, trên phương diện tình cảm, cho rằng nước Úc có quyền nhìn nhận con người tài ba ấy là một trong những đứa con của mình.
Meggie trả lại tờ báo cho mẹ với một nụ cười buồn bã:
- Chúng ta chúc mừng ông ấy, con đã nói điều này với đặc phái viên Diễn đàn. Nhưng họ không đăng phải không mẹ? - Meggie bình luận. Ngược lại họ cho đăng bài tán tụng ngắn của mẹ gần như nguyên văn. Lời lẽ của mẹ thật là sắc nét! Bây giờ con đã biết Justine giống cách ăn nói đó ở ai! Con tự hỏi có bao nhiêu người tinh khôn sẽ đọc thấy được ý thật của mẹ giữa các dòng chữ.
- Người đó trước hết là ông ấy... nếu ông ấy đọc bài báo.
- Con tự hỏi ông ấy có còn nhớ chúng ta không, Meggie nói thật nhẹ với tiếng thở dài.
- Chắc chắn. Dù sao thì ông ấy cũng sắp xếp được thời giờ để trực tiếp quản lý Drogheda. Dĩ nhiên là ông ấy vẫn còn nhớ chúng ta. Làm sao quên được?
- Đúng thế. Con quên mất trang trại Drogheda này. Chúng ta đang quản lý một cơ ngơi làm ăn có nhiều huê lợi nhất. Chắc hẳn ông ấy sẽ rất hài lòng. Chỉ cần cạo lông cừu đÃ9;n £ có một món lợi trên bốn triệu bảng!
- Con không nên bạc bẽo, vô ơn như thế Meggie ạ. Giọng của Fiona hạ thấp xuống, gần đây bà tỏ ra kính trọng và có tình cảm hơn đối với Ralph. Chúng ta nên mừng cho mình, con biết không? Đừng quên hàng năm tiền vẫn đến với chúng ta dù được mùa hay không được mùa. Ralph vừa chuyển ngân hàng một trăm ngàn tiền thưởng Bob, mỗi chúng ta được năm chục ngàn. Nếu ông ấy buộc chúng ta rời khỏi Drogheda vào ngày mai, chúng ta cũng có dư tiền để mua trang trại Bugela, dù với giá đất đang lên vùn vụt như hiện nay. Và ông ấy đã cho hai đứa con của con bao nhiêu nữa? Hàng chục và hàng chục ngàn bảng. Con nên biết ơn ông ấy.
- Nhưng các con của con đều không hay biết gì về sự ban phát rộng rãi của ông và con sẽ không để chúng biết điều đó. Dane và Justine lớn lên với ý nghĩ là trong cuộc đời chúng hoàn toàn không có sự giúp đỡ của con người thân mến Ralph, Hồng Y De Bricassart.
- Con nghĩ sao nếu ông ấy trở về đây, Meggie?
- Cũng chẳng sao, Meggie đáp lại hơi làm dáng.
- Rất có thể ông ấy trở về đây, Fiona quả quyết với một vẻ bí ẩn.
... Và đúng thế, ông ấy trở về vào tháng mười hai. Một cách kín đáo, không ai được báo trước, trên một chiếc xe ô tô thể thao hiệu Aston Martin mà ông tự lái, khởi hành từ Sydney. Báo chí không hề nói đến sự có mặt của ông tại Úc, và không một ai có thể đoán biết chuyến viến thăm Drogheda của Hồng Y. Khi chiếc xe nhỏ ông dừng lại ở bãi đậu bên hông nhà, không ai nghe tiếng xe và cũng chẳng có ai tiếp đón.
Trong từng cây số từ Gilly đến đây, ông cảm nhận trong da thịt mình nỗi sung sướng được hít vào buồng phổi mùi vị của rừng, của cừu, của cỏ khô lấp lánh liên tục dưới ánh nắng.
Mùa thu đã trở lại ở đây, từ hai tuần trước ngày Noel và những hoa hồng của Drogheda đã đến lúc nở rộ. Ở đâu cũng là hoa hồng, màu hồng, màu trắng, màu vàng, màu đỏ thẫm như máu đọng trong động mạch và cả màu đỏ đậm như chiếc áo của Hồng Y. Giữa những dây đậu tía còn xanh có những cành hồng mềm mại vươn lên, hoa buông xuống mái hiên dọc theo hàng rào mắt cáo, bám vào một cách tình tứ trên những khung cửa sổ màu đen ở tầng lầu thứ nhất, nhánh đưa thẳng lên trời. Các bồn chứa nước đều bị che khuất gần hết. Hình như ông nhận ra một âm sắc bàng bạc khắp các hoa hồng, một thứ màu hồng xám nhạt. Hồng tro? Đúng rồi, đó là cái tên của âm sắc đó. Có lẽ Meggie đã trồng các bụi hồng này, không ai khác hơn là Meggie.
Ông nghe tiếng cười của Meggie và đứng sựng lại, hốt hoảng, nhưng rồi, lại phải đi tới hướng có tiếng cười ấy. Đúng là cái kiểu cười thường có hồi Meggie còn là một cô gái bé tí.
Nàng đang đứng đấy? Ở đằng kia sau một bụi hồng tro, gần cây hồ tiêu? Ralph đưa tay vạch một chùm hoa qua một bên, đầu óc hỗn loạn do mùi thơm tỏa ngát lẫn cái cười rạng rỡ. Nhưng không có Meggie ở đây, Ralph chỉ gặp một cậu bé trai ngồi xổm trên cỏ đang học phá một con heo con. Con heo chạy quanh thằng bé, vụng về trượt ngã. Thằng bé cười hồn nhiên. Tiếng cười Meggie. Thằng bé khoảng mười một, mười hai tuổi, chỉ mặc quần cụt bằng cải kaki mình trần, chân không, da sạm nắng, vai rộng, một thân hình chắc nịch. Tóc nó hơi dài, cuốn thành lọn, màu vàng nhạt như cỏ của Drogheda. Đôi mắt với hàng mi dày và dài đáng kinh ngạc ánh lên một màu xanh biếc. Thằng bé như một thiên thần nhỏ lén lút dạo chơi.
- Chào ông, thằng bé vừa nhìn khách vừa cười.
- Chào chú bé, Hồng Y đáp và bị ngay nụ cười hồn nhiên của thằng bé thu hút.
- Cháu tên gì?
- Dane O'' Neill, thằng bé tự giới thiệu, Còn ông là ai?
- Tôi tên Ralph... Dane O'' Neill.
Như thế thằng bé là con của Meggie. Thế là nàng vẫn chưa bỏ Luke; nàng đã trở lại với anh ta và đã sinh ra thằng bé kháu khỉnh này. Đáng lý nó là con của ông nếu trước đó ông đã không kết hôn với Chúa? Không lớn hơn thằng bé này và chắc chắc lúc ấy ông cũng không già dặn hơn thằng bé. Nếu ông không như thế, thằng bé rất có thể là con của ông. Thật là phi lý, Hồng Y De Bricassart! Nếu anh không kết hôn với Chúa, thì anh vẫn ở lại Ireland chăn nuôi ngựa, vĩnh viễn anh không biết Drogheda, kể cả Meggie Cleary.
- Ba của cháu có nhà không, Dane?
- Ba cháu? Thằng bé lặp lại câu hỏi, chân mày nhíu lại đầy kinh ngạc. Không, ba cháu không có ở nhà. Ba cháu chưa bao giờ có mặt ở đây.
- Ồ, tôi đã hiểu! Vậy thì mẹ cháu có ở nhà không?
- Mẹ cháu đi Gilly nhưng cũng sắp về rồi. Trong nhà có ngoại. Nếu ông muốn gặp, cháu đưa ông vào nhà. Ralph De Bricassart. Cháu đã nghe nói về ông. Nhớ rồi, Hồng Y De Bricassart! Thưa Đức Ngài, xin Ngài tha lỗi. Cháu không muốn tỏ ra thiếu lễ độ đâu.
Mặc dù không mặc quần áo dòng, chỉ mang giày ủng, quần cỡi ngựa và một chiếc áo trắng, Ralph vẫn đeo nhẫn có nạm một viên hồng ngọc, nhẫn này suốt đời ông không thể tuột ra. Dane O'' Neill quỳ gối, nắm lấy bàn tay của Hồng Y đặt vào hai tay mình và hôn một cách kính cẩn chiếc nhẫn.
- Cháu hãy đứng lên, Dane. Tôi đến đây không phải với tư cách Hồng Y mà với tư cách là người bạn của mẹ cháu và bà ngoại cháu.
Bỗng có tiếng gọi vang lên.
- Dane, Dane, em ở đâu?
Một cô bé khoảng 15 tuổi, xuất hiện. Ralph biết ngay là ai, chỉ cần nhìn đôi mắt và tóc cô bé. Đúng là con gái của Meggie.
- Ồ, chào ông. Xin lỗi ông. Cháu không biết có khách. Cháu là Justine O'' Neill.
- Jussy, đây là Hồng Y De Bricassart! Dane nói nhỏ với Justine. Hãy hôn ngay chiếc nhẫn của Ngài nhanh lên!
- Cứ gặp chuyện gì dính dấp đến tôn giáo là lúc nào em cũng vớ vẩn, - cô bé nói không cần hạ thấp giọng - Hôn lên một chiếc nhẫn là ngược lại các quy tắc vệ sinh. Hơn nữa, cái gì chứng minh rằng đây thật sự là Hồng Y De Bricassart? Chị thấy ông ấy giống một người chăn nuôi theo lối cũ. Em biết không, không khác ông Gordon.
- Đúng là Đức Hồng Y, chính ông ấy, Dane cả quyết. Em năn nỉ chị, chị hãy chìu em đi, ráng tỏ ra dễ thương một chút.
- Chị sẽ tỏ ra dễ thương vì em, và dù có muốn chìu ý em chị cũng không hôn lên chiếc nhẫn đâu. Gớm lắm. Làm sao chị biết rõ ai là người cuối cùng hôn lên chiếc nhẫn này. Biết đâu một người nào đó bị bệnh cúm.
- Hôn lên nhẫn tôi là vô ích, Justine. Tôi đến đây để nghỉ hè. Lúc này, tôi không phải là Hồng Y.
- Ông có cần chúng tôi dẫn đường gặp ngoại? Justine hỏi
- Không, cám ơn cháu. Tôi biết đường.
Muốn gặp Fiona thì có nơi nào khác hơn là trong văn phòng? Ralph đi và một cửa nhỏ, Fiona nghe tiếng động nhưng vẫn tiếp tục làm việc. Lưng hơi còng, mái tóc màu vàng rực rỡ trước kia nay đã bạc trắng. Khó khăn lắm, Ralph mới nhớ lại năm nay bà đã bảy mươi hai tuổi rồi.
- Kính chào bà Fiona.
Khi bà ngước nhìn lên, Ralph nhận ra ngay sự thay đổi ở người phụ nữ này, tuy thế ông vẫn không hiểu ra thái độ lạnh lùng của Fiona. Vẫn như lâu nay, trong bà có cả sự mềm mại lẫn cứng rắn, do đó trở thành nhân bản hơn, nhưng lại nhân bản theo kiểu bà Mary Carson. Chúa ơi, cái chế độ mẫu quyền ở Drogheda! Rồi nó cũng sẽ xảy ra như thế với Meggie sau này chăng?
- Chào Ralph - bà đạp lại tưởng như Ralph vẫn bước qua cửa nhỏ này hàng ngày. Tôi rất vui mừng gặp ông.
- Tôi cũng thế, rất vui mừng gặp lại bà.
- Tôi không biết rằng ông đang có mặt tại Úc.
- Không một ai biết. Tôi đi nghỉ hè vài tuần.
- Tôi hy vọng rằng ông sẽ nghỉ tại đây chứ?
- Làm sao tôi có thể nghỉ ở nơi nào khác? Bà có một khiếu thẩm mỹ đặc biệt, bà Fiona ạ. Căn phòng này không thua bất cứ căn phòng nào ở Vatican. Các cửa sổ hình trái soan màu đen với những hoa hồng nổi bật, thật là một nét thiên tài.
- Cảm ơn ông. Chúng tôi ráng làm những gì trong khả năng của mình. Nhưng tôi tự hỏi tại sao mình lại phải khổ cực như thế. Nhà này là của ông, chớ đâu phải của chúng tôi.
- Phải chờ đến khi nào không còn một người mang dòng họ Cleary thì điều bà nói mới đúng. Ralph trả lời một cách bình thản.
- Điều ông nói làm cho tôi thật yên tâm làm sao! Cho phép tôi được nói điều này: ông đã đạt nhiều thành công từ khi làm linh mục ở Gilly. ông có đọc bài báo trên tờ Diễn đàn?
Ralph không tránh né được:
- Tôi có đọc. Lời lẽ của bà thật là bén, bà Fiona ạ!
- Vâng, hơn thế ấy nữa, tôi cảm thấy thích thú được nói những điều đó, sau bao nhiêu năm thu mình lại chẳng nói một lời... Meggie đi Gilly nhưng sắp về.
Dane và Justine đi vào ngã cửa nhỏ.
- Ngoại ơi, tụi con cỡi ngựa đi dạo đến Borehead được không? - Justine nói với Fiona.
- Con biết luật lệ rồi. Không được dạo bằng ngựa mà không có phép của mẹ con. Bà ngoại không thể làm khác, đó là lệnh của mẹ con. Ô hô! Các con quên điều sơ đẳng của sự lễ phép. Hãy đến đây trình diện với khách quí của gia đình.
- Con đã gặp rồi. - Justine nói ngắn ngủn.
- Ồ...
- Thưa Đức cha, Đức cha có định nghỉ lại lâu không? Dane hỏi với sự ngưỡng mộ
- Đức cha sẽ ở lại đây với chúng ta cho đến chừng nào Đức cha muốn, Dane ạ. Fiona nói chen vào. Có điều là ngoại rất mệt tai khi nghe con không ngớt thưa bẩm Đức cha. Các con nên gọi bằng gì nào? Cậu Ralph?
- Cậu! Justine kêu lên. Không được đâu, ngoại? Các cậu đã có cậu Bob, cậu Jack, Hughies, Jims, Patsy. Vậy chỉ nên gọi Ralph vắn tắt thôi.
- Không được hỗn, Justine! Fiona cắt ngang.
- Không sao đâu, Fiona, Justine nói đúng. Tôi vẫn thích mọi người gọi giản dị cái tên Ralph, - Hồng Y can thiệp vào dứt khoát, lòng tự hỏi tại sao con bé lại tỏ ra đố kỵ với mình như thế.
- Con không thể gọi bằng bên Ralph đâu. Dane phản đối, giọng xúc động.
- Được, không sao, Dane. Cũng chẳng tội lỗi gì đâu.
Hồng Y De Bricassart đi thẳng đến chỗ Dane đứng, hai tay siết chặt đôi vai trần của Dane và mỉm cười. Đôi mắt ông trở nên dịu dàng và long lanh. Hồng Y và con trai của ông cùng quay lại phía Fiona. Cùng hướng về bà một cái nhìn giống nhau như cắt.
- Chúa ơi! Fiona kêu khẽ. Thôi được rồi, đi chơi đi Dane. Ra ngoài chơi (hai tay bà vỗ mạnh vào nhau). Cút đi!
Ralph ở lại nói chuyện rất lâu với bà Smith và những người giúp việc khác. Tất cả đều già đi rất nhiều so với lần gặp trong chuyến thăm Drogheda cuối cùng.
Khi Ralph rời khỏi nhà bếp, Meggie vẫn chưa về và để giết thời giờ, ông đi dạo dọc theo con suối. Cảnh vật ở nghĩa trang yên tĩnh làm sao! Sáu bảng đồng nổi bật trên hầm mộ, vẫn y nguyên như thế từ khi ông ghé lại đây lần chót. Phải chuẩn bị để chính mình cũng sẽ được chôn cất tại đây, Ralph tự nhắc nhở mình để khi về đến La Mã sẽ đưa ra những dặn dò cần thiết. Không xa hầm mộ, Ralph chú yến đến hai ngôi mộ mới, một của ông già Tom, người làm vườn và một là vợ của người thợ chăn nuôi làm thuê ở Drogheda từ năm 1946. ông không muốn được chôn trong hầm mộ ở Vatican giữa những nhân vật cũng như ông. Ở đây ông yên nghỉ giữa những con người đã sống thật sự.
Vừa quay nhìn lại, ông gặp cặp mắt màu xanh lục của tượng thánh bằng cẩm thạch, ông đưa tay lên chào và qua đám cỏ cao, ông hướng mắt đến tòa nhà lớn. Meggie, nàng đang đi lại. Thon thả, tóc vàng óng ả, quần cỡi ngựa bó sát và cũng chiếc áo sơ mi trắng giống hệt Ralph. Trên đầu là chiến nón rộng vành kiểu đàn ông hất ra phía sau gáy, giày ống màu nâu.
Nàng đến gần, bước qua hàng rào sơn trắng đến bên Ralph khiến ông chỉ còn thấy đôi mắt nàng, đôi mắt màu nâu ngập tràn ánh sáng. Vẻ đẹp Meggie không hề giảm chút nào vẫn hoàn toàn có quyền uy đối với trái tim ông. Hai cánh tay Meggie ôm lấy cổ Ralph, đột nhiên Ralph lại cảm thấy số mệnh của mình nằm trong vòng tay ấy. Hình như chưa bao giờ ông rời xa Meggie; đôi môi ấy đặt dưới đôi môi ông, thật sống động không phải là một giấc mơ. Ông khao khát quá lâu rồi, quá lâu rồi. Một loại thánh lễ khác, giản dị như đất, không dính dáng gì đến trời.
- Meggie, Meggie, ông thì thầm, mặt ông vùi trong mái tóc màu hung của Meggie, chiếc nón rơi xuống đất tự bao giờ. Ralph càng siết nàng vào lòng.
- Những chuyện như thế này cũng chẳng sao, phải không Ralph? Không có gì thay đổi, nàng nói, mắt nhắm.
- Không, không có gì thay đổi, Ralph quả quyết.
- Chúng ta đang ở Drogheda, Ralph, em đã báo trước với anh. Ở Drogheda anh thuộc về em chứ không phải thuộc về Chúa.
- Anh biết. Anh chấp nhận và anh đã đến (ông kéo nàng xuống thảm cỏ). Tại sao thế, Meggie?
- Tại sao là sao?
- Tại sao em lại trở lại với Luke? Tại sao em sinh cho Luke đứa con trai? Ralph hỏi trong thứ cảm giác bị cơn ghen hành hạ
Xuyên qua những cửa sổ màu nâu, tâm hồn sáng rực Meggie rọi thẳng vào Ralph, che giấu những ý nghĩ thật của nàng.
- Hắn bắt buộc em, nàng nói dịu dàng. Chỉ một lần thôi. Nhưng nhờ thế mà em có Dane. Do đó em không ăn năn về chuyện ấy. Dane đã bù đắp trọn vẹn tất cả những gì em đã phải chịu đựng với hắn.
- Xin lỗi em, anh không có quyền đặt với em câu hỏi đó. Lúc đầu, chính anh đã xô đẩy em vào tay Luke, phải không?
- Vâng, đúng thế.
- Thằng bé tuyệt đẹp. Nó có giống Luke không?
Meggie cười trong bụng, túm lấy một chùm cỏ, và nhét nó vào ngực của Ralph qua chỗ hở chiếc áo sơ mi.
- Không giống lắm. Không đứa con nào của em thật giống Luke hoặc em.
- Anh thương hai đứa vì chúng nó là con em.
- Anh bao giờ cũng đầy tình cảm. Tuổi tác không ảnh hưởng đến anh, Ralph ạ. Em tin chắc điều đó và hy vọng sẽ được thấy anh trẻ mãi. Em biết anh đã ba mươi năm nay rồi, vậy mà cứ tưởng như mới ba ngày vậy.
- Ba mươi năm? Nhiều đến thế sao?
- Anh thương yêu của em, em đến bốn mươi mốt tuổi rồi. Cũng khá lớn phải không? Trong nhà bảo em ra đây để tìm anh. Bà Smith đã chuẩn bị ấm trà thật tuyệt để đãi anh, sau đó khi trời mát hơn, chúng ta sẽ ăn giăm-bông rô ti với thật nhiều tóp mỡ.
Bob, Jack, Hughie, Jims và Patsy tham dự buổi tối như mọi thứ bảy. Sáng hôm nay, đáng lý cha Watty làm lễ nhưng Bob điện thoại báo cho ông ấy biết là cả nhà đi vắng. Nói dối để bảo vệ sự bí mật của Hồng Y ở đây.
Sau khi hai đứa nhỏ đi ngủ, Ralph nhìn lần lượt những người chủ nhà: các anh em trai dòng họ Cleary, Meggie và Fiona.
- Bà Fiona, mời bà tạm rời bàn làm việc trong chốc lát, Ralph nói. Tôi có chuyện muốn nói với... tất cả.
Fiona đi đứng vẫn vững vàng, người không mập. Bà im lặng ngồi vào một trong những chiếc ghế bành màu kem đặt trước mặt Hồng Y. Meggie ngồi bên trái bà, còn mấy đứa con trai ngồi trên những băng đá cẩm thạch gần đó.
- Về chuyện của Frank, Hồng Y mở đầu.
Tên Frank với những âm vang xa xôi làm nặng lòng tất cả những người có mặt.
- Ông muốn nói gì về Frank? Bà Fiona bình tĩnh hỏi.
Meggie đặt chiếc áo len xuống, nhìn mẹ và Ralph:
- Ông hãy nói đi, nàng lên tiếng thúc giục vì không đủ sức chịu đựng thêm một phút giây nào chờ đợi nữa.
- Frank đã thi hành xong án tù ba mươi năm. Gia đình chắc đã biết điều này khá đầy đủ qua những người thường liên lạc với tôi. Tôi có dặn họ đừng nói bất cứ gì có thể gây đau xót cho gia đình bởi cũng chẳng có lợi gì trong khi chúng ta không giúp gì được cho anh ta. Nếu trong những năm đầu ở tù anh không có những hành vi hung bạo và bất thường để phải mang tiếng xấu thì Frank đã ra tù sớm hơn. Ngay trong thời gian chiến tranh đã có nhiều tù nhân được thả để tình nguyện vào quân đội, riêng đơn xin của Frank đã bị bác.
Fiona ngước nhìn lên lạnh lùng:
- Tính tình của nó vẫn thế, bà nói không để lộ một nét xúc động.
Hồng Y nhìn mấy đưa con trong gia đình Cleary:
- Hãy chuẩn bị đi đón Frank về Drogheda trong không khí đầm ấm của gia đình.
- Đây là quê hương của Frank. Anh về đây là về nhà của gia đình. Bob trả lời.
Mọi người đều tán đồng. Riêng Fiona dường như vẫn ngập chìm trong những suy nghĩ miên man.
- Frank không còn như xưa, Hồng Y chậm rãi nói tiếp. Trước khi về đây, tôi có đến phòng giam ở Goulburn báo tin cho Frank biết và tôi đã phải nói thật với anh là mọi người ở Drogheda đều biết tất cả những gì đã xảy ra cho anh. Frank không hề nổi nóng, điều đó đủ hiểu anh ta đã thay đổi như thế nào. Anh chỉ nói... rất mang ơn. Và nôn nóng được gặp lại gia đình. Được gặp lại tất cả và đặc biệt là Fiona.
- Khi nào Frank được thả? Bob tằng hắng rồi hỏi.
- Khoảng một hay hai tuần nữa, Frank sẽ về bằng chuyến tàu đêm. Tôi muốn Frank đi máy bay nhưng anh ấy lại thích về bằng tàu hỏa.
- Patsy và con sẽ đón anh ấy ở nhà ga, Jims mau mắn đề nghi (Rồi mặt anh lại sa sầm xuống). Nhưng hai đứa tụi này không hề biết mặt Frank.
- Không ai cả, Fiona cắt ngang. Mẹ sẽ đích thân đón Frank và chỉ một mình mẹ thôi. Sức khỏe của mẹ không đến nỗi tệ đâu. Mẹ có thể lái xe tới Gilly kia mà.
- Mẹ nói đúng, Meggie nói dứt khoát trước khi các anh trai phản đối. Chúng mình nên để mẹ ra nhà ga một mình bởi chính mẹ là người đầu tiên Frank muốn gặp mặt. Năm anh em trai đứng lên một lượt.
- Đã đến lúc bọn này phải đi ngủ, miệng ngáp dài Bob nhìn Hồng Y cười rụt rè. Chúng ta sẽ sống lại cảm giác của những ngày xưa vào lúc sáng mai khi Đức cha làm lễ.
Meggie xếp chiếc áo len lại, quấn vào hai que đan, rồi đứng lên.
- Tôi cũng vậy. Xin chúc Ralph ngủ ngon.
- Chúc Meggie ngủ ngon. Chúc bà Fiona ngủ ngon - Ralph tránh không theo chân Meggie lên lầu. Trước khi ngủ, tôi đi dạo một vòng.
Khi Ralph lên lầu, của phòng ngủ của Meggie mở rộng, để lọt ra ngoài một vệt sáng. Ralph bước vào, đóng cửa lại rồi vặn khóa một vòng.
Meggie mặc áo ngủ mỏng, ngồi trên một chiếc ghế gần cửa sổ. Quay đầu lại, nàng thấy Ralph bước tới và ngồi xuống bên mép giường. Chậm rãi nàng đứng lên và đến với Ralph.
- Anh lại đây, để em cởi đôi giày ống cho anh. Chính vì vậy mà em không thích mang giày ống cao. Em không thể cởi giày ra nếu không dùng tấm cởi mà những thứ đó làm giày mau hư.
- Có phải em cố tình chọn màu áo này?
- Hồng tro? Nàng mỉm cười hỏi. Đó là màu mà em thích nhất, nói không chỏi lại màu tóc của em.
Khi nàng quay lưng lại cởi chiếc giày ống, chân của Ralph đặt lên mông nàng.
- Tại sao em biết chắc rằng anh sẽ đến phòng này để tìm em, Meggie?
- Em đã nói với anh rồi. Ở Drogheha, anh thuộc em. Nếu anh không đến, em sẽ lại tìm lại phòng anh.
Nàng cởi chiếc áo sơ mi của Ralph ra và chỉ khoảnh khắc sau, bàn tay rạo rực của nàng đã đặt lên chiếc lưng trần của ông. Tiếp đó nàng đi thẳng lại tắt đèn, trong khi Ralph đặt quần áo của mình lên lưng ghế. Ông nghe nàng đi lại trong bóng tối cởi bỏ chiếc áo ngủ.
Ngày mai, tôi sẽ làm lễ. Nhưng đó là sáng mai, lúc đó ma lực đã dịu xuống từ lâu. Còn bây giờ là ban đêm và Meggie. Tôi muốn được nàng. Nàng cũng là một thánh lễ.
Luđie và Mueller đến Drogheda ăn lễ Noel như mọi năm. Dưới mái nhà lớn nơi trú ẩn của những tâm hồn thanh thản, mọi người chuẩn bị tiếp đón những ngày lễ Giáng Sinh tuyệt diệu. Minnie và Cat vừa làm việc vừa hát, gương mặt béo phị của bà Smith tươi rói, Meggie thì giao Dane cho Hồng Y De Bricassart mà không nói thêm lời nào, còn Fiona vui hẳn lên, bớt dính cứng với chiếc bàn làm việc. Phía đàn ông khi có dịp là trở về nhà mỗi chiều, vì rằng sau buổi cơm tối rất muộn, phòng khách luôn rộn rã tiếng nói cười. Ngày thứ tư Ralph ở lại Drogheda, thời tiết rất nóng bức, Hồng Y cùng với Dane phi ngựa đi tìm một đàn cừu bị lạc, bỏ lại Justine hờn dỗi đứng một mình dưới gốc cây hồ tiêu; còn Meggie thì nằm lăn một cách lười biếng giữa những chiếc gối trên ghế dài bằng mây đặt ngoài hiên. Nàng cảm thấy thư thả, mãn nguyện và rất hạnh phúc. Một người phụ nữ có thể không cần chuyện đó trong nhiều năm nhưng thật là hạnh phúc làm sao được sung sướng với anh ấy, người đàn ông duy nhất của nàng. Khi ở bên cạnh Ralph, Meggie trải lòng đón lấy cuộc sống, ngoại trừ phần dành riêng cho Dane. Và khi nàng bên cạnh Dane, con người của nàng giang tay ra trước cuộc sống cũng còn lại một phần khác dành cho Ralph. Chỉ khi nào cả hai Ralph và Dane cùng một lúc trong cái thế giới riêng của mình như hiện giờ, thì Meggie mới cảm thấy trọn vẹn hạnh phúc.
Thế nhưng lảng vảng đâu đó, có một bóng đen làm mờ hạnh phúc của nàng. Ralph không hề biết. Nàng tự hỏi có nên giữ mãi bí mật ấy? Nếu Ralph không có khả năng tự mình khám phá thì tại sao Meggie lại tiết lộ làm gì? Ralph đã làm gì xứng đáng để nàng nói về sự thật ấy? Tại sao Ralph có thể nghĩ rằng nàng đã thuận tình quay trở lại với Luke? Ralph không xứng đáng để nàng tiết lộ nếu Ralph nghĩ rằng nàng có thể làm chuyện đốn mạt như thế. Thỉnh thoảng nàng cảm thấy đôi mắt xanh và lạnh lùng của Fiona chăm chăm nhìn nàng. Mẹ nàng hiểu mọi việc.
Điện thoại reo. Meggie đứng lên uể oải.
- Xin được nói chuyện với bà Fiona Cleary - Một giọng đàn ông bên kia đầu dây.
Nghe Meggie gọi, Fiona hấp tấp chạy đến cầm lấy ống nghe.
- Fiona Cleary đang nghe đây.
Gương mặt của bà dần dần biến sắc, căng thẳng, đó là sắc diện của những ngày tiếp theo sau cái chết của Pađy và Stuart.
- Cảm ơn ông, bà nói trước khi đặt ống nghe xuống, người yếu đuối, rã rời.
- Chuyện gì đó, mẹ?
- Frank đã được thả. Anh con đã lên tàu đêm qua và sẽ đến vào chiều nay (bà nhìn đồng hồ). Mẹ phải đi ngay, hơn hai giờ rồi.
- Mẹ cho phép con đi theo, Meggie đề nghị lòng tràn đầy niềm vui.
- Không được Meggie ạ. Con ở nhà thu xếp tất cả và nhớ đừng dọn cơm chiều trước khi mẹ về.
- Thật tuyệt phải không mẹ, Frank về nhà kịp lễ Noel.
- Thật tuyệt - Fiona đáp lại.
Phải chờ đến khi đại diện của Hoàng đế Hiro Hito chính thức ký tên đầu hàng thì Gillanbone mới tin chắc chiến tranh đã chấm dứt. Tin vui ấy lan truyền trong ngày chủ nhật 2 tháng 9 năm 1945, đúng sáu năm sau ngày chiến tranh bùng nổ. Sáu năm đầy lo âu, có quá nhiều sự mất mát: Rory, con trai của Dominic O'' Rourke; John, con trai của Horry Hopeton; Cormac, con trai của Eden Carmichael. Đứa con trai út của Ross Mac Queen, Angus, vĩnh viễn không đi được nữa; David; con trai của Anthony King, thì vẫn đi được nhưng không thấy được nó đi đâu; Patsy, con trai của Pađy Cleary sẽ không bao giờ có được con. Và còn những người mà các vết thương không lộ ra nhưng mãi mãi ăn sâu; đó là những người ra đi vui vẻ; hăng hái, hay cười đùa nhưng lặng lẽ trở về, ít nói và nụ cười bỗng nhiên hiếm hoi. Vào cái lúc vừa tuyên chiến, có ai lại nghĩ rằng cuộc xung đột lại kéo dài lâu đến thế và phải trả một cái giá như thế?
... Bob, Jack, Hughie và Patsy trở lại các bãi chăn và lập ra kế hoạch phục hồi đàn súc vật. Meggie biết rằng cuộc sống vất vả trên lưng ngựa sắp chấm dứt vì không bao lâu nữa Jims sẽ trở về và có nhiều người đàn ông đến xin việc.
Một thời gian sau, Meggie nhận được một lá thư nữa của Luke, lá thứ hai từ khi nàng bỏ Luke. Bức thư viết:
Không còn bao lâu nữa, anh tin như vậy. Chỉ một vài năm chặt mía là anh sẽ đạt mục đích. Sau này anh thường đau ở vùng thắt lưng nhưng anh vẫn còn đủ khả năng thi tài với những tay chặt mía giỏi nhất, từ tám đến chín tấn. Arne và anh có mười hai ê-kíp khác làm việc; tất cả đều là những người dũng cảm. Tiền lưu thông dễ dàng hơn, châu Âu cần đường, chúng ta sản xuất bao nhiêu hết bấy nhiêu. Anh làm được hơn năm ngàn bảng mỗi năm và anh đã để dành gần hết. Không còn bao lâu nữa, Meggie, anh sẽ đi Kynuna. Biết đâu khi anh chuẩn bị đủ mọi thứ, em lại muốn trở lại với anh. Có phải là anh đã mang lại cho em thằng bé mà em mong muốn không? Đàn bà thật kỳ lạ, chỉ thích con trai. Có phải chỉ vì thế mà chúng ta xa nhau? Cho anh biết bây giờ em ra sao và Drogheda đã chống lại hạn hán như thế nào. Chúc em mọi sự tốt đẹp. Luke.
Fiona bước ra hiên, nơi Meggie đang ngồi, tay còn cầm lá thư, mắt nhìn lơ đãng những bãi cỏ màu xanh tươi mát.
- Luke thế nào?
- Vẫn thế, thưa mẹ. Không một chút thay đổi. Lại chỉ cần một thời gian chặt mấy cây mía quái quỷ rồi một ngày nào đó anh ấy sẽ mua trang trại gần Kynuna.
- Con có định tìm gặp lại Luke?
- Không bao giờ.
Fiona buông người xuống chiếc ghế bành bằng mây được đặt xích lại để có thể nhìn rõ mặt con gái.
- Meggie, tại sao con không ly dị để lập gia đình thêm lần nữa? Đột ngột Fiona hỏi. Enoch Davies sẵn sàng cưới con ngay; không có một phụ nữ nào thu hút được sự chú ý của Davies ngoài con.
Meggie nhìn mẹ kinh ngạc:
- Lạy Chúa, con có cảm tưởng như mẹ nói chuyện với con một cách... ngang ngửa như thể mẹ nói chuyện với một người đàn bà nào khác cùng trang lứa.
Fiona không cười. Bà rất ít khi cười.
- Này nhé, nếu bây giờ con không là một người đàn bà thì mãi mãi con sẽ không trở thành đàn bà được. Về phần mẹ, mẹ nghĩ con có đủ điều kiện. Rồi đây mẹ sẽ già đi và mẹ thèm được nói chuyện với con.
Meggie cười, vui sướng thấy mẹ mình ở trong một tân trạng như vậy.
- Mưa xuống mẹ ạ. Ồ, thật tuyệt khi nhìn thấy cỏ ở Drogheda lại xanh tươi.
- Đúng rồi. Nhưng con lẩn tránh câu hỏi của mẹ. Tại sao con không ly dị và bước thêm một bước nữa?
- Như thế là đi ngược lại luật của Giáo hội.
- Thật là chuyện không vào đâu cả! Fiona nói lớn. Một nửa con là của mẹ nhưng mẹ không phải là người công giáo. Con đừng nói những chuyện vớ vẩn với mẹ. Meggie à. Nếu quả thật muốn lấy chồng lần nữa thì con đã ly dị với Luke rồi.
- Thưa mẹ đúng thế, rất có thể. Nhưng con không muốn lại lập gia đình, hai đứa nhỏ và Drogheda đã đủ mang lại hạnh phúc cho con rồi.
Đúng lúc đó Justine và Dane xuất hiện. Justine cao và gầy, không đẹp nhưng chỉ cần một lần gặp mặt thôi cũng đã khó quên đôi mắt và tính tình cô bé ấy. Justine đã tám tuổi và người duy nhất thật sự gần gũi với Justine là Dane.
- Dane và Justine rất khác nhau mẹ à, thế mà lại rất hợp nhau, Meggie nhận xét. Con ngạc nhiên về điều ấy. Hình như chưa bao giờ con thấy hai đứa gây gổ và đôi khi con phải tự hỏi làm thế nào mà Dane lại có thể tránh được những lần cãi vã với một đứa bướng bỉnh như Justinẹ
Thế nhưng Fiona lại suy nghĩ khác về Dane:
- Lạy Chúa, đúng là gương mặt của cha nó cắt sang. Vừa nói bà vừa quan sát Dane, cậu bé đang chui vào vòm lá non um tùm của những cây hồ tiêu, rồi sau đó mất dạng.
Dường như có một luồng khi lạnh đột ngột đến với Meggie, nàng không kịp phản ứng trước những nhận xét của Fiona dù rằng nàng đã nghe lặp đi lặp lại câu nói này cả trăm lần suốt những năm qua. Tất nhiên đó là phản ứng mặc cảm tội lỗi. Nhiều người vẫn nói xa nói gần nhưng thế thì đã sao đâu? Giữa Luke và Ralph cũng có những nét giống nhau kia mà. Tuy nhiên, dù cố che giấu thế nào đi nữa, Meggie vẫn không giữ được tự nhiên mỗi khi có ai đó nói về sự giống nhau giữa Dane và cha nó.
Nàng hít một hơi thật sâu rồi tỏ ra tự nhiên:
- Mẹ cũng thấy thế? Nàng hỏi lại, một chân đong đưa có vẻ lơ đễnh. Con thấy chẳng giống bao nhiêu. Dane không có nét gì của Luke kể cả tính tình lẫn vóc dáng.
Fiona cười mũi - một phần vì tuổi tác phần khác đôi mắt của Fiona như mờ đi do ảnh hưởng vởi chứng vẩy cá - nhưng trong cái nhìn hình như có chút gì trêu cợt khiến cho Meggie lúng túng.
- Con tưởng là mẹ ngu đần lắm sao? Mẹ đâu có bảo Dane giống Luke. Mẹ thấy Dane giống Ralph.
Cảm giác nặng trĩu. Đôi chân của Meggie đang đong đưa bỗng nhiên như bị một khối chì kéo xuống và rơi trên nền gạch ô vuông. Người của nàng cũng như thể bị nén lại thành khối, sức nặng ngàn cân cột chặt. Hãy đập đi chứ trái tim của ta, Chúa ơi! Hãy tiếp tục đập! Vì con trai ta, mi hãy tiếp tục đập đi.
- Nhưng, mẹ à! Meggie chỉ mấp máy được một hai tiếng, bằng thứ âm thanh thật nặng nề. Nhưng, mẹ à, mẹ nói thật là kỳ quặc! Sao mẹ lại nhắc đến tên Ralph vào đây?
- Con quen tất cả mấy người mang cái tên ấy đâu? Luke chưa bao giờ có con trai với con. Dane là con của Ralph. Mẹ đã biết điều đó ngay giây phút đầu tiên Dane chào đời.
- Thế thì... tại sao lâu nay mẹ vẫn không nói gì hết? Tại sao mẹ chờ cho Dane được bảy tuổi mới kết án con một cách vô lý và hoàn toàn thiếu chứng cớ như vậy?
Fiona duỗi thẳng người, đặt hai bàn chân tréo vào nhau.
- Bây giờ mẹ đã già rồi, Meggie ạ, và những điều mẹ nghĩ nay cũng làm cho mẹ đau lòng. Tuổi già đúng là một ân huệ! Mẹ sung sướng được thấy Drogheda hồi sinh. Có lẽ vì thế mà mẹ cảm thấy mạnh khỏe hơn. Lần đầu tiên trong nhiều năm, mẹ muốn được nói chuyện...
- Đúng là khi mẹ quyết định nói điều gì đó mẹ có cả một nghệ thuật để chọn lựa đề tài! Meggie nói bằng một giọng run run gần như tuyệt vọng mà vẫn chưa biết Fiona sẽ đưa câu chuyện đến đâu, tra tấn tinh thần hay sẽ thương hại mình?
Có vẻ như tình cờ, bàn tay Fiona đưa lên rồi đặt nhẹ xuống đầu gối của Meggie. Bà mỉm cười - không hề tỏ ra chua cay hay khinh bỉ mà với một sự cảm thông kỳ lạ.
- Con không nên nói dối với mẹ, Meggie ạ! Con có thể nói dối với bất cứ ai, nhưng không nên làm như thế với mẹ. Con không có cách nào để thuyết phục được mẹ tin rằng Luke là cha của Dane. Mẹ không ngu đâu, mẹ có mắt. Rõ ràng không thể tìm thấy một nét nào của Luke ở thằng bé ấy. Không có gì cả vì làm sao có được khi Dane chính là hình ảnh của Ralph. Con nhìn xem, hai bàn tay, mớ tóc với những lọn quăn rơi xuống trán, hình dáng, gương mặt, chân mày, cái miệng nữa. Ngay cả dáng đi cũng thế. Ralph chớ còn ai vào đây.
Meggie đành chịu thua nhưng đồng thời nàng cảm giác như vừa trút được gánh nặng, bây giờ Meggie thấy hết sức nhẹ nhàng và dễ chịu.
- Trong khi ánh mắt của Dane có sự kiÃ; t&ªu kỳ. Theo con, đó là điểm giống nhất. Phải chăng nó giống Ralph có quá lộ liễu và mọi người đều biết chuyện này cả rồi phải không mẹ?
- Dĩ nhiên là chưa, Fiona quả quyết. Thiên hạ không tìm hiểu xa hơn màu mắt, cái mũi và hình dáng chung chung. Chính tất cả những điều này làm người ta nhớ đến Luke. Chỉ có mẹ biết rõ vì suốt trong nhiều năm mẹ đã theo dõi con và Ralph. Mẹ biết cha Ralph chỉ cần đưa một ngón tay lên là con đã sẵn sàng lao vào vòng tay ông ấy. Thế thì khi mẹ nói với con chuyện ly dị Luke, đáng lý con không nên trả lời theo cái kiểu trái với luật lệ của Giáo hội. Chính con khao khát vi phạm điều luật của Giáo hội hơn gấp bội so với điều luật ly dị kia mà. Chuyện con đã làm không được đàng hoàng đâu Meggie ạ. Con đã gặp một người đàn ông rất bướng bỉnh. Trước hết, ông ta muốn trở thành một linh mục hoàn toàn về mọi mặt vì vậy với ông ấy, con trở nên thứ yếu. Thật là ngu ngốc! Cuối cùng thì điều đó chẳng giúp ích gì cho Ralph để rồi theo thời gian điều không thể tránh được chuyện ấy đã xảy ra.
Ngừng một lát, Fiona nói tiếp:
- Con cứ tưởng đánh lừa được mẹ khi từ chối để Ralph làm lễ hôn phối cho con với Luke? Mẹ không dễ bị lừa đâu. Con muốn Ralph là chồng con chứ không phải với tư cách người làm lễ trong đám cưới này. Chắc con vẫn nhớ trước khi lên đường đi Athens, Ralph đã ghé lại Drogheda, lúc ấy con không còn ở đây nữa, Ralph lang thang khắp trang trại như kẻ mất hồn, tức khắc mẹ đoán ngay ông ấy sẽ đi tìm con và sẽ gặp con. Con đã tính toán rất kỹ để rồi quyết định lấy Luke. Khi con nhớ nhung mỏi mòn thì Ralph không cần đến con nhưng ngay cái giây phút hay tin con thuộc về người đàn ông khác thì Ralph lại đeo bám con như con chó của người làm vườn. Tất nhiên, Ralph tự lừa dối với chính mình rằngsự gắn bó của ông ta với con là trong sáng thật sự, nhưng rõ ràng là ông ta cần con. Con cần cho cuộc đời của ông ấy hơn bất cứ người phụ nữ nào, trước đây cũng như sau này. Lạ thật - Fiona lại nói tiếp với vẻ suy nghĩ trang nghiêm - có lúc mẹ tự hỏi ông ấy có thể tìm thấy gì ở con, rồi mẹ lại cho rằng các bà mẹ đều ít nhiều bị mù khi xét đoán những gì liên quan đến con gái của mình, ít ra cũng cho đến khi các bà đã quá già và mang tâm lý ghen tị về nét thanh xuân của con gái.
Bà ngả người ra phía sau, dựa vào lưng ghế, người lắc lư nhẹ, mắt lim dim nhưng vẫn không ngừng theo dõi Meggie.
- Mẹ không biết ông ấy đã khám phá ở con điều gì nhưng ông ấy đã tìm thấy điều đó ngay phút đầu tiên gặp con và từ đó con không ngớt làm ông ấy say mê. Điều khổ tâm nhất đối với ông ấy là nhìn thấy con lớn lên một cách hồn nhiên và trọn vẹn. Nỗi khổ ấy không thể giấu diếm được ai khi Ralph đến đây, hay tin con đã có chồng và đã ra đi. Tội nghiệp Ralph! Chỉ còn có mỗi một sự chọn lựa là đi tìm con và Ralph đã toại nguyện, có đúng vậy không Meggie? Mẹ biết ngay chuyện gì xảy ra khi con trở về nhà trước ngày sinh Dane. Ngay lúc chiếm đoạt Ralph con đã cảm thấy không còn cần thiết tiếp tục ở lại với Luke nữa.
- Dạ đúng thế, Meggie thú nhận bằng một tiếng thở dài - Ralph đã tìm gặp con nhưng điều đó cũng không giải quyết được gì. Con biết Ralph sẽ không bao giờ bỏ Chúa. Chính vì lý do đó mà con quyết định chiếm lấy ở Ralph điều duy nhất mà con có thể hy vọng: một đứa con, một đứa con trai, Dane.
- Mẹ có cảm tưởng như nghe một tiếng vọng nào đó, bà vừa nói vừa cười chua chát. Hình như mẹ đã từng nói những lời giống hệt như thế.
- Về chuyện của anh Frank?
Chiếc ghế bành nghiến xuống nền gạch; Fiona đứng lên, đi tới đi lui, gót giày nện mạnh; cuối cùng bà quay trở lại đứng trước con gái và nhìn chăm chăm:
- Có phải con định trả đũa mẹ, Meggie? Con đã biết chuyện đó từ bao giờ?
- Từ khi... còn nhỏ. Từ ngày Frank bỏ nhà ra đi!
Im lặng một lúc, Fiona lại lên tiếng:
- Con che mắt thế gian rất khéo, Meggie ạ! Xưa kia ông ngoại đã mua cho mẹ một người chồng để kiếm một cái tên cho Frank rồi ném mẹ ra khỏi nhà. Số phận của con sẽ không hơn gì mẹ đâu. Con sẽ phải trả giá. Hãy tin đi, rồi đây con sẽ phải trả giá. Mẹ đã mất Frank một cách hết sức đau đớn, nỗi đau đớn nhất của một người mẹ mất con. Đến bây giờ mà mẹ vô cùng... Con sẽ thấy... Rồi con cũng vậy, sẽ mất Dane.
- Con có cách giữ Dane mẹ ạ. Mẹ mất Frank vì không thể đặt Frank vào ngồi chung một cỗ xe với ba. Phần con, nhất định Dane sẽ không có một người cha nào để kìm kẹp. Con sẽ buộc chặt Dane vào Drogheda này, ở đây Dane rất an toàn.
Mùa mưa đến rồi lại qua đi, nhưng nhờ ơn Chúa, cả vùng không phải chịu những trận hạn hán. Thiên hạ nói với nhau sau những năm khó khăn, nay Drogheda được bù lại. Thu nhập của trang trại vượt qua mọi dựđoán, mỗi năm hàng triệu bảng. Ngồi trước bàn viết, Fiona vui ra mặt. Bob vừa ghi thêm vào danh sách nhân công, tên hai thợ chăn nuôi vừa mướn.
Ở tòa nhà lớn, cuộc sống của gia đình Cleary trở nên hết sức dễ chịu.
Sống xa không khí vội vàng của những thị trấn đông dân, hai con của Meggie ít ốm đau. Năm Dane lên mười và Justine mười một, cả hai được gởi đi học nội trú ở Sydney. Dane vào trường Riverview còn Justine vào trường Kincoppal. Lần đầu đưa các con lên máy bay, Meggie ngắm rất lâu hai gương mặt nhỏ bé áp vào cửa kiếng, tay cầm khăn vẫy về hướng nàng. Chưa bao giờ hai đứa rời khỏi nhà đi xa. Meggie hết sức mong muốn được cùng đi với con đến Sydney xem chúng ăn ở ra sao, nhưng tất cả những người trong gia đình đều phản đối dữ dội. Từ mẹ nàng cho đến Jims và Patsy đều cho rằng tốt hơn là hãy để cho Dane và Justine được bay bằng chính đôi cánh của chúng nó.
Ngày tháng qua, Justine nhanh chóng quen thuộc với cuộc sống xa nhà, thích nghe với thành phố Sydney như đã biết nơi đó từ lâu. Mỗi lần về nhà nghỉ hè, Dane còn phần nào quyến luyến Drogheda nhưng còn Justine thì nao nức chờ ngày được sớm quay trở lại thủ đô.
Ngày 4 tháng 8 năm 1952, tờ Diễn đàn buổi sáng Sydney thường khi chỉ đăng một ảnh trên trang nhất. Trong số báo hôm nay, đặt trang trọng ở giữa và trên cao là ảnh chân dung rất đẹp của Ralph de Bricassart:
Đức Tổng giám mục Ralph de Bricassart, hiện là phụ tá Quốc vụ khanh đặc trách ngoại giao Tòa thánh La Mã, vừa mới được Đức Thánh Cha Pie XII phong Hồng Y De Bricassart.
Hồng Y Ralph đã xuất sắc phục vụ trong một thời gian rất lâu Nhà thờ công giáo tại Úc. Ngài đến đấy từ tháng bảy năm 1919, lúc đó vừa thụ phong linh mục cho đến tháng ba năm 1933, ngày lên đường sang Vatican.
Sinh ngày 23 tháng 9 năm 1893 tại Cộng hòa Ireland, Hồng Y De Bricassart là con trai kế của một gia đình có liên quan đến dòng họ Nam tước Ranulf de Bricassart, dòng họ thân cận của William the Conqueror đổ bộ lên nước Anh năm 1066. Vào tu viện năm mười bảy tuổi, Ngài được đưa sang Úc ngay sau khi được thụ phong linh mục và Ngài đã trải qua những tháng đầu tiên trên đất nước chúng ta dưới quyền của cố giám mục Michael Clabby, địa phận Winnemurra.
Tháng sáu năm 1920, Ngài được đổi sang giáo khu Gillanbone, Tây Bắc xứ New South Wales. Ngài tiếp tục phục vụ tại đây cho đến tháng mười hai 1928. Sau đó Ngài làm bí thư cho Đức Tổng giám mục Cluny Dark và tiếp tục nhiệm vụ đó cho Đức khâm mạng Tòa thánh bấy giờ là Tổng giám mục Di Contini Verchese. Chính lúc đó Ngài được phong giám mục, khi Đức Tổng giám mục Di Contini Verchese nhận nhiệm vụ ở La Mã và bắt đầu một sự nghiệp thành công nổi bật tại La Mã.
Ngài De Bricassart được phong Tổng giám mục và từ Athens trở về đất nước chúng ta trong nhiệm vụ đại diện Đức giáo hoàng. Ngài đảm trách sứ mạng quan trọng này cho đến ngày Ngài nhận nhiệm vụ mới ở La Mã năm 1938; từ đó tại trung tâm quyền lực của Giáo hội giáo, sự nghiệp của Ngài không ngừng đi lên một cách ngoạn mục. Hiện Ngài 58 tuổi, được coi là một trong những nhân vật hiếm hoi có ảnh hưởng lớn trong đường lối của Giáo hội.
Đặc phái viên báo “Diễn đàn buổi sáng Sydney†hôm qua đã có dịp trao đổi với nhiều giáo dân trước đây dưới quyền cai quản của Hồng Y De Bricassart tại thị xã Gillanbone. Kỷ niệm về Ngài vẫn còn sinh động và đượm nhiều tình cảm. Vùng chăn nuôi cừu giàu có này đa số theo đạo Công giáo. Linh mục De Bricassart là người xây dựng thư viện Thánh giá, thị trưởng Gillanbone, ông Harry Gough đã nói với chúng tôi. Vào thời đó, thư viện này đã có nhiều đóng góp đáng quí, ngay lúc đầu đã có sự giúp đỡ rất lớn của góa phụ Mary Carson, sau này khi bà qua đời, chính Hồng Y tiếp tục đỡ đần, Ngài luôn luôn nhớ và giúp đỡ chúng tôi.
Hồng Y De Bricassart là một con người tao nhã mà tôi được gặp, bà Fiona Cleary đã nói với chúng tôi. Bà Cleary là một phụ nữ uy tín ở Drogheda, quản lý một trong những trang trại rộng lớn và phát đạt ở Xứ New South Wales. Trong thời gian Ngài ở Gilly, Ngài đã mang lại một sự hỗ trợ tinh thần rất lớn cho giáo dân và đặc biệt cho những người ở trang trại Drogheda, nay thuộc về tài sản của Giáo hội Công giáo. Trong thời gian lũ lụt, Ngài đã giúp chúng tôi cứu các đàn gia súc; Ngài cũng tiếp tay chúng tôi trong những cơn hỏa hoạn, kể cả việc chôn cất những người thân yêu qua đời. Nói tóm lại, đó là một con người phi thường trên mọi lĩnh vực và có một sức quyến rũ rất lớn. Chúng tôi vẫn nhớ Ngài rất rõ dù rằng Ngài đã rời khỏi nơi đây trên hai mươi năm. Vâng, đúng là điều đó đã gây ra trong lòng của rất nhiều người một sự thiếu vắng không có gì có thể bù đắp được.
Trong chiến tranh, Tổng giám mục De Bricassart đã phục vụ Đức Thánh Cha một cách trung thành và kiên trì không gì lay chuyển. Ngài đã vận dụng mọi cách để thuyết phục Thống chết Albert Kesslring tuyên bố La Mã là thành phố bỏ ngỏ sau khi nước àtrở thành thù địch với nước Đức. Florence cũng từng yêu cầu một đặc ân như thế mà không được, đã phải chịu mất nhiều kho báu, và chỉ được phục hồi khi nước Đức bại trận. Những năm sau chiến tranh, Hồng Y De Bricassart đã giúp hàng chục ngàn người di cư tìm được chỗ nương thân ở những nước mới đến và đóng góp tích cực vào chương trình nhập cư của Úc. Dù rằng là người gốc Ireland và trong thực tế, với tư cách Hồng Y, có thể ảnh hưởng của Ngài sẽ không nhiều trên đất nước chúng ta, nhưng điều đó không ngăn cản chúng ta, trên phương diện tình cảm, cho rằng nước Úc có quyền nhìn nhận con người tài ba ấy là một trong những đứa con của mình.
Meggie trả lại tờ báo cho mẹ với một nụ cười buồn bã:
- Chúng ta chúc mừng ông ấy, con đã nói điều này với đặc phái viên Diễn đàn. Nhưng họ không đăng phải không mẹ? - Meggie bình luận. Ngược lại họ cho đăng bài tán tụng ngắn của mẹ gần như nguyên văn. Lời lẽ của mẹ thật là sắc nét! Bây giờ con đã biết Justine giống cách ăn nói đó ở ai! Con tự hỏi có bao nhiêu người tinh khôn sẽ đọc thấy được ý thật của mẹ giữa các dòng chữ.
- Người đó trước hết là ông ấy... nếu ông ấy đọc bài báo.
- Con tự hỏi ông ấy có còn nhớ chúng ta không, Meggie nói thật nhẹ với tiếng thở dài.
- Chắc chắn. Dù sao thì ông ấy cũng sắp xếp được thời giờ để trực tiếp quản lý Drogheda. Dĩ nhiên là ông ấy vẫn còn nhớ chúng ta. Làm sao quên được?
- Đúng thế. Con quên mất trang trại Drogheda này. Chúng ta đang quản lý một cơ ngơi làm ăn có nhiều huê lợi nhất. Chắc hẳn ông ấy sẽ rất hài lòng. Chỉ cần cạo lông cừu đÃ9;n £ có một món lợi trên bốn triệu bảng!
- Con không nên bạc bẽo, vô ơn như thế Meggie ạ. Giọng của Fiona hạ thấp xuống, gần đây bà tỏ ra kính trọng và có tình cảm hơn đối với Ralph. Chúng ta nên mừng cho mình, con biết không? Đừng quên hàng năm tiền vẫn đến với chúng ta dù được mùa hay không được mùa. Ralph vừa chuyển ngân hàng một trăm ngàn tiền thưởng Bob, mỗi chúng ta được năm chục ngàn. Nếu ông ấy buộc chúng ta rời khỏi Drogheda vào ngày mai, chúng ta cũng có dư tiền để mua trang trại Bugela, dù với giá đất đang lên vùn vụt như hiện nay. Và ông ấy đã cho hai đứa con của con bao nhiêu nữa? Hàng chục và hàng chục ngàn bảng. Con nên biết ơn ông ấy.
- Nhưng các con của con đều không hay biết gì về sự ban phát rộng rãi của ông và con sẽ không để chúng biết điều đó. Dane và Justine lớn lên với ý nghĩ là trong cuộc đời chúng hoàn toàn không có sự giúp đỡ của con người thân mến Ralph, Hồng Y De Bricassart.
- Con nghĩ sao nếu ông ấy trở về đây, Meggie?
- Cũng chẳng sao, Meggie đáp lại hơi làm dáng.
- Rất có thể ông ấy trở về đây, Fiona quả quyết với một vẻ bí ẩn.
... Và đúng thế, ông ấy trở về vào tháng mười hai. Một cách kín đáo, không ai được báo trước, trên một chiếc xe ô tô thể thao hiệu Aston Martin mà ông tự lái, khởi hành từ Sydney. Báo chí không hề nói đến sự có mặt của ông tại Úc, và không một ai có thể đoán biết chuyến viến thăm Drogheda của Hồng Y. Khi chiếc xe nhỏ ông dừng lại ở bãi đậu bên hông nhà, không ai nghe tiếng xe và cũng chẳng có ai tiếp đón.
Trong từng cây số từ Gilly đến đây, ông cảm nhận trong da thịt mình nỗi sung sướng được hít vào buồng phổi mùi vị của rừng, của cừu, của cỏ khô lấp lánh liên tục dưới ánh nắng.
Mùa thu đã trở lại ở đây, từ hai tuần trước ngày Noel và những hoa hồng của Drogheda đã đến lúc nở rộ. Ở đâu cũng là hoa hồng, màu hồng, màu trắng, màu vàng, màu đỏ thẫm như máu đọng trong động mạch và cả màu đỏ đậm như chiếc áo của Hồng Y. Giữa những dây đậu tía còn xanh có những cành hồng mềm mại vươn lên, hoa buông xuống mái hiên dọc theo hàng rào mắt cáo, bám vào một cách tình tứ trên những khung cửa sổ màu đen ở tầng lầu thứ nhất, nhánh đưa thẳng lên trời. Các bồn chứa nước đều bị che khuất gần hết. Hình như ông nhận ra một âm sắc bàng bạc khắp các hoa hồng, một thứ màu hồng xám nhạt. Hồng tro? Đúng rồi, đó là cái tên của âm sắc đó. Có lẽ Meggie đã trồng các bụi hồng này, không ai khác hơn là Meggie.
Ông nghe tiếng cười của Meggie và đứng sựng lại, hốt hoảng, nhưng rồi, lại phải đi tới hướng có tiếng cười ấy. Đúng là cái kiểu cười thường có hồi Meggie còn là một cô gái bé tí.
Nàng đang đứng đấy? Ở đằng kia sau một bụi hồng tro, gần cây hồ tiêu? Ralph đưa tay vạch một chùm hoa qua một bên, đầu óc hỗn loạn do mùi thơm tỏa ngát lẫn cái cười rạng rỡ. Nhưng không có Meggie ở đây, Ralph chỉ gặp một cậu bé trai ngồi xổm trên cỏ đang học phá một con heo con. Con heo chạy quanh thằng bé, vụng về trượt ngã. Thằng bé cười hồn nhiên. Tiếng cười Meggie. Thằng bé khoảng mười một, mười hai tuổi, chỉ mặc quần cụt bằng cải kaki mình trần, chân không, da sạm nắng, vai rộng, một thân hình chắc nịch. Tóc nó hơi dài, cuốn thành lọn, màu vàng nhạt như cỏ của Drogheda. Đôi mắt với hàng mi dày và dài đáng kinh ngạc ánh lên một màu xanh biếc. Thằng bé như một thiên thần nhỏ lén lút dạo chơi.
- Chào ông, thằng bé vừa nhìn khách vừa cười.
- Chào chú bé, Hồng Y đáp và bị ngay nụ cười hồn nhiên của thằng bé thu hút.
- Cháu tên gì?
- Dane O'' Neill, thằng bé tự giới thiệu, Còn ông là ai?
- Tôi tên Ralph... Dane O'' Neill.
Như thế thằng bé là con của Meggie. Thế là nàng vẫn chưa bỏ Luke; nàng đã trở lại với anh ta và đã sinh ra thằng bé kháu khỉnh này. Đáng lý nó là con của ông nếu trước đó ông đã không kết hôn với Chúa? Không lớn hơn thằng bé này và chắc chắc lúc ấy ông cũng không già dặn hơn thằng bé. Nếu ông không như thế, thằng bé rất có thể là con của ông. Thật là phi lý, Hồng Y De Bricassart! Nếu anh không kết hôn với Chúa, thì anh vẫn ở lại Ireland chăn nuôi ngựa, vĩnh viễn anh không biết Drogheda, kể cả Meggie Cleary.
- Ba của cháu có nhà không, Dane?
- Ba cháu? Thằng bé lặp lại câu hỏi, chân mày nhíu lại đầy kinh ngạc. Không, ba cháu không có ở nhà. Ba cháu chưa bao giờ có mặt ở đây.
- Ồ, tôi đã hiểu! Vậy thì mẹ cháu có ở nhà không?
- Mẹ cháu đi Gilly nhưng cũng sắp về rồi. Trong nhà có ngoại. Nếu ông muốn gặp, cháu đưa ông vào nhà. Ralph De Bricassart. Cháu đã nghe nói về ông. Nhớ rồi, Hồng Y De Bricassart! Thưa Đức Ngài, xin Ngài tha lỗi. Cháu không muốn tỏ ra thiếu lễ độ đâu.
Mặc dù không mặc quần áo dòng, chỉ mang giày ủng, quần cỡi ngựa và một chiếc áo trắng, Ralph vẫn đeo nhẫn có nạm một viên hồng ngọc, nhẫn này suốt đời ông không thể tuột ra. Dane O'' Neill quỳ gối, nắm lấy bàn tay của Hồng Y đặt vào hai tay mình và hôn một cách kính cẩn chiếc nhẫn.
- Cháu hãy đứng lên, Dane. Tôi đến đây không phải với tư cách Hồng Y mà với tư cách là người bạn của mẹ cháu và bà ngoại cháu.
Bỗng có tiếng gọi vang lên.
- Dane, Dane, em ở đâu?
Một cô bé khoảng 15 tuổi, xuất hiện. Ralph biết ngay là ai, chỉ cần nhìn đôi mắt và tóc cô bé. Đúng là con gái của Meggie.
- Ồ, chào ông. Xin lỗi ông. Cháu không biết có khách. Cháu là Justine O'' Neill.
- Jussy, đây là Hồng Y De Bricassart! Dane nói nhỏ với Justine. Hãy hôn ngay chiếc nhẫn của Ngài nhanh lên!
- Cứ gặp chuyện gì dính dấp đến tôn giáo là lúc nào em cũng vớ vẩn, - cô bé nói không cần hạ thấp giọng - Hôn lên một chiếc nhẫn là ngược lại các quy tắc vệ sinh. Hơn nữa, cái gì chứng minh rằng đây thật sự là Hồng Y De Bricassart? Chị thấy ông ấy giống một người chăn nuôi theo lối cũ. Em biết không, không khác ông Gordon.
- Đúng là Đức Hồng Y, chính ông ấy, Dane cả quyết. Em năn nỉ chị, chị hãy chìu em đi, ráng tỏ ra dễ thương một chút.
- Chị sẽ tỏ ra dễ thương vì em, và dù có muốn chìu ý em chị cũng không hôn lên chiếc nhẫn đâu. Gớm lắm. Làm sao chị biết rõ ai là người cuối cùng hôn lên chiếc nhẫn này. Biết đâu một người nào đó bị bệnh cúm.
- Hôn lên nhẫn tôi là vô ích, Justine. Tôi đến đây để nghỉ hè. Lúc này, tôi không phải là Hồng Y.
- Ông có cần chúng tôi dẫn đường gặp ngoại? Justine hỏi
- Không, cám ơn cháu. Tôi biết đường.
Muốn gặp Fiona thì có nơi nào khác hơn là trong văn phòng? Ralph đi và một cửa nhỏ, Fiona nghe tiếng động nhưng vẫn tiếp tục làm việc. Lưng hơi còng, mái tóc màu vàng rực rỡ trước kia nay đã bạc trắng. Khó khăn lắm, Ralph mới nhớ lại năm nay bà đã bảy mươi hai tuổi rồi.
- Kính chào bà Fiona.
Khi bà ngước nhìn lên, Ralph nhận ra ngay sự thay đổi ở người phụ nữ này, tuy thế ông vẫn không hiểu ra thái độ lạnh lùng của Fiona. Vẫn như lâu nay, trong bà có cả sự mềm mại lẫn cứng rắn, do đó trở thành nhân bản hơn, nhưng lại nhân bản theo kiểu bà Mary Carson. Chúa ơi, cái chế độ mẫu quyền ở Drogheda! Rồi nó cũng sẽ xảy ra như thế với Meggie sau này chăng?
- Chào Ralph - bà đạp lại tưởng như Ralph vẫn bước qua cửa nhỏ này hàng ngày. Tôi rất vui mừng gặp ông.
- Tôi cũng thế, rất vui mừng gặp lại bà.
- Tôi không biết rằng ông đang có mặt tại Úc.
- Không một ai biết. Tôi đi nghỉ hè vài tuần.
- Tôi hy vọng rằng ông sẽ nghỉ tại đây chứ?
- Làm sao tôi có thể nghỉ ở nơi nào khác? Bà có một khiếu thẩm mỹ đặc biệt, bà Fiona ạ. Căn phòng này không thua bất cứ căn phòng nào ở Vatican. Các cửa sổ hình trái soan màu đen với những hoa hồng nổi bật, thật là một nét thiên tài.
- Cảm ơn ông. Chúng tôi ráng làm những gì trong khả năng của mình. Nhưng tôi tự hỏi tại sao mình lại phải khổ cực như thế. Nhà này là của ông, chớ đâu phải của chúng tôi.
- Phải chờ đến khi nào không còn một người mang dòng họ Cleary thì điều bà nói mới đúng. Ralph trả lời một cách bình thản.
- Điều ông nói làm cho tôi thật yên tâm làm sao! Cho phép tôi được nói điều này: ông đã đạt nhiều thành công từ khi làm linh mục ở Gilly. ông có đọc bài báo trên tờ Diễn đàn?
Ralph không tránh né được:
- Tôi có đọc. Lời lẽ của bà thật là bén, bà Fiona ạ!
- Vâng, hơn thế ấy nữa, tôi cảm thấy thích thú được nói những điều đó, sau bao nhiêu năm thu mình lại chẳng nói một lời... Meggie đi Gilly nhưng sắp về.
Dane và Justine đi vào ngã cửa nhỏ.
- Ngoại ơi, tụi con cỡi ngựa đi dạo đến Borehead được không? - Justine nói với Fiona.
- Con biết luật lệ rồi. Không được dạo bằng ngựa mà không có phép của mẹ con. Bà ngoại không thể làm khác, đó là lệnh của mẹ con. Ô hô! Các con quên điều sơ đẳng của sự lễ phép. Hãy đến đây trình diện với khách quí của gia đình.
- Con đã gặp rồi. - Justine nói ngắn ngủn.
- Ồ...
- Thưa Đức cha, Đức cha có định nghỉ lại lâu không? Dane hỏi với sự ngưỡng mộ
- Đức cha sẽ ở lại đây với chúng ta cho đến chừng nào Đức cha muốn, Dane ạ. Fiona nói chen vào. Có điều là ngoại rất mệt tai khi nghe con không ngớt thưa bẩm Đức cha. Các con nên gọi bằng gì nào? Cậu Ralph?
- Cậu! Justine kêu lên. Không được đâu, ngoại? Các cậu đã có cậu Bob, cậu Jack, Hughies, Jims, Patsy. Vậy chỉ nên gọi Ralph vắn tắt thôi.
- Không được hỗn, Justine! Fiona cắt ngang.
- Không sao đâu, Fiona, Justine nói đúng. Tôi vẫn thích mọi người gọi giản dị cái tên Ralph, - Hồng Y can thiệp vào dứt khoát, lòng tự hỏi tại sao con bé lại tỏ ra đố kỵ với mình như thế.
- Con không thể gọi bằng bên Ralph đâu. Dane phản đối, giọng xúc động.
- Được, không sao, Dane. Cũng chẳng tội lỗi gì đâu.
Hồng Y De Bricassart đi thẳng đến chỗ Dane đứng, hai tay siết chặt đôi vai trần của Dane và mỉm cười. Đôi mắt ông trở nên dịu dàng và long lanh. Hồng Y và con trai của ông cùng quay lại phía Fiona. Cùng hướng về bà một cái nhìn giống nhau như cắt.
- Chúa ơi! Fiona kêu khẽ. Thôi được rồi, đi chơi đi Dane. Ra ngoài chơi (hai tay bà vỗ mạnh vào nhau). Cút đi!
Ralph ở lại nói chuyện rất lâu với bà Smith và những người giúp việc khác. Tất cả đều già đi rất nhiều so với lần gặp trong chuyến thăm Drogheda cuối cùng.
Khi Ralph rời khỏi nhà bếp, Meggie vẫn chưa về và để giết thời giờ, ông đi dạo dọc theo con suối. Cảnh vật ở nghĩa trang yên tĩnh làm sao! Sáu bảng đồng nổi bật trên hầm mộ, vẫn y nguyên như thế từ khi ông ghé lại đây lần chót. Phải chuẩn bị để chính mình cũng sẽ được chôn cất tại đây, Ralph tự nhắc nhở mình để khi về đến La Mã sẽ đưa ra những dặn dò cần thiết. Không xa hầm mộ, Ralph chú yến đến hai ngôi mộ mới, một của ông già Tom, người làm vườn và một là vợ của người thợ chăn nuôi làm thuê ở Drogheda từ năm 1946. ông không muốn được chôn trong hầm mộ ở Vatican giữa những nhân vật cũng như ông. Ở đây ông yên nghỉ giữa những con người đã sống thật sự.
Vừa quay nhìn lại, ông gặp cặp mắt màu xanh lục của tượng thánh bằng cẩm thạch, ông đưa tay lên chào và qua đám cỏ cao, ông hướng mắt đến tòa nhà lớn. Meggie, nàng đang đi lại. Thon thả, tóc vàng óng ả, quần cỡi ngựa bó sát và cũng chiếc áo sơ mi trắng giống hệt Ralph. Trên đầu là chiến nón rộng vành kiểu đàn ông hất ra phía sau gáy, giày ống màu nâu.
Nàng đến gần, bước qua hàng rào sơn trắng đến bên Ralph khiến ông chỉ còn thấy đôi mắt nàng, đôi mắt màu nâu ngập tràn ánh sáng. Vẻ đẹp Meggie không hề giảm chút nào vẫn hoàn toàn có quyền uy đối với trái tim ông. Hai cánh tay Meggie ôm lấy cổ Ralph, đột nhiên Ralph lại cảm thấy số mệnh của mình nằm trong vòng tay ấy. Hình như chưa bao giờ ông rời xa Meggie; đôi môi ấy đặt dưới đôi môi ông, thật sống động không phải là một giấc mơ. Ông khao khát quá lâu rồi, quá lâu rồi. Một loại thánh lễ khác, giản dị như đất, không dính dáng gì đến trời.
- Meggie, Meggie, ông thì thầm, mặt ông vùi trong mái tóc màu hung của Meggie, chiếc nón rơi xuống đất tự bao giờ. Ralph càng siết nàng vào lòng.
- Những chuyện như thế này cũng chẳng sao, phải không Ralph? Không có gì thay đổi, nàng nói, mắt nhắm.
- Không, không có gì thay đổi, Ralph quả quyết.
- Chúng ta đang ở Drogheda, Ralph, em đã báo trước với anh. Ở Drogheda anh thuộc về em chứ không phải thuộc về Chúa.
- Anh biết. Anh chấp nhận và anh đã đến (ông kéo nàng xuống thảm cỏ). Tại sao thế, Meggie?
- Tại sao là sao?
- Tại sao em lại trở lại với Luke? Tại sao em sinh cho Luke đứa con trai? Ralph hỏi trong thứ cảm giác bị cơn ghen hành hạ
Xuyên qua những cửa sổ màu nâu, tâm hồn sáng rực Meggie rọi thẳng vào Ralph, che giấu những ý nghĩ thật của nàng.
- Hắn bắt buộc em, nàng nói dịu dàng. Chỉ một lần thôi. Nhưng nhờ thế mà em có Dane. Do đó em không ăn năn về chuyện ấy. Dane đã bù đắp trọn vẹn tất cả những gì em đã phải chịu đựng với hắn.
- Xin lỗi em, anh không có quyền đặt với em câu hỏi đó. Lúc đầu, chính anh đã xô đẩy em vào tay Luke, phải không?
- Vâng, đúng thế.
- Thằng bé tuyệt đẹp. Nó có giống Luke không?
Meggie cười trong bụng, túm lấy một chùm cỏ, và nhét nó vào ngực của Ralph qua chỗ hở chiếc áo sơ mi.
- Không giống lắm. Không đứa con nào của em thật giống Luke hoặc em.
- Anh thương hai đứa vì chúng nó là con em.
- Anh bao giờ cũng đầy tình cảm. Tuổi tác không ảnh hưởng đến anh, Ralph ạ. Em tin chắc điều đó và hy vọng sẽ được thấy anh trẻ mãi. Em biết anh đã ba mươi năm nay rồi, vậy mà cứ tưởng như mới ba ngày vậy.
- Ba mươi năm? Nhiều đến thế sao?
- Anh thương yêu của em, em đến bốn mươi mốt tuổi rồi. Cũng khá lớn phải không? Trong nhà bảo em ra đây để tìm anh. Bà Smith đã chuẩn bị ấm trà thật tuyệt để đãi anh, sau đó khi trời mát hơn, chúng ta sẽ ăn giăm-bông rô ti với thật nhiều tóp mỡ.
Bob, Jack, Hughie, Jims và Patsy tham dự buổi tối như mọi thứ bảy. Sáng hôm nay, đáng lý cha Watty làm lễ nhưng Bob điện thoại báo cho ông ấy biết là cả nhà đi vắng. Nói dối để bảo vệ sự bí mật của Hồng Y ở đây.
Sau khi hai đứa nhỏ đi ngủ, Ralph nhìn lần lượt những người chủ nhà: các anh em trai dòng họ Cleary, Meggie và Fiona.
- Bà Fiona, mời bà tạm rời bàn làm việc trong chốc lát, Ralph nói. Tôi có chuyện muốn nói với... tất cả.
Fiona đi đứng vẫn vững vàng, người không mập. Bà im lặng ngồi vào một trong những chiếc ghế bành màu kem đặt trước mặt Hồng Y. Meggie ngồi bên trái bà, còn mấy đứa con trai ngồi trên những băng đá cẩm thạch gần đó.
- Về chuyện của Frank, Hồng Y mở đầu.
Tên Frank với những âm vang xa xôi làm nặng lòng tất cả những người có mặt.
- Ông muốn nói gì về Frank? Bà Fiona bình tĩnh hỏi.
Meggie đặt chiếc áo len xuống, nhìn mẹ và Ralph:
- Ông hãy nói đi, nàng lên tiếng thúc giục vì không đủ sức chịu đựng thêm một phút giây nào chờ đợi nữa.
- Frank đã thi hành xong án tù ba mươi năm. Gia đình chắc đã biết điều này khá đầy đủ qua những người thường liên lạc với tôi. Tôi có dặn họ đừng nói bất cứ gì có thể gây đau xót cho gia đình bởi cũng chẳng có lợi gì trong khi chúng ta không giúp gì được cho anh ta. Nếu trong những năm đầu ở tù anh không có những hành vi hung bạo và bất thường để phải mang tiếng xấu thì Frank đã ra tù sớm hơn. Ngay trong thời gian chiến tranh đã có nhiều tù nhân được thả để tình nguyện vào quân đội, riêng đơn xin của Frank đã bị bác.
Fiona ngước nhìn lên lạnh lùng:
- Tính tình của nó vẫn thế, bà nói không để lộ một nét xúc động.
Hồng Y nhìn mấy đưa con trong gia đình Cleary:
- Hãy chuẩn bị đi đón Frank về Drogheda trong không khí đầm ấm của gia đình.
- Đây là quê hương của Frank. Anh về đây là về nhà của gia đình. Bob trả lời.
Mọi người đều tán đồng. Riêng Fiona dường như vẫn ngập chìm trong những suy nghĩ miên man.
- Frank không còn như xưa, Hồng Y chậm rãi nói tiếp. Trước khi về đây, tôi có đến phòng giam ở Goulburn báo tin cho Frank biết và tôi đã phải nói thật với anh là mọi người ở Drogheda đều biết tất cả những gì đã xảy ra cho anh. Frank không hề nổi nóng, điều đó đủ hiểu anh ta đã thay đổi như thế nào. Anh chỉ nói... rất mang ơn. Và nôn nóng được gặp lại gia đình. Được gặp lại tất cả và đặc biệt là Fiona.
- Khi nào Frank được thả? Bob tằng hắng rồi hỏi.
- Khoảng một hay hai tuần nữa, Frank sẽ về bằng chuyến tàu đêm. Tôi muốn Frank đi máy bay nhưng anh ấy lại thích về bằng tàu hỏa.
- Patsy và con sẽ đón anh ấy ở nhà ga, Jims mau mắn đề nghi (Rồi mặt anh lại sa sầm xuống). Nhưng hai đứa tụi này không hề biết mặt Frank.
- Không ai cả, Fiona cắt ngang. Mẹ sẽ đích thân đón Frank và chỉ một mình mẹ thôi. Sức khỏe của mẹ không đến nỗi tệ đâu. Mẹ có thể lái xe tới Gilly kia mà.
- Mẹ nói đúng, Meggie nói dứt khoát trước khi các anh trai phản đối. Chúng mình nên để mẹ ra nhà ga một mình bởi chính mẹ là người đầu tiên Frank muốn gặp mặt. Năm anh em trai đứng lên một lượt.
- Đã đến lúc bọn này phải đi ngủ, miệng ngáp dài Bob nhìn Hồng Y cười rụt rè. Chúng ta sẽ sống lại cảm giác của những ngày xưa vào lúc sáng mai khi Đức cha làm lễ.
Meggie xếp chiếc áo len lại, quấn vào hai que đan, rồi đứng lên.
- Tôi cũng vậy. Xin chúc Ralph ngủ ngon.
- Chúc Meggie ngủ ngon. Chúc bà Fiona ngủ ngon - Ralph tránh không theo chân Meggie lên lầu. Trước khi ngủ, tôi đi dạo một vòng.
Khi Ralph lên lầu, của phòng ngủ của Meggie mở rộng, để lọt ra ngoài một vệt sáng. Ralph bước vào, đóng cửa lại rồi vặn khóa một vòng.
Meggie mặc áo ngủ mỏng, ngồi trên một chiếc ghế gần cửa sổ. Quay đầu lại, nàng thấy Ralph bước tới và ngồi xuống bên mép giường. Chậm rãi nàng đứng lên và đến với Ralph.
- Anh lại đây, để em cởi đôi giày ống cho anh. Chính vì vậy mà em không thích mang giày ống cao. Em không thể cởi giày ra nếu không dùng tấm cởi mà những thứ đó làm giày mau hư.
- Có phải em cố tình chọn màu áo này?
- Hồng tro? Nàng mỉm cười hỏi. Đó là màu mà em thích nhất, nói không chỏi lại màu tóc của em.
Khi nàng quay lưng lại cởi chiếc giày ống, chân của Ralph đặt lên mông nàng.
- Tại sao em biết chắc rằng anh sẽ đến phòng này để tìm em, Meggie?
- Em đã nói với anh rồi. Ở Drogheha, anh thuộc em. Nếu anh không đến, em sẽ lại tìm lại phòng anh.
Nàng cởi chiếc áo sơ mi của Ralph ra và chỉ khoảnh khắc sau, bàn tay rạo rực của nàng đã đặt lên chiếc lưng trần của ông. Tiếp đó nàng đi thẳng lại tắt đèn, trong khi Ralph đặt quần áo của mình lên lưng ghế. Ông nghe nàng đi lại trong bóng tối cởi bỏ chiếc áo ngủ.
Ngày mai, tôi sẽ làm lễ. Nhưng đó là sáng mai, lúc đó ma lực đã dịu xuống từ lâu. Còn bây giờ là ban đêm và Meggie. Tôi muốn được nàng. Nàng cũng là một thánh lễ.
Luđie và Mueller đến Drogheda ăn lễ Noel như mọi năm. Dưới mái nhà lớn nơi trú ẩn của những tâm hồn thanh thản, mọi người chuẩn bị tiếp đón những ngày lễ Giáng Sinh tuyệt diệu. Minnie và Cat vừa làm việc vừa hát, gương mặt béo phị của bà Smith tươi rói, Meggie thì giao Dane cho Hồng Y De Bricassart mà không nói thêm lời nào, còn Fiona vui hẳn lên, bớt dính cứng với chiếc bàn làm việc. Phía đàn ông khi có dịp là trở về nhà mỗi chiều, vì rằng sau buổi cơm tối rất muộn, phòng khách luôn rộn rã tiếng nói cười. Ngày thứ tư Ralph ở lại Drogheda, thời tiết rất nóng bức, Hồng Y cùng với Dane phi ngựa đi tìm một đàn cừu bị lạc, bỏ lại Justine hờn dỗi đứng một mình dưới gốc cây hồ tiêu; còn Meggie thì nằm lăn một cách lười biếng giữa những chiếc gối trên ghế dài bằng mây đặt ngoài hiên. Nàng cảm thấy thư thả, mãn nguyện và rất hạnh phúc. Một người phụ nữ có thể không cần chuyện đó trong nhiều năm nhưng thật là hạnh phúc làm sao được sung sướng với anh ấy, người đàn ông duy nhất của nàng. Khi ở bên cạnh Ralph, Meggie trải lòng đón lấy cuộc sống, ngoại trừ phần dành riêng cho Dane. Và khi nàng bên cạnh Dane, con người của nàng giang tay ra trước cuộc sống cũng còn lại một phần khác dành cho Ralph. Chỉ khi nào cả hai Ralph và Dane cùng một lúc trong cái thế giới riêng của mình như hiện giờ, thì Meggie mới cảm thấy trọn vẹn hạnh phúc.
Thế nhưng lảng vảng đâu đó, có một bóng đen làm mờ hạnh phúc của nàng. Ralph không hề biết. Nàng tự hỏi có nên giữ mãi bí mật ấy? Nếu Ralph không có khả năng tự mình khám phá thì tại sao Meggie lại tiết lộ làm gì? Ralph đã làm gì xứng đáng để nàng nói về sự thật ấy? Tại sao Ralph có thể nghĩ rằng nàng đã thuận tình quay trở lại với Luke? Ralph không xứng đáng để nàng tiết lộ nếu Ralph nghĩ rằng nàng có thể làm chuyện đốn mạt như thế. Thỉnh thoảng nàng cảm thấy đôi mắt xanh và lạnh lùng của Fiona chăm chăm nhìn nàng. Mẹ nàng hiểu mọi việc.
Điện thoại reo. Meggie đứng lên uể oải.
- Xin được nói chuyện với bà Fiona Cleary - Một giọng đàn ông bên kia đầu dây.
Nghe Meggie gọi, Fiona hấp tấp chạy đến cầm lấy ống nghe.
- Fiona Cleary đang nghe đây.
Gương mặt của bà dần dần biến sắc, căng thẳng, đó là sắc diện của những ngày tiếp theo sau cái chết của Pađy và Stuart.
- Cảm ơn ông, bà nói trước khi đặt ống nghe xuống, người yếu đuối, rã rời.
- Chuyện gì đó, mẹ?
- Frank đã được thả. Anh con đã lên tàu đêm qua và sẽ đến vào chiều nay (bà nhìn đồng hồ). Mẹ phải đi ngay, hơn hai giờ rồi.
- Mẹ cho phép con đi theo, Meggie đề nghị lòng tràn đầy niềm vui.
- Không được Meggie ạ. Con ở nhà thu xếp tất cả và nhớ đừng dọn cơm chiều trước khi mẹ về.
- Thật tuyệt phải không mẹ, Frank về nhà kịp lễ Noel.
- Thật tuyệt - Fiona đáp lại.
Title: Re: Tiếng chim hót trong bụi mận gai (tiếp)
Post by: Serenade24 on 11/05/07, 07:54
Post by: Serenade24 on 11/05/07, 07:54
Chương 36
Bây giờ không còn bao nhiêu người đi chuyến tàu đêm từ khi có những chuyến bay nối liền Gillanbone. Đoàn tàu ì ạch đi qua cả ngàn cây số lần lượt trút bỏ gần hết hành khách qua các ga tỉnh lẻ; chỉ còn một số rất ít xuống ga Gillanbone.
Trên sân ga, một mình bà Fiona lặng lẽ đứng chờ. Bà vẫn đẹp người so với tuổi tác. Nón, áo đều hợp thời trang, giày cao gót. Cuộc đời làm vợ một người chăn nuôi đã giúp bà giữ được vóc dáng trẻ trung.
Chính vì thế mà Frank đã nhận ra mẹ anh nhanh hơn là bà nhận ra anh. Frank đã năm mươi hai tuổi, đứng giữa mặt trời chiều Drogheda trông rất gầy, hốc hác, xanh xao. Đầu đã hói, quần áo không ra hình thù gì, phủ trên một thân hình tuy nhỏ nhưng vẫn còn gợi nhớ một chút sức lực. Hai bàn tay rắn rỏi nắm chặt chiếc mũ phớt màu nâu. Anh không còng lưng, không bệnh hoạn nhưng đứng chôn chân ở sân ga một cách vụng về, không tin rằng có ai đón mình và cũng không biết phải làm gì.
Rất tự chủ, Fiona nhanh chân bước tới:
- Con mạnh khỏe, Frank? bà nói.
Frank nhìn lên, hai mắt xưa kia rực sáng, lấp lánh giờ đây khuyết sâu trên gương mặt của một người già nua. Đôi mắt ấy không phải của Frank. Mệt mỏi, nhẫn nhục và vô cùng chán nản. Nhưng khi đôi mắt ấy nhìn thấy Fiona, nó lại gây nên một ấn tượng dị thường của một người bị lăng nhục, hoàn toàn không được che chở, sắp chết và đang kêu gào sự cứu giúp.
- Ôi, Frank! Bà kêu lên và ôm chầm lấy con trai. Mọi việc đều tốt đẹp, tiếng của bà dịu dàng như tiếng ru. Mọi việc đều tốt, bà tiếp tục nói giọng càng dịu dàng hơn.
Lúc đầu, Frank vẫn im lặng, ngồi lún xuống trên nệm xe. Nhưng khi chiếc Rolls tăng tốc độ và ra khỏi thành phố, anh bắt đầu nhìn hai bên đường.
- Cũng không thay đổi bao nhiêu phải không mẹ, anh nói thì thầm.
- Không. Ở đây thời gian trôi qua rất chậm.
Khi xe vượt qua chiếc cổng cuối cùng vào sân trong trước cửa tòa nhà, Frank kêu lên:
- Con không thể tưởng tượng nó đẹp như thế.
- Đây là nhà của chúng ta, Fiona nói. Gia đình mình đã bỏ rất nhiều công chăm sóc nó con à.
Bà lái xe vào gara, đưa con trai đi lên hướng nhà lớn nhưng lần này chính Frank xách vali của mình.
- Con chọn một phòng trong nhà này hay chọn một nhà khách nhỏ để ở riêng?
- Con thích căn nhà nhỏ. Cảm ơn mẹ. Con muốn được ở riêng yên ổn một thời gian.
Khi Frank gặp lại Meggie, anh không dễ dàng nhận ra đứa em gái nay đã trở thành một người phụ nữ già dặn. Mẹ tuy già nhưng anh vẫn dễ nhận ra hơn. Trong khi Meggie ôm anh, Frank rụt rè quay mặt chỗ khác, hai tay vo ve nếp áo vét nhăn nheo, rồi nhìn về phía mẹ để cầu cứu. Ãnh mắt của bà Fiona như muốn nói: không có gì quan trong; thời gian trôi qua, rồi thì tất cả sẽ trở nên bình thường.
Nhờ nhiều cố gắng của bà Fiona, Frank thích nghi dần với cuộc sống ở Drogheda và không chú ý lắm sự đố kỵ ngấm ngầm của mấy đứa em trai. Fiona xử sự với Frank như đứa con trai lớn vắng nhà một thời gian ngắn, không hề làm mất danh dự gia đình và cũng không hề gây ra sự đau khổ vô vàn cho mẹ anh. Bà kín đáo tìm cho Frank một chỗ ẩn náu mà Frank mong muốn, tách xa những đứa em trai. Bà cũng không khuyến kích Frank phục hồi lại một phần sức sống trước kia; hơn nữa sức sống ấy cũng không còn trong con người của Frank hiện nay. Fiona đã hiểu điều đó ngay cái phút giây con trai bà ngước mắt lên nhìn trên sân ga Gillanbonẹ Không có chuyện đưa Frank đi làm ngoài các bãi chăn vì các em trai sẽ phản đối, hơn nữa Frank cũng không thích một công việc mà xưa kia anh vẫn ghét. Dần dần các em trai của Frank quen với sự trở về của con cừu ghẻ lở trong lòng gia đình. Không có điều gì có thể làm thay đổi tình cảm của mẹ chúng đối với Frank, Frank ở tù, hay ở Drogheda cũng chẳng quan hệ gì, bà vẫn luôn luôn yêu Frank thiết tha. Sự hiện diện của Frank ở Drogheda làm cho bà hạnh phúc và đó là điều quan trọng nhất. Frank không chen vào cuộc sống trước đây của các nhân vật khác ở Drogheda và vẫn trung thành với con người xưa của mình.
Thế nhưng, sự có mặt của Frank ở Drogheda không mang lại một niềm vui thật sự cho Fiona. Làm sao khác hơn bây giờ? Khi nhìn thấy Frank mỗi ngày, lòng bà như bị khơi dậy một nỗi buồn khác hẳn nỗi buồn mà bà đã chịu đựng trong thời gian vắng Frank. Đó là niềm đau đớn dữ dội phải chứng kiến cuộc sống của một con người đang bị hủy diệt. Con người đó lại là đứa con trai thương yêu nhất của bà, nó đã trải qua những nỗi đau đớn không thể tưởng tượng.
Một hôm, bấy giờ Frank đã trở về được khoảng sáu tháng, Meggie bước vào phòng khách và gặp mẹ đang ngồi nhìn Frank qua một trong những cửa sổ lớn. Frank đang xén hàng rào hoa hồng dọc theo con đường nhỏ. Đột ngột bà quay lại và có điều gì đó hiện ra trên gương mặt lạnh lùng của bà khiến cho Meggie phải đưa hai tay ôm lấy ngực.
- Ôi, mẹ! Nàng bối rối.
Fiona nhìn con gái, lắc đầu và mỉm cười.
- Không có gì quan trọng, Meggie à.
- Phải, chỉ có con mới giúp ích điều gì cho mẹ.
- Con có thể. Đừng thay đổi thái độ của con. Mẹ rất mang ơn con. Con đã trở thành đồng minh của mẹ.
Chương 37
Xong rồi, Justine nói với mẹ, con đã quyết định. Con biết sẽ theo nghề nào.
- Mẹ tưởng rằng chuyện xong lâu rồi chứ. Con sẽ theo học nghành mỹ thuật ở trường Đại học Sydney phải không?
- Không đâu mẹ, con nói dối để mẹ yên tâm khi con chuẩn bị kế hoạch. Bây giờ tất cả đã xong, con có thể tiết lộ hết bí mật với mẹ.
Meggie mệt mỏi nhìn Justine, sốt ruột và bất lực. Trước một đứa con cứng đầu, bướng bỉnh như Justine, Meggie đành chịu thôi.
- Vậy con nói hết bí mật của con đi, mẹ sốt ruột quá. Meggie vừa nói vừa tiếp tục chọn từng cái bánh chuẩn bị nướng.
- Con sẽ trở thành diễn viên.
- Sao?
- Diễn viên.
- Chúa ơi! (Meggie tạm ngưng công việc của mình.) Justine con nghe đây, mẹ không thích làm con kỳ đà và cũng không có ý định làm buồn phiền con. Nhưng bộ con tưởng con có được nhan sắc để theo nghề đó?
- Không phải như vậy đâu mẹ! Justine tỏ vẻ hơi nản. Không phải tài tử màn ảnh đâu! Mà là diễn viên! Con không chịu làm những cái trò uống éo mông, phô bày bộ ngực hay nút lưỡi đâu. Con muốn đóng kịch. Con có đủ tiền để theo học bất cứ ngành nào con thích chứ?
- Phải! Nhờ sự giúp đỡ của Hồng Y De Bricassart.
- Vậy thì con không bàn lui nữa. Con sẽ theo học lớp kịch của Alber Jones trên sân khấu Culloden và con viết thư cho viện kịch nghệ Hoàng gia ở Luân Đôn để đăng ký vào danh sách chờ đợi.
- Con đã suy nghĩ kỹ chưa, Justine?
- Vâng, con đã suy nghĩ từ lâu.
- Mẹ vẫn không hiểu, Meggie vừa lắc đầu vừa nói một mình. Diễn viên.
Justine nhún vai.
- Mẹ nghĩ coi, con tìm ra nơi nào cho phép con la hét, gầm lên như trên sân khấu? Ở đây thì không thể được rồi, ở nhà trường hay ở một nơi nào khác cũng thế! Con lại thích la hét, chỉ có thế thôi!
- Nhưng con làm thế nào để được chấp nhận học sân khấu Culloden?
- Con đã qua một kỳ trình diễn thử.
- Và con đã trúng tuyển?
- Đúng là mẹ tin cậy ở con gái mình. Đúng thế, con đã trúng tuyển! Con diễn rất tốt mẹ biết không. Một ngày nào đó con sẽ nổi tiếng.
- Con không định lấy chồng?
- Con chẳng nghĩ đến điều ấy nhưng con không thích cuộc sống lại mất thì giờ vào việc lau mũi, rửa đít cho trẻ con. Hoặc chiều chuộng vuốt ve một thằng đàn ông không ra gì mà cứ tưởng mình ngon lắm. Nhất định không.
- Con nói quá đáng Justine ạ. Ma quỷ nào đã dạy con nói cái giọng đó? Con không khác ba con chút nào!
- Cứ mỗi lần con làm sai ý mẹ là mẹ nói giống hệt ba con. Thế thì con phải đành tin lời mẹ vì rằng con chưa bao giờ được gặp con người hào hoa phong nhã ấy.
- Khi nào con đi? Meggie nói sang chuyện khác.
Justine cười:
- Mẹ muốn con đi sớm cho khuất mắt mẹ phải không? Con thông cảm mẹ và không giận mẹ chút nào. Mẹ biết không, con không kìm chế được mình trêu chọc người khác, nhất là với mẹ. Mẹ nghĩ sao nếu con xin mẹ đưa con ra sân bay ngày mai?
- Mẹ đề nghị ngày mốt. Ngày mai, mẹ đưa con ra ngân hàng. Con cần biết con có bao nhiêu tiền. Và, này Justine...
Justine đang phụ mẹ làm bánh. Giọng nói đột ngột thay đổi của Meggie khiến cho Justine ngừng tay lại ngước mắt lên nhìn mẹ.
- Mẹ nói đi...
- Nếu một mai con gặp những chuyện buồn phiền, con hãy quay trở về nhà, đừng do dự con nhé. Ở Drogheda luôn có chỗ dành cho con; mẹ muốn con nhớ điều đó. Dù sau này con có làm chuyện gì tồi tệ mấy đi nữa thì điều đó cũng không cản ngăn con trở về đây.
Ãnh mắt Justine dịu xuống.
- Cảm ơn mẹ
Chương 38
Trở lên Sydney, Justine lo chăm sóc ngay sắc đẹp của mình, trước hết tìm cách phá những vết tàn nhang trên mặt, tiếp đó đi mướn một căn hộ riêng gồm hai phòng ở phố Neutral Bay, trong chung cư Bothwell Gardens, giá năm bảng mười xu mỗi tuần. Chung cư Bothwell Gardens gầm năm căn tất cả. Anh chàng thanh niên người Anh Peter Wilkins ở sát vách tìm mọi cách chinh phục Justine nhưng không thành công. Một hôm anh ta mời Justine sang phòng anh uống trà, lợi dụng dịp này tấn công Justine. Những năm lao động ở Drogheda đã cho Justine sức mạnh phi thường, hơn nữa cô cũng không ngần ngại vi phạm luật lệ của môn quyền Anh dùng những cú đấm dưới thắt lưng để tự bảo vệ mình.
- Chúa ơi! Justine! Peter hét lên, đau điếng đến chảy nước mắt. Giữ gìn để làm gì cái quái ấy! Trước sau rồi cũng phải mất thôi! Thời đại nữ hoàng Victoria xưa rồi. Đâu cần gìn giữ cái tiết trinh kín bưng như đóng hộp để làm gì!
- Tôi không có ý định đóng hộp chờ ngày cưới, Justine vừa trả lời vừa sửa lại chiếc váy. Nhưng tôi chưa biết phải dành cho ai vinh dự ấy. Chỉ có thế thôi.
Các bạn trai của Justine tò mò hỏi, khi nào và với ai, Justine sẽ quyết định trở thành một người đàn bà thật sự. Nhưng Justine vẫn không hấp tấp.
Cho đến một hôm Justine lọt vào cặp mắt của Arthur Lestrange. Arthur Lestrange, một diễn viên chuyên đóng vai kép mùi của đoàn kịch Alber Jones, hơn bốn mươi tuổi, gương mặt rất đàn ông, mái tóc dợn sóng, luôn gặt hái sự tán thưởng của khán giả mỗi khi xuất hiện trên sân khấu. Arthur Lestrange chú ý Justine khi Justine diễn một đoạn trong vở Lord Jim của Conrad.
Arthur mời Justine đi uống cà phê. Cuộc nói chuyện giữa hai người dẫn đến đề tài vốn sống cần thiết đối với một kịch sĩ. Justine tự cho mình hiểu gần hết các mặt của cuộc sống. Arthur đề cập đến kinh nghiệm sống, Justine trả lời cho đến nay tôi chỉ cần quan sát.
- Ồ! Nhưng nếu là chuyện tình yêu? Arthur hỏi ngược lại, cố tình chuyển giọng nặng xuống ở chữ cuối cùng - thì làm sao cô có thể đóng vai Julliette mà không biết tình yêu là gì?
- Anh đã thắng một điểm. Tôi hoàn toàn đồng ý với anh.
- Cô có yêu bao giờ chưa?
- Chưa?
- Cô có biết điều gì về tình yêu chưa?
Lần này Arthur nhấn mạnh biết điều gì chứ không phải tình yêu.
- Chưa biết điều gì cả.
- Tôi rất muốn giúp cô biết được thế nào là một người đàn bà - Arthur đột ngột nói.
- Tại sao không? Được rồi, anh đừng dông dài nữa, coi chừng tôi đổi ý bây giờ.
Và chuyện biết được thế nào là một người đàn bà đã xảy ra ngay tối hôm đó tại khách sạn Metropole. Giữa hai người không có tình yêu. Với Justine chủ yếu là tò mò và để có vốn sống mà đóng vai Juliette. Trong suốt quá trình tìm hiểu Justine đòi nhờ Arthur hướng dẫn từng động tác một.
Sáng hôm sau Justine gặp Dane. Trong nhiều mặt, Justine gần gũi với Dane nhiều hơn là mẹ cô gần gũi với cô hay Dane. Mối liên hệ mật thiết giữa Justine và Dane hình thành rất sớm và ngày càng được củng cố. Justine thường kể lể dài dòng với Dane chuyện này chuyện nọ, nên cậu ta hiểu chị mình nhiều hơn là Justine hiểu được em mình. Trong chừng mực nào đó, Dane cho rằng Justine hơi bốc đồng về phương diện đạo đức, mình có nhiệm vụ cảnh giác Justine những điều mà người chị không chú ý đến. Thế là cậu ta chấp nhận đóng vai người nghe kiên nhẫn với một thái độ dịu dàng và một tình thương sâu kín dành cho Justine. Nếu Justine khám phá được những suy nghĩ thầm kín của Dane, cô ta có thể nổi khùng lên.
- Em nói xem tối hôm qua chị làm gì?
- Biểu diễn trong một vai chính? Dane đoán mò.
- Đần! Em tưởng chị cần nói chuyện đó để kéo em éơi nhà vỗ tay khen chị à? Ráng động não đi.
- Chị nhận lãnh một cú đấm của Bobbie định tặng cho Billie?
- Em thật ngớ ngẩn!
Hai chị em đang ngồi trên thảm cỏ dưới bóng mát của nhà thờ Đức Mẹ đồng trinh. Dane đã gọi điện thoại yêu cầu gặp Justine để báo cho biết mình sắp dự một lễ đặc biệt trong thánh đường.
Dane vừa kết thúc năm học cuối cùng ở Riverview tốt nghiệp thủ khoa toàn trường, là thủ quân của các đội quần vợt, bóng ném, bóng bầu dục và cricket. Mười bảy tuổi và cao một mét tám mươi lăm.
Hôm nay là một ngày đẹp trời, nắng ấm.
- Thế thì chị đã làm gì đêm qua, Justine?
- Chị đã không còn trinh tiết..., hình như thế.
Dane mở to hai mắt.
- Chị điên rồi!
- Hùm! Chị nghĩ cũng đã đến lúc rồi. Làm sao chị có thể trở thành một diễn viên giỏi nếu chị vẫn mù tịt về những chuyện xảy ra giữa người đàn ông và người đàn bà?
- Đáng lý chị nên dành cho người đàn ông mà chị sẽ lấy làm chồng.
Justine nhìn Dane nhăn mặt tỏ vẻ bực bội.
- Chị nói thật Dane nhé, em bảo thủ đến mức chị phải khó chịu. Nói như em, lỡ như chị không gặp người đàn ông ấy trước bốn mươi tuổi thì sao? Em muốn chị phải làm gì? Chị chỉ được dùng cái mông của chị để ngồi thôi trong suốt thời gian ấy? Em muốn thế phải không? Hay giữ cái đó cho đến ngày em lấy vợ?
- Có lẽ em sẽ không bao giờ lấy vợ.
- Vậy thì chị cũng thế. Trong trường hợp này, tại sao lại gói cái đó cẩn thận, thắt ru-băng màu xanh và cất kỹ trong một cái tủ sắt với những hy vọng hão huyền? Chị chẳng muốn chết một cách ngu đần như thế.
Nhưng rồi cái vẻ bất cần đời ấy bỗng mất đi trên gương mặt của Justine.
- Nhưng bây giờ chị thấy mình xấu xa. Nếu không hiểu rõ em, chị có thể nghĩ rằng em coi thường chị... hay ít ra cũng coi thường động cơ thúc đẩy chị làm chuyện đó.
- Chị rất hiểu em mà. Không khi nào em coi thường chị. Dù cho lý do chị nêu lên quả thật là kỳ cục và ngu ngốc. Em là tiếng nói của lương tâm chị, Justine O'' Neill.
- Nhưng em cũng là một thằng ngốc!
- Ồ, Justine...! Dane nói giọng buồn bã.
Nhưng Dane chưa kịp kết thúc câu nói thì Justine lại nói tiếp thật nhanh:
- Mãi mãi, mãi mãi, chị sẽ không yêu bất kỳ ai! Nếu mình yêu người khác, người khác sẽ hủy diệt mình. Nếu mình cần người khác, người khác sẽ hủy diệt mình. Đúng thế, chị đoan chắc với em như thế.
- Sao mẹ im lặng thế? Dane hỏi. Mẹ đang nghĩ gì? Nghĩ về Drogheda phải không?
- Không, Meggie trả lời lạc giọng. Mẹ nghĩ là mẹ đã già rồi. Sáng nay khi chải đầu mẹ vừa phát hiện nhiều sợi tóc bạc. Các khớp xương của mẹ bắt đầu cứng lại.
- Mẹ sẽ không bao giờ già, Dane khẳng định một cách tự nhiên.
- Mẹ mong con nói đúng, con yêu quí của mẹ. Nhưng tiếc thay sự thật lại không như thế. Mẹ bắt đầu thấy cần nước nóng ở suối Borehead, đó là một dấu hiệu của tuổi già.
Hai mẹ con đang phơi nắng trên cỏ gần suối nướng nóng Borehead.
- Con có nghĩ đến chút nào về phụ nữ không Dane? Meggie hỏi giọng băn khoăn.
Dane mỉm cười.
- Chim và bướm, có phải mẹ muốn nói thế?
- Về chuyện này, con không dốt đâu, nhất là khi có một người chị như Justine! Mỗi khi cô ta khám phá điều gì đó trong quyển sinh lý học thì cô ta la ầm lên. Không phải chuyện đó. Mẹ muốn hỏi con đơn giản thôi, con có từng áp dụng trong thực tế những bài học của Justine?
Dane lắc đầu và trườn lên bãi cỏ đến sát bên mẹ. Cậu ta nhìn thẳng vào mắt:
- Thật cũng lạ khi mẹ hỏi con chuyện này. Lâu rồi con muốn đề cập vấn đề này với mẹ nhưng con không biết phải nói thế nào.
- Con chỉ mới mười tám tuổi. Cũng còn hơi sớm để vận dụng những hiểu biết ấy vào thực tế.
- Đó chính là điều con muốn nói với mẹ. Dứt khoát sẽ không bao giờ con làm như thế!
Gió lạnh như thổi lại từ giữa hai làn nước! Lạ thật, thế mà trưóc đây không bao giờ Meggie để ý hiện tượng đó. Chiếc áo choàng đâu rồi?
- Không áp dụng lý thuyết vào thực tế. Dứt khoát không áp dụng, Meggie lặp lại bằng một giọng đều đều mà không đặt câu hỏi về ý nghĩa của những lời lẽ ấy.
- Thưa mẹ, đúng như thế. Con không muốn. Không phải vì con không nghĩ tới, hay vì không muốn có vợ. Cũng có lúc con có nghĩ tới đó chứ, nhưng con không thể thực hiện được, vì rằng con không còn chỗ để yêu thương vợ và con cùng một lúc với Chúa. Con nhận ra điều này từ lâu. Con nghĩ rằng con vẫn thấy rõ điều đó và càng đi tới, tình yêu dành cho Chúa càng lớn hơn. Yêu Chúa, đó là một bí ẩn vĩ đại.
Meggie vẫn nằm dài, nhìn chăm chăm vào đôi mắt xanh ấy, đôi mắt bình thản và xa vắng. Đúng là đôi mắt của Ralph không khác một chút nào. Nhưng nó lại ánh lên một thứ lửa hoàn toàn không có ở Ralph. Phải chăng năm mười tám tuổi, đôi mắt của Ralph cũng đã từng ánh lên một thứ lửa ấy. Có phải đây là sự hưng phấn chỉ xuất hiện ở tuổi mười tám? Ngày Meggie bước vào cuộc đời của Ralph thì tuổi mười tám của Ralph đã trôi qua đến mười năm rồi. Nhưng con trai của Meggie là một người sùng tín, Meggie biết rõ điều đó từ lâu.
... Meggie thấy nghẹn ở cổ. Nàng kéo chiếc áo choàng sát vào người.
- Thế là, con đã tự hỏi con có thể làm gì để chứng minh với Chúa rằng con yêu thương Người đến mức nào, Dane nói tiếp. Trước đây con muốn có một cuộc sống của một người đàn ông bình thường. Con rất muốn giữ cuộc sống đó. Nhưng con lại hiểu Chúa chờ đợi gì ở con. Con đã biết... Chỉ có một điều duy nhất mà con có thể hiến dâng cho Người để chứng minh với Người rằng trong trái tim con chỉ có Người mà thôi, ngoài ra không thể có ai khác. Con phải hiến dâng cho Người sự hy sinh mà Người đòi hỏi ở con. Con phải chọn lựa. Người vẫn để cho con hưởng mọi lạc thú, ngoại trừ chuyện ấy. Con cần chứng tỏ với Người rằng con hiểu tại sao Người ưu đãi sự ra đời của con. Con cần chứng tỏ với Người rằng con ý thức về sự vô nghĩa của cuộc sống đàn ông nơi con.
- Không! Con không thể làm thế! Mẹ không bao giờ để cho con làm điều như thế! Meggie kêu lên, bàn tay bấu vào cánh tay con trai.
Làn da của Dane mịn làm sao! Dấu hiệu của một sức lực căng tràn giống như Ralph, hoàn toàn như Ralph! Thế mà từ nay sẽ không có một thiếu nữ nào có thể đặt bàn tay lên làn da ấy.
- Con muốn trở thành linh mục, Dane lại nói tiếp. Con biết không dễ dàng nhưng con đã nhất quyết như vậy.
Đôi mắt Meggie biến sắc! Nàng có cảm giác như Dane đã giết chết mình, đã nghiến nát mình dưới gót giày. Dane không ngờ rằng cậu ta phải hy sinh cả mẹ. Trước đó cậu ta tưởng rằng mẹ mình sẽ vô cùng hãnh diện về con trai, về hạnh phúc được hiến dâng đứa con trai cho Chúa. Thực tế trái lại, Meggie coi cái viễn ảnh Dane trở thành linh mục như một bản án tử hình đối với mình.
- Con không ước muốn điều gì khác mẹ ạ. Dane nói trong thất vọng khi nhìn thấy ánh mắt tắt lịm của mẹ. Mẹ ơi, chẳng lẽ mẹ không hiểu? Con đã không muốn gì và chẳng muốn gì hơn là trở thành linh mục! Con không thể khác hơn là linh mục!
Meggie để bàn tay mình buông thả, không đủ sức nắm cánh tay của con nữa; Dane nhìn xuống và thấy những vết tái hình cung nhỏ do móng tay để lại sâu trên dạ
Meggie ngước đầu lên và cười điên dại, những tràng cười cuồng loạn, chua chát, mỉa mai.
- Trời ơi, Có lẽ nào đó là sự thật! Một lúc khá lâu Meggie mới nói được trong hơi thở dồn dập, một tay run rẩy lau những giọt nước mắt đọng lại trên má. Thật là trơ trẽn không thể tưởng tượng được! Hồng tro! Anh ấy đã gọi như thế chiều tối hôm phi ngựa đến vũng Borehead. Quả thật lúc đó mình không hiểu anh ấy muốn nói gì khi đề cặp hai tiếng ấy. Con chỉ là tro bụi và con hãy trở về tro bụi. Con thuộc vê Giáo hội, phải trả con về với Giáo hội. ôi! Chúa đáng nguyền rủa! Chúa xấu xa! Kẻ thù tệ hại nhất của những người phụ nữ. Chúa là thế đó! Tất cả những gì mình nỗ lực xây dựng, Người làm mọi cách để phá đổ!
- ôi, không phải thế đâu, không phải thế đâu mẹ ạ. Con van lạy mẹ!
Dane ôm mẹ khóc. Trong sự đau khổ của Meggie cậu ta không hiểu được lý do, cũng như không hiểu được ý nghĩa những gì mà Meggie đã nói. Nước mắt chảy dài xuống, trái tim thắt lại; thế là sự hy sinh đã xảy ra rồi mà cậu ta không hề nghĩ đến. Nhưng, dù khó vì nỗi đau mẹ, cậu ta vẫn không từ bỏ ý nghĩ hiến mình cho Chúa, không thể vì mẹ mà từ bỏ sự chọn lựa của mình. Sự hiến dâng cho Chúa phải được thực hiện, thực hiện càng khó khăn thì nó càng có giá trị trước Người.
Meggie đã làm cho con trai khóc; cho tới nay Dane chưa từng khóc do lỗi lầm của chính cậu ta gây ra. Thật là bất công nếu đổ trút lên con hình phạt mà mình phải gánh chịu. Dane không thể nào khác hơn con người mà những gien của nó đã hình thành hoặc Chúa đã hình thành. Chúa của Ralph. Đứa con trai yêu dấu ấy là ánh sáng của đời nàng. Không thể để nó đau khổ vì nàng, không thể được.
- Dane, con đừng khóc, Meggie thì thầm vừa vuốt ve những vết bầm hằn sâu trên cánh tay đầy lông tơ của Dane, hậu quả của một lúc giận dữ. Mẹ rất ân hận. Mẹ ăn nói lung tung. Mẹ bị bất ngờ quá có thế thôi. Tất nhiên là mẹ vui sướng vì con, vui sướng thật sự. Tại sao mẹ lại không vui nhỉ? Con dội cho mẹ cái tin ấy mà không chuẩn bị trước gì cả, con biết không?
ánh mắt của Dane sáng lên, nhìn mẹ không chút nghi ngờ. Tại sao Dane lại tưởng tượng một cách vô lý rằng mình đã giết chết mẹ? Bây giờ thì đúng là đôi mắt của mẹ, đôi mắt Dane quen thuộc và tràn đầy yêu thương, đôi mắt thật sinh động. Dane ôm mẹ trong vòng tay khỏe mạnh của cậu, siết mạnh mẹ vào lòng ngực.
- Mẹ nói thật là việc này không làm mẹ ưu phiền chứ?
- Sao lại ưu phiền? Một người mẹ công giáo tốt lại ưu phiền khi hay con mình muốn trở thành linh mục sao? Hoàn toàn không thể có chuyện đó (Meggie đứng phắt lên). Trời lạnh rồi đó! Mẹ con mình về đi.
Hai mẹ con đã đến đây trên chiếc Land Rover; Dane ngồi vào tay lái, Meggie kế bên.
- Con tính sẽ đi học ở đâu? Nuốt nước mắt, Meggie hỏi.
- Có thể ở tu viện Thánh Patrick. Dù sao cũng còn phải chờ lúc con có quyết định dứt khoát. Con cũng thích trở thành tu sĩ dòng Tên, nhưng bây giờ con vẫn chưa thấy thật chắc chắn.
Meggie nhìn đăm đăm những lớp cỏ ngà màu nâu lần lượt rạp xuống trước đầu xe, kính chắn gió trước mặt lấm tấm đầy xác côn trùng.
- Mẹ có một ý kiến rất hay, Dane ạ.
- ý kiến gìthưa mẹ?
- Mẹ sẽ gởi con đến La Mã, đến Hồng Y De Bricassart. Con nhớ Ngài chứ?
- Con nhớ Ngài không ạ - Sao mẹ lại hỏi lạ lùng vậy? Không thể nào con quên được Ngài. Với con, Ngài là hiện thân của một con người hoàn thiện Nếu con phấn đâu được theo gương của Ngài thì con mãn nguyện vô cùng.
- Sự hoàn thiện cũng chỉ là tương đối con ạ, Meggie nhận xét không giấu được chút cay đắng. Nhưng mẹ giao con cho Ngài vì mẹ biết rằng Ngài sẽ chăm sóc con chu đáo, như thế đủ cho mẹ vui lòng. Con có thể vào một tu viện ở La Mã.
- Có thật không mẹ? Thật chứ? ánh mắt Dane rực sáng niềm vui mờ nhạt tất cả nỗi âu lọ Nhưng mà nhà mình có đủ tiền cho con vào tu viện ở La Mã không? Sẽ tốn kém hơn nhiều so với việc hoc. tại úc.
- Tiền bạc cũng lại nhờ vào chính Đức Hồng Y De Bricassart. Con yêu thương của mẹ, con không bao giờ thiếu tiền đâu.
Về đến nhà, người đầu tiên Meggie gặp là bà Annẹ
Từ mười tám năm nay, vợ chồng Luđie hàng năm đều đến nghỉ hè ở Drogheda và họ nghĩ rằng sẽ còn rất lâu như thế. Nhưng vào mùa thu năm trước Luđie Mueller đột ngột qua đời. Meggie đã viết thư đề nghị. Anne đến sống hẳn ở Drogheda; ở đây thật sự có thể đùm bọc cùng một lúc cả ngàn người khách. Nhưng để tránh cho Anne tự ái, Meggie gợi ý nếu bà muốn có thể góp một số tiền nào đó. Thật tâm, Meggie muốn trả ơn gia đình Mueller về những năm nàng sống cô độc ở miền Bắc Queensland.
- Có chuyện gì đó Meggie, Anne hỏi.
Meggie ngồi phịch xuống ghế.
- Em có cảm tưởng như vừa bị quật ngã bởi một tia chớp xử tội em.
- Sao?
- Chị và mẹ em, hai người đều có lý. Hai người đã tiên toán rằng mình sẽ mất nó. Em đã không tin. Em thật sự tưởng rằng em mạnh hơn Chúa, nhưng không bao giờ một người phụ nữ lại có thể đối đầu với Chúa được. Chúa là một người đàn ông.
Fiona rót một tách trà cho con gái.
- Con uống đi, bà nói như ra lệnh. Con đã mất nó như thế nào?
- Dane muốn trở thành linh mục.
Một tiếng cười gằn chen lẫn trong những tiếng khóc. Anne với lấy hai cây gậy, đi khập khiễng đến chiếc ghế bành của Meggie, vụng về ngồi lên trên tay ghế và vuốt mái tóc vàng hung óng ả của nàng.
- Ồ, Em của chị! Như thế có gì là ghê gớm đâu!
- Cô có biết chuyện của Dane không? Fiona quay qua Anne hỏi.
- Cháu biết từ lâu, Anne đáp.
Meggie dịu xuống:
- Không có gì ghê gớm lắm phải không mẹ? Đây là điểm khởi đầu của một sự kết thúc. Con đã cướp Ralph của Chúa và bây giờ con phải trả lại cho Chúa chính đứa con trai của con. Mẹ đã nói với con rằng đó là sự cướp đoạt, mẹ có nhớ không? Lúc đó con không chịu tin mẹ nhưng bây giờ mẹ có lý như đã từng có lý trước bao nhiêu điều khác.
- Nó sẽ vào tu viện Thánh Patrick? Fiona hỏi, bà luôn luôn thực tế.
Meggie cười vang, mẹ ạ. Không, con sẽ gởi Dane cho Ralph. Phân nửa con người Dane là của Ralph. Nó có thể dựa vào Ralph. Đối với con, Dane quan trọng hơn Ralph. Con biết Dane muốn đến La Mã.
- Em có thú nhận cho Ralph biết ông ấy là cha của Dane không? Lần đầu Anne đề cập đến vấn đề này.
- Không, không bao giờ em nói cho Ralph biết điều đó. Không bao giờ chị ạ.
- Hai người rất giống nhau đến mức không thể không nhận ra.
- Ai? Ralph à? ông ấy chẳng hề hay biết gì cả! Em sẽ giữ bí mật của em. Em gởi đến cho ông ấy đứa con của em. Chứ không phải đứa con của ông ấy.
- Coi chừng, đó lại là sự ghen tuông với thánh thần, Meggie - Anne nói thật nhỏ. Thánh thần chưa để em yên đâu.
- Em còn phải chịu hành phạt nào khác nữa? Meggie hỏi lại trong tiếng thở dài.
Chiếc xe hơi của Vatican đến rước Dane tại sân bay và đưa Dane đi qua các con đường ngập nắng đông đúc những người đi dạo.
Vừa ăn kem Dane vừa thích thú tò mò khám phá những bức tượng mà trước đây cậu ta chỉ nhìn thấy trong ảnh, những cột thời La Mã, những lâu đài xưa, Thánh đường Saint Peter, niềm tự hào của phục hưng.
Và tại đây, Ralph đón Dane, lần này từ đầu đến chân ông mặc toàn màu đỏ thắm. Ralph chìa bàn tay ra, chiếc nhẫn lấp lánh. Dane sụp quỳ xuống, hôn viên hồng ngọc.
- Con hãy đứng lên, để cha ngắm nhìn con một chút nào?
Dane đứng dậy, nụ cười trên môi, nhìn con người to lớn, có chiều cao như mình. Cả hai có thể nhìn nhau trong mắt. Với Dane, ở Hồng Y De Bricassart tỏa ra vầng hào quang chứa đựng một quyền lực tinh thần đặt ông vào tư thế một giáo chủ hơn là một vị thánh. Thế nhưng, đôi mắt ấy lại ngập tràn một nỗi buồn u uẩn, lại càng không phải là đôi mắt của một người giáo chủ. Ôi, ông đã trải qua biết bao đau khổ khiến cho đôi mắt còn đọng lại nỗi buồn ấy, nhưng ông đã vượt lên sự đau khổ một cách cao thượng để trở thành vị linh mục hoàn toàn giữa chúng ta.
Trong khi đó Hồng Y De Bricassart nhìn đứa con trai mà ông không biết đó là con mình. Ông yêu thương Dane vì ông nghĩ rằng đó là con của Meggie yêu dấu. Nếu ông có một đứa con trai, ông rất muốn nó giống như chàng trai đứng trước mặt ông, cũng cao lớn, có một nét đẹp thu hút và có duyên.
Nhưng ông bằng lòng hơn tất cả là những nét hấp dẫn về thể hình, ở Dane hiện rõ cái đẹp từ sự giản dị của tâm hồn. Dane có sức mạnh của những thiên thần và phần nào đó là sự cao cả của họ. Bản thân ông có được như thế ở tuổi mười tám không? Ralph cố nhớ lại và khơi dậy trong trí nhớ biết bao sự kiện của mọt cuộc đời đã về chiều... Không. Ông không hề có những gì như Dane hôm nay. Phải chăng vì con người này đã thật sự đến với Chúa do sự chọn lựa của chính mình? Còn với ông, thì không phải như thế, dù cho ông có thiên hướng. Về điều này ông nhớ rất kỹ.
- Con hãy ngồi xuống, Dane. Con có làm theo lời cha căn dặn, đã bắt đầu học tiếng àchưa?
- Con đã đạt trình độ có thể nói trôi chảy nhưng chưa sử dụng thành thạo các thành ngữ. Con đọc rất dễ dàng, vì đây là sinh ngữ thứ tư của con nên việc học cũng thuận lợi. Vài tuần lễ ở àsẽ giúp con làm quen với ngôn ngữ bình dân.
Em giao cho anh trách nhiệm chăm sóc Dane - thư của Meggie viết. - Cuộc sống yên vui và hạnh phúc của nó tùy thuộc vào anh. Em đã lấy cắp cái gì, em xin trả lại cái đó. Người ta buộc em như thế. Chỉ xin anh hứa với em hai điều để em yên tâm là anh hết lòng lo cho Dane. Thứ nhất, anh hứa với em trước khi Dane có một sự chọn lựa dứt khoát, chính anh phải hiểu rõ một cách chắn chắn thiên hướng thật sự của Dane. Thứ hai, nếu thiên hướng của Dane là đúng như vậy, anh hãy trông nom làm sao cho sự lựa chọn ấy không bị chao đảo. Còn ngược lại, em muốn Dane trở về với em. Vì trước hết, nó thuộc về em. Chính em đã trao nó vào tay anh.
- Dane, con có tin chắc vào thiên hướng của con?
- Chắc chắn thưa Đức cha.
- Tại sao?
- Vì tình yêu mà con dành cho Chúa; con muốn được phục vụ Chúa, suốt đời là người chăn dắt con chiên cho Chúa.
- Con có hiểu điều gì đòi hỏi ở người làm tôi tớ của Chúa?
- Con hiểu.
- Rằng không có một tình yêu nào khác được chen vào giữa Chúa và con? Con hoàn toàn thuộc về Chúa và từ bỏ tất cả
- Thưa vâng.
- Rằng mọi việc đều hành xử theo ý muốn của Người; khi trở thành tôi tớ của Người, con phải từ bỏ nhân cách, cái nhân của con, từ bỏ ý nghĩ cho rằng bản thân con là quan trọng?
- Thưa vâng.
- Rằng con sẵn sàng đối đầu với cái chết, tù tội, cái đói nhân danh Người? Rằng con sẽ không sở hữu bất cứ cái gì, không để cho bất cứ cái gì ảnh hưởng xấu đến tình yêu của con hiến dâng cho Người?
- Thưa vâng.
- Con có nghị lực không Dane?
- Con là một người đàn ông. Con biết rằng sẽ rất khó khăn nhưng con cầu nguyện Người giúp con.
- Con có thật sự tin ở con không Dane? Không có điều gì khác có thể làm con sa ngã?
- Thưa vâng.
- Và nếu sau này, con thấy cần thay đổi ý kiến con sẽ làm thế nào?
- Con sẽ xin rời khỏi nơi đây, Dane trả lời, vẻ ngạc nhiên. Nếu con thay đổi ý kiến, duy nhất chỉ vì con sai lầm khi định ra thiên hướng của mình, chứ không do một nguyên nhân nào khác. Trong trường hợp này, con sẽ xin rời khỏi nơi đây. Con sẽ tiếp tục yêu Người nhưng con hiểu ra rằng không phải bằng cách này Người muốn con phục vụ cho Giáo hội.
- Nhưng khi con đã phát nguyện và đã được thụ phong, con phải biết rằng con không trở lui lại được nữa, con sẽ không có cách nào để giành lại sự tự do của con.
- Thưa Đức cha con hiểu, Dane kiên trì khẳng định. Nhưng nếu phải lấy một quyết định thì con sẽ làm việc đó trước khi con phát nguyện.
Hồng Y De Bricassart ngả lưng vào ghế bành, thở ra. Xưa kia ông đã từng có một quyết tâm như thế. Có bao giờ ông đã chứng tỏ một nghị lực như thế?
- Tại sao con tìm đến ta hở Dane? Tại sao con lại mong muốn đến La Mã? Tại sao không ở Úc?
- Mẹ con đã có ý nghĩ đưa con đến La Mã nơi mà chính con cũng mơ ước từ lâu. Nhưng trước kia con không tin rằng gia đình có đủ tiền gửi con đến đây.
- Mẹ con rất sáng suốt. Và mẹ con đã nói cho con biết rõ chứ?
- Biết chuyện gì thưa Đức cha?
- Biết rằng hằng năm con có một khoản tiền năm ngàn bảng và hiện trong ngân hàng con có một số tiền dành dụm lên đến vài chục ngàn.
Dane giật mình.
- Không, mẹ con chưa bao giờ nói với con điều đó.
- Đúng là mẹ con rất thận trọng. Nhưng bây giờ con đã biết con có sẵn một số tiền như thế, vậy con có muốn ở lại La Mã không?
- Thưa vâng.
Điện thoại reo, Hồng y thản nhiên nhấc ống và trả lời bằng tiếng Ã.
- Vâng cảm ơn. Chúng tôi sẽ đến ngay (Hồng Y đứng lên). Đã đến giờ uống trà, chúng ta sẽ uống trà với một trong những người bạn già thân nhất của cha. Sau Đức Thánh cha, ông ấy là người quan trọng nhất trong Giáo hội. Cha đã báo cáo với Đức ngài về sự có mặt của con và Ngài có ý muốn gặp con.
Vittorio Scarbanza tức Hồng Y Di Contini Verchese đã sáu mươi sáu tuổi, bị phong thấp nặng nhưng đầu óc vẫn bén nhạy như ngày nào. Con mèo cái của ông - Natasha - đang nằm ngủ trên đùi. Ông không thể đứng lên chào khách nhưng tươi cười và dùng đầu ra dấu mời khách đến gần. Đôi mắt ông nhìn bắt gặp vẻ gì đó rất quen thuộc. Đôi mắt ông mở to rồi nhíu lại. Ông cảm thấy tim ông như ngừng lại và đưa tay lên ngực với một cử chỉ có vẻ tự trấn an. Một lúc sau miệng há hốc và ánh mắt vẫn nhìn thẳng anh thanh niên có gương mặt giống hệt De Bricassart như một bản sao.
- Vittorio, có sao không? Hồng Y De Bricassart vừa âu lo vừa cầm lấy tay của Di Contini Verchese để xem mạch.
- Không sao. Một cơn đau nhẹ thoáng qua, thế thôi. Hai người ngồi xuống đi, xin mời.
Dane quỳ xuống, áp mạnh môi lên chiếc nhẫn.
- Con hãy ngồi. Một lát nữa hãy pha trà. Ồ, ông bạn thanh niên, con muốn trở thành linh mục phải không và con tự đặt mình dưới sự che chở của Hồng Y De Bricassart?
- Thưa Đức cha, vâng.
- Sự chọn lựa của con thật đúng. Được Hồng Y De Bricassart bảo trợ con khỏi phải e ngại điều gì không hay xảy ra. Nhưng sao cha thấy con có vẻ âu lo, phải chăng vì con chưa quen nơi này.
Dane mỉm cười, cũng lại nụ cười duyên dáng của Ralph mà chính anh không hề biết. Nụ cười ấy giống Ralph đến đỗi khiến cho trái tim già nua và mệt mỏi nhói lên như vừa bị một mũi nhọn kẽm gai đâm vào.
- Con bối rối, thưa Đức cha. Con hoàn toàn bất ngờ và xúc động vì đứng trước các Hồng Y. Con không bao giờ dám mơ ước được có người đón ở phi trường và càng không dám nghĩ được uống trà với Đức cha.
- Đúng thế, đây là chuyện bất thường. Ồ, đã có trà... Ông theo dõi vị nữ tu đang đặt tách đĩa bằng ánh mắt vui vẻ, rồi đưa ngón tay lên để ngăn Ralph lại. Ồ, không! Hãy để cho tôi đóng vai chủ nhà. Dane, con thích uống trà thế nào?
- Thưa cũng như Ralph, trả lời xong cậu đỏ mặt. Xin lỗi Đức cha, con không có ý định gọi như thế...
- Không sao Dane à, Ralph cắt ngang. Hồng Y Di Contini Verchese không bắt lỗi con đâu. Chúng ta đã gặp và quen nhau bằng cách gọi nhau Dane và Ralph. Và như thế chúng ta sẽ thân thiết nhau hơn nhiều, phải không? Nghi thức chỉ tạo sự xa lạ hoàn toàn trong các quan hệ giữa chúng ta. Tôi muốn chúng ta vẫn là Dane và Ralph trong thân tình; Đức cha không thấy gì bất tiện chứ?
- Không. Ralph là người ủng hộ việc gọi nhau bằng tên. Nhưng, trở lại chuyện đang nói dở dang lúc nãy cha nghĩ đến việc con có những người bạn có chức vị cao - chẳng hạn như mối quan hệ tình bạn lâu ngày với Ralph - sẽ gây phiền phức cho con khi con đặt chân vào tu viện nào đó mà Ralph sẽ chọn lựa cho con. Thật là bực bội nếu phải luôn luôn giải thích dài dòng mỗi khi mối quan hệ giữa hai người gây nên sự chú ý. Đôi khi, Chúa của chúng ta cho phép nói láo một cách thành khẩn. Vì lợi ích chung, ta thấy tốt hơn nên bẻ cong một chút sự thật. Do rất khó giải thích cho suông sẻ các mối quan hệ tình cảm riêng tư, tốt hơn là nên nêu ra mối liên hệ dòng họ. Như thế chúng ta có thể nói với mọi người rằng Hồng y De Bricassart là cậu của con, Dane và chúng ta dừng lại ở mối quan hệ đó. Hồng Y Di Contini Verchese kết thúc bằng một giọng ngọt ngào.
Dane hơi bị khó chịu về những điều vị Hồng Y nói, còn Ralph thì cúi đầu im lặng.
Hồng Y Di Contini Verchese dịu dàng nói tiếp:
- Con đừng thất vọng vì các tên tuổi nổi tiếng cũng có những đôi chân bằng đất sét và có khi họ cũng cần nói láo để giữ được một sự yên ổn nào đó. Con vừa học được một bài học rất bổ ích. Tuy nhiên con phải hiểu, các Hồng Y là những nhà ngoại giao rất sâu sắc. Thật ra, ta chỉ nghĩ đến con, chỉ vì con thôi, Dane ạ. Lòng ghen tị và sự thù ghét cũng phổ biến trong các tu viện chẳng khác nào các trường học ngoài đời. Con sẽ phải chịu đựng một chút vì người ta cho rằng Ralph là cậu của con, anh của mẹ con, nhưng con sẽ phải chịu đựng nhiều hơn nếu người ta nghĩ rằng giữa hai người không có một mối liên hệ bà con nào cả. Chúng ta trước hết là những con người, vì thế mà phải đối đầu với con người trong môi trường này hoặc môi trường khác.
Dane cúi đầu, rồi chồm ra phía trước định đưa tay vuốt ve con mèo cái nhưng anh kịp dừng lại.
- Con xin phép... Con rất yêu mèo, thưa Đức cha.
Thái độ của Dane khiến tấm lòng trung thực của Hồng Y Di Contini rộng mở:
- Vâng. Ta phải thú nhận rằng bây giờ nó hơi nặng ký vì ăn hơi nhiều... Phải không Natasha? Con qua Dane đi, hãy đến với thế hệ mới.
Hai tháng sau khi Dane đi La Mã, Justine cũng đi Anh. Mùa kịch ở Culloden kết thúc, Justine rời chung cư Bothwell Gardens không luyến tiếc. Meggie chỉ đến Sydney hai lần. Lần đầu để đưa Dane và lần nãy tiễn Justine. Đến giây phút cuối cùng chia tay, Meggie vẫn nhìn thấy có quá nhiều khác biệt giữa bản thân mình với con gái. Tính tình Justine ngổ ngáo. Nếu bị trách phiền, Justine trêu chọc mẹ: “ Như mẹ vẫn nói, con giống ba chớ đâu giống mẹâ€. Trên boong tàu nhìn xuống, Justine không nghĩ rằng mẹ mình đã năm mươi tuổi.
Do có tiền bạc dư dả, Justine cảm thấy Luân Đôn trở thành một nơi đặc biệt hấp dẫn. Nhất định cô không chọn một cuộc sống nghèo nàn ở khu Earl'' s Court - mệnh danh “Kangaroo Valley†- nơi có rất nhiều người Úc.
Justine mướn một căn hộ tiện nghi ở Kensington, gần Knightsbridge và ký hợp đồng với đoàn kịch Clyde Daltinham - Roberts.
Mùa hè đến, Justine đi tàu hỏa sang La Mã. Con tàu đi xuyên qua Pháp và ànhưng Justine không nhớ mình đã nhìn thấy những gì vì đầu óc của cô chủ yếu tập trung ôn lại những chuyện sẽ kể cho Dane nghe. Và đúng là có quá nhiều điều để nói.
Có phải Dane đó không? Chàng thanh niên cao lớn, tóc vàng đứng ở sân ga chính là Dane? Dane không khác xưa bao nhiêu, nhưng cũng không còn là đứa em trai bé nhỏ. Cuộc sống của Dane tạo ra một khoảng cách với Justine, xa lạ cứ như là hiện giờ Justine đang ở Drogheda.
Khi về đến khách sạn, cậu em trai nói với chị:
- Chị có cảm thấy phiền hà không nếu em mời chị chiều nay uống trà với vài người bạn của em? Em hơi vội vàng lỡ nhận lời trước rồi. Họ rất muốn được biết mặt chị...
- Đồ ngu! Tại sao lại phiền hà? Nếu hai đứa mình ở Luân Đôn, chị cũng sẽ nhận chìm em qua giữa bạn bè của chị thôi. Chị rất vui được biết bạn bè của em ở tu viện ra sao, dù có thể sẽ chẳng có thú vị lắm. Chắc chắn là không mê được một chàng trai nào đâu.
Trong phòng ngủ khách sạn, đứng gần cửa sổ, nhìn qua bên ia trong cảnh lặng im và buồn, xa xa là bức tường bao quanh một nhà thờ, Justine gọi khẽ.
- Dane!
- Chuyện gì?
- Chị thông cảm em. Chị thông cảm em thật sự.
- Vâng, em biết. Em rất mong mẹ cũng hiểu em, Justine ạ.
- Với mẹ thì khác. Mẹ có cảm tưởng là chúng ta đã bỏ rơi mẹ, nhưng em đừng âu lo vì mẹ, trước sau gì mẹ cũng chấp nhận thôi.
- Em hy vọng như thế - cậu ta cười - Thật ra chiều này những người chị gặp không phải là bạn em ở tu viện. Không bao giờ em đẩy chị và các bạn em vào một thứ bẫy cám dỗ như thế. Chị sẽ gặp Hồng Y De Bricassart. Em biết chị không có cảm tình với ông ấy nhưng chị hãy hứa với em là chị sẽ tỏ ra dễ thương.
Trong mắt của Justine thoáng một ánh tinh nghịch.
- Chị hứa với em. Chị sẽ hôn lên tất cả những chiếc nhẫn mà ông ấy chìa ra.
- Cả Hồng Y Di Contini Verchese cũng có mặt.
Bây giờ không còn bao nhiêu người đi chuyến tàu đêm từ khi có những chuyến bay nối liền Gillanbone. Đoàn tàu ì ạch đi qua cả ngàn cây số lần lượt trút bỏ gần hết hành khách qua các ga tỉnh lẻ; chỉ còn một số rất ít xuống ga Gillanbone.
Trên sân ga, một mình bà Fiona lặng lẽ đứng chờ. Bà vẫn đẹp người so với tuổi tác. Nón, áo đều hợp thời trang, giày cao gót. Cuộc đời làm vợ một người chăn nuôi đã giúp bà giữ được vóc dáng trẻ trung.
Chính vì thế mà Frank đã nhận ra mẹ anh nhanh hơn là bà nhận ra anh. Frank đã năm mươi hai tuổi, đứng giữa mặt trời chiều Drogheda trông rất gầy, hốc hác, xanh xao. Đầu đã hói, quần áo không ra hình thù gì, phủ trên một thân hình tuy nhỏ nhưng vẫn còn gợi nhớ một chút sức lực. Hai bàn tay rắn rỏi nắm chặt chiếc mũ phớt màu nâu. Anh không còng lưng, không bệnh hoạn nhưng đứng chôn chân ở sân ga một cách vụng về, không tin rằng có ai đón mình và cũng không biết phải làm gì.
Rất tự chủ, Fiona nhanh chân bước tới:
- Con mạnh khỏe, Frank? bà nói.
Frank nhìn lên, hai mắt xưa kia rực sáng, lấp lánh giờ đây khuyết sâu trên gương mặt của một người già nua. Đôi mắt ấy không phải của Frank. Mệt mỏi, nhẫn nhục và vô cùng chán nản. Nhưng khi đôi mắt ấy nhìn thấy Fiona, nó lại gây nên một ấn tượng dị thường của một người bị lăng nhục, hoàn toàn không được che chở, sắp chết và đang kêu gào sự cứu giúp.
- Ôi, Frank! Bà kêu lên và ôm chầm lấy con trai. Mọi việc đều tốt đẹp, tiếng của bà dịu dàng như tiếng ru. Mọi việc đều tốt, bà tiếp tục nói giọng càng dịu dàng hơn.
Lúc đầu, Frank vẫn im lặng, ngồi lún xuống trên nệm xe. Nhưng khi chiếc Rolls tăng tốc độ và ra khỏi thành phố, anh bắt đầu nhìn hai bên đường.
- Cũng không thay đổi bao nhiêu phải không mẹ, anh nói thì thầm.
- Không. Ở đây thời gian trôi qua rất chậm.
Khi xe vượt qua chiếc cổng cuối cùng vào sân trong trước cửa tòa nhà, Frank kêu lên:
- Con không thể tưởng tượng nó đẹp như thế.
- Đây là nhà của chúng ta, Fiona nói. Gia đình mình đã bỏ rất nhiều công chăm sóc nó con à.
Bà lái xe vào gara, đưa con trai đi lên hướng nhà lớn nhưng lần này chính Frank xách vali của mình.
- Con chọn một phòng trong nhà này hay chọn một nhà khách nhỏ để ở riêng?
- Con thích căn nhà nhỏ. Cảm ơn mẹ. Con muốn được ở riêng yên ổn một thời gian.
Khi Frank gặp lại Meggie, anh không dễ dàng nhận ra đứa em gái nay đã trở thành một người phụ nữ già dặn. Mẹ tuy già nhưng anh vẫn dễ nhận ra hơn. Trong khi Meggie ôm anh, Frank rụt rè quay mặt chỗ khác, hai tay vo ve nếp áo vét nhăn nheo, rồi nhìn về phía mẹ để cầu cứu. Ãnh mắt của bà Fiona như muốn nói: không có gì quan trong; thời gian trôi qua, rồi thì tất cả sẽ trở nên bình thường.
Nhờ nhiều cố gắng của bà Fiona, Frank thích nghi dần với cuộc sống ở Drogheda và không chú ý lắm sự đố kỵ ngấm ngầm của mấy đứa em trai. Fiona xử sự với Frank như đứa con trai lớn vắng nhà một thời gian ngắn, không hề làm mất danh dự gia đình và cũng không hề gây ra sự đau khổ vô vàn cho mẹ anh. Bà kín đáo tìm cho Frank một chỗ ẩn náu mà Frank mong muốn, tách xa những đứa em trai. Bà cũng không khuyến kích Frank phục hồi lại một phần sức sống trước kia; hơn nữa sức sống ấy cũng không còn trong con người của Frank hiện nay. Fiona đã hiểu điều đó ngay cái phút giây con trai bà ngước mắt lên nhìn trên sân ga Gillanbonẹ Không có chuyện đưa Frank đi làm ngoài các bãi chăn vì các em trai sẽ phản đối, hơn nữa Frank cũng không thích một công việc mà xưa kia anh vẫn ghét. Dần dần các em trai của Frank quen với sự trở về của con cừu ghẻ lở trong lòng gia đình. Không có điều gì có thể làm thay đổi tình cảm của mẹ chúng đối với Frank, Frank ở tù, hay ở Drogheda cũng chẳng quan hệ gì, bà vẫn luôn luôn yêu Frank thiết tha. Sự hiện diện của Frank ở Drogheda làm cho bà hạnh phúc và đó là điều quan trọng nhất. Frank không chen vào cuộc sống trước đây của các nhân vật khác ở Drogheda và vẫn trung thành với con người xưa của mình.
Thế nhưng, sự có mặt của Frank ở Drogheda không mang lại một niềm vui thật sự cho Fiona. Làm sao khác hơn bây giờ? Khi nhìn thấy Frank mỗi ngày, lòng bà như bị khơi dậy một nỗi buồn khác hẳn nỗi buồn mà bà đã chịu đựng trong thời gian vắng Frank. Đó là niềm đau đớn dữ dội phải chứng kiến cuộc sống của một con người đang bị hủy diệt. Con người đó lại là đứa con trai thương yêu nhất của bà, nó đã trải qua những nỗi đau đớn không thể tưởng tượng.
Một hôm, bấy giờ Frank đã trở về được khoảng sáu tháng, Meggie bước vào phòng khách và gặp mẹ đang ngồi nhìn Frank qua một trong những cửa sổ lớn. Frank đang xén hàng rào hoa hồng dọc theo con đường nhỏ. Đột ngột bà quay lại và có điều gì đó hiện ra trên gương mặt lạnh lùng của bà khiến cho Meggie phải đưa hai tay ôm lấy ngực.
- Ôi, mẹ! Nàng bối rối.
Fiona nhìn con gái, lắc đầu và mỉm cười.
- Không có gì quan trọng, Meggie à.
- Phải, chỉ có con mới giúp ích điều gì cho mẹ.
- Con có thể. Đừng thay đổi thái độ của con. Mẹ rất mang ơn con. Con đã trở thành đồng minh của mẹ.
Chương 37
Xong rồi, Justine nói với mẹ, con đã quyết định. Con biết sẽ theo nghề nào.
- Mẹ tưởng rằng chuyện xong lâu rồi chứ. Con sẽ theo học nghành mỹ thuật ở trường Đại học Sydney phải không?
- Không đâu mẹ, con nói dối để mẹ yên tâm khi con chuẩn bị kế hoạch. Bây giờ tất cả đã xong, con có thể tiết lộ hết bí mật với mẹ.
Meggie mệt mỏi nhìn Justine, sốt ruột và bất lực. Trước một đứa con cứng đầu, bướng bỉnh như Justine, Meggie đành chịu thôi.
- Vậy con nói hết bí mật của con đi, mẹ sốt ruột quá. Meggie vừa nói vừa tiếp tục chọn từng cái bánh chuẩn bị nướng.
- Con sẽ trở thành diễn viên.
- Sao?
- Diễn viên.
- Chúa ơi! (Meggie tạm ngưng công việc của mình.) Justine con nghe đây, mẹ không thích làm con kỳ đà và cũng không có ý định làm buồn phiền con. Nhưng bộ con tưởng con có được nhan sắc để theo nghề đó?
- Không phải như vậy đâu mẹ! Justine tỏ vẻ hơi nản. Không phải tài tử màn ảnh đâu! Mà là diễn viên! Con không chịu làm những cái trò uống éo mông, phô bày bộ ngực hay nút lưỡi đâu. Con muốn đóng kịch. Con có đủ tiền để theo học bất cứ ngành nào con thích chứ?
- Phải! Nhờ sự giúp đỡ của Hồng Y De Bricassart.
- Vậy thì con không bàn lui nữa. Con sẽ theo học lớp kịch của Alber Jones trên sân khấu Culloden và con viết thư cho viện kịch nghệ Hoàng gia ở Luân Đôn để đăng ký vào danh sách chờ đợi.
- Con đã suy nghĩ kỹ chưa, Justine?
- Vâng, con đã suy nghĩ từ lâu.
- Mẹ vẫn không hiểu, Meggie vừa lắc đầu vừa nói một mình. Diễn viên.
Justine nhún vai.
- Mẹ nghĩ coi, con tìm ra nơi nào cho phép con la hét, gầm lên như trên sân khấu? Ở đây thì không thể được rồi, ở nhà trường hay ở một nơi nào khác cũng thế! Con lại thích la hét, chỉ có thế thôi!
- Nhưng con làm thế nào để được chấp nhận học sân khấu Culloden?
- Con đã qua một kỳ trình diễn thử.
- Và con đã trúng tuyển?
- Đúng là mẹ tin cậy ở con gái mình. Đúng thế, con đã trúng tuyển! Con diễn rất tốt mẹ biết không. Một ngày nào đó con sẽ nổi tiếng.
- Con không định lấy chồng?
- Con chẳng nghĩ đến điều ấy nhưng con không thích cuộc sống lại mất thì giờ vào việc lau mũi, rửa đít cho trẻ con. Hoặc chiều chuộng vuốt ve một thằng đàn ông không ra gì mà cứ tưởng mình ngon lắm. Nhất định không.
- Con nói quá đáng Justine ạ. Ma quỷ nào đã dạy con nói cái giọng đó? Con không khác ba con chút nào!
- Cứ mỗi lần con làm sai ý mẹ là mẹ nói giống hệt ba con. Thế thì con phải đành tin lời mẹ vì rằng con chưa bao giờ được gặp con người hào hoa phong nhã ấy.
- Khi nào con đi? Meggie nói sang chuyện khác.
Justine cười:
- Mẹ muốn con đi sớm cho khuất mắt mẹ phải không? Con thông cảm mẹ và không giận mẹ chút nào. Mẹ biết không, con không kìm chế được mình trêu chọc người khác, nhất là với mẹ. Mẹ nghĩ sao nếu con xin mẹ đưa con ra sân bay ngày mai?
- Mẹ đề nghị ngày mốt. Ngày mai, mẹ đưa con ra ngân hàng. Con cần biết con có bao nhiêu tiền. Và, này Justine...
Justine đang phụ mẹ làm bánh. Giọng nói đột ngột thay đổi của Meggie khiến cho Justine ngừng tay lại ngước mắt lên nhìn mẹ.
- Mẹ nói đi...
- Nếu một mai con gặp những chuyện buồn phiền, con hãy quay trở về nhà, đừng do dự con nhé. Ở Drogheda luôn có chỗ dành cho con; mẹ muốn con nhớ điều đó. Dù sau này con có làm chuyện gì tồi tệ mấy đi nữa thì điều đó cũng không cản ngăn con trở về đây.
Ãnh mắt Justine dịu xuống.
- Cảm ơn mẹ
Chương 38
Trở lên Sydney, Justine lo chăm sóc ngay sắc đẹp của mình, trước hết tìm cách phá những vết tàn nhang trên mặt, tiếp đó đi mướn một căn hộ riêng gồm hai phòng ở phố Neutral Bay, trong chung cư Bothwell Gardens, giá năm bảng mười xu mỗi tuần. Chung cư Bothwell Gardens gầm năm căn tất cả. Anh chàng thanh niên người Anh Peter Wilkins ở sát vách tìm mọi cách chinh phục Justine nhưng không thành công. Một hôm anh ta mời Justine sang phòng anh uống trà, lợi dụng dịp này tấn công Justine. Những năm lao động ở Drogheda đã cho Justine sức mạnh phi thường, hơn nữa cô cũng không ngần ngại vi phạm luật lệ của môn quyền Anh dùng những cú đấm dưới thắt lưng để tự bảo vệ mình.
- Chúa ơi! Justine! Peter hét lên, đau điếng đến chảy nước mắt. Giữ gìn để làm gì cái quái ấy! Trước sau rồi cũng phải mất thôi! Thời đại nữ hoàng Victoria xưa rồi. Đâu cần gìn giữ cái tiết trinh kín bưng như đóng hộp để làm gì!
- Tôi không có ý định đóng hộp chờ ngày cưới, Justine vừa trả lời vừa sửa lại chiếc váy. Nhưng tôi chưa biết phải dành cho ai vinh dự ấy. Chỉ có thế thôi.
Các bạn trai của Justine tò mò hỏi, khi nào và với ai, Justine sẽ quyết định trở thành một người đàn bà thật sự. Nhưng Justine vẫn không hấp tấp.
Cho đến một hôm Justine lọt vào cặp mắt của Arthur Lestrange. Arthur Lestrange, một diễn viên chuyên đóng vai kép mùi của đoàn kịch Alber Jones, hơn bốn mươi tuổi, gương mặt rất đàn ông, mái tóc dợn sóng, luôn gặt hái sự tán thưởng của khán giả mỗi khi xuất hiện trên sân khấu. Arthur Lestrange chú ý Justine khi Justine diễn một đoạn trong vở Lord Jim của Conrad.
Arthur mời Justine đi uống cà phê. Cuộc nói chuyện giữa hai người dẫn đến đề tài vốn sống cần thiết đối với một kịch sĩ. Justine tự cho mình hiểu gần hết các mặt của cuộc sống. Arthur đề cập đến kinh nghiệm sống, Justine trả lời cho đến nay tôi chỉ cần quan sát.
- Ồ! Nhưng nếu là chuyện tình yêu? Arthur hỏi ngược lại, cố tình chuyển giọng nặng xuống ở chữ cuối cùng - thì làm sao cô có thể đóng vai Julliette mà không biết tình yêu là gì?
- Anh đã thắng một điểm. Tôi hoàn toàn đồng ý với anh.
- Cô có yêu bao giờ chưa?
- Chưa?
- Cô có biết điều gì về tình yêu chưa?
Lần này Arthur nhấn mạnh biết điều gì chứ không phải tình yêu.
- Chưa biết điều gì cả.
- Tôi rất muốn giúp cô biết được thế nào là một người đàn bà - Arthur đột ngột nói.
- Tại sao không? Được rồi, anh đừng dông dài nữa, coi chừng tôi đổi ý bây giờ.
Và chuyện biết được thế nào là một người đàn bà đã xảy ra ngay tối hôm đó tại khách sạn Metropole. Giữa hai người không có tình yêu. Với Justine chủ yếu là tò mò và để có vốn sống mà đóng vai Juliette. Trong suốt quá trình tìm hiểu Justine đòi nhờ Arthur hướng dẫn từng động tác một.
Sáng hôm sau Justine gặp Dane. Trong nhiều mặt, Justine gần gũi với Dane nhiều hơn là mẹ cô gần gũi với cô hay Dane. Mối liên hệ mật thiết giữa Justine và Dane hình thành rất sớm và ngày càng được củng cố. Justine thường kể lể dài dòng với Dane chuyện này chuyện nọ, nên cậu ta hiểu chị mình nhiều hơn là Justine hiểu được em mình. Trong chừng mực nào đó, Dane cho rằng Justine hơi bốc đồng về phương diện đạo đức, mình có nhiệm vụ cảnh giác Justine những điều mà người chị không chú ý đến. Thế là cậu ta chấp nhận đóng vai người nghe kiên nhẫn với một thái độ dịu dàng và một tình thương sâu kín dành cho Justine. Nếu Justine khám phá được những suy nghĩ thầm kín của Dane, cô ta có thể nổi khùng lên.
- Em nói xem tối hôm qua chị làm gì?
- Biểu diễn trong một vai chính? Dane đoán mò.
- Đần! Em tưởng chị cần nói chuyện đó để kéo em éơi nhà vỗ tay khen chị à? Ráng động não đi.
- Chị nhận lãnh một cú đấm của Bobbie định tặng cho Billie?
- Em thật ngớ ngẩn!
Hai chị em đang ngồi trên thảm cỏ dưới bóng mát của nhà thờ Đức Mẹ đồng trinh. Dane đã gọi điện thoại yêu cầu gặp Justine để báo cho biết mình sắp dự một lễ đặc biệt trong thánh đường.
Dane vừa kết thúc năm học cuối cùng ở Riverview tốt nghiệp thủ khoa toàn trường, là thủ quân của các đội quần vợt, bóng ném, bóng bầu dục và cricket. Mười bảy tuổi và cao một mét tám mươi lăm.
Hôm nay là một ngày đẹp trời, nắng ấm.
- Thế thì chị đã làm gì đêm qua, Justine?
- Chị đã không còn trinh tiết..., hình như thế.
Dane mở to hai mắt.
- Chị điên rồi!
- Hùm! Chị nghĩ cũng đã đến lúc rồi. Làm sao chị có thể trở thành một diễn viên giỏi nếu chị vẫn mù tịt về những chuyện xảy ra giữa người đàn ông và người đàn bà?
- Đáng lý chị nên dành cho người đàn ông mà chị sẽ lấy làm chồng.
Justine nhìn Dane nhăn mặt tỏ vẻ bực bội.
- Chị nói thật Dane nhé, em bảo thủ đến mức chị phải khó chịu. Nói như em, lỡ như chị không gặp người đàn ông ấy trước bốn mươi tuổi thì sao? Em muốn chị phải làm gì? Chị chỉ được dùng cái mông của chị để ngồi thôi trong suốt thời gian ấy? Em muốn thế phải không? Hay giữ cái đó cho đến ngày em lấy vợ?
- Có lẽ em sẽ không bao giờ lấy vợ.
- Vậy thì chị cũng thế. Trong trường hợp này, tại sao lại gói cái đó cẩn thận, thắt ru-băng màu xanh và cất kỹ trong một cái tủ sắt với những hy vọng hão huyền? Chị chẳng muốn chết một cách ngu đần như thế.
Nhưng rồi cái vẻ bất cần đời ấy bỗng mất đi trên gương mặt của Justine.
- Nhưng bây giờ chị thấy mình xấu xa. Nếu không hiểu rõ em, chị có thể nghĩ rằng em coi thường chị... hay ít ra cũng coi thường động cơ thúc đẩy chị làm chuyện đó.
- Chị rất hiểu em mà. Không khi nào em coi thường chị. Dù cho lý do chị nêu lên quả thật là kỳ cục và ngu ngốc. Em là tiếng nói của lương tâm chị, Justine O'' Neill.
- Nhưng em cũng là một thằng ngốc!
- Ồ, Justine...! Dane nói giọng buồn bã.
Nhưng Dane chưa kịp kết thúc câu nói thì Justine lại nói tiếp thật nhanh:
- Mãi mãi, mãi mãi, chị sẽ không yêu bất kỳ ai! Nếu mình yêu người khác, người khác sẽ hủy diệt mình. Nếu mình cần người khác, người khác sẽ hủy diệt mình. Đúng thế, chị đoan chắc với em như thế.
- Sao mẹ im lặng thế? Dane hỏi. Mẹ đang nghĩ gì? Nghĩ về Drogheda phải không?
- Không, Meggie trả lời lạc giọng. Mẹ nghĩ là mẹ đã già rồi. Sáng nay khi chải đầu mẹ vừa phát hiện nhiều sợi tóc bạc. Các khớp xương của mẹ bắt đầu cứng lại.
- Mẹ sẽ không bao giờ già, Dane khẳng định một cách tự nhiên.
- Mẹ mong con nói đúng, con yêu quí của mẹ. Nhưng tiếc thay sự thật lại không như thế. Mẹ bắt đầu thấy cần nước nóng ở suối Borehead, đó là một dấu hiệu của tuổi già.
Hai mẹ con đang phơi nắng trên cỏ gần suối nướng nóng Borehead.
- Con có nghĩ đến chút nào về phụ nữ không Dane? Meggie hỏi giọng băn khoăn.
Dane mỉm cười.
- Chim và bướm, có phải mẹ muốn nói thế?
- Về chuyện này, con không dốt đâu, nhất là khi có một người chị như Justine! Mỗi khi cô ta khám phá điều gì đó trong quyển sinh lý học thì cô ta la ầm lên. Không phải chuyện đó. Mẹ muốn hỏi con đơn giản thôi, con có từng áp dụng trong thực tế những bài học của Justine?
Dane lắc đầu và trườn lên bãi cỏ đến sát bên mẹ. Cậu ta nhìn thẳng vào mắt:
- Thật cũng lạ khi mẹ hỏi con chuyện này. Lâu rồi con muốn đề cập vấn đề này với mẹ nhưng con không biết phải nói thế nào.
- Con chỉ mới mười tám tuổi. Cũng còn hơi sớm để vận dụng những hiểu biết ấy vào thực tế.
- Đó chính là điều con muốn nói với mẹ. Dứt khoát sẽ không bao giờ con làm như thế!
Gió lạnh như thổi lại từ giữa hai làn nước! Lạ thật, thế mà trưóc đây không bao giờ Meggie để ý hiện tượng đó. Chiếc áo choàng đâu rồi?
- Không áp dụng lý thuyết vào thực tế. Dứt khoát không áp dụng, Meggie lặp lại bằng một giọng đều đều mà không đặt câu hỏi về ý nghĩa của những lời lẽ ấy.
- Thưa mẹ, đúng như thế. Con không muốn. Không phải vì con không nghĩ tới, hay vì không muốn có vợ. Cũng có lúc con có nghĩ tới đó chứ, nhưng con không thể thực hiện được, vì rằng con không còn chỗ để yêu thương vợ và con cùng một lúc với Chúa. Con nhận ra điều này từ lâu. Con nghĩ rằng con vẫn thấy rõ điều đó và càng đi tới, tình yêu dành cho Chúa càng lớn hơn. Yêu Chúa, đó là một bí ẩn vĩ đại.
Meggie vẫn nằm dài, nhìn chăm chăm vào đôi mắt xanh ấy, đôi mắt bình thản và xa vắng. Đúng là đôi mắt của Ralph không khác một chút nào. Nhưng nó lại ánh lên một thứ lửa hoàn toàn không có ở Ralph. Phải chăng năm mười tám tuổi, đôi mắt của Ralph cũng đã từng ánh lên một thứ lửa ấy. Có phải đây là sự hưng phấn chỉ xuất hiện ở tuổi mười tám? Ngày Meggie bước vào cuộc đời của Ralph thì tuổi mười tám của Ralph đã trôi qua đến mười năm rồi. Nhưng con trai của Meggie là một người sùng tín, Meggie biết rõ điều đó từ lâu.
... Meggie thấy nghẹn ở cổ. Nàng kéo chiếc áo choàng sát vào người.
- Thế là, con đã tự hỏi con có thể làm gì để chứng minh với Chúa rằng con yêu thương Người đến mức nào, Dane nói tiếp. Trước đây con muốn có một cuộc sống của một người đàn ông bình thường. Con rất muốn giữ cuộc sống đó. Nhưng con lại hiểu Chúa chờ đợi gì ở con. Con đã biết... Chỉ có một điều duy nhất mà con có thể hiến dâng cho Người để chứng minh với Người rằng trong trái tim con chỉ có Người mà thôi, ngoài ra không thể có ai khác. Con phải hiến dâng cho Người sự hy sinh mà Người đòi hỏi ở con. Con phải chọn lựa. Người vẫn để cho con hưởng mọi lạc thú, ngoại trừ chuyện ấy. Con cần chứng tỏ với Người rằng con hiểu tại sao Người ưu đãi sự ra đời của con. Con cần chứng tỏ với Người rằng con ý thức về sự vô nghĩa của cuộc sống đàn ông nơi con.
- Không! Con không thể làm thế! Mẹ không bao giờ để cho con làm điều như thế! Meggie kêu lên, bàn tay bấu vào cánh tay con trai.
Làn da của Dane mịn làm sao! Dấu hiệu của một sức lực căng tràn giống như Ralph, hoàn toàn như Ralph! Thế mà từ nay sẽ không có một thiếu nữ nào có thể đặt bàn tay lên làn da ấy.
- Con muốn trở thành linh mục, Dane lại nói tiếp. Con biết không dễ dàng nhưng con đã nhất quyết như vậy.
Đôi mắt Meggie biến sắc! Nàng có cảm giác như Dane đã giết chết mình, đã nghiến nát mình dưới gót giày. Dane không ngờ rằng cậu ta phải hy sinh cả mẹ. Trước đó cậu ta tưởng rằng mẹ mình sẽ vô cùng hãnh diện về con trai, về hạnh phúc được hiến dâng đứa con trai cho Chúa. Thực tế trái lại, Meggie coi cái viễn ảnh Dane trở thành linh mục như một bản án tử hình đối với mình.
- Con không ước muốn điều gì khác mẹ ạ. Dane nói trong thất vọng khi nhìn thấy ánh mắt tắt lịm của mẹ. Mẹ ơi, chẳng lẽ mẹ không hiểu? Con đã không muốn gì và chẳng muốn gì hơn là trở thành linh mục! Con không thể khác hơn là linh mục!
Meggie để bàn tay mình buông thả, không đủ sức nắm cánh tay của con nữa; Dane nhìn xuống và thấy những vết tái hình cung nhỏ do móng tay để lại sâu trên dạ
Meggie ngước đầu lên và cười điên dại, những tràng cười cuồng loạn, chua chát, mỉa mai.
- Trời ơi, Có lẽ nào đó là sự thật! Một lúc khá lâu Meggie mới nói được trong hơi thở dồn dập, một tay run rẩy lau những giọt nước mắt đọng lại trên má. Thật là trơ trẽn không thể tưởng tượng được! Hồng tro! Anh ấy đã gọi như thế chiều tối hôm phi ngựa đến vũng Borehead. Quả thật lúc đó mình không hiểu anh ấy muốn nói gì khi đề cặp hai tiếng ấy. Con chỉ là tro bụi và con hãy trở về tro bụi. Con thuộc vê Giáo hội, phải trả con về với Giáo hội. ôi! Chúa đáng nguyền rủa! Chúa xấu xa! Kẻ thù tệ hại nhất của những người phụ nữ. Chúa là thế đó! Tất cả những gì mình nỗ lực xây dựng, Người làm mọi cách để phá đổ!
- ôi, không phải thế đâu, không phải thế đâu mẹ ạ. Con van lạy mẹ!
Dane ôm mẹ khóc. Trong sự đau khổ của Meggie cậu ta không hiểu được lý do, cũng như không hiểu được ý nghĩa những gì mà Meggie đã nói. Nước mắt chảy dài xuống, trái tim thắt lại; thế là sự hy sinh đã xảy ra rồi mà cậu ta không hề nghĩ đến. Nhưng, dù khó vì nỗi đau mẹ, cậu ta vẫn không từ bỏ ý nghĩ hiến mình cho Chúa, không thể vì mẹ mà từ bỏ sự chọn lựa của mình. Sự hiến dâng cho Chúa phải được thực hiện, thực hiện càng khó khăn thì nó càng có giá trị trước Người.
Meggie đã làm cho con trai khóc; cho tới nay Dane chưa từng khóc do lỗi lầm của chính cậu ta gây ra. Thật là bất công nếu đổ trút lên con hình phạt mà mình phải gánh chịu. Dane không thể nào khác hơn con người mà những gien của nó đã hình thành hoặc Chúa đã hình thành. Chúa của Ralph. Đứa con trai yêu dấu ấy là ánh sáng của đời nàng. Không thể để nó đau khổ vì nàng, không thể được.
- Dane, con đừng khóc, Meggie thì thầm vừa vuốt ve những vết bầm hằn sâu trên cánh tay đầy lông tơ của Dane, hậu quả của một lúc giận dữ. Mẹ rất ân hận. Mẹ ăn nói lung tung. Mẹ bị bất ngờ quá có thế thôi. Tất nhiên là mẹ vui sướng vì con, vui sướng thật sự. Tại sao mẹ lại không vui nhỉ? Con dội cho mẹ cái tin ấy mà không chuẩn bị trước gì cả, con biết không?
ánh mắt của Dane sáng lên, nhìn mẹ không chút nghi ngờ. Tại sao Dane lại tưởng tượng một cách vô lý rằng mình đã giết chết mẹ? Bây giờ thì đúng là đôi mắt của mẹ, đôi mắt Dane quen thuộc và tràn đầy yêu thương, đôi mắt thật sinh động. Dane ôm mẹ trong vòng tay khỏe mạnh của cậu, siết mạnh mẹ vào lòng ngực.
- Mẹ nói thật là việc này không làm mẹ ưu phiền chứ?
- Sao lại ưu phiền? Một người mẹ công giáo tốt lại ưu phiền khi hay con mình muốn trở thành linh mục sao? Hoàn toàn không thể có chuyện đó (Meggie đứng phắt lên). Trời lạnh rồi đó! Mẹ con mình về đi.
Hai mẹ con đã đến đây trên chiếc Land Rover; Dane ngồi vào tay lái, Meggie kế bên.
- Con tính sẽ đi học ở đâu? Nuốt nước mắt, Meggie hỏi.
- Có thể ở tu viện Thánh Patrick. Dù sao cũng còn phải chờ lúc con có quyết định dứt khoát. Con cũng thích trở thành tu sĩ dòng Tên, nhưng bây giờ con vẫn chưa thấy thật chắc chắn.
Meggie nhìn đăm đăm những lớp cỏ ngà màu nâu lần lượt rạp xuống trước đầu xe, kính chắn gió trước mặt lấm tấm đầy xác côn trùng.
- Mẹ có một ý kiến rất hay, Dane ạ.
- ý kiến gìthưa mẹ?
- Mẹ sẽ gởi con đến La Mã, đến Hồng Y De Bricassart. Con nhớ Ngài chứ?
- Con nhớ Ngài không ạ - Sao mẹ lại hỏi lạ lùng vậy? Không thể nào con quên được Ngài. Với con, Ngài là hiện thân của một con người hoàn thiện Nếu con phấn đâu được theo gương của Ngài thì con mãn nguyện vô cùng.
- Sự hoàn thiện cũng chỉ là tương đối con ạ, Meggie nhận xét không giấu được chút cay đắng. Nhưng mẹ giao con cho Ngài vì mẹ biết rằng Ngài sẽ chăm sóc con chu đáo, như thế đủ cho mẹ vui lòng. Con có thể vào một tu viện ở La Mã.
- Có thật không mẹ? Thật chứ? ánh mắt Dane rực sáng niềm vui mờ nhạt tất cả nỗi âu lọ Nhưng mà nhà mình có đủ tiền cho con vào tu viện ở La Mã không? Sẽ tốn kém hơn nhiều so với việc hoc. tại úc.
- Tiền bạc cũng lại nhờ vào chính Đức Hồng Y De Bricassart. Con yêu thương của mẹ, con không bao giờ thiếu tiền đâu.
Về đến nhà, người đầu tiên Meggie gặp là bà Annẹ
Từ mười tám năm nay, vợ chồng Luđie hàng năm đều đến nghỉ hè ở Drogheda và họ nghĩ rằng sẽ còn rất lâu như thế. Nhưng vào mùa thu năm trước Luđie Mueller đột ngột qua đời. Meggie đã viết thư đề nghị. Anne đến sống hẳn ở Drogheda; ở đây thật sự có thể đùm bọc cùng một lúc cả ngàn người khách. Nhưng để tránh cho Anne tự ái, Meggie gợi ý nếu bà muốn có thể góp một số tiền nào đó. Thật tâm, Meggie muốn trả ơn gia đình Mueller về những năm nàng sống cô độc ở miền Bắc Queensland.
- Có chuyện gì đó Meggie, Anne hỏi.
Meggie ngồi phịch xuống ghế.
- Em có cảm tưởng như vừa bị quật ngã bởi một tia chớp xử tội em.
- Sao?
- Chị và mẹ em, hai người đều có lý. Hai người đã tiên toán rằng mình sẽ mất nó. Em đã không tin. Em thật sự tưởng rằng em mạnh hơn Chúa, nhưng không bao giờ một người phụ nữ lại có thể đối đầu với Chúa được. Chúa là một người đàn ông.
Fiona rót một tách trà cho con gái.
- Con uống đi, bà nói như ra lệnh. Con đã mất nó như thế nào?
- Dane muốn trở thành linh mục.
Một tiếng cười gằn chen lẫn trong những tiếng khóc. Anne với lấy hai cây gậy, đi khập khiễng đến chiếc ghế bành của Meggie, vụng về ngồi lên trên tay ghế và vuốt mái tóc vàng hung óng ả của nàng.
- Ồ, Em của chị! Như thế có gì là ghê gớm đâu!
- Cô có biết chuyện của Dane không? Fiona quay qua Anne hỏi.
- Cháu biết từ lâu, Anne đáp.
Meggie dịu xuống:
- Không có gì ghê gớm lắm phải không mẹ? Đây là điểm khởi đầu của một sự kết thúc. Con đã cướp Ralph của Chúa và bây giờ con phải trả lại cho Chúa chính đứa con trai của con. Mẹ đã nói với con rằng đó là sự cướp đoạt, mẹ có nhớ không? Lúc đó con không chịu tin mẹ nhưng bây giờ mẹ có lý như đã từng có lý trước bao nhiêu điều khác.
- Nó sẽ vào tu viện Thánh Patrick? Fiona hỏi, bà luôn luôn thực tế.
Meggie cười vang, mẹ ạ. Không, con sẽ gởi Dane cho Ralph. Phân nửa con người Dane là của Ralph. Nó có thể dựa vào Ralph. Đối với con, Dane quan trọng hơn Ralph. Con biết Dane muốn đến La Mã.
- Em có thú nhận cho Ralph biết ông ấy là cha của Dane không? Lần đầu Anne đề cập đến vấn đề này.
- Không, không bao giờ em nói cho Ralph biết điều đó. Không bao giờ chị ạ.
- Hai người rất giống nhau đến mức không thể không nhận ra.
- Ai? Ralph à? ông ấy chẳng hề hay biết gì cả! Em sẽ giữ bí mật của em. Em gởi đến cho ông ấy đứa con của em. Chứ không phải đứa con của ông ấy.
- Coi chừng, đó lại là sự ghen tuông với thánh thần, Meggie - Anne nói thật nhỏ. Thánh thần chưa để em yên đâu.
- Em còn phải chịu hành phạt nào khác nữa? Meggie hỏi lại trong tiếng thở dài.
Chiếc xe hơi của Vatican đến rước Dane tại sân bay và đưa Dane đi qua các con đường ngập nắng đông đúc những người đi dạo.
Vừa ăn kem Dane vừa thích thú tò mò khám phá những bức tượng mà trước đây cậu ta chỉ nhìn thấy trong ảnh, những cột thời La Mã, những lâu đài xưa, Thánh đường Saint Peter, niềm tự hào của phục hưng.
Và tại đây, Ralph đón Dane, lần này từ đầu đến chân ông mặc toàn màu đỏ thắm. Ralph chìa bàn tay ra, chiếc nhẫn lấp lánh. Dane sụp quỳ xuống, hôn viên hồng ngọc.
- Con hãy đứng lên, để cha ngắm nhìn con một chút nào?
Dane đứng dậy, nụ cười trên môi, nhìn con người to lớn, có chiều cao như mình. Cả hai có thể nhìn nhau trong mắt. Với Dane, ở Hồng Y De Bricassart tỏa ra vầng hào quang chứa đựng một quyền lực tinh thần đặt ông vào tư thế một giáo chủ hơn là một vị thánh. Thế nhưng, đôi mắt ấy lại ngập tràn một nỗi buồn u uẩn, lại càng không phải là đôi mắt của một người giáo chủ. Ôi, ông đã trải qua biết bao đau khổ khiến cho đôi mắt còn đọng lại nỗi buồn ấy, nhưng ông đã vượt lên sự đau khổ một cách cao thượng để trở thành vị linh mục hoàn toàn giữa chúng ta.
Trong khi đó Hồng Y De Bricassart nhìn đứa con trai mà ông không biết đó là con mình. Ông yêu thương Dane vì ông nghĩ rằng đó là con của Meggie yêu dấu. Nếu ông có một đứa con trai, ông rất muốn nó giống như chàng trai đứng trước mặt ông, cũng cao lớn, có một nét đẹp thu hút và có duyên.
Nhưng ông bằng lòng hơn tất cả là những nét hấp dẫn về thể hình, ở Dane hiện rõ cái đẹp từ sự giản dị của tâm hồn. Dane có sức mạnh của những thiên thần và phần nào đó là sự cao cả của họ. Bản thân ông có được như thế ở tuổi mười tám không? Ralph cố nhớ lại và khơi dậy trong trí nhớ biết bao sự kiện của mọt cuộc đời đã về chiều... Không. Ông không hề có những gì như Dane hôm nay. Phải chăng vì con người này đã thật sự đến với Chúa do sự chọn lựa của chính mình? Còn với ông, thì không phải như thế, dù cho ông có thiên hướng. Về điều này ông nhớ rất kỹ.
- Con hãy ngồi xuống, Dane. Con có làm theo lời cha căn dặn, đã bắt đầu học tiếng àchưa?
- Con đã đạt trình độ có thể nói trôi chảy nhưng chưa sử dụng thành thạo các thành ngữ. Con đọc rất dễ dàng, vì đây là sinh ngữ thứ tư của con nên việc học cũng thuận lợi. Vài tuần lễ ở àsẽ giúp con làm quen với ngôn ngữ bình dân.
Em giao cho anh trách nhiệm chăm sóc Dane - thư của Meggie viết. - Cuộc sống yên vui và hạnh phúc của nó tùy thuộc vào anh. Em đã lấy cắp cái gì, em xin trả lại cái đó. Người ta buộc em như thế. Chỉ xin anh hứa với em hai điều để em yên tâm là anh hết lòng lo cho Dane. Thứ nhất, anh hứa với em trước khi Dane có một sự chọn lựa dứt khoát, chính anh phải hiểu rõ một cách chắn chắn thiên hướng thật sự của Dane. Thứ hai, nếu thiên hướng của Dane là đúng như vậy, anh hãy trông nom làm sao cho sự lựa chọn ấy không bị chao đảo. Còn ngược lại, em muốn Dane trở về với em. Vì trước hết, nó thuộc về em. Chính em đã trao nó vào tay anh.
- Dane, con có tin chắc vào thiên hướng của con?
- Chắc chắn thưa Đức cha.
- Tại sao?
- Vì tình yêu mà con dành cho Chúa; con muốn được phục vụ Chúa, suốt đời là người chăn dắt con chiên cho Chúa.
- Con có hiểu điều gì đòi hỏi ở người làm tôi tớ của Chúa?
- Con hiểu.
- Rằng không có một tình yêu nào khác được chen vào giữa Chúa và con? Con hoàn toàn thuộc về Chúa và từ bỏ tất cả
- Thưa vâng.
- Rằng mọi việc đều hành xử theo ý muốn của Người; khi trở thành tôi tớ của Người, con phải từ bỏ nhân cách, cái nhân của con, từ bỏ ý nghĩ cho rằng bản thân con là quan trọng?
- Thưa vâng.
- Rằng con sẵn sàng đối đầu với cái chết, tù tội, cái đói nhân danh Người? Rằng con sẽ không sở hữu bất cứ cái gì, không để cho bất cứ cái gì ảnh hưởng xấu đến tình yêu của con hiến dâng cho Người?
- Thưa vâng.
- Con có nghị lực không Dane?
- Con là một người đàn ông. Con biết rằng sẽ rất khó khăn nhưng con cầu nguyện Người giúp con.
- Con có thật sự tin ở con không Dane? Không có điều gì khác có thể làm con sa ngã?
- Thưa vâng.
- Và nếu sau này, con thấy cần thay đổi ý kiến con sẽ làm thế nào?
- Con sẽ xin rời khỏi nơi đây, Dane trả lời, vẻ ngạc nhiên. Nếu con thay đổi ý kiến, duy nhất chỉ vì con sai lầm khi định ra thiên hướng của mình, chứ không do một nguyên nhân nào khác. Trong trường hợp này, con sẽ xin rời khỏi nơi đây. Con sẽ tiếp tục yêu Người nhưng con hiểu ra rằng không phải bằng cách này Người muốn con phục vụ cho Giáo hội.
- Nhưng khi con đã phát nguyện và đã được thụ phong, con phải biết rằng con không trở lui lại được nữa, con sẽ không có cách nào để giành lại sự tự do của con.
- Thưa Đức cha con hiểu, Dane kiên trì khẳng định. Nhưng nếu phải lấy một quyết định thì con sẽ làm việc đó trước khi con phát nguyện.
Hồng Y De Bricassart ngả lưng vào ghế bành, thở ra. Xưa kia ông đã từng có một quyết tâm như thế. Có bao giờ ông đã chứng tỏ một nghị lực như thế?
- Tại sao con tìm đến ta hở Dane? Tại sao con lại mong muốn đến La Mã? Tại sao không ở Úc?
- Mẹ con đã có ý nghĩ đưa con đến La Mã nơi mà chính con cũng mơ ước từ lâu. Nhưng trước kia con không tin rằng gia đình có đủ tiền gửi con đến đây.
- Mẹ con rất sáng suốt. Và mẹ con đã nói cho con biết rõ chứ?
- Biết chuyện gì thưa Đức cha?
- Biết rằng hằng năm con có một khoản tiền năm ngàn bảng và hiện trong ngân hàng con có một số tiền dành dụm lên đến vài chục ngàn.
Dane giật mình.
- Không, mẹ con chưa bao giờ nói với con điều đó.
- Đúng là mẹ con rất thận trọng. Nhưng bây giờ con đã biết con có sẵn một số tiền như thế, vậy con có muốn ở lại La Mã không?
- Thưa vâng.
Điện thoại reo, Hồng y thản nhiên nhấc ống và trả lời bằng tiếng Ã.
- Vâng cảm ơn. Chúng tôi sẽ đến ngay (Hồng Y đứng lên). Đã đến giờ uống trà, chúng ta sẽ uống trà với một trong những người bạn già thân nhất của cha. Sau Đức Thánh cha, ông ấy là người quan trọng nhất trong Giáo hội. Cha đã báo cáo với Đức ngài về sự có mặt của con và Ngài có ý muốn gặp con.
Vittorio Scarbanza tức Hồng Y Di Contini Verchese đã sáu mươi sáu tuổi, bị phong thấp nặng nhưng đầu óc vẫn bén nhạy như ngày nào. Con mèo cái của ông - Natasha - đang nằm ngủ trên đùi. Ông không thể đứng lên chào khách nhưng tươi cười và dùng đầu ra dấu mời khách đến gần. Đôi mắt ông nhìn bắt gặp vẻ gì đó rất quen thuộc. Đôi mắt ông mở to rồi nhíu lại. Ông cảm thấy tim ông như ngừng lại và đưa tay lên ngực với một cử chỉ có vẻ tự trấn an. Một lúc sau miệng há hốc và ánh mắt vẫn nhìn thẳng anh thanh niên có gương mặt giống hệt De Bricassart như một bản sao.
- Vittorio, có sao không? Hồng Y De Bricassart vừa âu lo vừa cầm lấy tay của Di Contini Verchese để xem mạch.
- Không sao. Một cơn đau nhẹ thoáng qua, thế thôi. Hai người ngồi xuống đi, xin mời.
Dane quỳ xuống, áp mạnh môi lên chiếc nhẫn.
- Con hãy ngồi. Một lát nữa hãy pha trà. Ồ, ông bạn thanh niên, con muốn trở thành linh mục phải không và con tự đặt mình dưới sự che chở của Hồng Y De Bricassart?
- Thưa Đức cha, vâng.
- Sự chọn lựa của con thật đúng. Được Hồng Y De Bricassart bảo trợ con khỏi phải e ngại điều gì không hay xảy ra. Nhưng sao cha thấy con có vẻ âu lo, phải chăng vì con chưa quen nơi này.
Dane mỉm cười, cũng lại nụ cười duyên dáng của Ralph mà chính anh không hề biết. Nụ cười ấy giống Ralph đến đỗi khiến cho trái tim già nua và mệt mỏi nhói lên như vừa bị một mũi nhọn kẽm gai đâm vào.
- Con bối rối, thưa Đức cha. Con hoàn toàn bất ngờ và xúc động vì đứng trước các Hồng Y. Con không bao giờ dám mơ ước được có người đón ở phi trường và càng không dám nghĩ được uống trà với Đức cha.
- Đúng thế, đây là chuyện bất thường. Ồ, đã có trà... Ông theo dõi vị nữ tu đang đặt tách đĩa bằng ánh mắt vui vẻ, rồi đưa ngón tay lên để ngăn Ralph lại. Ồ, không! Hãy để cho tôi đóng vai chủ nhà. Dane, con thích uống trà thế nào?
- Thưa cũng như Ralph, trả lời xong cậu đỏ mặt. Xin lỗi Đức cha, con không có ý định gọi như thế...
- Không sao Dane à, Ralph cắt ngang. Hồng Y Di Contini Verchese không bắt lỗi con đâu. Chúng ta đã gặp và quen nhau bằng cách gọi nhau Dane và Ralph. Và như thế chúng ta sẽ thân thiết nhau hơn nhiều, phải không? Nghi thức chỉ tạo sự xa lạ hoàn toàn trong các quan hệ giữa chúng ta. Tôi muốn chúng ta vẫn là Dane và Ralph trong thân tình; Đức cha không thấy gì bất tiện chứ?
- Không. Ralph là người ủng hộ việc gọi nhau bằng tên. Nhưng, trở lại chuyện đang nói dở dang lúc nãy cha nghĩ đến việc con có những người bạn có chức vị cao - chẳng hạn như mối quan hệ tình bạn lâu ngày với Ralph - sẽ gây phiền phức cho con khi con đặt chân vào tu viện nào đó mà Ralph sẽ chọn lựa cho con. Thật là bực bội nếu phải luôn luôn giải thích dài dòng mỗi khi mối quan hệ giữa hai người gây nên sự chú ý. Đôi khi, Chúa của chúng ta cho phép nói láo một cách thành khẩn. Vì lợi ích chung, ta thấy tốt hơn nên bẻ cong một chút sự thật. Do rất khó giải thích cho suông sẻ các mối quan hệ tình cảm riêng tư, tốt hơn là nên nêu ra mối liên hệ dòng họ. Như thế chúng ta có thể nói với mọi người rằng Hồng y De Bricassart là cậu của con, Dane và chúng ta dừng lại ở mối quan hệ đó. Hồng Y Di Contini Verchese kết thúc bằng một giọng ngọt ngào.
Dane hơi bị khó chịu về những điều vị Hồng Y nói, còn Ralph thì cúi đầu im lặng.
Hồng Y Di Contini Verchese dịu dàng nói tiếp:
- Con đừng thất vọng vì các tên tuổi nổi tiếng cũng có những đôi chân bằng đất sét và có khi họ cũng cần nói láo để giữ được một sự yên ổn nào đó. Con vừa học được một bài học rất bổ ích. Tuy nhiên con phải hiểu, các Hồng Y là những nhà ngoại giao rất sâu sắc. Thật ra, ta chỉ nghĩ đến con, chỉ vì con thôi, Dane ạ. Lòng ghen tị và sự thù ghét cũng phổ biến trong các tu viện chẳng khác nào các trường học ngoài đời. Con sẽ phải chịu đựng một chút vì người ta cho rằng Ralph là cậu của con, anh của mẹ con, nhưng con sẽ phải chịu đựng nhiều hơn nếu người ta nghĩ rằng giữa hai người không có một mối liên hệ bà con nào cả. Chúng ta trước hết là những con người, vì thế mà phải đối đầu với con người trong môi trường này hoặc môi trường khác.
Dane cúi đầu, rồi chồm ra phía trước định đưa tay vuốt ve con mèo cái nhưng anh kịp dừng lại.
- Con xin phép... Con rất yêu mèo, thưa Đức cha.
Thái độ của Dane khiến tấm lòng trung thực của Hồng Y Di Contini rộng mở:
- Vâng. Ta phải thú nhận rằng bây giờ nó hơi nặng ký vì ăn hơi nhiều... Phải không Natasha? Con qua Dane đi, hãy đến với thế hệ mới.
Hai tháng sau khi Dane đi La Mã, Justine cũng đi Anh. Mùa kịch ở Culloden kết thúc, Justine rời chung cư Bothwell Gardens không luyến tiếc. Meggie chỉ đến Sydney hai lần. Lần đầu để đưa Dane và lần nãy tiễn Justine. Đến giây phút cuối cùng chia tay, Meggie vẫn nhìn thấy có quá nhiều khác biệt giữa bản thân mình với con gái. Tính tình Justine ngổ ngáo. Nếu bị trách phiền, Justine trêu chọc mẹ: “ Như mẹ vẫn nói, con giống ba chớ đâu giống mẹâ€. Trên boong tàu nhìn xuống, Justine không nghĩ rằng mẹ mình đã năm mươi tuổi.
Do có tiền bạc dư dả, Justine cảm thấy Luân Đôn trở thành một nơi đặc biệt hấp dẫn. Nhất định cô không chọn một cuộc sống nghèo nàn ở khu Earl'' s Court - mệnh danh “Kangaroo Valley†- nơi có rất nhiều người Úc.
Justine mướn một căn hộ tiện nghi ở Kensington, gần Knightsbridge và ký hợp đồng với đoàn kịch Clyde Daltinham - Roberts.
Mùa hè đến, Justine đi tàu hỏa sang La Mã. Con tàu đi xuyên qua Pháp và ànhưng Justine không nhớ mình đã nhìn thấy những gì vì đầu óc của cô chủ yếu tập trung ôn lại những chuyện sẽ kể cho Dane nghe. Và đúng là có quá nhiều điều để nói.
Có phải Dane đó không? Chàng thanh niên cao lớn, tóc vàng đứng ở sân ga chính là Dane? Dane không khác xưa bao nhiêu, nhưng cũng không còn là đứa em trai bé nhỏ. Cuộc sống của Dane tạo ra một khoảng cách với Justine, xa lạ cứ như là hiện giờ Justine đang ở Drogheda.
Khi về đến khách sạn, cậu em trai nói với chị:
- Chị có cảm thấy phiền hà không nếu em mời chị chiều nay uống trà với vài người bạn của em? Em hơi vội vàng lỡ nhận lời trước rồi. Họ rất muốn được biết mặt chị...
- Đồ ngu! Tại sao lại phiền hà? Nếu hai đứa mình ở Luân Đôn, chị cũng sẽ nhận chìm em qua giữa bạn bè của chị thôi. Chị rất vui được biết bạn bè của em ở tu viện ra sao, dù có thể sẽ chẳng có thú vị lắm. Chắc chắn là không mê được một chàng trai nào đâu.
Trong phòng ngủ khách sạn, đứng gần cửa sổ, nhìn qua bên ia trong cảnh lặng im và buồn, xa xa là bức tường bao quanh một nhà thờ, Justine gọi khẽ.
- Dane!
- Chuyện gì?
- Chị thông cảm em. Chị thông cảm em thật sự.
- Vâng, em biết. Em rất mong mẹ cũng hiểu em, Justine ạ.
- Với mẹ thì khác. Mẹ có cảm tưởng là chúng ta đã bỏ rơi mẹ, nhưng em đừng âu lo vì mẹ, trước sau gì mẹ cũng chấp nhận thôi.
- Em hy vọng như thế - cậu ta cười - Thật ra chiều này những người chị gặp không phải là bạn em ở tu viện. Không bao giờ em đẩy chị và các bạn em vào một thứ bẫy cám dỗ như thế. Chị sẽ gặp Hồng Y De Bricassart. Em biết chị không có cảm tình với ông ấy nhưng chị hãy hứa với em là chị sẽ tỏ ra dễ thương.
Trong mắt của Justine thoáng một ánh tinh nghịch.
- Chị hứa với em. Chị sẽ hôn lên tất cả những chiếc nhẫn mà ông ấy chìa ra.
- Cả Hồng Y Di Contini Verchese cũng có mặt.
Title: Re: Tiếng chim hót trong bụi mận gai (tiếp)
Post by: Serenade24 on 11/05/07, 07:57
Post by: Serenade24 on 11/05/07, 07:57
Chương 39
Trong phòng, những người đàn ông mặc toàn áo đỏ! Chưa bao giờ trong cuộc đời của Justine, cô ta lại ý thức rõ ràng sự thừa thãi của những người phụ nữ trong cuộc sống của một số đàn ông khi bước vào thế giới này. Justine vẫn mặc bộ đồ màu ôliu khi vừa đến La Mã. Dane thúc hối khiến Justine không kịp thay quần áo.
Trong cuộc gặp gỡ, Justine có dịp biết mặt Hồng Y Di Contini Verchese mà trước đây cô chỉ nghe nhắc đến tên. Khi cô quỳ gối xuống hôn chiếc nhẫn trên bàn tay nhăn nheo, ánh mắt Justine bất chợp gặp đôi mắt u buồn của Hồng Y và lạ lùng thay cô đọc thấy trong đó một thứ tình thương ở một người mà Justine chưa từng gặp. Từ năm mười lăm tuổi đến nay, Justine không có cảm tình với các Hồng Y qua hình ảnh một De Bricassart, vậy mà mới nhìn ông già này lần đầu, lòng cô đã cảm thấy được sưởi ấm.
Cũng trong buổi uống trà, Justine quen một nhân vật ngoài Giáo hội do Hồng Y Di Contini Verchese giới thiệu là người bạn rất tốt của ông, Herr Rainer Moerling Hartheim. Khi buổi uống trà tan, chính Rainer đề nghị đưa Justine về khách sạn sau khi xin phép Dane. Sau đó, anh ta lại tự nguyện làm người hộ tống cho Justine trong buổi tối đầu tiên Justine ở La Mã với lý do Dane bận không đưa chị đi chơi.
Rainer dáng người vạm vỡ, vai rộng và to, hai cánh tay dài như tay của thợ cắt lông cừu, trông anh ta hơi giống con vượn nhưng thông minh và nhanh nhẹn. Nước da Rainer sậm, tóc dày và dợn sóng.
Biết bao biến cố đã xảy ra trong cuộc đời của Rainer Moerling Hartheim từ sau lần gặp Ralph tháng bảy năm bốn mươi ba. Một tuần sau, đơn vị của anh bị đưa ra mặt trận phía Đông, nơi mà anh trải qua suốt thời gian còn lại trong chiến tranh. Đau khổ, lạc lõng, chân đứng trong tuyết, không còn đạn ở một chiến tuyến tan tác đến đỗi cách nhau cả trăm mét mới có một người lính, anh có đủ thời giờ để nghiền ngẫm các hậu quả của chế độ Hitler. Trước chiến tranh bùng nổ, anh còn quá trẻ để bị tuyển vào tổ chức thanh niên của Quốc xã.
Chiến tranh chỉ để lại cho anh hai kỷ niệm: một cuộc hành quân khốc liệt trong giá lạnh cũng khốc liệt không kém và gương mặt của Ralph. Sự ghê tởm và cái đẹp; ác quỷ và Chúa.
Nửa điên nửa khùng, nửa bị cóng rét, hoàn toàn không còn khả năng tự vệ, anh run sợ chờ đợi các du kích Nga xuất hiện. Anh đấm tay vào ngực, miệng lâm râm đọc kinh, nhưng anh không biết anh cầu nguyện gì.
Mùa xuân năm 1945, anh tháo chạy xuyên qua Ba Lan, với mục đích duy nhất đến được vùng lính Anh và lính Pháp chiếm đóng. Anh xé và đốt giấy tờ tùy thân, chôn hai huy chương chữ thập sắt, đánh cắp vài bộ quần áo và ra trình diện với giới chức trách Anh tại biên giới Đan Mạch. Người ta đẩy anh và một trại di dân ở Bỉ. Tại đó, suốt một năm, anh sống bằng bánh mì với cháo bột, đó là tất cả những gì mà nước Anh kiệt quệ có thể cung cấp nuôi hàng chục ngàn con người họ có trách nhiệm gánh vác.
Rainer căm thù Hitler nhưng không căm thù nước Đức và anh không hề thấy nhục vì mình là người Đức. Dưới mắt anh, nước Đức vẫn là quê hương. Đầu năm 1947, anh rảo bước trên các con đường ở Aachen không một xu dính túi. Thân xác và cả tâm hồn anh đều sống sót nhưng nhất định không phải để trở lại sự nghèo đói và tối tăm. Vì rằng Rainer không chỉ là một con người đầy tham vọng mà còn là một loại thiên tài. Anh làm việc cho Grundig và nghiên cứu một thứ đã làm anh say mê từ những ngày đầu tiếp xúc với rada, đó là điện tử. Đầu của anh ngùn ngụt sáng kiến, nhưng anh từ chối bán những sang kiến đó cho Grundig. Thay vào đó, anh đánh giá kỹ thị trường, rồi cưới một góa phụ trước đây có chồng làm chủ hai xưởng nhỏ về radio, từ đó anh lao vào làm ăn cho riêng mình. Nước Đức sau chiến tranh dành vô số cơ hội cho những người trẻ dám nghĩ dám làm.
Năm năm mươi mốt, anh ly dị vợ, bồi thường cho bà Annelise Hartheim số tiền gấp đôi trị giá các xưởng của ông chồng thứ nhất để lại.
Bốn năm sau anh trở thành một trong những người giàu và có thế lực nhất ở Tây Đức. Vừa được bầu vào Quốc hội Bonn, anh trở lại La Mã, tìm gặp lại Hồng Y Bricassart và cho ông biết kết quả cuối cùng của những lời cầu nguyện năm xưa.
Nhưng sau cuộc gặp gỡ, anh chỉ nhớ lại một điều duy nhất là anh đã làm Ralph thất vọng. Câu nói của Ralph với Rainer khi chia tay:
- Cha đã cầu nguyện để con trở thành người tốt hơn cha, vì lúc đó con còn trẻ. Không có một cứu cách nào có thể biện minh cho phương tiện. Nhưng cha cho rằng tất cả những nguyên nhân đưa đến sự sụp đổ của chúng ta đều được nén xuống trước khi chúng ta chào đời.
Về đến phòng khách sạn, anh đã khóc nhưng rồi dịu xuống với suy nghĩ: quá khứ coi như đã đi qua, từ nay về sau mình sẽ trở thành con người mà ông ấy muốn. Và có khi anh làm được, có khi không thành, nhưng anh luôn nỗ lực. Tình cảm của anh với các vị chức sắc ở Vatican trở thành một trong những điều quí giá nhất trên đời và mỗi khi cần chống chỏi lại sự chán nản là anh bay sang La Mã.
Trong buổi tối nóng nực của La Mã, đi bộ một mình sau khi đã đưa Justine về khách sạn, đầu óc Rainer lảng vảng ý nghĩ biết ơn người thiếu nữ. Vì rằng, trong lúc quan sát thái độ chịu đựng của Justine trong cuộc gặp gỡ các chức sắc cao nhất trong giáo hội, anh đã nghe trong lòng dân lên một tình cảm hướng về cô gái này.
Con quái vật nhỏ bé đáng yêu ấy, dù bị thương, đầu vẫn giữ bình tĩnh. Người con gái ấy đủ sức đối đầu với các vị chức sắc mà không hề nhường bước.
Trong một lần đi dạo ở La Mã, đứng trước đài nước Trevi, Justine hỏi Rainer:
- Rain, anh có đến Úc lần nào chưa?
Một cảm giác lạnh chạy dài xuống xương sống của Rainer:
- Sau chiến tranh, ở trong trại người Anh quản lý có hai lần tôi suýt bị đưa đi Úc, nhưng cả hai lần tôi đều tránh được. Nhưng tại sao Justine lại gọi tôi là Rain?
- Nếu anh đã đến Úc, anh sẽ hiểu rằng anh có một cái tên kỳ diệu và người ta sẽ gọi anh theo cách của tôi. Rain chứ không phải Rainer. Anh biết rõ tiếng Anh Rain có nghĩa là mưa. Đó là sự sống giữa sa mạc.
Sững sờ, anh buông rơi điếu thuốc.
- Justine, có phải cô yêu tôi?
- Đàn ông bọn anh thật là kiêu ngạo. Rất tiếc phải làm anh thất vọng, nhưng chuyện ấy không có.
Như để làm dịu lại những điều đã lỡ nói ra, nàng nắm tay Rainer siết mạnh và nói:
- Dường như giữa chúng ta có điều gì đó hay hơn.
- Điều gì lại hay hơn là yêu?
- Theo tôi, có nhiều thứ. Tôi cần một người như thế và không bao giờ yêu.
- Rất có thể cô có lý. Rõ ràng đó là thứ xiềng xích nếu nó đến quá sớm. Vậy thì cái gì hay hơn?
- Tìm một người bạn (nàng vuốt nhẹ tay Rainer). Anh là một người bạn của tôi phải không?
Lần này, không phải Dane chờ Justine ở nhà ga như những lần trước. Anh rút lại, để cho Rainer thay mình. Rainer không đón mừng Justine bằng một cái hôn - Anh không thích cái trò biểu diễn kiểu ấy - mà vòng tay qua vai Justine và siết mạnh.
- Anh giống hệt con gấu, Justine nhận xét.
- Con gấu?
- Lúc đầu khi mới biết anh, em thấy anh giống con khỉ Gorilla hơn là con gấu. So sánh con khỉ Gorilla xem ra không được dễ thương phải không anh?
- Vậy là con gấu dễ thương hơn?
- Thật ra loài gấu cũng kết liễu cuộc đời nạn nhân của nó rất mạnh, nhưng chúng siết... dịu dàng hơn (Justine nắm tay Rainer). Dane thế nào?
- Dane vẫn thế.
- Em ăn mặc theo thời trang kiểu ba mươi mốt của em. Em đã phải lùng sục tất cả các hiệu may ở Luân Đôn mới có được cái vỏ thế này. Anh có thích chiếc váy này không? Người ta gọi nó là mini.
- Em đi nhanh tới trước rồi anh sẽ trả lời.
Chiếc váy dài không quá nửa đùi. Đi trở ngược lại về phía Rainer, nàng hỏi.
- Anh thấy thế nào? Có quá đáng không? Em nhận thấy ở Paris các cô không mặc ngắn như thế này.
- Với đôi chân đẹp như chân em, mặc một chiếc váy dài hơn một li nữa là gây ra xì-căng- đan ngay. Anh tin chắc rằng thanh niên ở đây đều đồng ý với anh.
- Anh chọc ghẹo em phải không? - nàng vứa nói lí nhí, chân bước lên chiếc Mercedes có cắm lá cờ ở phía trước đầu xe. Cờ gì thế?
- Anh vừa được bổ nhiệm vào thành phần chính phủ mới.
- Do đó không còn đáng ngạc nhiên về việc tên em được nhắc đến trong một bài báo trên tờ News of the World. Anh có đọc bài báo đó chứ?
- Em dư biết anh không bao giờ đọc loại báo lá cải.
- Em cũng vậy. Nhưng một người nào đó đã đưa cho em xem. Tờ báo đặt câu hỏi: “Cô đào nước Úc ăn khách tóc màu carot có những quan hệ mật thiết với một thành viên của chính phủ Tây Đức là ai?â€
Rainer không trả lời chỉ mỉm cười. Đi chơi bằng xe hơi với Rainer là một trong những phút êm đềm đối với Justine ở La Mã. Sau đó họ đi thăm Hồng Y De Bricassart và Hồng Y Di Contini Verchese. Vài ngày sau đến phiên đoàn người từ Drogheda đến. Rainer mướn một xe nhỏ sang trọng đón họ về khách sạn. Justine kín đáo theo dõi phản ứng của Rainer khi đối diện với gia đình nàng gồm chủ yếu các người cậu. Cho đến phút cuối cùng Justine vẫn còn hy vọng mẹ nàng sẽ thay đổi ý kiến đến La Mã. Meggie vắng mặt gây cho Justine sự khó chịu. Tuy không phân tích được chính xác tâm trạng của mình: đau buồn cho Dane hay sự vắng mặt của mẹ gây buồn khổ cho chính nàng. Nhưng dù thế nào, những người cậu đã đến và nàng có trách nhiệm tiếp họ.
Ồ! Họ rụt rè làm sao! Khó mà phân biệt bởi càng già họ lại càng giống nhau. Tại La Mã, họ hoàn toàn khác với xung quanh, đúng là những nhà chăn nuôi Úc đi nghỉ hè ở La Mã. Cuối cùng Rainer đã có mặt. Anh ấy tỏ ra rất tốt đối với họ. Mình chưa từng thấy ai có thể gợi chuyện được với Patsy, thế mà anh ấy làm được. Anh quả là một ẩn số đối với em, Rainer, bạn của Hồng Y và cũng là bạn của Justine O'' Neill. Phải chi anh ấy bớt xấu trai một tí, mình sẽ hôn anh ấy cho đúng với lòng biết ơn của mình. Chúa ơi, bây giờ mới thấy nếu ở La Mã một mình với các ông cậu mà không có Rain thì sẽ vơ vơ biết chừng nào. Rainer ơi... đúng là anh mang đến sự tốt lành như cơn mưa.
Nhà thờ có thể chứa đến hai ngàn con chiên, do đó vẫn còn chỗ trống. Không một nơi nào trên thế giới người ta lại dành nhiều thì giờ, suy nghĩ và sáng tạo như thế cho việc xây dựng một thánh đường. Các công trình ngoài tôn giáo thời thượng cổ đều trở thành vô nghĩa. Đại giáo đường của Bramante, nóc tròn của Michelangelo, hàng cột của Bernini. Đó không chỉ là công trình cung hiến cho Chúa mà còn để ngợi ca con người.
Trong lễ thụ phong linh mục, Dane nằm dài trên các bậc, mặt úp xuống, như người chết. Anh đang nghĩ gì? Ẩn giấu trong một niềm đau sâu kín vì mẹ anh đã không đến? Hồng Y De Bricassart nhìn anh qua hàng nước mắt và hiểu rằng không có nỗi đau nào giày xéo anh hơn. Thân xác anh lúc này như hòa nhập trong phép lạ. Không còn một chỗ nào dành cho bất cứ điều gì và ai khác hơn là Chúa. Một ngày như mọi ngày, không có gì quan trọng hơn là nhiệm vụ phải hoàn thành, đó là hiến dâng cuộc sống và linh hồn cho Chúa. Rất có thể anh sẽ đạt mục đích nhưng liệu rằng mấy người thật sự đạt mục đích này? Hồng Y De Bricassart thì không rồi, dù ông nhớ rất rõ ngày thụ phong ông như ngập tràn trong một sự lo nghĩ thần thánh. ông đã thử vận dụng tất cả những gì có thể rung động ở trong ông lúc ấy, những ông vẫn không thể hóa thân một cách trọn vẹn.
Lễ tấn chức linh mục của mình không long trọng bằng hôm nay nhưng qua người bạn trẻ này mình thấy lại cái ngày đó. Mình phải tự hỏi đích thật anh ta là ai, bất kể những lo âu của mình, anh ta đã trải qua bao nhiêu năm dài ở đây mà không gây ra một mối ác cảm nào, đừng nói chi là một kẻ thù thật sự. Anh được mọi người thương và anh thương mọi người. Vậy mà không bao giờ anh ta nghĩ đó là một điều phi thường.
Khi anh mới đến đây, Dane thiếu tự tin; chính chúng mình đã mang đến cho anh cái ân sủng ấy, rất có thể điều đó chứng minh sự hiện hữu cần thiết của chúng mình. Có rất nhiều linh mục được phong chức ở đây, có hàng ngàn, hàng ngàn. Tuy nhiên với Ralph, buổi lễ này thật đặc biệt. Meggie ơi! Tại sao em không đến đây để ngắm nhìn tặng vật em đã hiến dâng cho Chúa? Tặng vật mà anh không thể hiến dâng cho Người khi bản thân anh đã hiến dâng.
Một lúc sau, ông quay đầu lại, nhìn thấy hàng ghế dành cho những người ở Drogheda đến trong những bộ quần áo khác thường: Bob, Jack, Hughie, Jims, Patsỵ Một ghế trống của Meggie, rồi đến Frank. Justine với mái tóc rực rỡ che khuất dưới cái khăn vuông đăng ten đen là người phụ nữ duy nhất trong dòng họ Cleary đến đây. Rainer ngồi kế bên nàng.
Ngày hôm nay, hoàn toàn khác; ngày hôm nay, một ngày đặc biệt đối với ông. Hôm nay, gần như ông có cảm giác là chính ông đã cho ra đời một đứa con trai. ông mỉm cười và thở dài. Hồng Y Di Contini Verchese đã cảm nhận gì khi phong chức linh mục cho Danẻ Dane rất đau khổ vì mẹ anh khống đến La Mã nhưng anh không buồn giận mẹ vì anh tin rằng có một nguyên nhân nào đó mà anh chưa rõ, anh sẽ về Drogheda hỏi cho biết. Dane có đúng thai tháng để tự do suy nghĩ sẽ làm gì. Anh có ý định về Drogheda, trong những lúc phi ngựa qua các bãi chăn cừu, anh sẽ suy nghĩ thật chín chắn vấn đề ấy. Anh cảm thấy rằng không thể lấy quyết định trước khi trao đổi với mẹ. Nhưng trước đó, khi gặp mẹ anh sẽ nói thế nào? Anh cần tập trung can đảm trước khi trở về. Dane rủ Justine cùng đi Hy Lạp nghỉ ngơi trong mười lăm ngày, hy vọng Justine sẽ có cách làm cho Dane thêm can đảm để lên máy bay về Drogheda gặp mẹ.
Lúc đầu Justine đồng ý với Dane và thỏa thuận với Rainer là trong khi nàng đi Hy Lạp thì Rainer trở về với công việc của anh ta ở Bonn. Nhưng cuộc chia tay giữa Rainer và Justine không suôn sẻ. Rainer chờ đến bảy năm quen nhau để tỏ tình với Justine nhưng vẫn bị Justine từ chối. Rainer chờ lâu đến như thế vì anh không tự tin, biết mình xấu trai và dư biết người mình yêu bất cần tiền bạc lẫn địa vị. Justine từ chối vì trước hết đối với nàng, tình yêu là sự tước đoạt, gia đình là sự chấm dứt tự do. Vả lại nàng chưa tin chắc là nàng yêu Rainer.
Nhưng khi Rainer đi rồi, còn lại một mình trong phòng khách sạn, nàng mới nhận ra sự trống vắng khủng khiếp trong lòng.
Quái quỷ nữa là chạm mặt ông cậu nào họ cũng hỏi Rainer đâu.
- Rainer là một tay tuyệt lắm, Hughie nói, đôi mắt sáng lên.
Kinh ngạc, bỗng chốc Justine hiểu rằng tại sao trong những ngày qua nàng được các ông cậu quan tâm đến thế. Trước kia giữa các ông cậu và nàng gần như không có một dính dấp nào. Dưới mắt các ông, nàng trở nên quan trọng chỉ vì nàng đã gắn với một người đàn ông mà các ông đón nhận làm thành viên của gia đình.
Trở lên phòng, đầu óc nàng quay cuồng. Đúng là Rainer yêu mình.
Nhưng khi nàng muốn gặp Rainer qua điện thoại thì cô phụ trách tổng đài cho biết Rainer đã rời khách sạn đi Bonn. Justine quyết định không đi Hy Lạp với Dane và tin rằng Dane sẽ hiểu nàng. Dane vẫn muốn nàng lấy Rainer làm chồng.
Rainer thân mến của em (bức thư ngắn bắt đầu như thế), em rất ân hận tối hôm đó đã trốn chạy anh như một con dê cái hốt hoảng; em không hiểu em đã mắc chứng gì. Có lẽ do một ngày mệt mỏi và bao nhiêu chuyện tiếp đó. Em mong anh tha lỗi cho cách xử sự rất thiếu tế nhị của em. Em thấy mắc cỡ vì một chuyện không đáng gì. Vì em nghĩ rằng buổi lễ và những việc tiếp đó cũng làm cho chính anh mỏi mệt, từ đó mà có lời tỏ tình của anh. Cho nên, em đề nghị: xin lỗi anh và về phía em, em cũng tha thứ cho anh. Chúng ta vẫn là bạn với nhau, em mong như thế. Em không thể nào chịu đựng sự lạnh nhạt với anh. Lần sau anh đến Luân Đôn, em chờ anh cùng ăn tối tại nhà em và chúng ta sẽ lập lại hiệp ước hòa bình theo nghi thức hẳn hoi.
Như mọi khi, dưới bức thư ký Justine. Nhận được thư, Rainer nhíu mày suy nghĩ, cố tìm hiểu ý nghĩa thật của những dòng chữ tầm thường được viết vội vàng. Không thể chối cãi, đó là lời kêu gọi thân thiện, nhưng ngoài ra còn gì nữa? Tại sao Justine không đi Hy Lạp với Dane mà lại quay trở về Luân Đôn? Rainer không dám tin rằng Justine thay đổi quyết định vì anh, nhưng anh vẫn để hy vọng len vào trong tâm tư.
Chiều thứ bảy, Rainer từ Bonn đến La Mã và trình diện với Justine tại nhà nàng. Cuộc gặp gỡ lần này kết thúc trên giường.
Sáng hôm sau, Justine thú nhận:
- Em trở về Luân Đôn để nhận vai Desdemona nhưng mặt khác cũng vì anh. Em không thể nào sống bình thường được từ khi anh hôn em ở La Mã, anh dư biết điều ấy. Anh là một con người rất thông minh, Rainer Moerling Hertheim.
- Vừa đủ thông minh để rằng anh muốn em làm vợ ngay từ khi anh mới gặp em.
- Làm vợ? Nàng bật dậy hỏi.
- Vâng, làm vợ. Nếu anh có ý định lấy em làm tình nhân thì anh đã chiếm đoạt em từ nhiều năm. Anh hoàn toàn có khả năng làm việc đó. Anh biết bộ óc của em vận hành như thế nào; cũng tương đối dễ thôi. Chỉ có một lý do duy nhất ngăn chặn anh, đó là vì anh muốn lấy em làm vợ, mặc dù lúc đó anh vẫn biết em chưa có ý định lấy chồng.
- Bây giờ em vẫn không chắc có ý định ấy.
- Justine, không phải một trò đùa đâu và anh không phải là một người đàn ông để người khác đùa giỡn. Chúng ta có thời giờ để suy nghĩ. Hơn ai hết em biết anh kiên nhẫn như thế nào. Riêng về phía em, phải thấy rằng đám cưới là giải pháp duy nhất mà em có thể chọn lựa. Hãy loại ra khỏi đầu em bất cứ ý tưởng nào khác. Anh không chấp nhận giữ vai trò nào khác bên cạnh em ngoài vai trò làm chồng.
- Em sẽ không bao giờ chịu rời bỏ sân khấu! Justine hét to lên, như sẵn sàng gây chuyện.
- Anh đòi hỏi chuyện đó bao giờ? Đã đến lúc em phải khôn lớn lên chớ Justine. Mới thoạt nghe em, người ta tưởng anh định kết án chung thân em trong vai nội trợ và bếp núc. Chúng ta không nghèo khó đến thế đâu. Em có thể sử dụng bao nhiều người phục vụ tùy ý em, những vú em cho các con và tất cả những gì em muốn.
- Không đâu! Justine kêu lên. Nàng chưa nghĩ đến chuyện con cái.
Rainer cười ngất.
- Ồ! Đây đúng là cái mà người ta gọi là sự phục thù của sáng ngày hôm sau! Anh lại hành động như một thằng ngốc đặt em quá đột ngột trước những thực tế. Nhưng lúc này đây anh chỉ yêu cầu em hãy nghĩ đến chuyện đó. Tuy nhiên, anh báo trước với em... Khi quyết định, em đừng quên rằng nếu anh không làm chồng em, thì anh cũng không là gì hết.
Nàng choàng hai tay lên cổ Rainer, bám chặt người anh như khống muốn buông ra.
- Ồ! Rainer! Anh đừng gây cho em nhiều khó khăn như thế!
Một mình lái chiếc xe đua Lagonda, Dane đi qua vùng Đông Bắc nước Ý, ghé lại Trieste - thành phố mà anh rất thích - hai ngày, nghỉ ngơi bên bờ biển Adriatic rồi tiếp tục cuộc hành trình vào lãnh thổ Nam Tư. Từ đây anh đến biên giới Hy Lạp, đi vào thị trấn Evzone giữa lúc đất nước này đang sôi sục không khí cách mạng. Tại thị trấn Evzone ban đêm hàng ngàn ngọn đuốc cháy đỏ rực, đám đông hô to từng lúc “Pap-andre-ou! Pap-andre-ou!
Nóng lòng đến Athenes sớm, anh không dừng trạm nào lâu. Tại thủ đô Hy Lạp, không khí còn sôi sục hơn, dân chúng quyết tâm ủng hộ Papandreou lên nắm quyền. Dane không thích sự ồn ào, anh gởi chiếc Lagonda vào một gara và lên tàu đi ra đảo Crete. Nơi đây, giữa những cây ôliu, cây bách lý hương hoang dại và giữa núi non, Dane tìm được sự yên tĩnh. Anh mướn một phòng nhỏ ở một quán trọ quét vôi màu trắng. Buổi trưa chỉ có tiếng ve kêu.
Trong sự im vắng của sáng hừng đông, Dane làm lễ một mình, sau đó đi dạo cả ngày. Không ai quấy rầy anh và anh không quấy rầy ai. Nhưng trên đường đi qua, những cặp mắt u buồn của người dân quê ở đảo tò mò nhìn theo anh và trên mặt nhăn nheo của họ cũng có những nụ cười. Trời nóng, tất cả nghe yên tĩnh và uể oải.
Âm thầm, Dane cầu nguyện trong trạng thái xúc động. Lạy Chúa! Người đã ban phúc cho con hơn những gì con xứng đáng. Con phải làm gì cho Người để bày tỏ với Người sự biết ơn của con? Con chưa trải qua nhiều đau khổ, cuộc đời con chỉ là một niềm vui dài, vô tận, từ khi con bắt đầu phụng sự. Vì Người, con phải khổ đau. Người biết điều ấy vì người đã khổ đau. Chỉ qua sự đau khổ con mới có thể vượt lên trên chính bản thân mình và hiểu được Người hơn. Thế mới là ý nghĩa của cuộc đời này: một giai đoạn chuyển tiếp đưa đến sự cảm thông huyền bí của Người. Hãy cắm ngọn giáo vào lòng ngực con, đâm sâu đến mức con không thể rút ra. Hãy làm cho con đau khổ... Vì Người, con từ bỏ mọi kẻ khác, kể cả mẹ con, chị con và đức Hồng Y. Duy nhất Người là niềm đau và cũng là niêm vui của con. Hãy lăng nhục con và con sẽ hát lên những lời tán tụng Người. Hãy tiêu diệt con và con sẽ mãn nguyện. Con yêu Người, một mình Người mà thôi.
Dane xuống một bãi nhỏ mà mấy ngày qua anh vẫn thường tắm. Có hai thanh niên người Anh nằm phơi nắng, người đỏ như tôm luộc, họ nói chuyện với nhau giọng Oxford; cách xa một chút, hai cô gái đang trao đổi với nhau một cách lười biếng bằng tiếng Đức.
Dane nhìn về phía hai cô gái, hơi rụt rè, sửa lại cái quần tắm ngay ngắn. Hai cô gái ngưng không nói chuyện với nhau, ngồi bật dậy chỉnh lại mái tóc rồi mỉm cười với Danẹ
- Chào các anh. Hôm nay thế nào? Dane quen mặt hai anh chàng thanh niên này, không ngày nào thiếu mặt họ ở bãi.
- Tuyệt vời, ông bạn! Nhưng hãy coi chừng nước xoáy... Tụi này không dám tắm. Chắc là có bão đâu đó ở ngoài khơi.
- Cảm ơn bạn, Dane cười đáp lại.
Anh chạy ra hướng những đợt sóng nhỏ đang vỗ nhẹ vào bờ hiền hòa, rồi với sự tự tin của một tay bơi giỏi anh phóng người xuống nước.
Kinh ngạc! Mặt nước phẳng lặng đến mức Dane không nghĩ rằng phải tìm cách chống chỏi lại với dòng nước mạnh kéo rút hai chân anh ở phía dưới. Tuy nhiên chẳng có gì đáng lo ngại, Dane là một tay bơi cừ. Đầu nghiêng phân nửa dưới nước, anh rẽ sóng một cách thong thả, tận hưởng cái mát rượi thấm vào da thịt và cảm giác thoải mái hoàn toàn. Khi anh ngừng bơi, nhìn lên bờ, thì hai cô gái Đức vừa cột chặt xong mũ giữ cho tóc không ướt, đang cười giỡn chạy xuống nước.
Dane dùng hai bàn tay làm loa hét to bằng tiếng Đức báo cho hai người không nên ra xa, coi chừng nước rút. Hai cô gái cười vang ra hiệu với Dane là đã hiểu. Ngả đầu phân nửa dưới nước, anh lại tiếp tục bơi và hình như bên tai nghe một tiếng kêu cứu. Anh tiếp tục bơi một đoạn rồi dừng lại, dùng hai chân đạp nước đứng tại chỗ. Đúng là có tiếng ai kêu cứu. Quay đầu lại, anh thấy hai cô gái đang chới với, hoảng hốt, miệng hét liên tục. Tay đưa cao lên, một trong hai người đang chìm xuống.
Anh bơi nhanh đến. Những cánh tay cuống cuồng chụp lấy anh, kéo anh và nhận chìm xuống; anh tìm được cách kèm chặt một người và đánh một cú đấm vào cằm; tiếp đó anh dùng đâu gối thúc mạnh vào xương sống người kia khiến cô này cũng choáng váng. Anh bơi ngửa kéo cùng lúc hai người - giờ đây không vùng vẫy nữa, lần vào trong cạn. Lúc đó mới thấy hai thanh niên người Anh xuất hiện, tiếp tay đưa hai cô gái Đức lên bãi cát. Dù mệt nhừ người, Dane vẫn mỉm cười. Phần của anh đã xong, bây giờ đến phần của hai anh chàng người Anh. Trong khi anh thả người trên mặt nước để nghỉ mệt, dòng nước lại cuốn rút anh một lần nữa. Hai châm anh không chạm được đất, suýt nữa anh gặp nạn. Nếu không có anh, hai cô gái Đức chắc chắn đã bị chết đuối; mấy thanh niên Anh không đủ sức và cũng không được tập dợt đầy đủ để cứu hai người.
Giữa lúc Dane thả nổi trên mặt nước, đột ngột một cơn đau nhói như có gì nổ tung lồng ngực, cảm giác đau nhức khủng khiếp như có một ngọn giáo, một cây lao nướng đỏ cắm thẳng vào tim. Đau đớn không thể chịu nổi, xé cả ruột gan. Anh thét lên, đưa hai tay cao khỏi đầu, toàn thân cứng lại, bắp thịt co giật; cơn đau càng dữ dội buộc anh hạ hai tay xuống, đan chéo nhau ôm lấy ngực, hai đầu gối rút lên bụng. Ôi, tim tôi! Tôi bị một cơn đau tim. Tôi sắp chết! Tôi không muốn chết đâu! Chưa muốn chết trước khi tôi bắt đầu nhiệm vụ, khi mà tôi chưa kịp có những thử thách. Chúa nhân từ hãy cứu con! Con không muốn chết, con không muốn chết.
Những cơn co giật thưa dần, người mềm ra, Dane nằm ngửa, hai cánh tay giang rộng phập phồng trên mặt nước. Xuyên qua hai hàng lông mi ướt đẫm, anh nhìn vòm trời ở xa, thật xa trên cao, thật cao. Thế là đã kết thúc; đúng là ngọn lao của Người, ngọn lao mà lòng kiêu hãnh của con đã van xin Người ban cho cách đây không đầy một tiếng đồng hồ. Hãy cho con một đặc ân được đau đớn. Người hãy làm cho con đau đớn. Bây giờ khi sự đau đớn xuất hiện, con lại cưỡng lại, không tận hưởng được tình yêu trọn vẹn. Chúa nhân từ, nỗi đau của Người! Con phải đón lấy, con không được chống lại, con không được chống lại ý muốn của Người! Nếu đó là ý muốn của Chúa thì ý muốn của Người đã được thực hiện. Như một đứa trẻ, con xin trao thân này trong vòng tay hộ mệnh của Người. Người vô cùng nhân đức đối với con. Tại sao Người ban cho con nhiều thế trong khi con không xứng đáng nhận những ân sủng của Người? Sự đau đớn, sự đau đớn! Người vô cùng nhân từ đối với con. Người đừng để kéo dài, con van xin Người. Sự đau khổ của con sẽ ngắn và nhanh chóng kết thúc. Chẳng bao lâu con sẽ nhìn được mặt Người, nhưng bây giờ, trong khi con còn ở cõi đời này, con cảm ơn Người. Sự đau khổ! Đức Chúa Trời hiền lành của con. Người quá nhân từ đối với con. Con yêu Người!
... Hai thanh niên người Anh báo với một căn cứ không quân Mỹ đóng gần đó tìm kiếm Dane. Xác của Dane được mang vào bờ lúc năm giờ chiều, phân nửa mặt trời khuất sau vách đá.
Qua sổ thông hành của Dane, người ta đọc thấy nơi ghi thân nhân gần nhất địa chỉ của Justine tại Anh.
Trong phòng, những người đàn ông mặc toàn áo đỏ! Chưa bao giờ trong cuộc đời của Justine, cô ta lại ý thức rõ ràng sự thừa thãi của những người phụ nữ trong cuộc sống của một số đàn ông khi bước vào thế giới này. Justine vẫn mặc bộ đồ màu ôliu khi vừa đến La Mã. Dane thúc hối khiến Justine không kịp thay quần áo.
Trong cuộc gặp gỡ, Justine có dịp biết mặt Hồng Y Di Contini Verchese mà trước đây cô chỉ nghe nhắc đến tên. Khi cô quỳ gối xuống hôn chiếc nhẫn trên bàn tay nhăn nheo, ánh mắt Justine bất chợp gặp đôi mắt u buồn của Hồng Y và lạ lùng thay cô đọc thấy trong đó một thứ tình thương ở một người mà Justine chưa từng gặp. Từ năm mười lăm tuổi đến nay, Justine không có cảm tình với các Hồng Y qua hình ảnh một De Bricassart, vậy mà mới nhìn ông già này lần đầu, lòng cô đã cảm thấy được sưởi ấm.
Cũng trong buổi uống trà, Justine quen một nhân vật ngoài Giáo hội do Hồng Y Di Contini Verchese giới thiệu là người bạn rất tốt của ông, Herr Rainer Moerling Hartheim. Khi buổi uống trà tan, chính Rainer đề nghị đưa Justine về khách sạn sau khi xin phép Dane. Sau đó, anh ta lại tự nguyện làm người hộ tống cho Justine trong buổi tối đầu tiên Justine ở La Mã với lý do Dane bận không đưa chị đi chơi.
Rainer dáng người vạm vỡ, vai rộng và to, hai cánh tay dài như tay của thợ cắt lông cừu, trông anh ta hơi giống con vượn nhưng thông minh và nhanh nhẹn. Nước da Rainer sậm, tóc dày và dợn sóng.
Biết bao biến cố đã xảy ra trong cuộc đời của Rainer Moerling Hartheim từ sau lần gặp Ralph tháng bảy năm bốn mươi ba. Một tuần sau, đơn vị của anh bị đưa ra mặt trận phía Đông, nơi mà anh trải qua suốt thời gian còn lại trong chiến tranh. Đau khổ, lạc lõng, chân đứng trong tuyết, không còn đạn ở một chiến tuyến tan tác đến đỗi cách nhau cả trăm mét mới có một người lính, anh có đủ thời giờ để nghiền ngẫm các hậu quả của chế độ Hitler. Trước chiến tranh bùng nổ, anh còn quá trẻ để bị tuyển vào tổ chức thanh niên của Quốc xã.
Chiến tranh chỉ để lại cho anh hai kỷ niệm: một cuộc hành quân khốc liệt trong giá lạnh cũng khốc liệt không kém và gương mặt của Ralph. Sự ghê tởm và cái đẹp; ác quỷ và Chúa.
Nửa điên nửa khùng, nửa bị cóng rét, hoàn toàn không còn khả năng tự vệ, anh run sợ chờ đợi các du kích Nga xuất hiện. Anh đấm tay vào ngực, miệng lâm râm đọc kinh, nhưng anh không biết anh cầu nguyện gì.
Mùa xuân năm 1945, anh tháo chạy xuyên qua Ba Lan, với mục đích duy nhất đến được vùng lính Anh và lính Pháp chiếm đóng. Anh xé và đốt giấy tờ tùy thân, chôn hai huy chương chữ thập sắt, đánh cắp vài bộ quần áo và ra trình diện với giới chức trách Anh tại biên giới Đan Mạch. Người ta đẩy anh và một trại di dân ở Bỉ. Tại đó, suốt một năm, anh sống bằng bánh mì với cháo bột, đó là tất cả những gì mà nước Anh kiệt quệ có thể cung cấp nuôi hàng chục ngàn con người họ có trách nhiệm gánh vác.
Rainer căm thù Hitler nhưng không căm thù nước Đức và anh không hề thấy nhục vì mình là người Đức. Dưới mắt anh, nước Đức vẫn là quê hương. Đầu năm 1947, anh rảo bước trên các con đường ở Aachen không một xu dính túi. Thân xác và cả tâm hồn anh đều sống sót nhưng nhất định không phải để trở lại sự nghèo đói và tối tăm. Vì rằng Rainer không chỉ là một con người đầy tham vọng mà còn là một loại thiên tài. Anh làm việc cho Grundig và nghiên cứu một thứ đã làm anh say mê từ những ngày đầu tiếp xúc với rada, đó là điện tử. Đầu của anh ngùn ngụt sáng kiến, nhưng anh từ chối bán những sang kiến đó cho Grundig. Thay vào đó, anh đánh giá kỹ thị trường, rồi cưới một góa phụ trước đây có chồng làm chủ hai xưởng nhỏ về radio, từ đó anh lao vào làm ăn cho riêng mình. Nước Đức sau chiến tranh dành vô số cơ hội cho những người trẻ dám nghĩ dám làm.
Năm năm mươi mốt, anh ly dị vợ, bồi thường cho bà Annelise Hartheim số tiền gấp đôi trị giá các xưởng của ông chồng thứ nhất để lại.
Bốn năm sau anh trở thành một trong những người giàu và có thế lực nhất ở Tây Đức. Vừa được bầu vào Quốc hội Bonn, anh trở lại La Mã, tìm gặp lại Hồng Y Bricassart và cho ông biết kết quả cuối cùng của những lời cầu nguyện năm xưa.
Nhưng sau cuộc gặp gỡ, anh chỉ nhớ lại một điều duy nhất là anh đã làm Ralph thất vọng. Câu nói của Ralph với Rainer khi chia tay:
- Cha đã cầu nguyện để con trở thành người tốt hơn cha, vì lúc đó con còn trẻ. Không có một cứu cách nào có thể biện minh cho phương tiện. Nhưng cha cho rằng tất cả những nguyên nhân đưa đến sự sụp đổ của chúng ta đều được nén xuống trước khi chúng ta chào đời.
Về đến phòng khách sạn, anh đã khóc nhưng rồi dịu xuống với suy nghĩ: quá khứ coi như đã đi qua, từ nay về sau mình sẽ trở thành con người mà ông ấy muốn. Và có khi anh làm được, có khi không thành, nhưng anh luôn nỗ lực. Tình cảm của anh với các vị chức sắc ở Vatican trở thành một trong những điều quí giá nhất trên đời và mỗi khi cần chống chỏi lại sự chán nản là anh bay sang La Mã.
Trong buổi tối nóng nực của La Mã, đi bộ một mình sau khi đã đưa Justine về khách sạn, đầu óc Rainer lảng vảng ý nghĩ biết ơn người thiếu nữ. Vì rằng, trong lúc quan sát thái độ chịu đựng của Justine trong cuộc gặp gỡ các chức sắc cao nhất trong giáo hội, anh đã nghe trong lòng dân lên một tình cảm hướng về cô gái này.
Con quái vật nhỏ bé đáng yêu ấy, dù bị thương, đầu vẫn giữ bình tĩnh. Người con gái ấy đủ sức đối đầu với các vị chức sắc mà không hề nhường bước.
Trong một lần đi dạo ở La Mã, đứng trước đài nước Trevi, Justine hỏi Rainer:
- Rain, anh có đến Úc lần nào chưa?
Một cảm giác lạnh chạy dài xuống xương sống của Rainer:
- Sau chiến tranh, ở trong trại người Anh quản lý có hai lần tôi suýt bị đưa đi Úc, nhưng cả hai lần tôi đều tránh được. Nhưng tại sao Justine lại gọi tôi là Rain?
- Nếu anh đã đến Úc, anh sẽ hiểu rằng anh có một cái tên kỳ diệu và người ta sẽ gọi anh theo cách của tôi. Rain chứ không phải Rainer. Anh biết rõ tiếng Anh Rain có nghĩa là mưa. Đó là sự sống giữa sa mạc.
Sững sờ, anh buông rơi điếu thuốc.
- Justine, có phải cô yêu tôi?
- Đàn ông bọn anh thật là kiêu ngạo. Rất tiếc phải làm anh thất vọng, nhưng chuyện ấy không có.
Như để làm dịu lại những điều đã lỡ nói ra, nàng nắm tay Rainer siết mạnh và nói:
- Dường như giữa chúng ta có điều gì đó hay hơn.
- Điều gì lại hay hơn là yêu?
- Theo tôi, có nhiều thứ. Tôi cần một người như thế và không bao giờ yêu.
- Rất có thể cô có lý. Rõ ràng đó là thứ xiềng xích nếu nó đến quá sớm. Vậy thì cái gì hay hơn?
- Tìm một người bạn (nàng vuốt nhẹ tay Rainer). Anh là một người bạn của tôi phải không?
Lần này, không phải Dane chờ Justine ở nhà ga như những lần trước. Anh rút lại, để cho Rainer thay mình. Rainer không đón mừng Justine bằng một cái hôn - Anh không thích cái trò biểu diễn kiểu ấy - mà vòng tay qua vai Justine và siết mạnh.
- Anh giống hệt con gấu, Justine nhận xét.
- Con gấu?
- Lúc đầu khi mới biết anh, em thấy anh giống con khỉ Gorilla hơn là con gấu. So sánh con khỉ Gorilla xem ra không được dễ thương phải không anh?
- Vậy là con gấu dễ thương hơn?
- Thật ra loài gấu cũng kết liễu cuộc đời nạn nhân của nó rất mạnh, nhưng chúng siết... dịu dàng hơn (Justine nắm tay Rainer). Dane thế nào?
- Dane vẫn thế.
- Em ăn mặc theo thời trang kiểu ba mươi mốt của em. Em đã phải lùng sục tất cả các hiệu may ở Luân Đôn mới có được cái vỏ thế này. Anh có thích chiếc váy này không? Người ta gọi nó là mini.
- Em đi nhanh tới trước rồi anh sẽ trả lời.
Chiếc váy dài không quá nửa đùi. Đi trở ngược lại về phía Rainer, nàng hỏi.
- Anh thấy thế nào? Có quá đáng không? Em nhận thấy ở Paris các cô không mặc ngắn như thế này.
- Với đôi chân đẹp như chân em, mặc một chiếc váy dài hơn một li nữa là gây ra xì-căng- đan ngay. Anh tin chắc rằng thanh niên ở đây đều đồng ý với anh.
- Anh chọc ghẹo em phải không? - nàng vứa nói lí nhí, chân bước lên chiếc Mercedes có cắm lá cờ ở phía trước đầu xe. Cờ gì thế?
- Anh vừa được bổ nhiệm vào thành phần chính phủ mới.
- Do đó không còn đáng ngạc nhiên về việc tên em được nhắc đến trong một bài báo trên tờ News of the World. Anh có đọc bài báo đó chứ?
- Em dư biết anh không bao giờ đọc loại báo lá cải.
- Em cũng vậy. Nhưng một người nào đó đã đưa cho em xem. Tờ báo đặt câu hỏi: “Cô đào nước Úc ăn khách tóc màu carot có những quan hệ mật thiết với một thành viên của chính phủ Tây Đức là ai?â€
Rainer không trả lời chỉ mỉm cười. Đi chơi bằng xe hơi với Rainer là một trong những phút êm đềm đối với Justine ở La Mã. Sau đó họ đi thăm Hồng Y De Bricassart và Hồng Y Di Contini Verchese. Vài ngày sau đến phiên đoàn người từ Drogheda đến. Rainer mướn một xe nhỏ sang trọng đón họ về khách sạn. Justine kín đáo theo dõi phản ứng của Rainer khi đối diện với gia đình nàng gồm chủ yếu các người cậu. Cho đến phút cuối cùng Justine vẫn còn hy vọng mẹ nàng sẽ thay đổi ý kiến đến La Mã. Meggie vắng mặt gây cho Justine sự khó chịu. Tuy không phân tích được chính xác tâm trạng của mình: đau buồn cho Dane hay sự vắng mặt của mẹ gây buồn khổ cho chính nàng. Nhưng dù thế nào, những người cậu đã đến và nàng có trách nhiệm tiếp họ.
Ồ! Họ rụt rè làm sao! Khó mà phân biệt bởi càng già họ lại càng giống nhau. Tại La Mã, họ hoàn toàn khác với xung quanh, đúng là những nhà chăn nuôi Úc đi nghỉ hè ở La Mã. Cuối cùng Rainer đã có mặt. Anh ấy tỏ ra rất tốt đối với họ. Mình chưa từng thấy ai có thể gợi chuyện được với Patsy, thế mà anh ấy làm được. Anh quả là một ẩn số đối với em, Rainer, bạn của Hồng Y và cũng là bạn của Justine O'' Neill. Phải chi anh ấy bớt xấu trai một tí, mình sẽ hôn anh ấy cho đúng với lòng biết ơn của mình. Chúa ơi, bây giờ mới thấy nếu ở La Mã một mình với các ông cậu mà không có Rain thì sẽ vơ vơ biết chừng nào. Rainer ơi... đúng là anh mang đến sự tốt lành như cơn mưa.
Nhà thờ có thể chứa đến hai ngàn con chiên, do đó vẫn còn chỗ trống. Không một nơi nào trên thế giới người ta lại dành nhiều thì giờ, suy nghĩ và sáng tạo như thế cho việc xây dựng một thánh đường. Các công trình ngoài tôn giáo thời thượng cổ đều trở thành vô nghĩa. Đại giáo đường của Bramante, nóc tròn của Michelangelo, hàng cột của Bernini. Đó không chỉ là công trình cung hiến cho Chúa mà còn để ngợi ca con người.
Trong lễ thụ phong linh mục, Dane nằm dài trên các bậc, mặt úp xuống, như người chết. Anh đang nghĩ gì? Ẩn giấu trong một niềm đau sâu kín vì mẹ anh đã không đến? Hồng Y De Bricassart nhìn anh qua hàng nước mắt và hiểu rằng không có nỗi đau nào giày xéo anh hơn. Thân xác anh lúc này như hòa nhập trong phép lạ. Không còn một chỗ nào dành cho bất cứ điều gì và ai khác hơn là Chúa. Một ngày như mọi ngày, không có gì quan trọng hơn là nhiệm vụ phải hoàn thành, đó là hiến dâng cuộc sống và linh hồn cho Chúa. Rất có thể anh sẽ đạt mục đích nhưng liệu rằng mấy người thật sự đạt mục đích này? Hồng Y De Bricassart thì không rồi, dù ông nhớ rất rõ ngày thụ phong ông như ngập tràn trong một sự lo nghĩ thần thánh. ông đã thử vận dụng tất cả những gì có thể rung động ở trong ông lúc ấy, những ông vẫn không thể hóa thân một cách trọn vẹn.
Lễ tấn chức linh mục của mình không long trọng bằng hôm nay nhưng qua người bạn trẻ này mình thấy lại cái ngày đó. Mình phải tự hỏi đích thật anh ta là ai, bất kể những lo âu của mình, anh ta đã trải qua bao nhiêu năm dài ở đây mà không gây ra một mối ác cảm nào, đừng nói chi là một kẻ thù thật sự. Anh được mọi người thương và anh thương mọi người. Vậy mà không bao giờ anh ta nghĩ đó là một điều phi thường.
Khi anh mới đến đây, Dane thiếu tự tin; chính chúng mình đã mang đến cho anh cái ân sủng ấy, rất có thể điều đó chứng minh sự hiện hữu cần thiết của chúng mình. Có rất nhiều linh mục được phong chức ở đây, có hàng ngàn, hàng ngàn. Tuy nhiên với Ralph, buổi lễ này thật đặc biệt. Meggie ơi! Tại sao em không đến đây để ngắm nhìn tặng vật em đã hiến dâng cho Chúa? Tặng vật mà anh không thể hiến dâng cho Người khi bản thân anh đã hiến dâng.
Một lúc sau, ông quay đầu lại, nhìn thấy hàng ghế dành cho những người ở Drogheda đến trong những bộ quần áo khác thường: Bob, Jack, Hughie, Jims, Patsỵ Một ghế trống của Meggie, rồi đến Frank. Justine với mái tóc rực rỡ che khuất dưới cái khăn vuông đăng ten đen là người phụ nữ duy nhất trong dòng họ Cleary đến đây. Rainer ngồi kế bên nàng.
Ngày hôm nay, hoàn toàn khác; ngày hôm nay, một ngày đặc biệt đối với ông. Hôm nay, gần như ông có cảm giác là chính ông đã cho ra đời một đứa con trai. ông mỉm cười và thở dài. Hồng Y Di Contini Verchese đã cảm nhận gì khi phong chức linh mục cho Danẻ Dane rất đau khổ vì mẹ anh khống đến La Mã nhưng anh không buồn giận mẹ vì anh tin rằng có một nguyên nhân nào đó mà anh chưa rõ, anh sẽ về Drogheda hỏi cho biết. Dane có đúng thai tháng để tự do suy nghĩ sẽ làm gì. Anh có ý định về Drogheda, trong những lúc phi ngựa qua các bãi chăn cừu, anh sẽ suy nghĩ thật chín chắn vấn đề ấy. Anh cảm thấy rằng không thể lấy quyết định trước khi trao đổi với mẹ. Nhưng trước đó, khi gặp mẹ anh sẽ nói thế nào? Anh cần tập trung can đảm trước khi trở về. Dane rủ Justine cùng đi Hy Lạp nghỉ ngơi trong mười lăm ngày, hy vọng Justine sẽ có cách làm cho Dane thêm can đảm để lên máy bay về Drogheda gặp mẹ.
Lúc đầu Justine đồng ý với Dane và thỏa thuận với Rainer là trong khi nàng đi Hy Lạp thì Rainer trở về với công việc của anh ta ở Bonn. Nhưng cuộc chia tay giữa Rainer và Justine không suôn sẻ. Rainer chờ đến bảy năm quen nhau để tỏ tình với Justine nhưng vẫn bị Justine từ chối. Rainer chờ lâu đến như thế vì anh không tự tin, biết mình xấu trai và dư biết người mình yêu bất cần tiền bạc lẫn địa vị. Justine từ chối vì trước hết đối với nàng, tình yêu là sự tước đoạt, gia đình là sự chấm dứt tự do. Vả lại nàng chưa tin chắc là nàng yêu Rainer.
Nhưng khi Rainer đi rồi, còn lại một mình trong phòng khách sạn, nàng mới nhận ra sự trống vắng khủng khiếp trong lòng.
Quái quỷ nữa là chạm mặt ông cậu nào họ cũng hỏi Rainer đâu.
- Rainer là một tay tuyệt lắm, Hughie nói, đôi mắt sáng lên.
Kinh ngạc, bỗng chốc Justine hiểu rằng tại sao trong những ngày qua nàng được các ông cậu quan tâm đến thế. Trước kia giữa các ông cậu và nàng gần như không có một dính dấp nào. Dưới mắt các ông, nàng trở nên quan trọng chỉ vì nàng đã gắn với một người đàn ông mà các ông đón nhận làm thành viên của gia đình.
Trở lên phòng, đầu óc nàng quay cuồng. Đúng là Rainer yêu mình.
Nhưng khi nàng muốn gặp Rainer qua điện thoại thì cô phụ trách tổng đài cho biết Rainer đã rời khách sạn đi Bonn. Justine quyết định không đi Hy Lạp với Dane và tin rằng Dane sẽ hiểu nàng. Dane vẫn muốn nàng lấy Rainer làm chồng.
Rainer thân mến của em (bức thư ngắn bắt đầu như thế), em rất ân hận tối hôm đó đã trốn chạy anh như một con dê cái hốt hoảng; em không hiểu em đã mắc chứng gì. Có lẽ do một ngày mệt mỏi và bao nhiêu chuyện tiếp đó. Em mong anh tha lỗi cho cách xử sự rất thiếu tế nhị của em. Em thấy mắc cỡ vì một chuyện không đáng gì. Vì em nghĩ rằng buổi lễ và những việc tiếp đó cũng làm cho chính anh mỏi mệt, từ đó mà có lời tỏ tình của anh. Cho nên, em đề nghị: xin lỗi anh và về phía em, em cũng tha thứ cho anh. Chúng ta vẫn là bạn với nhau, em mong như thế. Em không thể nào chịu đựng sự lạnh nhạt với anh. Lần sau anh đến Luân Đôn, em chờ anh cùng ăn tối tại nhà em và chúng ta sẽ lập lại hiệp ước hòa bình theo nghi thức hẳn hoi.
Như mọi khi, dưới bức thư ký Justine. Nhận được thư, Rainer nhíu mày suy nghĩ, cố tìm hiểu ý nghĩa thật của những dòng chữ tầm thường được viết vội vàng. Không thể chối cãi, đó là lời kêu gọi thân thiện, nhưng ngoài ra còn gì nữa? Tại sao Justine không đi Hy Lạp với Dane mà lại quay trở về Luân Đôn? Rainer không dám tin rằng Justine thay đổi quyết định vì anh, nhưng anh vẫn để hy vọng len vào trong tâm tư.
Chiều thứ bảy, Rainer từ Bonn đến La Mã và trình diện với Justine tại nhà nàng. Cuộc gặp gỡ lần này kết thúc trên giường.
Sáng hôm sau, Justine thú nhận:
- Em trở về Luân Đôn để nhận vai Desdemona nhưng mặt khác cũng vì anh. Em không thể nào sống bình thường được từ khi anh hôn em ở La Mã, anh dư biết điều ấy. Anh là một con người rất thông minh, Rainer Moerling Hertheim.
- Vừa đủ thông minh để rằng anh muốn em làm vợ ngay từ khi anh mới gặp em.
- Làm vợ? Nàng bật dậy hỏi.
- Vâng, làm vợ. Nếu anh có ý định lấy em làm tình nhân thì anh đã chiếm đoạt em từ nhiều năm. Anh hoàn toàn có khả năng làm việc đó. Anh biết bộ óc của em vận hành như thế nào; cũng tương đối dễ thôi. Chỉ có một lý do duy nhất ngăn chặn anh, đó là vì anh muốn lấy em làm vợ, mặc dù lúc đó anh vẫn biết em chưa có ý định lấy chồng.
- Bây giờ em vẫn không chắc có ý định ấy.
- Justine, không phải một trò đùa đâu và anh không phải là một người đàn ông để người khác đùa giỡn. Chúng ta có thời giờ để suy nghĩ. Hơn ai hết em biết anh kiên nhẫn như thế nào. Riêng về phía em, phải thấy rằng đám cưới là giải pháp duy nhất mà em có thể chọn lựa. Hãy loại ra khỏi đầu em bất cứ ý tưởng nào khác. Anh không chấp nhận giữ vai trò nào khác bên cạnh em ngoài vai trò làm chồng.
- Em sẽ không bao giờ chịu rời bỏ sân khấu! Justine hét to lên, như sẵn sàng gây chuyện.
- Anh đòi hỏi chuyện đó bao giờ? Đã đến lúc em phải khôn lớn lên chớ Justine. Mới thoạt nghe em, người ta tưởng anh định kết án chung thân em trong vai nội trợ và bếp núc. Chúng ta không nghèo khó đến thế đâu. Em có thể sử dụng bao nhiều người phục vụ tùy ý em, những vú em cho các con và tất cả những gì em muốn.
- Không đâu! Justine kêu lên. Nàng chưa nghĩ đến chuyện con cái.
Rainer cười ngất.
- Ồ! Đây đúng là cái mà người ta gọi là sự phục thù của sáng ngày hôm sau! Anh lại hành động như một thằng ngốc đặt em quá đột ngột trước những thực tế. Nhưng lúc này đây anh chỉ yêu cầu em hãy nghĩ đến chuyện đó. Tuy nhiên, anh báo trước với em... Khi quyết định, em đừng quên rằng nếu anh không làm chồng em, thì anh cũng không là gì hết.
Nàng choàng hai tay lên cổ Rainer, bám chặt người anh như khống muốn buông ra.
- Ồ! Rainer! Anh đừng gây cho em nhiều khó khăn như thế!
Một mình lái chiếc xe đua Lagonda, Dane đi qua vùng Đông Bắc nước Ý, ghé lại Trieste - thành phố mà anh rất thích - hai ngày, nghỉ ngơi bên bờ biển Adriatic rồi tiếp tục cuộc hành trình vào lãnh thổ Nam Tư. Từ đây anh đến biên giới Hy Lạp, đi vào thị trấn Evzone giữa lúc đất nước này đang sôi sục không khí cách mạng. Tại thị trấn Evzone ban đêm hàng ngàn ngọn đuốc cháy đỏ rực, đám đông hô to từng lúc “Pap-andre-ou! Pap-andre-ou!
Nóng lòng đến Athenes sớm, anh không dừng trạm nào lâu. Tại thủ đô Hy Lạp, không khí còn sôi sục hơn, dân chúng quyết tâm ủng hộ Papandreou lên nắm quyền. Dane không thích sự ồn ào, anh gởi chiếc Lagonda vào một gara và lên tàu đi ra đảo Crete. Nơi đây, giữa những cây ôliu, cây bách lý hương hoang dại và giữa núi non, Dane tìm được sự yên tĩnh. Anh mướn một phòng nhỏ ở một quán trọ quét vôi màu trắng. Buổi trưa chỉ có tiếng ve kêu.
Trong sự im vắng của sáng hừng đông, Dane làm lễ một mình, sau đó đi dạo cả ngày. Không ai quấy rầy anh và anh không quấy rầy ai. Nhưng trên đường đi qua, những cặp mắt u buồn của người dân quê ở đảo tò mò nhìn theo anh và trên mặt nhăn nheo của họ cũng có những nụ cười. Trời nóng, tất cả nghe yên tĩnh và uể oải.
Âm thầm, Dane cầu nguyện trong trạng thái xúc động. Lạy Chúa! Người đã ban phúc cho con hơn những gì con xứng đáng. Con phải làm gì cho Người để bày tỏ với Người sự biết ơn của con? Con chưa trải qua nhiều đau khổ, cuộc đời con chỉ là một niềm vui dài, vô tận, từ khi con bắt đầu phụng sự. Vì Người, con phải khổ đau. Người biết điều ấy vì người đã khổ đau. Chỉ qua sự đau khổ con mới có thể vượt lên trên chính bản thân mình và hiểu được Người hơn. Thế mới là ý nghĩa của cuộc đời này: một giai đoạn chuyển tiếp đưa đến sự cảm thông huyền bí của Người. Hãy cắm ngọn giáo vào lòng ngực con, đâm sâu đến mức con không thể rút ra. Hãy làm cho con đau khổ... Vì Người, con từ bỏ mọi kẻ khác, kể cả mẹ con, chị con và đức Hồng Y. Duy nhất Người là niềm đau và cũng là niêm vui của con. Hãy lăng nhục con và con sẽ hát lên những lời tán tụng Người. Hãy tiêu diệt con và con sẽ mãn nguyện. Con yêu Người, một mình Người mà thôi.
Dane xuống một bãi nhỏ mà mấy ngày qua anh vẫn thường tắm. Có hai thanh niên người Anh nằm phơi nắng, người đỏ như tôm luộc, họ nói chuyện với nhau giọng Oxford; cách xa một chút, hai cô gái đang trao đổi với nhau một cách lười biếng bằng tiếng Đức.
Dane nhìn về phía hai cô gái, hơi rụt rè, sửa lại cái quần tắm ngay ngắn. Hai cô gái ngưng không nói chuyện với nhau, ngồi bật dậy chỉnh lại mái tóc rồi mỉm cười với Danẹ
- Chào các anh. Hôm nay thế nào? Dane quen mặt hai anh chàng thanh niên này, không ngày nào thiếu mặt họ ở bãi.
- Tuyệt vời, ông bạn! Nhưng hãy coi chừng nước xoáy... Tụi này không dám tắm. Chắc là có bão đâu đó ở ngoài khơi.
- Cảm ơn bạn, Dane cười đáp lại.
Anh chạy ra hướng những đợt sóng nhỏ đang vỗ nhẹ vào bờ hiền hòa, rồi với sự tự tin của một tay bơi giỏi anh phóng người xuống nước.
Kinh ngạc! Mặt nước phẳng lặng đến mức Dane không nghĩ rằng phải tìm cách chống chỏi lại với dòng nước mạnh kéo rút hai chân anh ở phía dưới. Tuy nhiên chẳng có gì đáng lo ngại, Dane là một tay bơi cừ. Đầu nghiêng phân nửa dưới nước, anh rẽ sóng một cách thong thả, tận hưởng cái mát rượi thấm vào da thịt và cảm giác thoải mái hoàn toàn. Khi anh ngừng bơi, nhìn lên bờ, thì hai cô gái Đức vừa cột chặt xong mũ giữ cho tóc không ướt, đang cười giỡn chạy xuống nước.
Dane dùng hai bàn tay làm loa hét to bằng tiếng Đức báo cho hai người không nên ra xa, coi chừng nước rút. Hai cô gái cười vang ra hiệu với Dane là đã hiểu. Ngả đầu phân nửa dưới nước, anh lại tiếp tục bơi và hình như bên tai nghe một tiếng kêu cứu. Anh tiếp tục bơi một đoạn rồi dừng lại, dùng hai chân đạp nước đứng tại chỗ. Đúng là có tiếng ai kêu cứu. Quay đầu lại, anh thấy hai cô gái đang chới với, hoảng hốt, miệng hét liên tục. Tay đưa cao lên, một trong hai người đang chìm xuống.
Anh bơi nhanh đến. Những cánh tay cuống cuồng chụp lấy anh, kéo anh và nhận chìm xuống; anh tìm được cách kèm chặt một người và đánh một cú đấm vào cằm; tiếp đó anh dùng đâu gối thúc mạnh vào xương sống người kia khiến cô này cũng choáng váng. Anh bơi ngửa kéo cùng lúc hai người - giờ đây không vùng vẫy nữa, lần vào trong cạn. Lúc đó mới thấy hai thanh niên người Anh xuất hiện, tiếp tay đưa hai cô gái Đức lên bãi cát. Dù mệt nhừ người, Dane vẫn mỉm cười. Phần của anh đã xong, bây giờ đến phần của hai anh chàng người Anh. Trong khi anh thả người trên mặt nước để nghỉ mệt, dòng nước lại cuốn rút anh một lần nữa. Hai châm anh không chạm được đất, suýt nữa anh gặp nạn. Nếu không có anh, hai cô gái Đức chắc chắn đã bị chết đuối; mấy thanh niên Anh không đủ sức và cũng không được tập dợt đầy đủ để cứu hai người.
Giữa lúc Dane thả nổi trên mặt nước, đột ngột một cơn đau nhói như có gì nổ tung lồng ngực, cảm giác đau nhức khủng khiếp như có một ngọn giáo, một cây lao nướng đỏ cắm thẳng vào tim. Đau đớn không thể chịu nổi, xé cả ruột gan. Anh thét lên, đưa hai tay cao khỏi đầu, toàn thân cứng lại, bắp thịt co giật; cơn đau càng dữ dội buộc anh hạ hai tay xuống, đan chéo nhau ôm lấy ngực, hai đầu gối rút lên bụng. Ôi, tim tôi! Tôi bị một cơn đau tim. Tôi sắp chết! Tôi không muốn chết đâu! Chưa muốn chết trước khi tôi bắt đầu nhiệm vụ, khi mà tôi chưa kịp có những thử thách. Chúa nhân từ hãy cứu con! Con không muốn chết, con không muốn chết.
Những cơn co giật thưa dần, người mềm ra, Dane nằm ngửa, hai cánh tay giang rộng phập phồng trên mặt nước. Xuyên qua hai hàng lông mi ướt đẫm, anh nhìn vòm trời ở xa, thật xa trên cao, thật cao. Thế là đã kết thúc; đúng là ngọn lao của Người, ngọn lao mà lòng kiêu hãnh của con đã van xin Người ban cho cách đây không đầy một tiếng đồng hồ. Hãy cho con một đặc ân được đau đớn. Người hãy làm cho con đau đớn. Bây giờ khi sự đau đớn xuất hiện, con lại cưỡng lại, không tận hưởng được tình yêu trọn vẹn. Chúa nhân từ, nỗi đau của Người! Con phải đón lấy, con không được chống lại, con không được chống lại ý muốn của Người! Nếu đó là ý muốn của Chúa thì ý muốn của Người đã được thực hiện. Như một đứa trẻ, con xin trao thân này trong vòng tay hộ mệnh của Người. Người vô cùng nhân đức đối với con. Tại sao Người ban cho con nhiều thế trong khi con không xứng đáng nhận những ân sủng của Người? Sự đau đớn, sự đau đớn! Người vô cùng nhân từ đối với con. Người đừng để kéo dài, con van xin Người. Sự đau khổ của con sẽ ngắn và nhanh chóng kết thúc. Chẳng bao lâu con sẽ nhìn được mặt Người, nhưng bây giờ, trong khi con còn ở cõi đời này, con cảm ơn Người. Sự đau khổ! Đức Chúa Trời hiền lành của con. Người quá nhân từ đối với con. Con yêu Người!
... Hai thanh niên người Anh báo với một căn cứ không quân Mỹ đóng gần đó tìm kiếm Dane. Xác của Dane được mang vào bờ lúc năm giờ chiều, phân nửa mặt trời khuất sau vách đá.
Qua sổ thông hành của Dane, người ta đọc thấy nơi ghi thân nhân gần nhất địa chỉ của Justine tại Anh.
Title: Re: Tiếng chim hót trong bụi mận gai (tiếp)
Post by: Serenade24 on 11/05/07, 08:01
Post by: Serenade24 on 11/05/07, 08:01
Chương 40
Điện thoại reo. Lúc đó chín giờ sáng, Justine còn đang ngủ. Nàng thầm rủa phương tiện văn minh quỷ quái này, thề rằng sẽ cắt dây điện thoại không thèm sử dụng nó nữa.
Nhưng điện thoại vẫn reo liên tục Biết đâu người gọi đó là Rainer. ànghĩ đó kéo Justine trở về với cuộc sống.
- A lô, Justine O'' Neill?
- Phải rồi, Justine đây.
- Chúng tôi là Hội người Úc ở Aldwych.
Justine thất vọng vì không phải Rainer.
- Vâng, tôi nghe rõ.
Nàng chưa tỉnh ngủ, tiếp tục ngáp, mắt vẫn nhắm.
- Em trai cô có phải là ông Dane O'' Neill?
Mắt Justine mở ra.
- Đúng thế.
- Người đó đang ở Hy Lạp phải không cô O'' Neill?
Hai chân của Justine đang đứng trên thảm như lún xuống.
- Vâng, đúng thế.
Justine không muốn nghĩ đến việc giải thích với người đang liên lạc rằng đó là linh mục O'' Neill chứ không phải là ông O'' Neill.
- Cô O'' Neill, tôi rất tiếc phải báo với cô một tin không haỵ
- Một tin không hay? Một tin không hay à? Tin gì vậy? Có chuyện gì xảy ra? Dane đã bị gì?
- Tôi lấy làm tiếc mà tin cho cô hay rằng em trai của cô, ông Dane O'' Neill đã chết đuối ở Crete, trong một tình huống rất dũng cảm. Theo những tin tức tôi nhận được, ông ấy chết trong khi cứu một người đang lâm nguy ở bờ biển. Tuy nhiên, như cô đã biết, Hy Lạp dang có biến động cách mạng và các tin tức mà chúng tôi nhận được không đầy đủ, rất có thể không chính xác.
Máy điện thoại đặt trên chiếc bàn, sát vách tường mà Justine đang dựa vào, hai đầu gối của nàng cứ mềm ra. Justine tụt dần xuống đất, ngồi thu mình trên sàn nhà nấc lên những tiến đứt quãng nghe như vừa là tiếng cười vừa là tiếng khóc hòa lẫn tiếng thở hổn hển mệt nhọc. Dane chết đuối... Dane chết... Crete , Dane, chết đuối... Chết... chết.
- Cô O'' Neill? Cô còn đó không, cô O'' Neill? Bên kia đầu dây hỏi dồn dập.
- Chết. Chết đuối... Em trai tôi!
- Cô O'' Neill, hãy trả lời!
- Vâng, vâng, vâng! Trời ơi tôi vẫn ở đây.
- Theo chúng tôi biết, cô là thân nhân gần nhất của ông Dane O'' Neill. Chúng tôi phải xin ý kiến của cô về việc giải quyết như thế nào. Cô O'' Neill, cô vẫn chưa nghe chứ?
- Vâng, vâng...
- Cô muốn người ta giải quyết thế nào về xác ông ấy?
Xác! Em tôi là một cái xác! Và người ta cũng không cần phải nói rõ xác của em tôi mà chỉ là cái xác thôi. Dane, Dane của chị. Em là một cái xác.
- Thân nhân gần nhất của Dane? Tôi không phải là thân nhân gần nhất của Dane; tôi nghĩ đúng nhất là mẹ tôi.
Ngừng một lúc.
- Thế thì rất phiền phức, cô O'' Neill. Nêu cô không phải là thân nhân gần nhất của ông ấy, chúng tôi lại mất thêm một thời gian quí báu. Hình như cô không hiểu hiện nay cuộc cách mạng đang bùng nổ ở Hy Lạp và tai nạn lại xảy ra ở đây. Mọi liên lạc giữa đảo này với Athens hoàn toàn bị cắt và chúng tôi nhận được lệnh phải báo cho biết quyết định của thân nhân gần nhất liên quan đến thi thể nạn nhân. Mẹ cô có ở đấy không? Tôi có thể nói chuyện với bà không, rất cảm ơn.
- Nhưng mẹ tôi không có ở đây; bà hiện ở Úc.
- Ở Úc? Trời ơi, càng lúc càng rắc rối! Chúng tôi lại phải gởi một bức điện sang Úc, lại trễ nữa. Nếu cô không phải là thân nhân gần nhất, cô O'' Neill, thì tại sao em trai cô lại ghi tên cô nơi dành để ghi chú chi tiết này trên sổ thông hành?
- Tôi không biết - nàng nói, bất chợt nàng nhận ra mình đang cười.
- Cô cho tôi địa chỉ của mẹ cô ở Úc, chúng tôi sẽ đánh điện tín cho bà hay. Chúng tôi phải biết được một cách dứt khoát cách giải quyết thi thể của ông Dane như thế nào. Việc trao đổi điện tín trễ mất ít nhất cũng mười hai tiếng đồng hồ. Tôi rất mong cô hiểu cho. Mọi chuyện đã khó khăn rồi không kể việc bất trắc này nữa.
- Vậy ông nên gọi điện thoại cho mẹ tôi. Đừng mất thì giờ với những bức điện tín.
- Quỹ của chúng tôi không cho phép sử dụng các cuộc điện đàm quốc tế, cô O'' Neill ạ. Người liên hệ ở đầu dây nói bằng một giọng gay gắt. Xin cô vui lòng cho tôi địa chỉ của mẹ cô.
- Bà Meggie O'' Neill, Drogheda, Gillanbone, New South Wales, Úc.
Nàng nói một hơi như đọc kinh.
- Một lần nữa, tôi xin thành thật chia buồn cùng cô O'' Neill.
Justine buông điện thoại, ngồi phệt xuống đất. Chắc có một sự lầm lẫn nào đó, rồi tả cả chuyện này sẽ sáng tỏ. Dane bị chết đuối trong khi Dane lại lội giỏi như cá? Không, không thể được.
Nhưng đó là sự thật, Justine ơi, mày biết rõ như thế; mày từ chối không đi với Dane để bảo vệ Dane và Dane đã chết đuối. Mày là người che chở của Dane từ khi Dane còn bé và đáng lý mày phải có mặt ở đó. Nếu mày không thể cứu Dane thì mày cũng nên có đó để chết cùng Dane. Thế mà mày đã không đi cùng với Dane, chẳng qua chỉ vì mày muốn về Luân Đôn để ngủ với Rainer.
Thật khó tưởng tượng. Tất cả đều rất khó. Không có bộ phận nào trong người nàng chịu hoạt động, kể cả đôi chân. Justine ngồi dưới đất. Nàng không thể ngồi dậy. Nàng sẽ không bao giờ ngồi dậy được nữa. Trong tâm tưởng của nàng không có chỗ dành cho ai khác ngoài Dane, đâu óc nàng quay tròn càng lúc càng hẹp lại chung quanh Dane. Ôi, lạy Chúa! Tin tức sẽ về đến đó, sẽ gây đau thương cho mẹ và cho tất cả những người khác. Mẹ không có được niềm hạnh phúc ngắm nhìn lần cuối cùng gương mặt ngây ngất, nhập thần của Dane tại La Mã. Bức điện tín có thể đến đồn cảnh sát ở Gilly, nàng nghĩ bụng. Và ông trung sĩ già Ern sẽ lên xe hơi đi suốt đoạn đường dài đến Drogheda để báo với mẹ rằng con trai của bà đã chết. Ông ấy không phải là người thích hợp với nhiệm vụ này, ông là người xa lạ. Thưa bà O'' Neill, tôi xin phép được bày tỏ những lời chia buồn xúc động nhất, con trai bà đã chết. Những lời lẽ lễ phép, khuôn sáo, rỗng tuếch... Không! Tôi không thể để xảy ra như thế, bà cũng là mẹ của tôi! Không thể theo cái cách mà tôi đã nhận hung tin, không thể theo cách đó.
Nàng đặt máy điện thoại lên đầu gối, cầm ống nghe và quay số điện đàm quốc tế.
Chính Meggie nghe điện thoại, lúc ấy đã khuya. Fiona đã đi ngủ. Thời gian gần đây bà thường về phòng sớm, thích ngồi trên giường nghe tiếng dế và ếch kêu rồi ngủ gà ngủ gật trên cuốn sách và nhớ lại chuyện xưa.
- A lô?
- Thưa bà O'' Neill, có điện thoại từ Luân Đôn. Tiếng nói của Hazel từ tổng đài ở Gilly.
- A lô, có phải Justine không? Meggie hỏi một cách bình thản vì thỉnh thoảng Justine vẫn điện thoại hỏi thăm bà.
- A lô, thưa mẹ. Có phải mẹ không?
- Mẹ đây, Meggie trả lời dịu dàng, bà nhận ra lời nói hoảng hốt của con gái.
- Mẹ ơi! Mẹ ơi! Mẹ ơi, Dane chết rồi, Dane chết rồi mẹ ơi!
Vực thẳm lộ ra dưới chân Meggie, và bà rơi xuống đó, tiếp tục rơi mãi, bởi vực thẳm không có đáy. Bà có cảm giác như mặt đất đã khép kín lại trên đầu và bà nhận ra rằng bà sẽ không bao giờ trồi lên được cho đến ngày nào bà vẫn còn sống. Các thánh thần còn có thể làm gì hơn nữa? Bà không biết được điều đó khi đặt ra câu hỏi. Nhưng tại sao bà lại đặt ra một câu hỏi như thế; tại sao bà lại không thể biết trước điều đó? Đừng thách thức các thánh thần, các vị chỉ chờ có thế. Chối từ đi La Mã để chia sẻ giây phút hạnh phúc nhất của đời con mình. Bà tưởng rằng như thế là đã nộp xong cống vật.
- Justine, con thương yêu, con hãy bình tĩnh. Meggie khuyên con giọng đều đều không thay đổi. Con bình tĩnh lại và nói rõ cho mẹ biết chuyện gì đã xảy ra. Con có biết chắc như thế không?
- Hội người Úc gọi điện thoại cho con... Họ tưởng rằng con là người thân nhất của Dane. Một thằng cha tàn nhẫn cứ hỏi luôn miệng con muốn giải quyết ra sao thi thể của Dane.
- Chuyện xảy ra như thế nào Justine? Ở đâu? ở La Mã à? Tại sao Ralph không gọi cho mẹ?
- Thưa mẹ không phải ở La Mã. Rất có thể Đức Hồng Y không hay biết. Ở Crete. Người đàn ông gọi điện thoại cho con bảo rằng Dane chết đuối trong lúc cứu một người khác. Con muốn ở lại Luân Đôn đóng vai Desdemona. Con muốn ở lại với Rainer. Phải chi con cùng đi với Dane! Phải chi con ở bên cạnh em con, biết đâu sẽ không có chuyện gì xảy ra. Ôi Chúa, bây giờ phải làm gì đây thưa mẹ?
- Dừng lại Justine! Meggie cản ngăn con một cách trìu mến. Đừng lẩn quẩn với ý nghĩ không hay nghe không? Dane rất ghét như thế, con biết rõ mà. Tai họa giáng xuống và chúng ta cũng không biết tại sao nhưng bây giờ con phải bình tĩnh lại, mẹ có mất cả hai con đâu. Con là tất cả những gì còn lại của mẹ. Justine con của mẹ. Justine! Sao con ở xa mẹ thế. Thế giới quá rộng lớn, quá rộng lớn. Con hãy trở về Drogheda, mẹ không muốn con cô độc một mình.
- Không thể được, mẹ. Con phải làm việc. Công việc là chiếc phao duy nhất hiện nay của con. Nếu không làm việc, con sẽ điên mất. Con không muốn gặp ai hết, con không cần sự an ủi, mẹ ạ! Làm sao chúng ta có thể sống được khi thiếu Dane?
- Justine thương yêu của mẹ, đừng khóc nữa. Con ráng dằn nỗi đau xuống. Dane không muốn con khóc như thế đâu, con dư biết điều đó mà. Con hãy trở về nhà và quên đi. Chúng ta sẽ đưa Dane về Drogheda, thế là tự nhiên Dane lại thuộc về mẹ. Giáo hội không có quyền ngăn trở mẹ, họ không có quyền. Mẹ sẽ gọi điện thoại cho hội người Úc ngay tức khắc và tòa đại sứ của ta tại Athenes nếu vẫn có thể liên lạc. Dane phải trở về nhà! Mẹ không muốn em con nằm xuống ở một nơi nào khác hơn là Drogheda. Chỉ có ở đây mà thôi và Dane phải về đây. Con cũng về ngay với em con chứ, Justine?
Ngồi dưới đất, Justine lắc đầu như thể mẹ nàng có thể nhìn thấy. Trở về nhà ư? Nàng sẽ không bao giờ về nhà. Nếu có Justine đi theo thì Dane đã không chết. Về nhà và phải nhìn nét mặt của mẹ suốt cuộc đời còn lại sao? Không, ngay trong ý nghĩ nàng đã không thể chịu đựng nổi điều đó.
- Không đâu, mẹ - Justine nói, gương mặt đầy nước mắt - Con sẽ ở lại đây và làm việc. Con sẽ trở về nhà với Dane nhưng sau đó con lại qua Luân Đôn, con không muốn sống ở Drogheda.
Ba ngày liên tiếp, mọi người chìm trong thứ không khí hoang mang và trống rỗng. Justine ở Luân Đôn, Meggie và gia đình ở Drogheda; tin tức về cái chết của Dane bị gián đoạn đã kéo dài hy vọng về một điều không thể xảy ra. Justine tưởng tượng Dane sẽ đập của phòng của nàng bước vào mỉm cười, giải thích chẳng qua là một sự lầm lẫn nào đấy. Tình hình Hy Lạp đang sôi sục, có biết bao nhiêu tin tức không chính xác kia mà.
Bốn ngày sau khi Justine nhận được tin tức về Dane, Justine như một cô gái già. Một buổi sáng nàng mệt mỏi nhắc điện thoại lên và xin liên lạc với Úc.
- Có phải mẹ không?
- Justine đó hả?
- Con đây, thưa mẹ. Dane đã được an táng, thế là chúng ta không thể đưa Dane về Drogheda. Bây giờ mình phải làm gì hả mẹ? Nhà chức trách không cho biết gì thêm mà cứ lặp lại là đảo Crete rất rộng và không biết được vùng đất Dane nằm là gì. Khi con nhận được điện tín, thì Dane đã đem đi chôn cất. Ngôi mộ của Dane ở một nơi nào đó người ta không nói rõ và trên bia không ghi một chữ nào. Con không xin được hộ chiếu đi Hy Lạp, không ai giúp con, đúng là hỗn loạn. Mình làm gì bây giờ hở mẹ?
- Con đến La Mã gặp mẹ, Justine, - Meggie nói với con gái.
Mọi người - ngoại trừ Anne Mueller - đều vây quanh điện thoại, trên mặt lộ rõ đau thương. Chỉ mới ba ngày mà thấy mấy người đàn ông trong nhà như già thêm hai mươi tuổi. Fiona thì co quắp lại như một con chim bị bệnh, xanh xao. Ba cau có, đi tới đi lui trong nhà, miệng lẩm bẩm:
- Tại sao tôi không chết thay cho nó? Tại sao nó phải chết? Tôi già rồi, già quá rồi! Để cho tôi ra đi có phải là đơn giản hơn không. Tại sao lại là nó mà không phải tôi?
Meggie lặng nhìn mọi người và đặt điện thoại xuống. Drogheda còn lại bấy nhiêu người và chỉ có bấy nhiêu, một nhóm nhỏ đàn ông lẫn đàn bà lớn tuổi mệt mỏi và không còn có thể sinh nở gì được.
- Dane đã mất rồi. Meggie nói. Không ai có thể tìm ra thi thể Dane được. Nó được chôn cất ở một nơi nào đó trên đảo Crete xa xôi! Không thể để Dane nằm xuống ở một nơi xa Drogheda đến thế? Tôi sẽ đi La Mã ngay gặp Ralph. Ông ấy là người duy nhất có thể giúp chúng tạ
Linh mục bí thư của Hồng Y De Bricassart bước vào phòng.
- Thưa Đức cha, con xin lỗi làm bận rộn Đức cha, nhưng có một bà nhất định muốn gặp cho được Đức cha. Con có giải thích với bà ấy rằng Đức cha đang chủ trì hội nghị giám mục, rằng Đức cha đang rất bận và không thể tiếp bất cứ ai lúc này. Nhưng bà ấy khăng khăng rằng bà sẽ ngồi mãi trước cửa phòng của Đức cha cho đến khi nào Đức cha có thể tiếp.
- Theo cha thì bà ấy có gặp chuyện phiền phức không?
- Chắc là bà gặp chuyện phiền phức lớn thưa Đức cha. Bà yêu cầu con nói với Đức cha tên bà là Meggie O'' Neill.
Hồng Y De Bricassart đứng phắt dậy; mặt ông biến sắc, trắng bệch như mái tóc đã ngả màu. Còn vị linh mục bí thư thì hốt hoảng:
- Thưa Đức cha, Đức cha có sao không?
- Không có gì đâu cha. Tôi vẫn bình thường xin cảm ơn. Cha hãy hủy bỏ các cuộc hẹn cho đến khi có lệnh mới và cha mời bà O'' Neill vào đây ngay. Đừng để cho ai quấy rầy, ngoại trừ Đức Thánh cha có chuyện gì cần đến.
Linh mục nghiêng người chào cha Ralph và bước ra.
Meggie bước vào, suýt chút nữa Ralph nhìn không ra. Mười ba năm rồi, ông không gặp lại Meggie. Bã đã năm mươi ba tuổi, còn ông bảy mươi mốt, không phải chỉ riêng mình Ralph mà cả Meggie cũng đã già. Trên gương mặt của Meggie ít có nét thay đổi nhưng sự nghiêm khắc đã thay thế cho sự dịu dàng; sự cứng rắn thay thế cho tâm lý âu yếm. Bà là hình ảnh của một người tử vì đạo rắn rỏi, có tuổi và cương quyết hơn là một nữ thánh vốn nhẫn nhục và trầm tư trong những giấc mơ của mình. Meggie vẫn đẹp lạ lùng hơn bao giờ hết, đôi mắt lanh lẹ vẫn màu nâu và mái tóc rực rỡ ngả sang màu xám nâu nhạt, hơi giống màu tóc của Dane. Và càng ngạc nhiên hơn, Meggie lại từ chối nhìn Ralph đủ lâu để ông có thể thỏa mãn sự khao khát sau bao nhiêu năm không gặp.
Trước một Meggie như xa lạ ấy, Ralph không thể nào đón tiếp tự nhiên được, ông chỉ cho bà ghế ngồi và không trở lại được cách xưng hô thân mật xưa kia.
- Mời bà ngồi.
- Cảm ơn, - bà nói cũng cầu kỳ không kém.
Khi Meggie ngồi xuống, ông có thể nhìn rõ bà và nhận ra bàn chân và cổ chân của Meggie sưng lên rất dữ.
- Meggie! ông kêu lên. Em đã đến thẳng... Không dừng lại nơi nào hết à? Có chuyện gì thế?
- Vâng, tôi đến thẳng đây. Suốt hai mươi chín giờ đồng hồ ngồi trên các máy bay từ Gilly đến La Mã tôi không biết làm gì khác hơn là nhìn mây qua cửa kiếng và suy nghĩ.
- Có chuyện gì? Ông lặp lại, sốt ruột, lo âu, sợ hãi.
Bà ngước nhìn lên, nhìn thẳng Ralph.
Trong đôi mắt lạnh lùng của Meggie, có cái gì đó thê thảm tận cùng khiến cho Ralph phải ớn lạnh. Ông đưa bàn tay đặt lên sau cổ.
- Dane đã chết. - Meggie nÃ73;&³i.
Bàn tay đeo chiếc nhẫn Hồng Y tụt xuống, rơi thẳng trên đầu gối như bàn tay một con búp bê nhồi trấu, toàn thân ông mềm nhũn trên chiếc ghế bành.
- Chết à? Ông hỏi chậm rãi. Dane chết?
- Vâng. Nó chết đuối cách đây sáu ngày ở đảo Crete trong khi bơi ra cứu hai cô gái bị nước cuốn.
Ông nghiêng người ra phía trước, hai bàn tay đưa lên, chạm mặt.
- Chết? Miệng ông ấp úng. Dane! Dane chết? Thằng bé tuyệt vời ấy... Nó không thể chết được! Dane... linh mục hoàn toàn... tất cả những gì tôi không thể có được... Nó có tất cả những gì tôi không có... Nó luôn luôn có được điều đó... Chúng tôi đều biết như thế... Tất cả chúng tôi đều không phải là những linh mục thật hoàn chỉnh. Chết rồi ư? Ôi, Đức Chúa Trời nhân ái!
- Ông không có gì phải lo lắng về Đức Chúa Trời nhân ái của ông, Ralph ạ! Người phụ nữ có vẻ xa lạ ngồi trước mặt ông lên tiếng - Ông có chuyện khác cần làm hơn. Tôi đến đây để yêu cầu sự giúp đỡ của ông... chứ không phải làm chứng cho sự đau xót. Trong suốt những giờ ngồi trên máy bay, tôi không ngừng lặp đi lặp lại những lời lẽ mà tôi sẽ phải nói để báo tin này cho ông... Tất cả những giờ phút ấy tôi không thể làm gì khác hơn là nhìn mây qua cửa kiếng. Dane đã chết rồi. Sau một thử thách ghê gớm như thế, tôi chẳng cần gì đến nỗi đau xót của ông.
Khi Ralph ngước đầu lên thì trái tim tưởng chừng như chết lịm và băng giá của Meggie giật nẩy lên, se thắt lại. Đúng là gương mặt của Dane rồi nhưng sao lại hằn lên nét đau khổ.
- Anh có thể giúp được gì cho em, Meggie? ông hỏi giọng đều đều, kìm chết xúc động để có thể trở lại với vai trò người chăm lo về mặt tinh thần.
- Hy Lạp đang sôi sục cách mạng. Người ta chôn Dane một nơi nào đó ở Crete mà tôi không biết, chôn lúc nào tôi cũng chẳng hay. Vì không thể liên lạc, nên người ta tưởng nó đơn độc trên cõi đời này. Tôi muốn người ta trả lại con cho tôi, Ralph. Tôi muốn người ta tìm Dane và đưa trở về nhà để nó được yên nghỉ trên mảnh đất Drogheda thân yêu. Tôi đã hứa với Justine rằng em của nó sẽ được chôn ở Drogheda và chắc chắn phải như thế, cho dù tôi buộc phải đi bằng đầu gối tìm kiếm Dane khắp các nghĩa trang ở Crete. Không bao giờ tôi để cho nó nằm trong một ngôi mộ của người tu hành ở La Mã này. Không thể có chuyện đó ngày nào tôi còn thở để đòi lấy sự hợp lý này. Nó phải về nhà thôi, Ralph ạ.
- Không ai tước đi quyền ấy của em, Meggie - ông nói dịu dàng - Giáo hội chỉ buộc Dane được yên nghỉ trên đất thánh. Anh cũng thế, anh muốn được nằm xuống ở Drogheda.
- Tôi không mất thời gì vì những chuyện thủ tục hợp pháp - Bà nói tiếp không thèm để ý đến câu trả lời của Ralph - Tôi không biết nói tiếng Hy Lạp và cũng chẳng có quyền hành hay ảnh hưởng gì tại đây. Do đó, tôi phải nhờ vào quyền hành và ảnh hưởng của ông. Hãy mang trả lại con trai cho tôi, Ralph.
- Em đừng quá lo lắng, Meggie, Dane sẽ được trả lại cho em, nhưng có lẽ phải mất một ít thời gian. Cánh tả đang cầm quyền ở Hy Lạp và hiện nay họ chống giáo hội gay gắt. Tuy nhiên anh không thiếu bạn bè ở đấy và có thể giúp được. Em cứ để cho anh tiến hành ngay và đừng lo lắng nữa. Đây là chuyện liên quan đến Nhà thờ công giáo và người ta sẽ giao trả Dane cho chúng ta.
Đưa tay định nắm dây kéo chuông để gọi linh mục bí thư, nhưng trước cái nhìn lạnh lùng của Meggie, ông ngừng tay lại.
- Ông không hiểu gì hết, Ralph. Tôi không yêu cầu ông cho tiến hành. Tôi muốn lấy lại con tôi... Không phải trong tuần lễ tới hay tháng tới, mà ngay tức khắc. Ông biết nói tiếng Hy Lạp cũng như có thể xin các giấy nhập cảnh cho ông và cho tôi một cách dễ dàng. Tôi muốn ông cùng đi với tôi sang Hy Lạp ngay và ông giúp tôi tìm lại con tôi.
Ãnh mắt của Ralph chứa đựng nhiều tình cảm lẫn lộn: âu yếm, trắc ẩn, xúc động, xót xa. Trong ánh mắt ấy còn có cả sự tỉnh táo.
- Meggie, anh thương con em như con của anh, nhưng anh không thể rời La Mã lúc này. Anh không được tự do hành động theo ý muốn của anh... Đáng lý em biết rõ điều đó hơn ai hết. Tình cảm của anh đối với em thế nào em đã rõ và dù nỗi đau khổ của anh có nặng trĩu đến đâu, anh vẫn không thể rời La Mã ngay giữa thời kỳ hội nghị! Hội đồng giám mục. Anh đang làm phụ tá cho Đức Thánh Cha.
Ngồi bật ra phía sau, bàng hoàng như bị xúc phạm, Meggie lắc đầu, nhếch miệng cười mỉm cay đắng như đang chứng kiến một trò hề. Nàng bắt đầu run lên, liếm môi như sắp lấy một quyết định rồi ngồi thẳng, ngay ngắn, cứng nhắc.
- Có thật ông thương con của tôi như nó là con của ông không, Ralph? ông sẽ hành động ra sao nếu đó là con của chính ông? Có thể nào ông lại tiếp tục ngồi đây và nói với mẹ của nó rằng “Không, tôi lấy làm tiếc; tôi không thể nào bỏ công việc đượcâ€. Ông có thể nói như thế với mẹ của con ông chứ?
Đôi mắt của Dane - nhưng thật thật ra không phải của Dane - nhìn bà, hốt hoảng, tràn đầy đau khổ, bất lực.
- Anh không có con, ông nói. Nhưng anh đã học ở con em rất nhiều điều như phải biết vượt qua những khó khăn tệ hại nhất và luôn hướng về Chúa bằng tấm lòng chân thật.
- Dane chính là con của ông, - Meggie đột ngột nói.
Ralph nhìn bà bằng cái nhìn trống rỗng, nói hoảng hốt:
- Cái gì?
- Tôi muốn nói rằng Dane chính là con của anh. Khi em rời khỏi Matlock, em đã có thai, Dane là con của anh chứ không phải của Luke O'' Neill.
- Không thể... như thế được!
- Em không có ý định nói cho anh biết điều đó, ngay cả bây giờ em cũng chẳng muốn nói như thế đâu. Anh nghĩ em nói láo với anh chăng? Để làm gì?
-... Để tìm cách lấy lại Dane? Đúng thế. ông nói bằng một giọng rất thấp.
Meggie bước tới, đứng trước Ralph. Giờ đây ông ta chỉ còn là một khối bất động trong chiếc ghế bành bọc gấm màu vàng rực. Meggie cầm đôi bàn tay gầy, nhăn nheo đặt vào tay mình, nghiêng mình xuống và hôn chiếc nhẫn, hơi thở làm mờ viên hồng ngọc.
- Ralph à! Trên tất cả những điều thiêng liêng nhất, em xin thề rằng Dane là con của anh. Nó không phải và không thể nào là con của Luke được. Em xin thề với anh điều đó. Em xin thề trên vong hồn của con chúng ta như thế.
Tếng kêu rên siết của Ralph chẳng khác gì lời than vãn của một linh hồn vừa bước qua các cửa địa ngục. Ralph tuột khỏi chiếc ghế, buông người sụp xuống tấm thảm đỏ thắm, ông khóc, gương mặt giấu trong hai cánh tay khoanh lại, những ngón tay bấu chặt vào tóc.
- Phải, anh cứ khóc đi! Meggie nói. Bây giờ anh đã biết rồi thì anh cứ khóc! Cũng đúng thôi, một trong những người thân nhất của Dane được nhỏ những giọt nước mắt cho con. Khóc đi, Ralph. Trong suốt hai mươi sáu năm, em đã có đứa con, con của anh; nhưng còn anh thì không hề hay biết nó là con của anh. Anh không nhìn ra, anh không nhận ra nó là anh, là một nửa con người của anh! Khi mẹ em kéo Dane ra khỏi bụng em, mẹ đã biết ngay nó là con của anh, nhưng anh thì không hề biết. Bàn tay của anh, bàn chân của anh, gương mặt của anh, thân hình của anh. Chỉ có màu tóc là của em. Bây giờ thì anh đã hiểu rồi chứ? Khi em gởi Dane đến đây, em đã nói trong bức thư gởi anh: “Cái gì em đã đánh cắp của anh, em xin trả lại cho anhâ€. Anh còn nhớ chứ? Cả hai chúng ta đã ăn cắp Dane, anh ạ. Chúng ta đã ăn cắp cái mà anh đã hiến cho Chúa, do đó cả hai chúng ta phải trả giá mà thôi.
Meggie quay trở lại ngồi vào chiếc ghế của mình, khắc khổ, tàn nhẫn, nhìn khối đỏ chói nằm rên rỉ dưới đất.
- Em đã yêu anh, Ralph, nhưng anh chưa bao giờ thuộc về em cả, Dane là tất cả những gì mà em có thể giành được ở anh. Em đã thề rằng anh sẽ không bao giờ biết được điều đó, rằng anh không bao giờ có khả năng lấy lại. Thế nhưng, nó đã tự nguyện về với anh, do chính ý muốn của nó. Nó coi anh như là hình ảnh của một linh mục lý tưởng. Em suýt nữa cười phì! Nhưng không đời nào em lại trao cho anh một thứ vũ khí bằng cách thú nhận với anh nó là con của anh, trừ khi sự việc đã xảy ra như thế này thì em mới thấy cần phải nói với anh điều đó, mặc dù bây giờ cũng chẳng còn gì là quan trọng nữa. Dane không thuộc về ai trong hai chúng ta mà thuộc về Chúa
Chương 41
Hồng Y De Bricassart thuê một chiếc máy bay riêng ở Athens; ông, Meggie và Justine đưa Dane về quê nhà, ở Drogheda. Những người sống ngồi im lặng, người chết lặng im nằm trong quan tài, không còn biết đòi hỏi gì ở cõi đời này nữa.
Trong căn phòng ảm đạm, Ralph trầm ngâm: “Ta có bổn phận làm lễ và đọc kinh cầu hồn cho Dane, con của ta. Con ơi con là máu thịt của ba. Đúng thế, Meggie anh tin em; ngay khi anh vừa lấy lại hơi thở sau cơn xúc động, anh đã tin em; và anh sẽ tin mãi mãi dù em không nói lên lời thề dữ dội. Vittorio đã biết ngay lần đầu tiên ông gặp Dane. Fiona cũng thế, Anne Mueller cũng thế... Chỉ có anh... Dane ơi, ba nhớ lại tiếng cười của con sau bụi hồng khi ba gặp con lần đầu hồi con còn bé... Và đôi mắt ngước nhìn của con không hề khác đôi mắt của ba thời thơ ấu chút nào “.
Ralph de Bricassart! Tại sao ông đứng yên, hãy mở miệng đi và nói thành lời, hãy ra lệnh cho đôi tay làm phép lành, hãy bắt giọng cho bài thánh ca dành cho người đã chết. Đó là con của ông, ông yêu nó hơn cả mẹ nó kia mà. Vâng, hơn cả mẹ nó nữa! Vì rằng nó chính là ông, là hiện thân của ông được đúc lại trong một khuôn hoàn hảo.
In Nomine Patris, et Fillii, et Spiritus Sancti...
Nhà thờ riêng của gia đình Cleary đầy người. Tất cả những ai cần có mặt. Gia đình King, O'' Rourke, Havies, Pugh, Mac Queen, cùng những người sống chết với Drogheda.
Hy vọng đã tàn, ánh sáng đã tắt. Linh mục Dane O'' Neill nằm đó trước bàn thờ, trong một quan tài hàn chì phủ hoa hồng.
Tại sao hoa hồng luôn nở rộ vào mỗi dịp Ralph trở về Drogheda? Bây giờ là tháng mười, ngay giữa mùa thu. Hoa hồng sặc sỡ thật đúng lúc.
Sanctus... Sanctus... Sanctus...
Con phải nhớ Thánh của các vị Thánh đang ngự trị trong con. Dane của ba, con trai tuyệt vời của ba. Như thế này mà tốt hơn đấy. Ba không muốn con đi theo con đường của ba chút nào, cũng chẳng muốn con đến nơi mà ba đã đến. Ba không biết điều gì đã khiến ba nói với con những lời lẽ này. Con không còn đi theo con đường mà ba đã đi, con chẳng bao giờ cần như thế cả Dane ạ. Cái mà ba phải mò mẫm kiếm tìm, con đã tìm thấy bằng bản năng. Người đau khổ không phải là con mà chính là ba và tất cả những người còn sống. Hãy thương xót họ và khi đến lượt họ, con hãy cứu giúp tất cả.
Ite, Missa est... Requiescat in peace...
Đoàn người ra khỏi nhà thờ, đi qua một bãi cỏ và những hàng cây bạch đàn, hồ tiêu thẳng tới nghĩa trang. Dane, con hãy yên giấc, chỉ có những người được Chúa chọn mới chết trẻ như con. Tại sao chúng ta lại đau xót? Con may mắn được sớm thoát khỏi cuộc sống mỏi mệt này Chính cuộc sống này mới là địa ngục; một bản án nô lệ suốt đời ở trần thế. Chúng ta phải chịu đựng sự đau khổ trong địa ngục này khi chúng ta còn sống là như thế.
Ngày qua ngày, những người đến dự tang lễ lặng lẽ trở về nhà, họ tránh chạm mặt nhau. Ãnh mắt của Hồng Y De Bricassart có một lúc hướng về phía Meggie nhưng ông không đủ can đảm nhìn vào mặt nàng thêm lần nữa. Justine thì đã vội vàng rời Drogheda để kịp lên máy bay đi Sydney và từ đó về Luân Đôn trong chuyến bay đêm. Tại sao Justine không bảo Rainer cùng đi theo mình? Nàng dư biết Rainer yêu nàng đến mức nào và anh thiết tha được ở bên nàng giữa những giây phút này như thế nào. Chính Hồng Y cũng quên mời Rainer cùng đi dù trước đó nhiều lần ông có dự tính. Đúng là đầu óc ông lúc ấy đã quá mỏi mệt. Những con người ở Drogheda thật lạ lùng, họ không muốn có nhiều người vây quanh giữa lúc buồn khổ, họ thích đối diện một mình với nỗi thương đau.
Sau buổi ăn chiều mà ai cũng tỏ ra lạnh nhạt, chỉ còn Fiona và Meggie ngồi với Hồng Y trong phòng khách. Không ai nói một lời. Chiếc đồng hồ mạ vàng nằm trên lò sưởi cẩm thạch buông từng tiếng tích tắc nghe vang to khủng khiếp. Và ở phòng kế bên, từ bức họa chân dung treo trên cao, Mary Carson nhìn trừng mắt như thách thức bà ngoại Fiona. Fiona và Meggie ngồi cùng một tư thế trên ghế sofa hai mẹ con dựa vai vào nhau. Hồng Y đọc lại trong trí nhớ của mình hình như chưa lần nào thấy hai người gần gũi với nhau như thế. Nhưng cả hai người không ai nói với ai một lời nào và cũng không nhìn nhau. Mắt của họ cũng không hướng về ông.
Ông đã hiểu mình đã phạm tội gì: Kiêu ngạo, tham vọng, phần nào đó thiếu sự thận trong. Và tình yêu của ông dành cho Meggie đã sinh sôi nẩy nở trên đống bầy nhầy ấy! Vả lại ông chưa bao giờ biết đến sự đăng quang của mối tình đó. Sự việc đã khác hơn biết mấy nếu ông biết ông biết được Dane là con của ông? Có thể ông sẽ yêu con người đặc biết ấy nhiều hơn. Biết đâu ông sẽ đi theo một con đường khác nếu ông hiểu rõ chuyện con trai của ông? Đúng thế! Con tim của ông đã hét lên. Không! Nhưng ngay khi đó thì lý trí lại chế giễu ông.
Ông tự trách mình ngu ngốc! Ralph ạ. Đáng lý mày phải biết Meggie không đời nào trở lại với Luke. Mày phải biết ngay Dane là con của ai. Nàng tự hào về nó vô cùng! Đó là tất cả những gì mà nàng đã giành được ở mày, đó là điều mà nàng đã nói với mày ở La Mã.
Hay lắm, Meggie à, với Dane em đã đạt được đều tốt đẹp nhất. Ralph, tại sao mày đui mù đến đỗi không nhận ra ngay vào lúc Dane gặp mày, khi Dane thành người lớn, nếu trước đó mày chưa nhận ra. Nàng đã chờ đợi mày gặp mặt con; nàng nóng lòng chờ đợi. Phải chi mày hiểu được đều đó thì Meggie đã quì dưới chân mày. Nhưng mày có mắt mà như mù. Mày không chịu nhìn.
Trong căn phòng đầy ắp những tiếng nói the thé, rù rì đồng hồ quả lắc vang lên từng tiếng theo nhịp đập của tim ông. Rồi tiếng tim đập tách ra. Meggie và Fiona đứng dậy mà như bơi trong không khí, gương mặt hốt hoảng, chìm đắm trong một thứ sương mù bồng bềnh. Cổ họng phát ra những lời mà ông không nghe được.
- Aaaaaaa! ông kêu lên một tiếng.
Và ông đã hiểu.
Ông chỉ thoáng nghe đau, vì rằng tất cả sự chú ý của ông đều tập trung vào hai cánh tay của Meggie đang ôm lấy ông, đến cách ông ngả đầu vào nàng như thế nào. Tuy nhiên, cuối cùng ông đã cố quay đầu lại cho đến khi gặp đôi mắt nâu của Meggie; rồi ông nhìn nàng. Ông định nói với nàng hãy tha thứ cho anh thì nhận ra nàng đã tha thứ cho ông từ lâu rồi. Nàng biết rằng nàng đã chiếm đoạt được ở ông phần tốt đẹp nhất. Ông mong được nói lên những câu thật hoàn chỉnh để nàng vĩnh viễn được an ủi. Nhưng đồng thời ông cũng không nhận ra rằng ngay chuyện này với nàng cũng không cần thiết. Dù cho gánh nặng có thế nào đi nữa, nàng cũng chịu đựng được. Nàng có thể chịu đựng bất cứ cái gì. Bất cứ cái gì! Và như thế ông nhắm mắt lại, lịm dần và buông xuôi, tìm kiếm một lần cuối cùng sự quên lãng ở Meggie.
Ngồi trong phòng làm việc ở Bonn, trước tách cà phê buổi sáng, Rainer đọc thấy tin Hồng Y De Bricassart mất trên một tờ báo. Cuộc khủng hoảng chính trị mấy tuần qua đã bớt gay gắt, cho nên Rainer tự cho phép mình được hưởng vài giây phút thoải mái, lòng hân hoan với ý nghĩ sắp sửa gặp lại Justine, hoàn toàn không có chút lo ngại gì về sự im lặng của nàng.
Nhưng khi anh hay tin Hồng Y chết, đầu óc của Rainer không còn nghĩ đến Justine chút nào nữa. Rainer cấp tốc bay đến La Mã.
Qua Hồng Y Di Contini Verchese, Rainer biết mọi chuyện. Ông bàng hoàng đến đỗi phải tự hỏi tại sao Justine không báo tin cho ông haỵ
- Ralph đã tìm tôi và hỏi tôi có biết Dane là con của ông ta hay không. - Hồng Y thuật lại bằng một giọng dịu dàng, tay vuốt ve con mèo cái Natasha.
- Và Đức Cha đã trả lời như thế nào?
- Tôi nói với ông ấy là tôi linh cảm điều đó. Tôi không thể nói gì thêm. Thật là kinh hãi đối với ông ấy. Tôi đã khóc khi nhìn thấy nét mặt rã rời của ông. àcủa Chúa đã được thực hiện. Tôi nghĩ rằng Ralph là một trong những con người ray rứt nhất mà tôi được biết. Trong cái chết, ông ấy sẽ tìm thấy sự bình an mà khi sống ông đã kiếm tìm vô cùng.
Khi trở về Bonn, Rainer thấy sẵn trên bàn làm việc của mình một thư khẩn của Justine và một bưu kiện bảo đảm do thừa phát lại của Ralph gửi đến. Ông mở bưu kiện trước và được biết qua nội dung di chúc của Ralph, từ nay ông phải đảm trách thêm việc điều hành hãng Michar Limited và Drogheda. Ralph đã trao vào tay Rainer trách nhiệm bảo đảm tương lai vật chất của Meggie O'' Neill và dòng họ Cleary của bà. Đặt bưu kiện qua một bên, ông bắt đầu mở thư của Justin. Thư khô khan, không có một dòng tình cảm xã giao.
... Anh không thể tưởng tượng được tôi vui sướng như thế nào về việc chúng ta không liên lạc với nhau hai tuần qua, vì rằng có anh bên cạnh là tôi không thể chịu được. Trong lúc này, mỗi khi tôi nghĩ về anh, tôi cảm ơn Trời rằng anh đã không hay biết chuyện gì đã xảy ra. Điều này có vẻ khó hiểu với anh, sự thật là tôi không muốn có anh bên cạnh tôi. Sự đau khổ không có gì đẹp đẽ để nhìn ngắm, Rain ạ, và nếu anh chứng kiến sự đau khổ của tôi, anh cũng không thể an ủi được điều gì đâu. Người ta có thể cho rằng nỗi bất hạnh này đã chứng tỏ tôi thương anh rất ít. Nếu tôi yêu anh thật sự, tự nhiên tôi đã quay về phía anh. Thế nhưng tôi nhận ra rằng tôi đã quay đi chỗ khác.
Cho nên tôi thấy hay hơn cả là chúng ta hãy dừng lại ở đây một cách vĩnh viễn, Rain ạ. Tôi không có gì để cho anh và tôi cũng không muốn gì ở anh. Chuyện xảy ra đã cho tôi bài học về sự hiện diện của một người quý giá là như thế nào khi nó kéo dài suốt hai mươi sáu năm. Tôi không thể chịu đựng thêm lần nữa một sự thử thách như thế; và chính anh đã nói điều này, anh có nhớ không? Hôn nhân hoặc là không gì cả. Thì đấy, tôi chọn không gì cả.
Mẹ tôi có cho biết ông Hồng Y già đã chết vài tiếng đồng hồ sau khi tôi đi khỏi Drogheda. Thật lạ lùng, mẹ tôi rất đau xót về cái chết của ông ta. Không, mẹ tôi chẳng nói gì với tôi hết, nhưng tôi đoán điều ấy. Tôi không thể nào hiểu được tại sao mẹ tôi, Dane và anh lại thương ông ta đến thế. Phần tôi, tôi chẳng có chút cảm tình nào đối với ông ấy. Theo tôi, ông ta là một kẻ giả dối. Đến bây giờ tôi vẫn nói thế cho dù ông ấy đã chết.
Thế đấy. Tất cả đã được nói ra. Tôi rất thành thật Rain ạ. Tôi đã quyết định, tôi không cần gì ở anh cả. Anh hãy giữ gìn sức khỏe.
Điện thoại reo. Lúc đó chín giờ sáng, Justine còn đang ngủ. Nàng thầm rủa phương tiện văn minh quỷ quái này, thề rằng sẽ cắt dây điện thoại không thèm sử dụng nó nữa.
Nhưng điện thoại vẫn reo liên tục Biết đâu người gọi đó là Rainer. ànghĩ đó kéo Justine trở về với cuộc sống.
- A lô, Justine O'' Neill?
- Phải rồi, Justine đây.
- Chúng tôi là Hội người Úc ở Aldwych.
Justine thất vọng vì không phải Rainer.
- Vâng, tôi nghe rõ.
Nàng chưa tỉnh ngủ, tiếp tục ngáp, mắt vẫn nhắm.
- Em trai cô có phải là ông Dane O'' Neill?
Mắt Justine mở ra.
- Đúng thế.
- Người đó đang ở Hy Lạp phải không cô O'' Neill?
Hai chân của Justine đang đứng trên thảm như lún xuống.
- Vâng, đúng thế.
Justine không muốn nghĩ đến việc giải thích với người đang liên lạc rằng đó là linh mục O'' Neill chứ không phải là ông O'' Neill.
- Cô O'' Neill, tôi rất tiếc phải báo với cô một tin không haỵ
- Một tin không hay? Một tin không hay à? Tin gì vậy? Có chuyện gì xảy ra? Dane đã bị gì?
- Tôi lấy làm tiếc mà tin cho cô hay rằng em trai của cô, ông Dane O'' Neill đã chết đuối ở Crete, trong một tình huống rất dũng cảm. Theo những tin tức tôi nhận được, ông ấy chết trong khi cứu một người đang lâm nguy ở bờ biển. Tuy nhiên, như cô đã biết, Hy Lạp dang có biến động cách mạng và các tin tức mà chúng tôi nhận được không đầy đủ, rất có thể không chính xác.
Máy điện thoại đặt trên chiếc bàn, sát vách tường mà Justine đang dựa vào, hai đầu gối của nàng cứ mềm ra. Justine tụt dần xuống đất, ngồi thu mình trên sàn nhà nấc lên những tiến đứt quãng nghe như vừa là tiếng cười vừa là tiếng khóc hòa lẫn tiếng thở hổn hển mệt nhọc. Dane chết đuối... Dane chết... Crete , Dane, chết đuối... Chết... chết.
- Cô O'' Neill? Cô còn đó không, cô O'' Neill? Bên kia đầu dây hỏi dồn dập.
- Chết. Chết đuối... Em trai tôi!
- Cô O'' Neill, hãy trả lời!
- Vâng, vâng, vâng! Trời ơi tôi vẫn ở đây.
- Theo chúng tôi biết, cô là thân nhân gần nhất của ông Dane O'' Neill. Chúng tôi phải xin ý kiến của cô về việc giải quyết như thế nào. Cô O'' Neill, cô vẫn chưa nghe chứ?
- Vâng, vâng...
- Cô muốn người ta giải quyết thế nào về xác ông ấy?
Xác! Em tôi là một cái xác! Và người ta cũng không cần phải nói rõ xác của em tôi mà chỉ là cái xác thôi. Dane, Dane của chị. Em là một cái xác.
- Thân nhân gần nhất của Dane? Tôi không phải là thân nhân gần nhất của Dane; tôi nghĩ đúng nhất là mẹ tôi.
Ngừng một lúc.
- Thế thì rất phiền phức, cô O'' Neill. Nêu cô không phải là thân nhân gần nhất của ông ấy, chúng tôi lại mất thêm một thời gian quí báu. Hình như cô không hiểu hiện nay cuộc cách mạng đang bùng nổ ở Hy Lạp và tai nạn lại xảy ra ở đây. Mọi liên lạc giữa đảo này với Athens hoàn toàn bị cắt và chúng tôi nhận được lệnh phải báo cho biết quyết định của thân nhân gần nhất liên quan đến thi thể nạn nhân. Mẹ cô có ở đấy không? Tôi có thể nói chuyện với bà không, rất cảm ơn.
- Nhưng mẹ tôi không có ở đây; bà hiện ở Úc.
- Ở Úc? Trời ơi, càng lúc càng rắc rối! Chúng tôi lại phải gởi một bức điện sang Úc, lại trễ nữa. Nếu cô không phải là thân nhân gần nhất, cô O'' Neill, thì tại sao em trai cô lại ghi tên cô nơi dành để ghi chú chi tiết này trên sổ thông hành?
- Tôi không biết - nàng nói, bất chợt nàng nhận ra mình đang cười.
- Cô cho tôi địa chỉ của mẹ cô ở Úc, chúng tôi sẽ đánh điện tín cho bà hay. Chúng tôi phải biết được một cách dứt khoát cách giải quyết thi thể của ông Dane như thế nào. Việc trao đổi điện tín trễ mất ít nhất cũng mười hai tiếng đồng hồ. Tôi rất mong cô hiểu cho. Mọi chuyện đã khó khăn rồi không kể việc bất trắc này nữa.
- Vậy ông nên gọi điện thoại cho mẹ tôi. Đừng mất thì giờ với những bức điện tín.
- Quỹ của chúng tôi không cho phép sử dụng các cuộc điện đàm quốc tế, cô O'' Neill ạ. Người liên hệ ở đầu dây nói bằng một giọng gay gắt. Xin cô vui lòng cho tôi địa chỉ của mẹ cô.
- Bà Meggie O'' Neill, Drogheda, Gillanbone, New South Wales, Úc.
Nàng nói một hơi như đọc kinh.
- Một lần nữa, tôi xin thành thật chia buồn cùng cô O'' Neill.
Justine buông điện thoại, ngồi phệt xuống đất. Chắc có một sự lầm lẫn nào đó, rồi tả cả chuyện này sẽ sáng tỏ. Dane bị chết đuối trong khi Dane lại lội giỏi như cá? Không, không thể được.
Nhưng đó là sự thật, Justine ơi, mày biết rõ như thế; mày từ chối không đi với Dane để bảo vệ Dane và Dane đã chết đuối. Mày là người che chở của Dane từ khi Dane còn bé và đáng lý mày phải có mặt ở đó. Nếu mày không thể cứu Dane thì mày cũng nên có đó để chết cùng Dane. Thế mà mày đã không đi cùng với Dane, chẳng qua chỉ vì mày muốn về Luân Đôn để ngủ với Rainer.
Thật khó tưởng tượng. Tất cả đều rất khó. Không có bộ phận nào trong người nàng chịu hoạt động, kể cả đôi chân. Justine ngồi dưới đất. Nàng không thể ngồi dậy. Nàng sẽ không bao giờ ngồi dậy được nữa. Trong tâm tưởng của nàng không có chỗ dành cho ai khác ngoài Dane, đâu óc nàng quay tròn càng lúc càng hẹp lại chung quanh Dane. Ôi, lạy Chúa! Tin tức sẽ về đến đó, sẽ gây đau thương cho mẹ và cho tất cả những người khác. Mẹ không có được niềm hạnh phúc ngắm nhìn lần cuối cùng gương mặt ngây ngất, nhập thần của Dane tại La Mã. Bức điện tín có thể đến đồn cảnh sát ở Gilly, nàng nghĩ bụng. Và ông trung sĩ già Ern sẽ lên xe hơi đi suốt đoạn đường dài đến Drogheda để báo với mẹ rằng con trai của bà đã chết. Ông ấy không phải là người thích hợp với nhiệm vụ này, ông là người xa lạ. Thưa bà O'' Neill, tôi xin phép được bày tỏ những lời chia buồn xúc động nhất, con trai bà đã chết. Những lời lẽ lễ phép, khuôn sáo, rỗng tuếch... Không! Tôi không thể để xảy ra như thế, bà cũng là mẹ của tôi! Không thể theo cái cách mà tôi đã nhận hung tin, không thể theo cách đó.
Nàng đặt máy điện thoại lên đầu gối, cầm ống nghe và quay số điện đàm quốc tế.
Chính Meggie nghe điện thoại, lúc ấy đã khuya. Fiona đã đi ngủ. Thời gian gần đây bà thường về phòng sớm, thích ngồi trên giường nghe tiếng dế và ếch kêu rồi ngủ gà ngủ gật trên cuốn sách và nhớ lại chuyện xưa.
- A lô?
- Thưa bà O'' Neill, có điện thoại từ Luân Đôn. Tiếng nói của Hazel từ tổng đài ở Gilly.
- A lô, có phải Justine không? Meggie hỏi một cách bình thản vì thỉnh thoảng Justine vẫn điện thoại hỏi thăm bà.
- A lô, thưa mẹ. Có phải mẹ không?
- Mẹ đây, Meggie trả lời dịu dàng, bà nhận ra lời nói hoảng hốt của con gái.
- Mẹ ơi! Mẹ ơi! Mẹ ơi, Dane chết rồi, Dane chết rồi mẹ ơi!
Vực thẳm lộ ra dưới chân Meggie, và bà rơi xuống đó, tiếp tục rơi mãi, bởi vực thẳm không có đáy. Bà có cảm giác như mặt đất đã khép kín lại trên đầu và bà nhận ra rằng bà sẽ không bao giờ trồi lên được cho đến ngày nào bà vẫn còn sống. Các thánh thần còn có thể làm gì hơn nữa? Bà không biết được điều đó khi đặt ra câu hỏi. Nhưng tại sao bà lại đặt ra một câu hỏi như thế; tại sao bà lại không thể biết trước điều đó? Đừng thách thức các thánh thần, các vị chỉ chờ có thế. Chối từ đi La Mã để chia sẻ giây phút hạnh phúc nhất của đời con mình. Bà tưởng rằng như thế là đã nộp xong cống vật.
- Justine, con thương yêu, con hãy bình tĩnh. Meggie khuyên con giọng đều đều không thay đổi. Con bình tĩnh lại và nói rõ cho mẹ biết chuyện gì đã xảy ra. Con có biết chắc như thế không?
- Hội người Úc gọi điện thoại cho con... Họ tưởng rằng con là người thân nhất của Dane. Một thằng cha tàn nhẫn cứ hỏi luôn miệng con muốn giải quyết ra sao thi thể của Dane.
- Chuyện xảy ra như thế nào Justine? Ở đâu? ở La Mã à? Tại sao Ralph không gọi cho mẹ?
- Thưa mẹ không phải ở La Mã. Rất có thể Đức Hồng Y không hay biết. Ở Crete. Người đàn ông gọi điện thoại cho con bảo rằng Dane chết đuối trong lúc cứu một người khác. Con muốn ở lại Luân Đôn đóng vai Desdemona. Con muốn ở lại với Rainer. Phải chi con cùng đi với Dane! Phải chi con ở bên cạnh em con, biết đâu sẽ không có chuyện gì xảy ra. Ôi Chúa, bây giờ phải làm gì đây thưa mẹ?
- Dừng lại Justine! Meggie cản ngăn con một cách trìu mến. Đừng lẩn quẩn với ý nghĩ không hay nghe không? Dane rất ghét như thế, con biết rõ mà. Tai họa giáng xuống và chúng ta cũng không biết tại sao nhưng bây giờ con phải bình tĩnh lại, mẹ có mất cả hai con đâu. Con là tất cả những gì còn lại của mẹ. Justine con của mẹ. Justine! Sao con ở xa mẹ thế. Thế giới quá rộng lớn, quá rộng lớn. Con hãy trở về Drogheda, mẹ không muốn con cô độc một mình.
- Không thể được, mẹ. Con phải làm việc. Công việc là chiếc phao duy nhất hiện nay của con. Nếu không làm việc, con sẽ điên mất. Con không muốn gặp ai hết, con không cần sự an ủi, mẹ ạ! Làm sao chúng ta có thể sống được khi thiếu Dane?
- Justine thương yêu của mẹ, đừng khóc nữa. Con ráng dằn nỗi đau xuống. Dane không muốn con khóc như thế đâu, con dư biết điều đó mà. Con hãy trở về nhà và quên đi. Chúng ta sẽ đưa Dane về Drogheda, thế là tự nhiên Dane lại thuộc về mẹ. Giáo hội không có quyền ngăn trở mẹ, họ không có quyền. Mẹ sẽ gọi điện thoại cho hội người Úc ngay tức khắc và tòa đại sứ của ta tại Athenes nếu vẫn có thể liên lạc. Dane phải trở về nhà! Mẹ không muốn em con nằm xuống ở một nơi nào khác hơn là Drogheda. Chỉ có ở đây mà thôi và Dane phải về đây. Con cũng về ngay với em con chứ, Justine?
Ngồi dưới đất, Justine lắc đầu như thể mẹ nàng có thể nhìn thấy. Trở về nhà ư? Nàng sẽ không bao giờ về nhà. Nếu có Justine đi theo thì Dane đã không chết. Về nhà và phải nhìn nét mặt của mẹ suốt cuộc đời còn lại sao? Không, ngay trong ý nghĩ nàng đã không thể chịu đựng nổi điều đó.
- Không đâu, mẹ - Justine nói, gương mặt đầy nước mắt - Con sẽ ở lại đây và làm việc. Con sẽ trở về nhà với Dane nhưng sau đó con lại qua Luân Đôn, con không muốn sống ở Drogheda.
Ba ngày liên tiếp, mọi người chìm trong thứ không khí hoang mang và trống rỗng. Justine ở Luân Đôn, Meggie và gia đình ở Drogheda; tin tức về cái chết của Dane bị gián đoạn đã kéo dài hy vọng về một điều không thể xảy ra. Justine tưởng tượng Dane sẽ đập của phòng của nàng bước vào mỉm cười, giải thích chẳng qua là một sự lầm lẫn nào đấy. Tình hình Hy Lạp đang sôi sục, có biết bao nhiêu tin tức không chính xác kia mà.
Bốn ngày sau khi Justine nhận được tin tức về Dane, Justine như một cô gái già. Một buổi sáng nàng mệt mỏi nhắc điện thoại lên và xin liên lạc với Úc.
- Có phải mẹ không?
- Justine đó hả?
- Con đây, thưa mẹ. Dane đã được an táng, thế là chúng ta không thể đưa Dane về Drogheda. Bây giờ mình phải làm gì hả mẹ? Nhà chức trách không cho biết gì thêm mà cứ lặp lại là đảo Crete rất rộng và không biết được vùng đất Dane nằm là gì. Khi con nhận được điện tín, thì Dane đã đem đi chôn cất. Ngôi mộ của Dane ở một nơi nào đó người ta không nói rõ và trên bia không ghi một chữ nào. Con không xin được hộ chiếu đi Hy Lạp, không ai giúp con, đúng là hỗn loạn. Mình làm gì bây giờ hở mẹ?
- Con đến La Mã gặp mẹ, Justine, - Meggie nói với con gái.
Mọi người - ngoại trừ Anne Mueller - đều vây quanh điện thoại, trên mặt lộ rõ đau thương. Chỉ mới ba ngày mà thấy mấy người đàn ông trong nhà như già thêm hai mươi tuổi. Fiona thì co quắp lại như một con chim bị bệnh, xanh xao. Ba cau có, đi tới đi lui trong nhà, miệng lẩm bẩm:
- Tại sao tôi không chết thay cho nó? Tại sao nó phải chết? Tôi già rồi, già quá rồi! Để cho tôi ra đi có phải là đơn giản hơn không. Tại sao lại là nó mà không phải tôi?
Meggie lặng nhìn mọi người và đặt điện thoại xuống. Drogheda còn lại bấy nhiêu người và chỉ có bấy nhiêu, một nhóm nhỏ đàn ông lẫn đàn bà lớn tuổi mệt mỏi và không còn có thể sinh nở gì được.
- Dane đã mất rồi. Meggie nói. Không ai có thể tìm ra thi thể Dane được. Nó được chôn cất ở một nơi nào đó trên đảo Crete xa xôi! Không thể để Dane nằm xuống ở một nơi xa Drogheda đến thế? Tôi sẽ đi La Mã ngay gặp Ralph. Ông ấy là người duy nhất có thể giúp chúng tạ
Linh mục bí thư của Hồng Y De Bricassart bước vào phòng.
- Thưa Đức cha, con xin lỗi làm bận rộn Đức cha, nhưng có một bà nhất định muốn gặp cho được Đức cha. Con có giải thích với bà ấy rằng Đức cha đang chủ trì hội nghị giám mục, rằng Đức cha đang rất bận và không thể tiếp bất cứ ai lúc này. Nhưng bà ấy khăng khăng rằng bà sẽ ngồi mãi trước cửa phòng của Đức cha cho đến khi nào Đức cha có thể tiếp.
- Theo cha thì bà ấy có gặp chuyện phiền phức không?
- Chắc là bà gặp chuyện phiền phức lớn thưa Đức cha. Bà yêu cầu con nói với Đức cha tên bà là Meggie O'' Neill.
Hồng Y De Bricassart đứng phắt dậy; mặt ông biến sắc, trắng bệch như mái tóc đã ngả màu. Còn vị linh mục bí thư thì hốt hoảng:
- Thưa Đức cha, Đức cha có sao không?
- Không có gì đâu cha. Tôi vẫn bình thường xin cảm ơn. Cha hãy hủy bỏ các cuộc hẹn cho đến khi có lệnh mới và cha mời bà O'' Neill vào đây ngay. Đừng để cho ai quấy rầy, ngoại trừ Đức Thánh cha có chuyện gì cần đến.
Linh mục nghiêng người chào cha Ralph và bước ra.
Meggie bước vào, suýt chút nữa Ralph nhìn không ra. Mười ba năm rồi, ông không gặp lại Meggie. Bã đã năm mươi ba tuổi, còn ông bảy mươi mốt, không phải chỉ riêng mình Ralph mà cả Meggie cũng đã già. Trên gương mặt của Meggie ít có nét thay đổi nhưng sự nghiêm khắc đã thay thế cho sự dịu dàng; sự cứng rắn thay thế cho tâm lý âu yếm. Bà là hình ảnh của một người tử vì đạo rắn rỏi, có tuổi và cương quyết hơn là một nữ thánh vốn nhẫn nhục và trầm tư trong những giấc mơ của mình. Meggie vẫn đẹp lạ lùng hơn bao giờ hết, đôi mắt lanh lẹ vẫn màu nâu và mái tóc rực rỡ ngả sang màu xám nâu nhạt, hơi giống màu tóc của Dane. Và càng ngạc nhiên hơn, Meggie lại từ chối nhìn Ralph đủ lâu để ông có thể thỏa mãn sự khao khát sau bao nhiêu năm không gặp.
Trước một Meggie như xa lạ ấy, Ralph không thể nào đón tiếp tự nhiên được, ông chỉ cho bà ghế ngồi và không trở lại được cách xưng hô thân mật xưa kia.
- Mời bà ngồi.
- Cảm ơn, - bà nói cũng cầu kỳ không kém.
Khi Meggie ngồi xuống, ông có thể nhìn rõ bà và nhận ra bàn chân và cổ chân của Meggie sưng lên rất dữ.
- Meggie! ông kêu lên. Em đã đến thẳng... Không dừng lại nơi nào hết à? Có chuyện gì thế?
- Vâng, tôi đến thẳng đây. Suốt hai mươi chín giờ đồng hồ ngồi trên các máy bay từ Gilly đến La Mã tôi không biết làm gì khác hơn là nhìn mây qua cửa kiếng và suy nghĩ.
- Có chuyện gì? Ông lặp lại, sốt ruột, lo âu, sợ hãi.
Bà ngước nhìn lên, nhìn thẳng Ralph.
Trong đôi mắt lạnh lùng của Meggie, có cái gì đó thê thảm tận cùng khiến cho Ralph phải ớn lạnh. Ông đưa bàn tay đặt lên sau cổ.
- Dane đã chết. - Meggie nÃ73;&³i.
Bàn tay đeo chiếc nhẫn Hồng Y tụt xuống, rơi thẳng trên đầu gối như bàn tay một con búp bê nhồi trấu, toàn thân ông mềm nhũn trên chiếc ghế bành.
- Chết à? Ông hỏi chậm rãi. Dane chết?
- Vâng. Nó chết đuối cách đây sáu ngày ở đảo Crete trong khi bơi ra cứu hai cô gái bị nước cuốn.
Ông nghiêng người ra phía trước, hai bàn tay đưa lên, chạm mặt.
- Chết? Miệng ông ấp úng. Dane! Dane chết? Thằng bé tuyệt vời ấy... Nó không thể chết được! Dane... linh mục hoàn toàn... tất cả những gì tôi không thể có được... Nó có tất cả những gì tôi không có... Nó luôn luôn có được điều đó... Chúng tôi đều biết như thế... Tất cả chúng tôi đều không phải là những linh mục thật hoàn chỉnh. Chết rồi ư? Ôi, Đức Chúa Trời nhân ái!
- Ông không có gì phải lo lắng về Đức Chúa Trời nhân ái của ông, Ralph ạ! Người phụ nữ có vẻ xa lạ ngồi trước mặt ông lên tiếng - Ông có chuyện khác cần làm hơn. Tôi đến đây để yêu cầu sự giúp đỡ của ông... chứ không phải làm chứng cho sự đau xót. Trong suốt những giờ ngồi trên máy bay, tôi không ngừng lặp đi lặp lại những lời lẽ mà tôi sẽ phải nói để báo tin này cho ông... Tất cả những giờ phút ấy tôi không thể làm gì khác hơn là nhìn mây qua cửa kiếng. Dane đã chết rồi. Sau một thử thách ghê gớm như thế, tôi chẳng cần gì đến nỗi đau xót của ông.
Khi Ralph ngước đầu lên thì trái tim tưởng chừng như chết lịm và băng giá của Meggie giật nẩy lên, se thắt lại. Đúng là gương mặt của Dane rồi nhưng sao lại hằn lên nét đau khổ.
- Anh có thể giúp được gì cho em, Meggie? ông hỏi giọng đều đều, kìm chết xúc động để có thể trở lại với vai trò người chăm lo về mặt tinh thần.
- Hy Lạp đang sôi sục cách mạng. Người ta chôn Dane một nơi nào đó ở Crete mà tôi không biết, chôn lúc nào tôi cũng chẳng hay. Vì không thể liên lạc, nên người ta tưởng nó đơn độc trên cõi đời này. Tôi muốn người ta trả lại con cho tôi, Ralph. Tôi muốn người ta tìm Dane và đưa trở về nhà để nó được yên nghỉ trên mảnh đất Drogheda thân yêu. Tôi đã hứa với Justine rằng em của nó sẽ được chôn ở Drogheda và chắc chắn phải như thế, cho dù tôi buộc phải đi bằng đầu gối tìm kiếm Dane khắp các nghĩa trang ở Crete. Không bao giờ tôi để cho nó nằm trong một ngôi mộ của người tu hành ở La Mã này. Không thể có chuyện đó ngày nào tôi còn thở để đòi lấy sự hợp lý này. Nó phải về nhà thôi, Ralph ạ.
- Không ai tước đi quyền ấy của em, Meggie - ông nói dịu dàng - Giáo hội chỉ buộc Dane được yên nghỉ trên đất thánh. Anh cũng thế, anh muốn được nằm xuống ở Drogheda.
- Tôi không mất thời gì vì những chuyện thủ tục hợp pháp - Bà nói tiếp không thèm để ý đến câu trả lời của Ralph - Tôi không biết nói tiếng Hy Lạp và cũng chẳng có quyền hành hay ảnh hưởng gì tại đây. Do đó, tôi phải nhờ vào quyền hành và ảnh hưởng của ông. Hãy mang trả lại con trai cho tôi, Ralph.
- Em đừng quá lo lắng, Meggie, Dane sẽ được trả lại cho em, nhưng có lẽ phải mất một ít thời gian. Cánh tả đang cầm quyền ở Hy Lạp và hiện nay họ chống giáo hội gay gắt. Tuy nhiên anh không thiếu bạn bè ở đấy và có thể giúp được. Em cứ để cho anh tiến hành ngay và đừng lo lắng nữa. Đây là chuyện liên quan đến Nhà thờ công giáo và người ta sẽ giao trả Dane cho chúng ta.
Đưa tay định nắm dây kéo chuông để gọi linh mục bí thư, nhưng trước cái nhìn lạnh lùng của Meggie, ông ngừng tay lại.
- Ông không hiểu gì hết, Ralph. Tôi không yêu cầu ông cho tiến hành. Tôi muốn lấy lại con tôi... Không phải trong tuần lễ tới hay tháng tới, mà ngay tức khắc. Ông biết nói tiếng Hy Lạp cũng như có thể xin các giấy nhập cảnh cho ông và cho tôi một cách dễ dàng. Tôi muốn ông cùng đi với tôi sang Hy Lạp ngay và ông giúp tôi tìm lại con tôi.
Ãnh mắt của Ralph chứa đựng nhiều tình cảm lẫn lộn: âu yếm, trắc ẩn, xúc động, xót xa. Trong ánh mắt ấy còn có cả sự tỉnh táo.
- Meggie, anh thương con em như con của anh, nhưng anh không thể rời La Mã lúc này. Anh không được tự do hành động theo ý muốn của anh... Đáng lý em biết rõ điều đó hơn ai hết. Tình cảm của anh đối với em thế nào em đã rõ và dù nỗi đau khổ của anh có nặng trĩu đến đâu, anh vẫn không thể rời La Mã ngay giữa thời kỳ hội nghị! Hội đồng giám mục. Anh đang làm phụ tá cho Đức Thánh Cha.
Ngồi bật ra phía sau, bàng hoàng như bị xúc phạm, Meggie lắc đầu, nhếch miệng cười mỉm cay đắng như đang chứng kiến một trò hề. Nàng bắt đầu run lên, liếm môi như sắp lấy một quyết định rồi ngồi thẳng, ngay ngắn, cứng nhắc.
- Có thật ông thương con của tôi như nó là con của ông không, Ralph? ông sẽ hành động ra sao nếu đó là con của chính ông? Có thể nào ông lại tiếp tục ngồi đây và nói với mẹ của nó rằng “Không, tôi lấy làm tiếc; tôi không thể nào bỏ công việc đượcâ€. Ông có thể nói như thế với mẹ của con ông chứ?
Đôi mắt của Dane - nhưng thật thật ra không phải của Dane - nhìn bà, hốt hoảng, tràn đầy đau khổ, bất lực.
- Anh không có con, ông nói. Nhưng anh đã học ở con em rất nhiều điều như phải biết vượt qua những khó khăn tệ hại nhất và luôn hướng về Chúa bằng tấm lòng chân thật.
- Dane chính là con của ông, - Meggie đột ngột nói.
Ralph nhìn bà bằng cái nhìn trống rỗng, nói hoảng hốt:
- Cái gì?
- Tôi muốn nói rằng Dane chính là con của anh. Khi em rời khỏi Matlock, em đã có thai, Dane là con của anh chứ không phải của Luke O'' Neill.
- Không thể... như thế được!
- Em không có ý định nói cho anh biết điều đó, ngay cả bây giờ em cũng chẳng muốn nói như thế đâu. Anh nghĩ em nói láo với anh chăng? Để làm gì?
-... Để tìm cách lấy lại Dane? Đúng thế. ông nói bằng một giọng rất thấp.
Meggie bước tới, đứng trước Ralph. Giờ đây ông ta chỉ còn là một khối bất động trong chiếc ghế bành bọc gấm màu vàng rực. Meggie cầm đôi bàn tay gầy, nhăn nheo đặt vào tay mình, nghiêng mình xuống và hôn chiếc nhẫn, hơi thở làm mờ viên hồng ngọc.
- Ralph à! Trên tất cả những điều thiêng liêng nhất, em xin thề rằng Dane là con của anh. Nó không phải và không thể nào là con của Luke được. Em xin thề với anh điều đó. Em xin thề trên vong hồn của con chúng ta như thế.
Tếng kêu rên siết của Ralph chẳng khác gì lời than vãn của một linh hồn vừa bước qua các cửa địa ngục. Ralph tuột khỏi chiếc ghế, buông người sụp xuống tấm thảm đỏ thắm, ông khóc, gương mặt giấu trong hai cánh tay khoanh lại, những ngón tay bấu chặt vào tóc.
- Phải, anh cứ khóc đi! Meggie nói. Bây giờ anh đã biết rồi thì anh cứ khóc! Cũng đúng thôi, một trong những người thân nhất của Dane được nhỏ những giọt nước mắt cho con. Khóc đi, Ralph. Trong suốt hai mươi sáu năm, em đã có đứa con, con của anh; nhưng còn anh thì không hề hay biết nó là con của anh. Anh không nhìn ra, anh không nhận ra nó là anh, là một nửa con người của anh! Khi mẹ em kéo Dane ra khỏi bụng em, mẹ đã biết ngay nó là con của anh, nhưng anh thì không hề biết. Bàn tay của anh, bàn chân của anh, gương mặt của anh, thân hình của anh. Chỉ có màu tóc là của em. Bây giờ thì anh đã hiểu rồi chứ? Khi em gởi Dane đến đây, em đã nói trong bức thư gởi anh: “Cái gì em đã đánh cắp của anh, em xin trả lại cho anhâ€. Anh còn nhớ chứ? Cả hai chúng ta đã ăn cắp Dane, anh ạ. Chúng ta đã ăn cắp cái mà anh đã hiến cho Chúa, do đó cả hai chúng ta phải trả giá mà thôi.
Meggie quay trở lại ngồi vào chiếc ghế của mình, khắc khổ, tàn nhẫn, nhìn khối đỏ chói nằm rên rỉ dưới đất.
- Em đã yêu anh, Ralph, nhưng anh chưa bao giờ thuộc về em cả, Dane là tất cả những gì mà em có thể giành được ở anh. Em đã thề rằng anh sẽ không bao giờ biết được điều đó, rằng anh không bao giờ có khả năng lấy lại. Thế nhưng, nó đã tự nguyện về với anh, do chính ý muốn của nó. Nó coi anh như là hình ảnh của một linh mục lý tưởng. Em suýt nữa cười phì! Nhưng không đời nào em lại trao cho anh một thứ vũ khí bằng cách thú nhận với anh nó là con của anh, trừ khi sự việc đã xảy ra như thế này thì em mới thấy cần phải nói với anh điều đó, mặc dù bây giờ cũng chẳng còn gì là quan trọng nữa. Dane không thuộc về ai trong hai chúng ta mà thuộc về Chúa
Chương 41
Hồng Y De Bricassart thuê một chiếc máy bay riêng ở Athens; ông, Meggie và Justine đưa Dane về quê nhà, ở Drogheda. Những người sống ngồi im lặng, người chết lặng im nằm trong quan tài, không còn biết đòi hỏi gì ở cõi đời này nữa.
Trong căn phòng ảm đạm, Ralph trầm ngâm: “Ta có bổn phận làm lễ và đọc kinh cầu hồn cho Dane, con của ta. Con ơi con là máu thịt của ba. Đúng thế, Meggie anh tin em; ngay khi anh vừa lấy lại hơi thở sau cơn xúc động, anh đã tin em; và anh sẽ tin mãi mãi dù em không nói lên lời thề dữ dội. Vittorio đã biết ngay lần đầu tiên ông gặp Dane. Fiona cũng thế, Anne Mueller cũng thế... Chỉ có anh... Dane ơi, ba nhớ lại tiếng cười của con sau bụi hồng khi ba gặp con lần đầu hồi con còn bé... Và đôi mắt ngước nhìn của con không hề khác đôi mắt của ba thời thơ ấu chút nào “.
Ralph de Bricassart! Tại sao ông đứng yên, hãy mở miệng đi và nói thành lời, hãy ra lệnh cho đôi tay làm phép lành, hãy bắt giọng cho bài thánh ca dành cho người đã chết. Đó là con của ông, ông yêu nó hơn cả mẹ nó kia mà. Vâng, hơn cả mẹ nó nữa! Vì rằng nó chính là ông, là hiện thân của ông được đúc lại trong một khuôn hoàn hảo.
In Nomine Patris, et Fillii, et Spiritus Sancti...
Nhà thờ riêng của gia đình Cleary đầy người. Tất cả những ai cần có mặt. Gia đình King, O'' Rourke, Havies, Pugh, Mac Queen, cùng những người sống chết với Drogheda.
Hy vọng đã tàn, ánh sáng đã tắt. Linh mục Dane O'' Neill nằm đó trước bàn thờ, trong một quan tài hàn chì phủ hoa hồng.
Tại sao hoa hồng luôn nở rộ vào mỗi dịp Ralph trở về Drogheda? Bây giờ là tháng mười, ngay giữa mùa thu. Hoa hồng sặc sỡ thật đúng lúc.
Sanctus... Sanctus... Sanctus...
Con phải nhớ Thánh của các vị Thánh đang ngự trị trong con. Dane của ba, con trai tuyệt vời của ba. Như thế này mà tốt hơn đấy. Ba không muốn con đi theo con đường của ba chút nào, cũng chẳng muốn con đến nơi mà ba đã đến. Ba không biết điều gì đã khiến ba nói với con những lời lẽ này. Con không còn đi theo con đường mà ba đã đi, con chẳng bao giờ cần như thế cả Dane ạ. Cái mà ba phải mò mẫm kiếm tìm, con đã tìm thấy bằng bản năng. Người đau khổ không phải là con mà chính là ba và tất cả những người còn sống. Hãy thương xót họ và khi đến lượt họ, con hãy cứu giúp tất cả.
Ite, Missa est... Requiescat in peace...
Đoàn người ra khỏi nhà thờ, đi qua một bãi cỏ và những hàng cây bạch đàn, hồ tiêu thẳng tới nghĩa trang. Dane, con hãy yên giấc, chỉ có những người được Chúa chọn mới chết trẻ như con. Tại sao chúng ta lại đau xót? Con may mắn được sớm thoát khỏi cuộc sống mỏi mệt này Chính cuộc sống này mới là địa ngục; một bản án nô lệ suốt đời ở trần thế. Chúng ta phải chịu đựng sự đau khổ trong địa ngục này khi chúng ta còn sống là như thế.
Ngày qua ngày, những người đến dự tang lễ lặng lẽ trở về nhà, họ tránh chạm mặt nhau. Ãnh mắt của Hồng Y De Bricassart có một lúc hướng về phía Meggie nhưng ông không đủ can đảm nhìn vào mặt nàng thêm lần nữa. Justine thì đã vội vàng rời Drogheda để kịp lên máy bay đi Sydney và từ đó về Luân Đôn trong chuyến bay đêm. Tại sao Justine không bảo Rainer cùng đi theo mình? Nàng dư biết Rainer yêu nàng đến mức nào và anh thiết tha được ở bên nàng giữa những giây phút này như thế nào. Chính Hồng Y cũng quên mời Rainer cùng đi dù trước đó nhiều lần ông có dự tính. Đúng là đầu óc ông lúc ấy đã quá mỏi mệt. Những con người ở Drogheda thật lạ lùng, họ không muốn có nhiều người vây quanh giữa lúc buồn khổ, họ thích đối diện một mình với nỗi thương đau.
Sau buổi ăn chiều mà ai cũng tỏ ra lạnh nhạt, chỉ còn Fiona và Meggie ngồi với Hồng Y trong phòng khách. Không ai nói một lời. Chiếc đồng hồ mạ vàng nằm trên lò sưởi cẩm thạch buông từng tiếng tích tắc nghe vang to khủng khiếp. Và ở phòng kế bên, từ bức họa chân dung treo trên cao, Mary Carson nhìn trừng mắt như thách thức bà ngoại Fiona. Fiona và Meggie ngồi cùng một tư thế trên ghế sofa hai mẹ con dựa vai vào nhau. Hồng Y đọc lại trong trí nhớ của mình hình như chưa lần nào thấy hai người gần gũi với nhau như thế. Nhưng cả hai người không ai nói với ai một lời nào và cũng không nhìn nhau. Mắt của họ cũng không hướng về ông.
Ông đã hiểu mình đã phạm tội gì: Kiêu ngạo, tham vọng, phần nào đó thiếu sự thận trong. Và tình yêu của ông dành cho Meggie đã sinh sôi nẩy nở trên đống bầy nhầy ấy! Vả lại ông chưa bao giờ biết đến sự đăng quang của mối tình đó. Sự việc đã khác hơn biết mấy nếu ông biết ông biết được Dane là con của ông? Có thể ông sẽ yêu con người đặc biết ấy nhiều hơn. Biết đâu ông sẽ đi theo một con đường khác nếu ông hiểu rõ chuyện con trai của ông? Đúng thế! Con tim của ông đã hét lên. Không! Nhưng ngay khi đó thì lý trí lại chế giễu ông.
Ông tự trách mình ngu ngốc! Ralph ạ. Đáng lý mày phải biết Meggie không đời nào trở lại với Luke. Mày phải biết ngay Dane là con của ai. Nàng tự hào về nó vô cùng! Đó là tất cả những gì mà nàng đã giành được ở mày, đó là điều mà nàng đã nói với mày ở La Mã.
Hay lắm, Meggie à, với Dane em đã đạt được đều tốt đẹp nhất. Ralph, tại sao mày đui mù đến đỗi không nhận ra ngay vào lúc Dane gặp mày, khi Dane thành người lớn, nếu trước đó mày chưa nhận ra. Nàng đã chờ đợi mày gặp mặt con; nàng nóng lòng chờ đợi. Phải chi mày hiểu được đều đó thì Meggie đã quì dưới chân mày. Nhưng mày có mắt mà như mù. Mày không chịu nhìn.
Trong căn phòng đầy ắp những tiếng nói the thé, rù rì đồng hồ quả lắc vang lên từng tiếng theo nhịp đập của tim ông. Rồi tiếng tim đập tách ra. Meggie và Fiona đứng dậy mà như bơi trong không khí, gương mặt hốt hoảng, chìm đắm trong một thứ sương mù bồng bềnh. Cổ họng phát ra những lời mà ông không nghe được.
- Aaaaaaa! ông kêu lên một tiếng.
Và ông đã hiểu.
Ông chỉ thoáng nghe đau, vì rằng tất cả sự chú ý của ông đều tập trung vào hai cánh tay của Meggie đang ôm lấy ông, đến cách ông ngả đầu vào nàng như thế nào. Tuy nhiên, cuối cùng ông đã cố quay đầu lại cho đến khi gặp đôi mắt nâu của Meggie; rồi ông nhìn nàng. Ông định nói với nàng hãy tha thứ cho anh thì nhận ra nàng đã tha thứ cho ông từ lâu rồi. Nàng biết rằng nàng đã chiếm đoạt được ở ông phần tốt đẹp nhất. Ông mong được nói lên những câu thật hoàn chỉnh để nàng vĩnh viễn được an ủi. Nhưng đồng thời ông cũng không nhận ra rằng ngay chuyện này với nàng cũng không cần thiết. Dù cho gánh nặng có thế nào đi nữa, nàng cũng chịu đựng được. Nàng có thể chịu đựng bất cứ cái gì. Bất cứ cái gì! Và như thế ông nhắm mắt lại, lịm dần và buông xuôi, tìm kiếm một lần cuối cùng sự quên lãng ở Meggie.
Ngồi trong phòng làm việc ở Bonn, trước tách cà phê buổi sáng, Rainer đọc thấy tin Hồng Y De Bricassart mất trên một tờ báo. Cuộc khủng hoảng chính trị mấy tuần qua đã bớt gay gắt, cho nên Rainer tự cho phép mình được hưởng vài giây phút thoải mái, lòng hân hoan với ý nghĩ sắp sửa gặp lại Justine, hoàn toàn không có chút lo ngại gì về sự im lặng của nàng.
Nhưng khi anh hay tin Hồng Y chết, đầu óc của Rainer không còn nghĩ đến Justine chút nào nữa. Rainer cấp tốc bay đến La Mã.
Qua Hồng Y Di Contini Verchese, Rainer biết mọi chuyện. Ông bàng hoàng đến đỗi phải tự hỏi tại sao Justine không báo tin cho ông haỵ
- Ralph đã tìm tôi và hỏi tôi có biết Dane là con của ông ta hay không. - Hồng Y thuật lại bằng một giọng dịu dàng, tay vuốt ve con mèo cái Natasha.
- Và Đức Cha đã trả lời như thế nào?
- Tôi nói với ông ấy là tôi linh cảm điều đó. Tôi không thể nói gì thêm. Thật là kinh hãi đối với ông ấy. Tôi đã khóc khi nhìn thấy nét mặt rã rời của ông. àcủa Chúa đã được thực hiện. Tôi nghĩ rằng Ralph là một trong những con người ray rứt nhất mà tôi được biết. Trong cái chết, ông ấy sẽ tìm thấy sự bình an mà khi sống ông đã kiếm tìm vô cùng.
Khi trở về Bonn, Rainer thấy sẵn trên bàn làm việc của mình một thư khẩn của Justine và một bưu kiện bảo đảm do thừa phát lại của Ralph gửi đến. Ông mở bưu kiện trước và được biết qua nội dung di chúc của Ralph, từ nay ông phải đảm trách thêm việc điều hành hãng Michar Limited và Drogheda. Ralph đã trao vào tay Rainer trách nhiệm bảo đảm tương lai vật chất của Meggie O'' Neill và dòng họ Cleary của bà. Đặt bưu kiện qua một bên, ông bắt đầu mở thư của Justin. Thư khô khan, không có một dòng tình cảm xã giao.
... Anh không thể tưởng tượng được tôi vui sướng như thế nào về việc chúng ta không liên lạc với nhau hai tuần qua, vì rằng có anh bên cạnh là tôi không thể chịu được. Trong lúc này, mỗi khi tôi nghĩ về anh, tôi cảm ơn Trời rằng anh đã không hay biết chuyện gì đã xảy ra. Điều này có vẻ khó hiểu với anh, sự thật là tôi không muốn có anh bên cạnh tôi. Sự đau khổ không có gì đẹp đẽ để nhìn ngắm, Rain ạ, và nếu anh chứng kiến sự đau khổ của tôi, anh cũng không thể an ủi được điều gì đâu. Người ta có thể cho rằng nỗi bất hạnh này đã chứng tỏ tôi thương anh rất ít. Nếu tôi yêu anh thật sự, tự nhiên tôi đã quay về phía anh. Thế nhưng tôi nhận ra rằng tôi đã quay đi chỗ khác.
Cho nên tôi thấy hay hơn cả là chúng ta hãy dừng lại ở đây một cách vĩnh viễn, Rain ạ. Tôi không có gì để cho anh và tôi cũng không muốn gì ở anh. Chuyện xảy ra đã cho tôi bài học về sự hiện diện của một người quý giá là như thế nào khi nó kéo dài suốt hai mươi sáu năm. Tôi không thể chịu đựng thêm lần nữa một sự thử thách như thế; và chính anh đã nói điều này, anh có nhớ không? Hôn nhân hoặc là không gì cả. Thì đấy, tôi chọn không gì cả.
Mẹ tôi có cho biết ông Hồng Y già đã chết vài tiếng đồng hồ sau khi tôi đi khỏi Drogheda. Thật lạ lùng, mẹ tôi rất đau xót về cái chết của ông ta. Không, mẹ tôi chẳng nói gì với tôi hết, nhưng tôi đoán điều ấy. Tôi không thể nào hiểu được tại sao mẹ tôi, Dane và anh lại thương ông ta đến thế. Phần tôi, tôi chẳng có chút cảm tình nào đối với ông ấy. Theo tôi, ông ta là một kẻ giả dối. Đến bây giờ tôi vẫn nói thế cho dù ông ấy đã chết.
Thế đấy. Tất cả đã được nói ra. Tôi rất thành thật Rain ạ. Tôi đã quyết định, tôi không cần gì ở anh cả. Anh hãy giữ gìn sức khỏe.
Title: Re: Tiếng chim hót trong bụi mận gai (tiếp)
Post by: Serenade24 on 11/05/07, 08:08
Post by: Serenade24 on 11/05/07, 08:08
Chương 42
Tên Justine được ký với nét chữ rất sắc, bằng cây bút mới mực đen, ngòi mềm. Khi Rainer tặng nàng cây bút này, Justine đã rất vui.
Rainer nghĩ rằng cái chết của Dane đã cắt ngang tình cảm vừa khơi dậy ở Justine, ông cảm thấy hết sức buồn khổ.
Dầu vậy, trong tuần ông vẫn lên máy bay đi Luân Đôn, không phải để gặp Justine mặc dù ông vẫn nhìn thấy nàng. Trên sân khấu, Justine đóng vai người vợ yêu dấu của Morr, nàng Desdemona. Thật tuyệt vời. ông không thể làm gì hơn, nghệ thuật đã mang đến cho Justine tất cả. Như thế cũng hay. Justine, em là một cô bé tốt bụng. Em hãy dành cho sân khấu tất cả những gì đang có trong em.
Phần Justine vẫn nghĩ do những ham muốn riêng, nàng đã để Dane đi Hy Lạp một mình, trong khi đó nếu nàng cùng đi thì có thể Dane đã không chết. Không thể nào nhìn các sự việc dưới một góc cạnh khác. Dane đã chết vì sự đam mê ích kỷ của nàng dành cho Rainer.
Thế rồi ngày tháng trôi qua. Một năm, hai năm. Desdemona, Ophelia, Portia, Cleopatra.
Có hai lần, Justine định đi Drogheda trong đó lần thứ nhì, nàng đã lấy vé máy bay. Mỗi lần như thế, giờ chót đều có một lý do cực kỳ quan trọng ngăn trở nàng lên đường, nhưng trong tận đáy lòng, Justine dư biết nguyên nhân chính lại khác, một sự pha trộn giữa mặc cảm tội lỗi và sự hèn nhát. Rất đơn giản, Justine không có can đảm nhìn mặt mẹ. Nếu bà gặp lại nàng, tất cả cái chuyện đau thương ấy lại sẽ hiện ra với bao nhiêu buồn thảm và lại sẽ nổ bùng. Những người ở Drogheda, nhất là mẹ nàng, cần biết rõ rằng ít nhất Justine vẫn mạnh khỏe, rằng Justine đã vượt qua thử thách mà không gặp nhiều khó khăn. Như thế, ở xa Drogheda vẫn tốt hơn. Tốt hơn rất nhiều.
Chương 43
Meggie giật mình nhận ra mình vừa buông tiếng thở dài, bà liền nén lại. Nếu không bị đau nhức các khớp xương bà đã thắng yên ngựa và cưỡi một vòng qua các bãi chăn. Hôm nay, chỉ mới nghĩ đến chuyện ấy thôi bà đã cảm thấy mỏi mệt.
Bà nghe tiếng ô tô dừng lại, tiếp đó là những tiếng thì thầm, giọng nói cao vút của mẹ và tiếng bước chân. Không phải Justine, vậy có ích gì?
- Meggie - Fiona xuất hiện ở hiên nhà, lên tiếng - Chúng ta có khách. Con vào nhà chứ?
Khách là một người đàn ông sang trọng, tuổi tráng niên, trông trẻ hơn so với cái vẻ bên ngoài. Ông ta cũng là loại người nghị lực và tự tin giống như Ralph.
- Meggie, mẹ giới thiệu với con đây là ông Rainer Hartheim. Fiona nói và đứng bên cạnh chiếc ghế của Meggie.
- Ồ! Meggie vô tình kêu lên vì bất ngờ trước dáng dấp của Rainer mà trước đây Justine thường nhắc tới trong thư. Xin mời ông Hartheim ngồi, Meggie kịp quay về với bản tính hiếu khách vốn có.
Còn Rainer thì nhìn bà với vẻ ngạc nhiên.
- Thưa bà, tôi nhận ra một điều là Justine không giống bà chút nào cả.
- Đúng thế.
Fiona đứng lên nói:
- Meggie, con hãy tiếp chuyện với ông Hartheim. Ông ấy có nói với mẹ là muốn gặp riêng con, muốn dùng trà con cứ gọi mẹ.
Nói xong bà ra khỏi phòng.
Meggie không nhìn thẳng vào Rainer, nói hơi lơ đễnh:
- Ông là người bạn Đức của Justine chứ gì?
- Thưa bà O'' Neill, bà cứ gọi tôi Rainer - ông đề nghị - Tôi không có việc gì phải giải quyết ở Úc cả, nhưng không vì thế mà tôi không có lý do chính đáng để ghé thăm nơi này. Tôi mong muốn được gặp bà.
- Gặp tôi? Gặp tôi à? Bà ngạc nhiên hỏi. Các anh tôi nhắc đến ông, các anh ấy bảo rằng ông đã đối xử rất tốt khi họ đến La Mã để dự lễ thụ phong linh mục của Dane. Tôi mong ông ở lại đây chơi vài ngày, như thế các anh tôi có dịp gặp được ông.
- Tôi rất sẵn sàng, thưa bà O'' Neill - ông trả lời bình thản.
Mặc dù lớn tuổi, tóc đã bạc một phần nhưng Meggie vẫn còn rất đẹp, Rainer thầm nghĩ khi bà quay về hướng anh ta với cái nhìn lễ độ
- Justine thế nào? Bà hỏi.
- Rất tiếc là tôi không được biết thưa bà. Lần sau cùng tôi gặp Justine lúc Dane mất.
Bà không tỏ vẻ ngạc nhiên chút nào.
- Tôi cũng thế, tôi không gặp lại Justine từ sau ngày chôn cất Dane - bà thở dài. Nhiều lúc tôi hy vọng nó sẽ trở về nhà nhưng rôi tôi lại nghĩ phải chăng đó chỉ là ảo tưởng. Drogheda bây giờ giống như một viện dưỡng lão nên chúng tôi cần dòng máu trẻ. Justine là dòng máu trẻ duy nhất còn lại của chúng tôi.
Sự thương hại không còn thấy trên gương mặt của Rainer, ông ta ngồi chồm ra phía trước, mắt sáng lên.
- Bà nói về Justine làm tôi có cảm tưởng như Justine thuộc về Drogheda cả thể xác lẫn tâm hồn - Giọng Rainer nghiêm lại - Tôi nghĩ rằng điều đó hoàn toàn không đúng.
- Tôi cho rằng ông không có quyền đánh giá Justine thế này, thế kia. Bà giận dữ. Ông cũng vừa nói với tôi rằng từ khi Dane mất, ông đã không gặp lại Justine và như thế đã hai năm kia mà.
- Tôi đến gặp bà vì Justine cần sự giúp đỡ của bà mặc dù cô ấy không hề thẳng thắn nói với bà như thế - ông giải thích - Nhưng theo tôi bà nên thuyết phục cô ấy tập trung nghị lực để có thể tiếp tục sống... không phải ở nơi này, mà sống một cuộc đời riêng không dính dấp gì đến Drogheda.
Rainer ngả người vào lưng ghế, chân gác tréo, đốt một điếu thuốc khác rồi nói tiếp:
- Justine đã tự hành hạ mình với những lý do không đúng. Nếu có ai đó làm cho cô ấy hiểu ra vấn đề thì người đó là bà. Nhưng tôi cũng xin phép nói với bà rằng nếu bà giải tỏa được nỗi ám ảnh ở Justine thì cô ấy sẽ không bao giờ trở về sống ở Drogheda cả, còn nếu ngược lại cứ để Justine như thế này thì rất có thể cuối cùng nàng sẽ trở về và vĩnh viễn ở lại đây.
Một giây im lặng, Rainer nói:
- Đời sống sân khấu không đủ cho một phụ nữ như Justine. Đến một ngày rất gần cô ấy sẽ nhận ra điều đó, lúc bấy giờ Justine sẽ chọn lựa... hoặc là gia đình và Drogheda, hoặc là tôi. Nhưng tôi dám đoan chắc những người chung quanh vẫn không mang lại được cho Justine một cuộc sống có ý nghĩa, thưa bà O'' Neill. Nếu cô ấy chọn tôi, cô ấy có thể theo đuổi sự nghiệp sân khấu, đó là điều quí nhất mà Drogheda không thể mang lại cho Justine. Tôi đến đây để yêu cầu bà bảo đảm dùm một chuyện là Justine sẽ chọn tôi. Lời lẽ của tôi nghe có vẻ tàn nhẫn, chẳng qua vì tôi cần cô ấy hơn bà cần cô ấy rất nhiều.
Meggie đứng lên kéo dây chuông gọi mang trà ra mời khách.
- Ông Hartheim, ông đánh giá quá cao ảnh hưởng của tôi đối với con gái tôi. Justine không bao giờ chú ý tới những lời căn dặn cũng như chẳng bao giờ chìu theo ý muốn của tôi.
- Tôi biết rõ bà có khả năng làm cô ấy xiêu lòng nếu bà muốn. Tôi chỉ yêu cầu bà suy nghĩ về những điều tôi vừa trình bày. Xin bà chớ vội, cũng không có gì gấp, tôi kiên trì chờ đợi được.
Trong một tuần ở Drogheda, Rainer không bao giờ gợi lại vấn đề này nữa, Meggie cũng thế. Khi hay tin Rainer đến đây, các anh của Meggie đều vội vàng rời bãi chăn vê nhà. Ngay cả Fiona cũng có cảm tình với Rainer.
Bề ngoài cư xử rất lễ độ, thế nhưng trong lòng Meggie không thể không nghĩ đến những gì mà Rainer đã nói, nhiều lần bà đắn đo về sự chọn lựa mà Rainer đã đề nghị. Từ lâu nay bà đã bỏ ý định nuôi hy vọng một ngày nào đó Justine trở về, thế mà bây giờ người đàn ông này lại cam đoan dứt khoát với bà rằng Drogheda có thể chứng kiến sự trở về của Justine. Điều băn khoăn nhất của Meggie là không biết hạnh phúc của Justine sau này tùy thuộc vào người đàn ông này đến mức nào.
Khi Meggie lái xe đưa Raine ra sân bay, bà nói:
- Tôi nghĩ rằng trước sau gì ông cũng gặp Justine. Lúc ấy, tôi mong rằng ông sẽ không nói với con gái tôi về chuyến ghé thăm Drogheda của ông.
- Tôi sẽ làm theo ý bà, ông đáp. Tôi chỉ yêu cầu bà suy nghĩ cho về những điều tôi đã nói, nhưng không cần vội vã gì.
Giữa tháng tư, hai năm rưỡi sau cái chết của Dane, Justine cảm thấy ray rứt bởi một sự thèm khát không thể cưởng lại là được thấy cái gì đó khác hơn là những dãy nhà và một dòng người buồn tẻ. Vào một ngày nắng đẹp, đột nhiên thành phố trở nên hết sức ngột ngạt. Justine liền lên tàu hỏa để đến công viên Kew. Hôm nay là ngày thứ ba, nàng mặc tình hưởng cái đẹp trong sự yên tĩnh. Tất nhiên Justine rất quen thuộc công viên này. Bất cứ người nào đến đây đều tràn đầy những niềm vui thích với vô số những vườn hoa. Kew tỏa ra một sức quyến rũ riêng.
Giữa cái khung cảnh ấy, Rainer xuất hiện với chiếc áo khoác bằng da, tóc lóng lánh như sắc bạc dưới ánh nắng.
- Coi chừng em bị đau lưng, Rainer vừa nói vừa cởi chiếc áo khoác trải xuống cỏ để hai người có thể ngồi.
- Làm sao anh tìm được em ở đây? Justine hỏi.
- Bà Kelly cho anh biết em đã đi Kew. Anh chỉ cần đến đây và lang thang khi nào gặp em thì thôi.
- Và có lẽ anh chờ đợi em sẽ nhảy tới ôm cổ anh phải không?
- Em có ý định ấy à?
- Anh vẫn thế, không thay đổi phải không Rain? Anh luôn trả lời câu hỏi của em bằng một câu hỏi khác. Không, em chẳng hề cảm nhận nỗi vui sướng đặc biệt nào khi gặp anh. Em tưởng rằng anh đã vĩnh viễn rút vào ngôi nhà lầu của anh rồi.
- Một anh chàng lì lợm như anh đâu có thể rút lui dễ dàng như thế. Em thế nào?
- Mạnh khỏe.
Rainer nằm dài trên chiếc áo khoác, hai tay kéo lên đặt dưới đầu, mỉm cười một cách lười biếng.
- Em bao nhiêu tuổi rồi nhỉ? Ba mươi? Trong bộ quần áo ghê khiếp này trông em giống như một cô học trò ăn mặc lôi thôi. Nếu vì lý do nào đó em không cần anh trong cuộc đời thì ít ra anh cũng còn là người cần thiết, có thể góp ý cho em ăn mặc đẹp hơn.
Nàng cười.
- Em nhìn nhận vào thời kỳ mà bất cứ lúc nào anh cũng có thể xuất hiện, em rất chăm sóc bề ngoài.
Justine ngồi tụt xuống thấp, nghiêng người qua một bên, mặt nàng sát vào mặt Rainer, mỉm cười:
- Ôi! Thật là sung sướng được gặp lại anh.
Từ ngày Hồng Y Di Contini Verchese qua đời, Rainer gần như không đến La Mã nữa. Anh thích đi Luân Đôn hơn mỗi khi có dịp. Lúc đầu, Justine tỏ ra hân hoan và bằng lòng với tình bạn mà Rainer mang lại, nhưng ngày tháng trôi qua, khi Rainer vẫn không biểu lộ chút tình cảm yêu thương thì sự phẫn nộ của Justine ngày càng trở nên nặng nề như một thứ ám ảnh. Mấy tháng sau khi Dane chết, Justine phải cưỡng lại sự thèm muốn đến với Rainer. Nàng không thể làm việc đó khi hình ảnh em trai của mình làm mờ nhạt gương mặt của Rainer. Nhưng bây giờ Rainer đã trở lại, mọi chuyện đều khác. Nàng nóng lòng muốn hỏi Rainer còn nhớ gì không những giây phút âu yếm giữa hai người - làm sao Rainer có thể quên được?
Ảo tưởng. Rõ ràng Rainer không muốn quay trở lại quãng thời gian êm đẹp của hai người. Ông chỉ muốn xem Justine như một người bạn gái thân thiết mà thôi. Cũng được. Đó là điều Justine mong muốn, nhưng... liệu anh ta có quên được mình không? Không thể quên được đâu. Mà thôi cũng mặc, nếu anh ta đã quên!
Mẹ nàng rất ít viết thư cho nàng. Có chuyện gì xảy ra ở Drogheda không nhỉ? Mẹ đang giấu những nỗi buồn phiền cay đắng? Bà ngoại đau nặng? Hay là một trong những người cậu đã không còn, hoặc chính mẹ? Lạy Chúa, xin đừng để xảy ra chuyện gì không hay cho mẹ! Đã ba năm rồi nàng chưa gặp một ai từ Drogheda đến và biết bao nhiêu biến cố có thể xảy ra trong ba năm, dù riêng Justine thì chẳng có gì mới mẻ cả. Cuộc sống của nàng như bị ngưng trệ, buồn tẻ, nhưng nàng không nghĩ rằng nó cũng như thế với những người khác.
Thời gian sau này, Rainer đi lại dễ dàng giữa Bonn và nước Anh. Không thể chối cãi, dù Rainer có máy bay riêng nhưng đi đứng như thế cũng mệt nhọc lắm chứ.
- Tối nay trông em trầm lặng quá, có gì buồn phiền phải không? Trong buổi ăn tối tại một khách sạn, Rainer đã hỏi Justine như thế.
- Không, em chẳng có gì phải buồn phiền. Nói cho đúng chỉ là một chuyện vớ vẩn. Mẹ và em hàng tuần không viết thư cho nhau nữa... Hai mẹ con rất lâu không gặp nhau và bây giờ không có chuyện gì để nói với nhau... Vậy mà hôm nay, em vừa nhận một lá thư lạ lùng của mẹ gửi, mẹ hoàn toàn khác xưa.
Rainer cảm thấy tim mình thắt lại. Đúng là Meggie đã kéo dài thời gian để suy nghĩ, ông linh cảm Meggie đã quyết định ra tay, nhưng không phải để ủng hộ ông. Bà bắt đầu cô lập Justnine để rồi đưa nàng trở về Drogheda, bảo đảm cho dòng họ O'' Neill tồn tại mãi mãi.
Rainer kín đáo đưa tay xuống dưới bàn để nắm bàn tay Justine. Cử chỉ già dặn ấy rất hợp với nàng, ông nghĩ thầm. Nàng đẹp hơn bao giờ hết dù chiếc áo dài xấu không thể tưởng tượng được. Những lằn nhăn li ti mang lại nét nghiêm trang rất cần cho gương mặt trẻ con ấy và cho cả tính tình luôn thái quá của Justine. Nhưng có điều gì khác nhau giữa sự già giặn bề ngoài và những thay đổi bên trong? Khó mà biết được và chính nàng cũng không tự trả lời được điều đó.
- Justine, mẹ của em cảm thấy đơn độc, ông nói và tự ngăn chặn đường tháo lui cho mình.
- Vâng, có thể như thế - Justine nhíu mày nói thì thầm - Nhưng em không thể không nghĩ rằng có điều gì khác ở mẹ. Vì dù sao, mẹ đã cô đơn trong nhiều năm qua. Thế thì tại sao bỗng nhiên mẹ thay đổi? Em không thể nào giải thích được điều này Rainer ạ, vì thế mà em rất lo.
- Mẹ đã lớn tuổi rồi, hình như em quên điều đó. Bây giờ mẹ em không thể chịu đựng được nhiều điều mà trước đây mẹ đã từng chịu đựng. Justine, cách đây ba năm, bà mất đứa con trai duy nhất. Phải chăng em cho rằng khoảng thời gian ấy sẽ làm vơi đi nỗi đau xót? Anh lại nghĩ ngược lại. Dane đã nằm xuống và bây giờ buộc bà phải nghĩ rằng em sẽ không ra đi. Thật ra thì em chẳng hề thăm viếng bà.
Justine nhắm mắt lại.
- Em sẽ đi thăm mẹ. Rainer ạ, em sẽ đi! Em hứa với anh em sẽ đi thăm mẹ và chắc là gần đây thôi! Anh có lý, tất nhiên. Anh luôn có lý. Lâu nay em không nghĩ Drogheda có thể làm cho em thiếu vắng nhung nhớ, nhưng gần đây em có cảm giác nó trở thành thân yêu hơn với em chẳng khác gì em là một phần của nó, dù sao đi nữa...
Đột ngột, Rainer nhìn đồng hồ, nhếch miệng cười như hối tiếc điều gì đó.
- Anh rất tiếc phải để em về một mình tối nay vì trong một tiếng đồng hồ nữa, anh có hẹn với một con người hào hoa phong nhã rất quan trọng ở một nơi bí mật. Fritz, tài xế của anh sẽ lái xe cho anh đi. Fritz đã ba lần được các cơ quan an ninh sát hạch.
- Anh đừng nói nữa và đưa ngay chiếc áo khoác cho em! Nàng nói lớn vui vẻ cố che giấu nỗi đau trong lòng. Bây giờ em hiểu rồi! Em thì có thể vứt cho bất cứ tài xế tắc xi nào cũng được, còn anh thì không thể làm như thế vói tương lai của thị trường chung, phải không? Thế thì em sẽ cho anh thấy em không cần xe tắc xi mà cũng cóc cần anh chàng Fritz được chứng nhận bởi các cơ quan an ninh tình báo, em sẽ tự đi xe điện ngầm về nhà. Còn sớm chán.
Rainer vẫn còn nắm mấy ngón tay nhỏ bé của Justine. Đột nhiên nàng kéo tay Rainer áp lên môi rồi hôn thật nhẹ.
- Ôi! Rainer, em không biết sẽ làm gì khi thiếu vắng anh!
Ông đứng lên đút tay vào túi quần rồi đi vòng qua bàn ăn và vịn lưng ghế của Justine.
- Anh là người bạn thân thiết của em, Rainer nói. Bạn bè là như thế, chúng ta không thể thiếu nhau được.
Chia tay Rainer, Justine trở về phòng trọ của mình với tâm trạng trầm lặng sau đó tỏ ra chán nản, xuống tinh thần. Tối nay, gặp Rainer, cả hai đi sâu vào chuyện riêng tư nhiều hơn mọi khi dù không có chuyện gì ra chuyện gì, ngoại trừ việc Rainer nghĩ rằng mẹ nàng già rồi đang rất cô độc và theo ông, nàng nên về Drogheda. Anh ấy đề cập đến một cuộc thăm viếng, nhưng phải chăng như thế là anh ấy muốn nói đến một sự trở về vĩnh viễn. Thái độ của anh ấy cho thấy xưa kia tình cảm của Rainer đối với nàng như thế nào, thì đó cũng chỉ là những gì thuộc về quá khứ. Rõ ràng, anh ấy không muốn làm sống lại những tình cảm đó. Nhưng, thế thì tại sao chín tháng trước đây anh ấy xuất hiện lại trong cuộc đời nàng làm gì? Có phải vì thương hại? Vì cảm thấy phải lay động nàng để nàng chịu trở về với mẹ hay là anh ấy đã hứa điều dó với Dane? Rainer rất thương Dane, làm sao biết được họ đã nói gì với nhau lúc vắng nàng. Biết đâu Dane đã nhờ Rainer trông chừng nàng và nay anh thấy thực hiện lời hứa? Đúng, có thể đó là câu trả lời. Tất cả những ý tưởng lẫn lộn làm Justine rơi nước mắt; nàng khóc một cách đau xót, sau đó nén xuống được và tự trách móc sự ngu ngốc của mình. Nằm lăn qua lăn lại vẫn không ngủ được, lấy sách ra đọc vẫn thế. Khi ánh sáng yếu ớt và buồn tẻ của bình minh xuyên qua rèm cửa sổ, Justine ngồi vào bàn viết, lòng tê tái, nghe xa xa tiếng động cơ qua lại, cảm nhận với đủ tất cả giác quan sự ẩm ướt, vắng lạnh của buổi sáng sớm như thế. Đột nhiên, ý nghĩ trở về Drogheda nghe như tuyệt vời, trong lành và dịu dàng.
Justine cầm lấy một trong những cây viết màu đen và bắt đầu những dòng thư cho mẹ, nước mắt khô dần.
Con rất mong mẹ hiểu tại sao con không trở về nhà từ khi Dane mất, nhưng dù cho mẹ có suy nghĩ gì đi nữa, con biết mẹ sẽ rất vui lòng khi hay tin con có ý định chuộc lại sự vắng mặt ấy bằng cách trở về nhà vĩnh viễn.
Vâng, mẹ đọc đúng đấy. Con sẽ trở về nhà thật sự. Mẹ ơi, mẹ có lý - đã đến lúc con cảm thấy thiếu Drogheda. Lâu nay con muốn bay bằng chính đôi cánh của con và con đã nhận ra rằng cũng chẳng đi đến đâu. Lê gót từ sân khấu này sang sân khấu khác trong suốt tháng năm còn lại của cuộc đời để làm gì? Ở đây có gì cho con người sân khấu? Con cần một cái gì chắc chắn, thường xuyên, lâu dài hơn, cho nên con sẽ trở về Drogheda, nơi đây sẽ cho con tất cả những thứ đó. Không còn những giấc mơ mây khói nữa. Biết đâu? Có thể con sẽ chọn Boy King nếu anh chàng đó còn muốn cưới con. Cuối cùng cuộc đời con sẽ có một ý nghĩa, thí dụ cho ra đời cả một bộ lạc nhóc con rừng rú của miền Tây Bắc. Con mỏi mệt rồi, thưa mẹ, mỏi mệt đến mức con không biết nói gì và còn có thể tâm tình với mẹ những gì con cảm nhận được hay không.
Tóm lại, con sẽ đề cập vấn đề này một kịp khác. Những buổi trình diễn Lady Macbeth đã kết thúc và con chưa ký lại hợp đồng nào cho mùa tới. Như vậy nếu con chào từ biệt sân khấu sẽ không ai buồn phiền. Luân Đôn đầy rẫy những diễn viên như con. Ông bầu Clyde có thể tìm người thay con trong vài phút, còn mẹ thì không thể thay con được. Con rất ân hận là phải chờ đến tuổi ba mươi mốt mới hiểu điều đó.
Nếu Rain không giúp cho con thấy rõ con hơn thì chắc con phải chờ một thời gian khá lâu nữa; nhưng anh ấy là người có trực giác mạnh dù chưa biết mẹ nhưng hình như anh ấy hiểu mẹ hơn cả con. Tất nhiên, người ta cho rằng khán giả vẫn thấy rõ toàn cảnh của một vở diễn hơn là diễn viên. Điều này đúng với anh ấy, nhưng con phát chán thấy anh ấy đứng từ trên cao để giám sát cuộc đời con. Hầu như anh ta tự cho rằng mình mắc nợ đối với Dane hoặc muốn giữ lời hứa vì Dane. Thế là anh ấy làm cho con bực mình vì luôn xuất hiện trong cuộc sống của con. Thế nhưng cuối cùng cũng lạ, con hiểu ngược lại rằng chính con mới là người quấy rầy anh ấy. Nếu con trở về Drogheda thì món nợ và lời hứa của anh ấy coi như được xóa đi, phải không mẹ? Dù sao anh ấy cũng sẽ vui vì con đã tránh cho anh ấy phải đi lại bằng máy bay liên tục.
Ngay khi chuẩn bị xong xuôi, con sẽ viết thư cho mẹ lần nữa để báo cho mẹ biết ngày con về. Trong khi chờ đợi, mẹ hãy nhớ đến cách yêu thương quái đản của con đối với mẹ.
Chương 44
Từ biệt Rainer bằng một lá thư giữa lúc lòng tan nát vì đau buồn và xúc động là việc quá dễ. Hơn nữa Justine cũng đã điên tiết lên và thích thú với ý nghĩ phải hành hạ cả hai - tôi đau khổ, thì anh cũng phải đau khổ, đó là lẽ công bằng. Nhưng lần nay, một lá thư từ biệt bình thường vẫn chưa đủ đối với Rainer. Như thế là phải cùng đi ăn tối ở một nhà hàng mà cả hai đều quen thuộc. Rainer không đề nghị gặp tại nhà anh ta ở Park Lane, điều đó tuy làm Justine thất vọng nhưng không làm cho nàng ngạc nhiên. Đúng rồi, anh ấy muốn cuộc chia tay có sự chứng kiến lạnh lùng của Fritz. Anh ấy không muốn có chuyện bất ngờ.
Đặc biệt tối nay, Justine chú ý ăn mặc theo sở thích của Rainer. Con quỷ ám lâu nay xúi giục Justine ăn mặc loè loẹt với màu vàng cam đã buông tha nàng. Vì Rain thích phong cách đơn giản, nên nàng mặc một chiếc robe dài chấm đất bằng loại vải xoa tím, cổ hẹp và tay dài. Một chiếc kiềng vàng uốn xoắn với những hạt trai và hồng ngọc, hai cổ tay mang hai chiếc vòng cùng màu. Nhưng tóc thì khủng khiếp - nàng cảm thấy thế - Tóc Justine không bao giờ chịu nằm ngay ngắn như ý thích của Rainer. Nàng trang điểm hơi đậm một chút để giấu đi nét mệt trên gương mặt. Thế là xong, với điều kiện anh ấy không nhìn quá gần.
- Em đã nhận được thư trả lời của mẹ chưa? Rainer hỏi lễ độ
- Chưa, thật ra em cũng không có ý chờ. Mẹ em chắc chắn không còn lời nào để nói lên sự vui mừng.
- Ngày mai em có muốn Fritz đưa em ra phi trường không?
- Cảm ơn anh, em có thể đi tắc xi, nàng trả lời khô khan. Em không muốn nhờ đến người phục vụ của anh.
- Anh họp suốt ngày nên Fritz đi với em không gây phiền hà chút nào cho anh cả.
Justine hơi lớn tiếng.
- Em đã nói với anh là em đi tắc xi!
- Em hét lên vô ích, Justine à. Ông nói, chân mày nhíu lại - Anh chìu em.
Một buổi ăn tối buồn tẻ và chán nản! Chấm dứt sớm là tốt!
- Anh có thấy phiền không nếu chúng ta về bây giờ? Nàng hỏi. Em nhức đầu ghê gớm.
Đến góc đại lộ và ngõ cụt nơi Justine ở, Rainer bảo Fritz cho xe chạy vòng khu nhà. Justine bước xuống, Rainer nắm nhẹ khuỷu tay nàng một cách lịch sự và dìu nàng đi, chỉ vô tình chạm phớt qua người Justine. Trong cái ẩm ướt buốt giá của cơn mưa phùn Luân Đôn hai người đi chầm chậm trên đoạn đường lát đá, tiếng chân nghe dội thật xa, những tiếng chân buồn và cô độc.
- Justine, chúng ta sẽ nói với nhau lời từ biệt, Rainer buông lời trước.
- Tạm biệt thì đúng hơn, nàng trả lời. Không có gì dứt khoát đâu anh, em sẽ trở về đây hoặc lúc này, lúc khác cũng như em hy vọng anh sẽ có dịp đến thăm Drogheda.
Rainer lắc đầu.
- Không, anh nghĩ có lẽ mình chia tay vĩnh viễn Justine ạ. Anh không nghĩ rằng chúng ta còn cần đến nhau.
- Anh muốn nói rằng anh không còn cần đến em nữa chứ gì? Justine nói như muốn uốn nắn lại ý nghĩ của Rainer. Điều đó không quan trọng, Rain ạ. Em không cần anh phải lựa lời với em, em quen chịu đựng rồi!
Rainer nắm tay Justine, cúi xuống hôn, rồi thẳng người lên, mỉm cười nhìn nàng rất lâu trước khi quay gót.
Về đến nhà, Justine thấy một lá thư nằm trên tấm thảm chùi chân. Justine cúi xuống nhặt bức thư và để rơi chiếc xách tay và chiếc áo khoác xuống đất.
Justine cởi giày tại chỗ, rồi bước sang phòng ngủ. Nàng buông người nặng nề trên một thùng gỗ, cắn môi suy nghĩ, ngồi sững sờ với vẻ mặt vừa rã rời vừa hoang mang, mắt đăm đăm nhìn một bức phác thảo đẹp cân dung của Dane được nàng thực hiện trong ngày lễ phong linh mục. Phải đứng lên đi một vòng qua phòng ăn, có lẽ sẽ dễ chịu hơn. Trên bàn một phác thảo chân dung của Rainer bằng viết chì mà nàng vừa vẽ cách đây mấy tuần. Và một gói thuốc lá. Justine lấy một điếu và đốt, đặt ấm nước lên bếp lò. Bấy giờ chợt nhớ lại lá thư của mẹ cầm trên tay.
Justine đọc trong khi chờ nước sôi. Nàng ngồi vào bàn ở nhà bếp, gạt bức vẽ Rainer rơi xuống đất rồi giẫm lên bằng cả hai chân. Anh không cần đến tôi nữa à? Thế thì tôi cũng chẳng cần anh!
Nàng đọc thư của Meggie.
Justine thương yêu của mẹ,
Như mọi khi, con lại hành động trong một cơn xúc động và với sự vội vã thương lệ, do đó mẹ mong rằng thư của mẹ đến con kịp thời. Nếu trong những bức thư của mẹ gần đây có điều gì đó thúc đẩy con phải có một quyết định đột ngột, mẹ mong con bỏ qua cho mẹ. Mẹ không có ý định gây cho con một phản ứng dứt khoát đến thế. Mẹ nghĩ rằng mẹ chỉ tìm kiếm một chút tình cảm dễ thương nhưng mẹ quên rằng bên dưới cái vỏ bọc ngoài rất cứng ấy của con lại ẩn giấu nhiều sự dịu dàng.
Đúng là mẹ cô đơn, cô đơn khủng khiếp; thế nhưng không phải con về đây là có thể đổi được điều đó. Nếu con chịu suy nghĩ một chút, con sẽ thấy rằng mẹ nói đúng. Con hy vọng làm được gì khi trở về nhà? Con không có khả năng trả lại cho mẹ những gì mẹ đã mất và con cũng không thể hàn gắn lại được nỗi mất mát đó. Sự mất mát ấy không chỉ là của riêng mẹ mà cũng là của con, của cả bà ngoại và của tất cả những người còn lại. Hình như con đang nuôi trong đầu một suy nghĩ hoàn toàn sai, rằng con là người có một phần trách nhiệm về cái chết của Dane. Sự xung động đột ngột của con gây cho mẹ cảm tưởng về hành động hối hận. Đó là tính kiêu ngạo và lòng tự phụ Justine à. Dane là một người đã trưởng thành chứ không phải là đứa bé yếu đuối. Chính mẹ đã để Dane đi mà. Nếu mẹ là con, mẹ cũng rơi vào sự hối hận, phải chịu sự hành hạ tinh thần, tự than trách mình tại sao đã cho phép Dane sống theo cuộc sống mà em con thích. Nhưng mẹ không để mình quanh quẩn với ý nghĩ tự lên án như thế. Không ai trong chúng ta là Chúa và mẹ tin rằng cuộc đời đã dành cho mẹ nhiều điều kiện để hiểu điều đó hơn con. Trở về nhà, con hiến cuộc đời của con cho mẹ như một hy sinh. Mẹ không bao giờ muốn điều đó. Bây giờ mẹ nói thẳng rằng mẹ từ chối. Con sống ở Drogheda không thích hợp, không bao giờ thích hợp. Nếu con chưa hiểu ra ở đâu là nơi thích hợp cho con, mẹ đề nghị con ngồi lại ngay và bắt đầu suy nghĩ một cách nghiêm túc. Đôi khi, con giống như cô con gái bốc đồng không thể hiểu được. Rainer là một người đàn ông rất tốt, mẹ chưa từng gặp ai vị tha như ông ấy. Vì vong hồn của Dane, con hãy ngưng hành động như một đứa con nít, Justine à. Con yêu của mẹ, một tia sáng đã tắt. Với tất cả chúng ta còn lại, đó không thể khác hơn là một tia sáng đã tắt. Con hoàn toàn không thể làm gì được, con hiểu chứ? Mẹ không tìm cách nói dối với con mẹ đang sống vui sướng. Kiếp người không cho phép mẹ dối mình như thế. Nhưng nếu con tưởng tượng rằng ở đây, Drogheda, mọi người suốt ngày chỉ khóc và rên rỉ thì đó là điều sai lầm lớn. Những người ở đây biết hưởng cuộc sống và một trong những nguyên nhân lạc quan ấy là vì tất cả hy vọng một thứ ánh sáng hướng về con. Ãnh sáng của Dane đã tắt vĩnh viễn. Mẹ van con, Justine yêu của mẹ, hãy cố hiểu điều đó và chấp nhận. Hãy trở về Drogheda nếu trong lòng con muốn và khi ấy cả nhà sẽ rất vui mừng. Nhưng con về đây không phải để sống vĩnh viễn, đó chỉ là một hy sinh về phần con, một sự hy sinh vô ích, không có mục đích. Trong nghề nghiệp mà con theo đuổi, nếu con rời xa sân khấu con sẽ trả giá đắt. Con hãy ở lại nơi đã sống, thực hiện một cách xứng đáng sự nghiệp của con trong thế giới mà con đã chọn.
Đau đớn. Không khác những ngày tiếp theo cái chết của Dane. Cùng một nỗi đau dữ dội, không thể tránh. Cùng một sự bất lực đầy âu lo. Không, tất nhiên là không, nàng không thể làm gì hết. Không có cách nào hàn gắn, không có cách nào. Hãy hét lên cho bớt đau khổ! Ấm nước đã sôi! Suỵt, ấm nước, suỵt! Trở thành đứa con duy nhất của mẹ thì ra sao, hỡi ấm nước? Hãy hỏi Justine, cô ta biết. Vâng, Justine biết rõ thế nào là một đứa con duy nhất. Nhưng tôi không phải là đứa con mà bà mong muốn, người phụ nữ già tàn phai, tự giam hãm mình ở một trang trại xa xôi. Mẹ ơi! Mẹ có nghĩ rằng có một đứa con nào lại có thể từ chối trở thành đứa con duy nhất của mẹ mình. Thật là không công bằng khi Dane là người phải chết... Mẹ có lý. Sự trở về Drogheda của con chẳng thay đổi được gì bởi thực tế Dane sẽ không bao giờ sống lại. Một tia sáng đã tắt, và con không thể đốt cháy trở lại. Nhưng con hiểu mẹ muốn nói gì. Ãnh sáng của con luôn cháy trong lòng mẹ, nhưng không phải sáng lên ở Drogheda.
Chương 45
Fritz ra mở cửa, rời bỏ bộ quần áo tài xế màu xanh nước biển rất đẹp, thay vào là chiếc áo gilê bó sát của người đầu bếp.
- Fritz, anh chỉ là người phụ vụ tầm thường của ngài Hartheim hay là người bảo vệ cho ông ấy? Nàng vừa hỏi vừa đưa chiếc áo khoác cho Fritz.
Mặt anh ta lạnh như tiền.
- Ngài Hartheim đang ở trong phòng làm việc thưa cô O'' Neill.
Rainer ngồi nhìn ngọn lửa, người hơi nghiêng về phía trước, con mèo cái Natasha mà Rainer mang về nuôi từ khi Hồng Y qua đời nằm lim dim trước lò sưởi. Khi cánh cửa phòng mở, ông ngước mắt lên, nhưng không nói tiếng nào và cũng chẳng tỏ ra vui mừng gặp lại nàng.
Justine bước vào, đến ngồi dưới đất đối diện với Rainer và ngả đầu lên gối của ông ta.
- Rainer, em hối hận đã làm phí tất cả những năm tháng, nàng thì thầm. Em không làm sao chuộc lại được.
Rainer không đứng lên, không kéo nàng vào lòng, anh ta ngồi xuống đất bên cạnh Justinẹ
- Một phép mầu, Rainer nói.
- Anh vẫn chưa hết yêu em phải không? Nàng mỉm cười hỏi.
- Không, không bao giờ.
- Chắc em đã làm anh đau khổ rất nhiều.
- Không như em tưởng đâu. Anh biết em yêu anh và anh có thể chờ đợi. Anh vẫn tin rằng một người kiên trì rồi cuối cùng thế nào cũng sẽ thắng lợi.
- Thế cho nên anh để mặc em tự vật lộn mình. Anh chẳng có chút buồn lo nào khi báo với anh em sẽ về Drogheda vĩnh viễn, có đúng không?
- Ồ, không phải thế đâu! Nếu chuyện ấy liên quan đến một người đàn ông khác thì anh đã chiến đấu đến cùng. Nhưng còn với Drogheda? ... Một đối thủ quá lợi hại. Ồ, có, có chứ, anh rất buồn lo!
- Em không ngờ rằng đầu óc của anh lại rắc rối đến thế! Tại sao lúc ấy anh không nói một cách đơn giản là anh vẫn còn yêu em? Em thiết tha được nghe câu đó!
- Anh không nói vì nó đã quá rõ ràng, em có thể tự tìm hiểu lấy. Tự em phải nhận ra điều đó chứ!
- Có lẽ em bị mù, một mình em không thấy gì hết, em cần sự giúp đỡ. Cuối cùng thì mẹ em buộc em phải mở mắt ra. Một lá thư của mẹ nằm chờ em ở nhà sau khi em chia tay với anh. Mẹ em khuyên em không nên về nhà.
- Mẹ em là một người phụ nữ tuyệt vời.
- Em biết anh đã gặp mẹ em, Rainer. Lúc nào vậy anh?
- Anh đi gặp mẹ em cách đây khoảng một năm. Drogheda là một trang trại đẹp vô cùng, nhưng đúng là không thích hợp với em, Justine. Mục đích chuyến đi của anh là làm cho mẹ em hiểu điều đó. Em không thể tưởng tượng anh vui sướng đến mức nào khi cuối cùng mẹ đã thấy ra, mặc dù anh không nghĩ rằng các lý lẽ của anh có sức thuyết phục cho lắm.
Justine đưa ngón tay đặt lên miệng Rainer.
- Em cũng thế, em hoài nghi Rain à. Em luôn hoài nghi. Có thể em sẽ hoài nghi mãi mãi.
- Ồ, Justine, anh hy vọng rằng không! Phần anh, không thể có người phụ nữ nào khác hơn. Chỉ có em. Cả thế giới đều biết như thế từ nhiều năm qua. Nhưng những lời tỏ tình chẳng có ý nghĩa gì. DÃN¹ cho anh có hét to lên đến lạc giọng cũng không làm tan đi được những hoài nghi ở em. Vì vậy Justine à, anh không kêu gào tình yêu của em nữa, mà anh sống với tình yêu ấy. Làm sao em có thể nghi ngờ những tình cảm của người hiệp sĩ trung thành nhất của em? Rốt cuộc thì em ở lại nhưng không phải do anh. Rất có thể rồi đây em vẫn phải tiếp tục dựa vào những lời khuyên can, vỗ về của mẹ đấy...
- Em van anh đừng nói thế, nhất là với giọng ấy! Rain tội nghiệp của em, em đã lạm dụng sự kiên nhẫn của anh đến tận cùng! Em xin quỳ xuống trước mặt anh.
- Lạy Chúa, cảm ơn em! Em hạ mình không lâu đâu! - ông nói vui vẻ. - Rồi em sẽ trở lại là em ngay ngày mai thôi.
Sự căng thẳng đã biến mất, cái khó nhất đã qua.
- Anh muốn lúc nào em cũng vẫn là em, vẫn là Justine. Em không được thay đổi một tí nào, dù là một chấm tàn nhang hay một tế bào trong não của em.
Justine vòng tay qua cổ Rainer, những ngón tay luồn vào mân mê mái tóc bạch kim dày của ông.
- Ôi, anh có biết được em đã chờ cái giây phút này như thế nào không? Nàng thì thầm. Em không bao giờ quên.
Chương kết
Bức điện tín được viết như sau...
Con đã trở thành bà Rainer Moerling Hartheims. Lễ cưới tại Vatican. Giáo Hoàng tha hồ ban phép lành các bà vợ muôn năm! Sẽ về nhà tuần trăng mật sớm nhất có thể được, nhưng từ nay gia đình ở châu Âu. Muôn vàn âu yếm của Rain nữa cho mọi người. Justine.
Meggie đặt tờ giấy điện báo xuống bàn, mắt nhìn ra cửa sổ, hướng về phía những đóa hoa hồng mùa thu đang nở khắp vườn. Hương thơm hoa hồng, những rung động hoa hồng; cả những cây bông bụt, cây cọ, cây bạch đàn, và cả cây hoa giấy vốn nhìn cuộc đời từ trên cao.
Vườn hoa đẹp và sống động vô cùng. Nhìn những chồi nụ và những mầm xanh nẩy nở rồi héo tàn; rồi những ước mơ mới lại đến, tiếp tục môt chu kỳ không thay đổi, mãi mãi không hề dừng lại ở nơi kết thúc.
Thế là Drogheda không còn nữa. Vâng, đã đến lúc, thật đúng lúc. Chu kỳ cứ tiếp tục với những người xa lạ. Hình phạt tôi xin chịu một mình, tôi không thể phiền trách ai. Và tôi chẳng luyến tiếc gì.
Hết
Tên Justine được ký với nét chữ rất sắc, bằng cây bút mới mực đen, ngòi mềm. Khi Rainer tặng nàng cây bút này, Justine đã rất vui.
Rainer nghĩ rằng cái chết của Dane đã cắt ngang tình cảm vừa khơi dậy ở Justine, ông cảm thấy hết sức buồn khổ.
Dầu vậy, trong tuần ông vẫn lên máy bay đi Luân Đôn, không phải để gặp Justine mặc dù ông vẫn nhìn thấy nàng. Trên sân khấu, Justine đóng vai người vợ yêu dấu của Morr, nàng Desdemona. Thật tuyệt vời. ông không thể làm gì hơn, nghệ thuật đã mang đến cho Justine tất cả. Như thế cũng hay. Justine, em là một cô bé tốt bụng. Em hãy dành cho sân khấu tất cả những gì đang có trong em.
Phần Justine vẫn nghĩ do những ham muốn riêng, nàng đã để Dane đi Hy Lạp một mình, trong khi đó nếu nàng cùng đi thì có thể Dane đã không chết. Không thể nào nhìn các sự việc dưới một góc cạnh khác. Dane đã chết vì sự đam mê ích kỷ của nàng dành cho Rainer.
Thế rồi ngày tháng trôi qua. Một năm, hai năm. Desdemona, Ophelia, Portia, Cleopatra.
Có hai lần, Justine định đi Drogheda trong đó lần thứ nhì, nàng đã lấy vé máy bay. Mỗi lần như thế, giờ chót đều có một lý do cực kỳ quan trọng ngăn trở nàng lên đường, nhưng trong tận đáy lòng, Justine dư biết nguyên nhân chính lại khác, một sự pha trộn giữa mặc cảm tội lỗi và sự hèn nhát. Rất đơn giản, Justine không có can đảm nhìn mặt mẹ. Nếu bà gặp lại nàng, tất cả cái chuyện đau thương ấy lại sẽ hiện ra với bao nhiêu buồn thảm và lại sẽ nổ bùng. Những người ở Drogheda, nhất là mẹ nàng, cần biết rõ rằng ít nhất Justine vẫn mạnh khỏe, rằng Justine đã vượt qua thử thách mà không gặp nhiều khó khăn. Như thế, ở xa Drogheda vẫn tốt hơn. Tốt hơn rất nhiều.
Chương 43
Meggie giật mình nhận ra mình vừa buông tiếng thở dài, bà liền nén lại. Nếu không bị đau nhức các khớp xương bà đã thắng yên ngựa và cưỡi một vòng qua các bãi chăn. Hôm nay, chỉ mới nghĩ đến chuyện ấy thôi bà đã cảm thấy mỏi mệt.
Bà nghe tiếng ô tô dừng lại, tiếp đó là những tiếng thì thầm, giọng nói cao vút của mẹ và tiếng bước chân. Không phải Justine, vậy có ích gì?
- Meggie - Fiona xuất hiện ở hiên nhà, lên tiếng - Chúng ta có khách. Con vào nhà chứ?
Khách là một người đàn ông sang trọng, tuổi tráng niên, trông trẻ hơn so với cái vẻ bên ngoài. Ông ta cũng là loại người nghị lực và tự tin giống như Ralph.
- Meggie, mẹ giới thiệu với con đây là ông Rainer Hartheim. Fiona nói và đứng bên cạnh chiếc ghế của Meggie.
- Ồ! Meggie vô tình kêu lên vì bất ngờ trước dáng dấp của Rainer mà trước đây Justine thường nhắc tới trong thư. Xin mời ông Hartheim ngồi, Meggie kịp quay về với bản tính hiếu khách vốn có.
Còn Rainer thì nhìn bà với vẻ ngạc nhiên.
- Thưa bà, tôi nhận ra một điều là Justine không giống bà chút nào cả.
- Đúng thế.
Fiona đứng lên nói:
- Meggie, con hãy tiếp chuyện với ông Hartheim. Ông ấy có nói với mẹ là muốn gặp riêng con, muốn dùng trà con cứ gọi mẹ.
Nói xong bà ra khỏi phòng.
Meggie không nhìn thẳng vào Rainer, nói hơi lơ đễnh:
- Ông là người bạn Đức của Justine chứ gì?
- Thưa bà O'' Neill, bà cứ gọi tôi Rainer - ông đề nghị - Tôi không có việc gì phải giải quyết ở Úc cả, nhưng không vì thế mà tôi không có lý do chính đáng để ghé thăm nơi này. Tôi mong muốn được gặp bà.
- Gặp tôi? Gặp tôi à? Bà ngạc nhiên hỏi. Các anh tôi nhắc đến ông, các anh ấy bảo rằng ông đã đối xử rất tốt khi họ đến La Mã để dự lễ thụ phong linh mục của Dane. Tôi mong ông ở lại đây chơi vài ngày, như thế các anh tôi có dịp gặp được ông.
- Tôi rất sẵn sàng, thưa bà O'' Neill - ông trả lời bình thản.
Mặc dù lớn tuổi, tóc đã bạc một phần nhưng Meggie vẫn còn rất đẹp, Rainer thầm nghĩ khi bà quay về hướng anh ta với cái nhìn lễ độ
- Justine thế nào? Bà hỏi.
- Rất tiếc là tôi không được biết thưa bà. Lần sau cùng tôi gặp Justine lúc Dane mất.
Bà không tỏ vẻ ngạc nhiên chút nào.
- Tôi cũng thế, tôi không gặp lại Justine từ sau ngày chôn cất Dane - bà thở dài. Nhiều lúc tôi hy vọng nó sẽ trở về nhà nhưng rôi tôi lại nghĩ phải chăng đó chỉ là ảo tưởng. Drogheda bây giờ giống như một viện dưỡng lão nên chúng tôi cần dòng máu trẻ. Justine là dòng máu trẻ duy nhất còn lại của chúng tôi.
Sự thương hại không còn thấy trên gương mặt của Rainer, ông ta ngồi chồm ra phía trước, mắt sáng lên.
- Bà nói về Justine làm tôi có cảm tưởng như Justine thuộc về Drogheda cả thể xác lẫn tâm hồn - Giọng Rainer nghiêm lại - Tôi nghĩ rằng điều đó hoàn toàn không đúng.
- Tôi cho rằng ông không có quyền đánh giá Justine thế này, thế kia. Bà giận dữ. Ông cũng vừa nói với tôi rằng từ khi Dane mất, ông đã không gặp lại Justine và như thế đã hai năm kia mà.
- Tôi đến gặp bà vì Justine cần sự giúp đỡ của bà mặc dù cô ấy không hề thẳng thắn nói với bà như thế - ông giải thích - Nhưng theo tôi bà nên thuyết phục cô ấy tập trung nghị lực để có thể tiếp tục sống... không phải ở nơi này, mà sống một cuộc đời riêng không dính dấp gì đến Drogheda.
Rainer ngả người vào lưng ghế, chân gác tréo, đốt một điếu thuốc khác rồi nói tiếp:
- Justine đã tự hành hạ mình với những lý do không đúng. Nếu có ai đó làm cho cô ấy hiểu ra vấn đề thì người đó là bà. Nhưng tôi cũng xin phép nói với bà rằng nếu bà giải tỏa được nỗi ám ảnh ở Justine thì cô ấy sẽ không bao giờ trở về sống ở Drogheda cả, còn nếu ngược lại cứ để Justine như thế này thì rất có thể cuối cùng nàng sẽ trở về và vĩnh viễn ở lại đây.
Một giây im lặng, Rainer nói:
- Đời sống sân khấu không đủ cho một phụ nữ như Justine. Đến một ngày rất gần cô ấy sẽ nhận ra điều đó, lúc bấy giờ Justine sẽ chọn lựa... hoặc là gia đình và Drogheda, hoặc là tôi. Nhưng tôi dám đoan chắc những người chung quanh vẫn không mang lại được cho Justine một cuộc sống có ý nghĩa, thưa bà O'' Neill. Nếu cô ấy chọn tôi, cô ấy có thể theo đuổi sự nghiệp sân khấu, đó là điều quí nhất mà Drogheda không thể mang lại cho Justine. Tôi đến đây để yêu cầu bà bảo đảm dùm một chuyện là Justine sẽ chọn tôi. Lời lẽ của tôi nghe có vẻ tàn nhẫn, chẳng qua vì tôi cần cô ấy hơn bà cần cô ấy rất nhiều.
Meggie đứng lên kéo dây chuông gọi mang trà ra mời khách.
- Ông Hartheim, ông đánh giá quá cao ảnh hưởng của tôi đối với con gái tôi. Justine không bao giờ chú ý tới những lời căn dặn cũng như chẳng bao giờ chìu theo ý muốn của tôi.
- Tôi biết rõ bà có khả năng làm cô ấy xiêu lòng nếu bà muốn. Tôi chỉ yêu cầu bà suy nghĩ về những điều tôi vừa trình bày. Xin bà chớ vội, cũng không có gì gấp, tôi kiên trì chờ đợi được.
Trong một tuần ở Drogheda, Rainer không bao giờ gợi lại vấn đề này nữa, Meggie cũng thế. Khi hay tin Rainer đến đây, các anh của Meggie đều vội vàng rời bãi chăn vê nhà. Ngay cả Fiona cũng có cảm tình với Rainer.
Bề ngoài cư xử rất lễ độ, thế nhưng trong lòng Meggie không thể không nghĩ đến những gì mà Rainer đã nói, nhiều lần bà đắn đo về sự chọn lựa mà Rainer đã đề nghị. Từ lâu nay bà đã bỏ ý định nuôi hy vọng một ngày nào đó Justine trở về, thế mà bây giờ người đàn ông này lại cam đoan dứt khoát với bà rằng Drogheda có thể chứng kiến sự trở về của Justine. Điều băn khoăn nhất của Meggie là không biết hạnh phúc của Justine sau này tùy thuộc vào người đàn ông này đến mức nào.
Khi Meggie lái xe đưa Raine ra sân bay, bà nói:
- Tôi nghĩ rằng trước sau gì ông cũng gặp Justine. Lúc ấy, tôi mong rằng ông sẽ không nói với con gái tôi về chuyến ghé thăm Drogheda của ông.
- Tôi sẽ làm theo ý bà, ông đáp. Tôi chỉ yêu cầu bà suy nghĩ cho về những điều tôi đã nói, nhưng không cần vội vã gì.
Giữa tháng tư, hai năm rưỡi sau cái chết của Dane, Justine cảm thấy ray rứt bởi một sự thèm khát không thể cưởng lại là được thấy cái gì đó khác hơn là những dãy nhà và một dòng người buồn tẻ. Vào một ngày nắng đẹp, đột nhiên thành phố trở nên hết sức ngột ngạt. Justine liền lên tàu hỏa để đến công viên Kew. Hôm nay là ngày thứ ba, nàng mặc tình hưởng cái đẹp trong sự yên tĩnh. Tất nhiên Justine rất quen thuộc công viên này. Bất cứ người nào đến đây đều tràn đầy những niềm vui thích với vô số những vườn hoa. Kew tỏa ra một sức quyến rũ riêng.
Giữa cái khung cảnh ấy, Rainer xuất hiện với chiếc áo khoác bằng da, tóc lóng lánh như sắc bạc dưới ánh nắng.
- Coi chừng em bị đau lưng, Rainer vừa nói vừa cởi chiếc áo khoác trải xuống cỏ để hai người có thể ngồi.
- Làm sao anh tìm được em ở đây? Justine hỏi.
- Bà Kelly cho anh biết em đã đi Kew. Anh chỉ cần đến đây và lang thang khi nào gặp em thì thôi.
- Và có lẽ anh chờ đợi em sẽ nhảy tới ôm cổ anh phải không?
- Em có ý định ấy à?
- Anh vẫn thế, không thay đổi phải không Rain? Anh luôn trả lời câu hỏi của em bằng một câu hỏi khác. Không, em chẳng hề cảm nhận nỗi vui sướng đặc biệt nào khi gặp anh. Em tưởng rằng anh đã vĩnh viễn rút vào ngôi nhà lầu của anh rồi.
- Một anh chàng lì lợm như anh đâu có thể rút lui dễ dàng như thế. Em thế nào?
- Mạnh khỏe.
Rainer nằm dài trên chiếc áo khoác, hai tay kéo lên đặt dưới đầu, mỉm cười một cách lười biếng.
- Em bao nhiêu tuổi rồi nhỉ? Ba mươi? Trong bộ quần áo ghê khiếp này trông em giống như một cô học trò ăn mặc lôi thôi. Nếu vì lý do nào đó em không cần anh trong cuộc đời thì ít ra anh cũng còn là người cần thiết, có thể góp ý cho em ăn mặc đẹp hơn.
Nàng cười.
- Em nhìn nhận vào thời kỳ mà bất cứ lúc nào anh cũng có thể xuất hiện, em rất chăm sóc bề ngoài.
Justine ngồi tụt xuống thấp, nghiêng người qua một bên, mặt nàng sát vào mặt Rainer, mỉm cười:
- Ôi! Thật là sung sướng được gặp lại anh.
Từ ngày Hồng Y Di Contini Verchese qua đời, Rainer gần như không đến La Mã nữa. Anh thích đi Luân Đôn hơn mỗi khi có dịp. Lúc đầu, Justine tỏ ra hân hoan và bằng lòng với tình bạn mà Rainer mang lại, nhưng ngày tháng trôi qua, khi Rainer vẫn không biểu lộ chút tình cảm yêu thương thì sự phẫn nộ của Justine ngày càng trở nên nặng nề như một thứ ám ảnh. Mấy tháng sau khi Dane chết, Justine phải cưỡng lại sự thèm muốn đến với Rainer. Nàng không thể làm việc đó khi hình ảnh em trai của mình làm mờ nhạt gương mặt của Rainer. Nhưng bây giờ Rainer đã trở lại, mọi chuyện đều khác. Nàng nóng lòng muốn hỏi Rainer còn nhớ gì không những giây phút âu yếm giữa hai người - làm sao Rainer có thể quên được?
Ảo tưởng. Rõ ràng Rainer không muốn quay trở lại quãng thời gian êm đẹp của hai người. Ông chỉ muốn xem Justine như một người bạn gái thân thiết mà thôi. Cũng được. Đó là điều Justine mong muốn, nhưng... liệu anh ta có quên được mình không? Không thể quên được đâu. Mà thôi cũng mặc, nếu anh ta đã quên!
Mẹ nàng rất ít viết thư cho nàng. Có chuyện gì xảy ra ở Drogheda không nhỉ? Mẹ đang giấu những nỗi buồn phiền cay đắng? Bà ngoại đau nặng? Hay là một trong những người cậu đã không còn, hoặc chính mẹ? Lạy Chúa, xin đừng để xảy ra chuyện gì không hay cho mẹ! Đã ba năm rồi nàng chưa gặp một ai từ Drogheda đến và biết bao nhiêu biến cố có thể xảy ra trong ba năm, dù riêng Justine thì chẳng có gì mới mẻ cả. Cuộc sống của nàng như bị ngưng trệ, buồn tẻ, nhưng nàng không nghĩ rằng nó cũng như thế với những người khác.
Thời gian sau này, Rainer đi lại dễ dàng giữa Bonn và nước Anh. Không thể chối cãi, dù Rainer có máy bay riêng nhưng đi đứng như thế cũng mệt nhọc lắm chứ.
- Tối nay trông em trầm lặng quá, có gì buồn phiền phải không? Trong buổi ăn tối tại một khách sạn, Rainer đã hỏi Justine như thế.
- Không, em chẳng có gì phải buồn phiền. Nói cho đúng chỉ là một chuyện vớ vẩn. Mẹ và em hàng tuần không viết thư cho nhau nữa... Hai mẹ con rất lâu không gặp nhau và bây giờ không có chuyện gì để nói với nhau... Vậy mà hôm nay, em vừa nhận một lá thư lạ lùng của mẹ gửi, mẹ hoàn toàn khác xưa.
Rainer cảm thấy tim mình thắt lại. Đúng là Meggie đã kéo dài thời gian để suy nghĩ, ông linh cảm Meggie đã quyết định ra tay, nhưng không phải để ủng hộ ông. Bà bắt đầu cô lập Justnine để rồi đưa nàng trở về Drogheda, bảo đảm cho dòng họ O'' Neill tồn tại mãi mãi.
Rainer kín đáo đưa tay xuống dưới bàn để nắm bàn tay Justine. Cử chỉ già dặn ấy rất hợp với nàng, ông nghĩ thầm. Nàng đẹp hơn bao giờ hết dù chiếc áo dài xấu không thể tưởng tượng được. Những lằn nhăn li ti mang lại nét nghiêm trang rất cần cho gương mặt trẻ con ấy và cho cả tính tình luôn thái quá của Justine. Nhưng có điều gì khác nhau giữa sự già giặn bề ngoài và những thay đổi bên trong? Khó mà biết được và chính nàng cũng không tự trả lời được điều đó.
- Justine, mẹ của em cảm thấy đơn độc, ông nói và tự ngăn chặn đường tháo lui cho mình.
- Vâng, có thể như thế - Justine nhíu mày nói thì thầm - Nhưng em không thể không nghĩ rằng có điều gì khác ở mẹ. Vì dù sao, mẹ đã cô đơn trong nhiều năm qua. Thế thì tại sao bỗng nhiên mẹ thay đổi? Em không thể nào giải thích được điều này Rainer ạ, vì thế mà em rất lo.
- Mẹ đã lớn tuổi rồi, hình như em quên điều đó. Bây giờ mẹ em không thể chịu đựng được nhiều điều mà trước đây mẹ đã từng chịu đựng. Justine, cách đây ba năm, bà mất đứa con trai duy nhất. Phải chăng em cho rằng khoảng thời gian ấy sẽ làm vơi đi nỗi đau xót? Anh lại nghĩ ngược lại. Dane đã nằm xuống và bây giờ buộc bà phải nghĩ rằng em sẽ không ra đi. Thật ra thì em chẳng hề thăm viếng bà.
Justine nhắm mắt lại.
- Em sẽ đi thăm mẹ. Rainer ạ, em sẽ đi! Em hứa với anh em sẽ đi thăm mẹ và chắc là gần đây thôi! Anh có lý, tất nhiên. Anh luôn có lý. Lâu nay em không nghĩ Drogheda có thể làm cho em thiếu vắng nhung nhớ, nhưng gần đây em có cảm giác nó trở thành thân yêu hơn với em chẳng khác gì em là một phần của nó, dù sao đi nữa...
Đột ngột, Rainer nhìn đồng hồ, nhếch miệng cười như hối tiếc điều gì đó.
- Anh rất tiếc phải để em về một mình tối nay vì trong một tiếng đồng hồ nữa, anh có hẹn với một con người hào hoa phong nhã rất quan trọng ở một nơi bí mật. Fritz, tài xế của anh sẽ lái xe cho anh đi. Fritz đã ba lần được các cơ quan an ninh sát hạch.
- Anh đừng nói nữa và đưa ngay chiếc áo khoác cho em! Nàng nói lớn vui vẻ cố che giấu nỗi đau trong lòng. Bây giờ em hiểu rồi! Em thì có thể vứt cho bất cứ tài xế tắc xi nào cũng được, còn anh thì không thể làm như thế vói tương lai của thị trường chung, phải không? Thế thì em sẽ cho anh thấy em không cần xe tắc xi mà cũng cóc cần anh chàng Fritz được chứng nhận bởi các cơ quan an ninh tình báo, em sẽ tự đi xe điện ngầm về nhà. Còn sớm chán.
Rainer vẫn còn nắm mấy ngón tay nhỏ bé của Justine. Đột nhiên nàng kéo tay Rainer áp lên môi rồi hôn thật nhẹ.
- Ôi! Rainer, em không biết sẽ làm gì khi thiếu vắng anh!
Ông đứng lên đút tay vào túi quần rồi đi vòng qua bàn ăn và vịn lưng ghế của Justine.
- Anh là người bạn thân thiết của em, Rainer nói. Bạn bè là như thế, chúng ta không thể thiếu nhau được.
Chia tay Rainer, Justine trở về phòng trọ của mình với tâm trạng trầm lặng sau đó tỏ ra chán nản, xuống tinh thần. Tối nay, gặp Rainer, cả hai đi sâu vào chuyện riêng tư nhiều hơn mọi khi dù không có chuyện gì ra chuyện gì, ngoại trừ việc Rainer nghĩ rằng mẹ nàng già rồi đang rất cô độc và theo ông, nàng nên về Drogheda. Anh ấy đề cập đến một cuộc thăm viếng, nhưng phải chăng như thế là anh ấy muốn nói đến một sự trở về vĩnh viễn. Thái độ của anh ấy cho thấy xưa kia tình cảm của Rainer đối với nàng như thế nào, thì đó cũng chỉ là những gì thuộc về quá khứ. Rõ ràng, anh ấy không muốn làm sống lại những tình cảm đó. Nhưng, thế thì tại sao chín tháng trước đây anh ấy xuất hiện lại trong cuộc đời nàng làm gì? Có phải vì thương hại? Vì cảm thấy phải lay động nàng để nàng chịu trở về với mẹ hay là anh ấy đã hứa điều dó với Dane? Rainer rất thương Dane, làm sao biết được họ đã nói gì với nhau lúc vắng nàng. Biết đâu Dane đã nhờ Rainer trông chừng nàng và nay anh thấy thực hiện lời hứa? Đúng, có thể đó là câu trả lời. Tất cả những ý tưởng lẫn lộn làm Justine rơi nước mắt; nàng khóc một cách đau xót, sau đó nén xuống được và tự trách móc sự ngu ngốc của mình. Nằm lăn qua lăn lại vẫn không ngủ được, lấy sách ra đọc vẫn thế. Khi ánh sáng yếu ớt và buồn tẻ của bình minh xuyên qua rèm cửa sổ, Justine ngồi vào bàn viết, lòng tê tái, nghe xa xa tiếng động cơ qua lại, cảm nhận với đủ tất cả giác quan sự ẩm ướt, vắng lạnh của buổi sáng sớm như thế. Đột nhiên, ý nghĩ trở về Drogheda nghe như tuyệt vời, trong lành và dịu dàng.
Justine cầm lấy một trong những cây viết màu đen và bắt đầu những dòng thư cho mẹ, nước mắt khô dần.
Con rất mong mẹ hiểu tại sao con không trở về nhà từ khi Dane mất, nhưng dù cho mẹ có suy nghĩ gì đi nữa, con biết mẹ sẽ rất vui lòng khi hay tin con có ý định chuộc lại sự vắng mặt ấy bằng cách trở về nhà vĩnh viễn.
Vâng, mẹ đọc đúng đấy. Con sẽ trở về nhà thật sự. Mẹ ơi, mẹ có lý - đã đến lúc con cảm thấy thiếu Drogheda. Lâu nay con muốn bay bằng chính đôi cánh của con và con đã nhận ra rằng cũng chẳng đi đến đâu. Lê gót từ sân khấu này sang sân khấu khác trong suốt tháng năm còn lại của cuộc đời để làm gì? Ở đây có gì cho con người sân khấu? Con cần một cái gì chắc chắn, thường xuyên, lâu dài hơn, cho nên con sẽ trở về Drogheda, nơi đây sẽ cho con tất cả những thứ đó. Không còn những giấc mơ mây khói nữa. Biết đâu? Có thể con sẽ chọn Boy King nếu anh chàng đó còn muốn cưới con. Cuối cùng cuộc đời con sẽ có một ý nghĩa, thí dụ cho ra đời cả một bộ lạc nhóc con rừng rú của miền Tây Bắc. Con mỏi mệt rồi, thưa mẹ, mỏi mệt đến mức con không biết nói gì và còn có thể tâm tình với mẹ những gì con cảm nhận được hay không.
Tóm lại, con sẽ đề cập vấn đề này một kịp khác. Những buổi trình diễn Lady Macbeth đã kết thúc và con chưa ký lại hợp đồng nào cho mùa tới. Như vậy nếu con chào từ biệt sân khấu sẽ không ai buồn phiền. Luân Đôn đầy rẫy những diễn viên như con. Ông bầu Clyde có thể tìm người thay con trong vài phút, còn mẹ thì không thể thay con được. Con rất ân hận là phải chờ đến tuổi ba mươi mốt mới hiểu điều đó.
Nếu Rain không giúp cho con thấy rõ con hơn thì chắc con phải chờ một thời gian khá lâu nữa; nhưng anh ấy là người có trực giác mạnh dù chưa biết mẹ nhưng hình như anh ấy hiểu mẹ hơn cả con. Tất nhiên, người ta cho rằng khán giả vẫn thấy rõ toàn cảnh của một vở diễn hơn là diễn viên. Điều này đúng với anh ấy, nhưng con phát chán thấy anh ấy đứng từ trên cao để giám sát cuộc đời con. Hầu như anh ta tự cho rằng mình mắc nợ đối với Dane hoặc muốn giữ lời hứa vì Dane. Thế là anh ấy làm cho con bực mình vì luôn xuất hiện trong cuộc sống của con. Thế nhưng cuối cùng cũng lạ, con hiểu ngược lại rằng chính con mới là người quấy rầy anh ấy. Nếu con trở về Drogheda thì món nợ và lời hứa của anh ấy coi như được xóa đi, phải không mẹ? Dù sao anh ấy cũng sẽ vui vì con đã tránh cho anh ấy phải đi lại bằng máy bay liên tục.
Ngay khi chuẩn bị xong xuôi, con sẽ viết thư cho mẹ lần nữa để báo cho mẹ biết ngày con về. Trong khi chờ đợi, mẹ hãy nhớ đến cách yêu thương quái đản của con đối với mẹ.
Chương 44
Từ biệt Rainer bằng một lá thư giữa lúc lòng tan nát vì đau buồn và xúc động là việc quá dễ. Hơn nữa Justine cũng đã điên tiết lên và thích thú với ý nghĩ phải hành hạ cả hai - tôi đau khổ, thì anh cũng phải đau khổ, đó là lẽ công bằng. Nhưng lần nay, một lá thư từ biệt bình thường vẫn chưa đủ đối với Rainer. Như thế là phải cùng đi ăn tối ở một nhà hàng mà cả hai đều quen thuộc. Rainer không đề nghị gặp tại nhà anh ta ở Park Lane, điều đó tuy làm Justine thất vọng nhưng không làm cho nàng ngạc nhiên. Đúng rồi, anh ấy muốn cuộc chia tay có sự chứng kiến lạnh lùng của Fritz. Anh ấy không muốn có chuyện bất ngờ.
Đặc biệt tối nay, Justine chú ý ăn mặc theo sở thích của Rainer. Con quỷ ám lâu nay xúi giục Justine ăn mặc loè loẹt với màu vàng cam đã buông tha nàng. Vì Rain thích phong cách đơn giản, nên nàng mặc một chiếc robe dài chấm đất bằng loại vải xoa tím, cổ hẹp và tay dài. Một chiếc kiềng vàng uốn xoắn với những hạt trai và hồng ngọc, hai cổ tay mang hai chiếc vòng cùng màu. Nhưng tóc thì khủng khiếp - nàng cảm thấy thế - Tóc Justine không bao giờ chịu nằm ngay ngắn như ý thích của Rainer. Nàng trang điểm hơi đậm một chút để giấu đi nét mệt trên gương mặt. Thế là xong, với điều kiện anh ấy không nhìn quá gần.
- Em đã nhận được thư trả lời của mẹ chưa? Rainer hỏi lễ độ
- Chưa, thật ra em cũng không có ý chờ. Mẹ em chắc chắn không còn lời nào để nói lên sự vui mừng.
- Ngày mai em có muốn Fritz đưa em ra phi trường không?
- Cảm ơn anh, em có thể đi tắc xi, nàng trả lời khô khan. Em không muốn nhờ đến người phục vụ của anh.
- Anh họp suốt ngày nên Fritz đi với em không gây phiền hà chút nào cho anh cả.
Justine hơi lớn tiếng.
- Em đã nói với anh là em đi tắc xi!
- Em hét lên vô ích, Justine à. Ông nói, chân mày nhíu lại - Anh chìu em.
Một buổi ăn tối buồn tẻ và chán nản! Chấm dứt sớm là tốt!
- Anh có thấy phiền không nếu chúng ta về bây giờ? Nàng hỏi. Em nhức đầu ghê gớm.
Đến góc đại lộ và ngõ cụt nơi Justine ở, Rainer bảo Fritz cho xe chạy vòng khu nhà. Justine bước xuống, Rainer nắm nhẹ khuỷu tay nàng một cách lịch sự và dìu nàng đi, chỉ vô tình chạm phớt qua người Justine. Trong cái ẩm ướt buốt giá của cơn mưa phùn Luân Đôn hai người đi chầm chậm trên đoạn đường lát đá, tiếng chân nghe dội thật xa, những tiếng chân buồn và cô độc.
- Justine, chúng ta sẽ nói với nhau lời từ biệt, Rainer buông lời trước.
- Tạm biệt thì đúng hơn, nàng trả lời. Không có gì dứt khoát đâu anh, em sẽ trở về đây hoặc lúc này, lúc khác cũng như em hy vọng anh sẽ có dịp đến thăm Drogheda.
Rainer lắc đầu.
- Không, anh nghĩ có lẽ mình chia tay vĩnh viễn Justine ạ. Anh không nghĩ rằng chúng ta còn cần đến nhau.
- Anh muốn nói rằng anh không còn cần đến em nữa chứ gì? Justine nói như muốn uốn nắn lại ý nghĩ của Rainer. Điều đó không quan trọng, Rain ạ. Em không cần anh phải lựa lời với em, em quen chịu đựng rồi!
Rainer nắm tay Justine, cúi xuống hôn, rồi thẳng người lên, mỉm cười nhìn nàng rất lâu trước khi quay gót.
Về đến nhà, Justine thấy một lá thư nằm trên tấm thảm chùi chân. Justine cúi xuống nhặt bức thư và để rơi chiếc xách tay và chiếc áo khoác xuống đất.
Justine cởi giày tại chỗ, rồi bước sang phòng ngủ. Nàng buông người nặng nề trên một thùng gỗ, cắn môi suy nghĩ, ngồi sững sờ với vẻ mặt vừa rã rời vừa hoang mang, mắt đăm đăm nhìn một bức phác thảo đẹp cân dung của Dane được nàng thực hiện trong ngày lễ phong linh mục. Phải đứng lên đi một vòng qua phòng ăn, có lẽ sẽ dễ chịu hơn. Trên bàn một phác thảo chân dung của Rainer bằng viết chì mà nàng vừa vẽ cách đây mấy tuần. Và một gói thuốc lá. Justine lấy một điếu và đốt, đặt ấm nước lên bếp lò. Bấy giờ chợt nhớ lại lá thư của mẹ cầm trên tay.
Justine đọc trong khi chờ nước sôi. Nàng ngồi vào bàn ở nhà bếp, gạt bức vẽ Rainer rơi xuống đất rồi giẫm lên bằng cả hai chân. Anh không cần đến tôi nữa à? Thế thì tôi cũng chẳng cần anh!
Nàng đọc thư của Meggie.
Justine thương yêu của mẹ,
Như mọi khi, con lại hành động trong một cơn xúc động và với sự vội vã thương lệ, do đó mẹ mong rằng thư của mẹ đến con kịp thời. Nếu trong những bức thư của mẹ gần đây có điều gì đó thúc đẩy con phải có một quyết định đột ngột, mẹ mong con bỏ qua cho mẹ. Mẹ không có ý định gây cho con một phản ứng dứt khoát đến thế. Mẹ nghĩ rằng mẹ chỉ tìm kiếm một chút tình cảm dễ thương nhưng mẹ quên rằng bên dưới cái vỏ bọc ngoài rất cứng ấy của con lại ẩn giấu nhiều sự dịu dàng.
Đúng là mẹ cô đơn, cô đơn khủng khiếp; thế nhưng không phải con về đây là có thể đổi được điều đó. Nếu con chịu suy nghĩ một chút, con sẽ thấy rằng mẹ nói đúng. Con hy vọng làm được gì khi trở về nhà? Con không có khả năng trả lại cho mẹ những gì mẹ đã mất và con cũng không thể hàn gắn lại được nỗi mất mát đó. Sự mất mát ấy không chỉ là của riêng mẹ mà cũng là của con, của cả bà ngoại và của tất cả những người còn lại. Hình như con đang nuôi trong đầu một suy nghĩ hoàn toàn sai, rằng con là người có một phần trách nhiệm về cái chết của Dane. Sự xung động đột ngột của con gây cho mẹ cảm tưởng về hành động hối hận. Đó là tính kiêu ngạo và lòng tự phụ Justine à. Dane là một người đã trưởng thành chứ không phải là đứa bé yếu đuối. Chính mẹ đã để Dane đi mà. Nếu mẹ là con, mẹ cũng rơi vào sự hối hận, phải chịu sự hành hạ tinh thần, tự than trách mình tại sao đã cho phép Dane sống theo cuộc sống mà em con thích. Nhưng mẹ không để mình quanh quẩn với ý nghĩ tự lên án như thế. Không ai trong chúng ta là Chúa và mẹ tin rằng cuộc đời đã dành cho mẹ nhiều điều kiện để hiểu điều đó hơn con. Trở về nhà, con hiến cuộc đời của con cho mẹ như một hy sinh. Mẹ không bao giờ muốn điều đó. Bây giờ mẹ nói thẳng rằng mẹ từ chối. Con sống ở Drogheda không thích hợp, không bao giờ thích hợp. Nếu con chưa hiểu ra ở đâu là nơi thích hợp cho con, mẹ đề nghị con ngồi lại ngay và bắt đầu suy nghĩ một cách nghiêm túc. Đôi khi, con giống như cô con gái bốc đồng không thể hiểu được. Rainer là một người đàn ông rất tốt, mẹ chưa từng gặp ai vị tha như ông ấy. Vì vong hồn của Dane, con hãy ngưng hành động như một đứa con nít, Justine à. Con yêu của mẹ, một tia sáng đã tắt. Với tất cả chúng ta còn lại, đó không thể khác hơn là một tia sáng đã tắt. Con hoàn toàn không thể làm gì được, con hiểu chứ? Mẹ không tìm cách nói dối với con mẹ đang sống vui sướng. Kiếp người không cho phép mẹ dối mình như thế. Nhưng nếu con tưởng tượng rằng ở đây, Drogheda, mọi người suốt ngày chỉ khóc và rên rỉ thì đó là điều sai lầm lớn. Những người ở đây biết hưởng cuộc sống và một trong những nguyên nhân lạc quan ấy là vì tất cả hy vọng một thứ ánh sáng hướng về con. Ãnh sáng của Dane đã tắt vĩnh viễn. Mẹ van con, Justine yêu của mẹ, hãy cố hiểu điều đó và chấp nhận. Hãy trở về Drogheda nếu trong lòng con muốn và khi ấy cả nhà sẽ rất vui mừng. Nhưng con về đây không phải để sống vĩnh viễn, đó chỉ là một hy sinh về phần con, một sự hy sinh vô ích, không có mục đích. Trong nghề nghiệp mà con theo đuổi, nếu con rời xa sân khấu con sẽ trả giá đắt. Con hãy ở lại nơi đã sống, thực hiện một cách xứng đáng sự nghiệp của con trong thế giới mà con đã chọn.
Đau đớn. Không khác những ngày tiếp theo cái chết của Dane. Cùng một nỗi đau dữ dội, không thể tránh. Cùng một sự bất lực đầy âu lo. Không, tất nhiên là không, nàng không thể làm gì hết. Không có cách nào hàn gắn, không có cách nào. Hãy hét lên cho bớt đau khổ! Ấm nước đã sôi! Suỵt, ấm nước, suỵt! Trở thành đứa con duy nhất của mẹ thì ra sao, hỡi ấm nước? Hãy hỏi Justine, cô ta biết. Vâng, Justine biết rõ thế nào là một đứa con duy nhất. Nhưng tôi không phải là đứa con mà bà mong muốn, người phụ nữ già tàn phai, tự giam hãm mình ở một trang trại xa xôi. Mẹ ơi! Mẹ có nghĩ rằng có một đứa con nào lại có thể từ chối trở thành đứa con duy nhất của mẹ mình. Thật là không công bằng khi Dane là người phải chết... Mẹ có lý. Sự trở về Drogheda của con chẳng thay đổi được gì bởi thực tế Dane sẽ không bao giờ sống lại. Một tia sáng đã tắt, và con không thể đốt cháy trở lại. Nhưng con hiểu mẹ muốn nói gì. Ãnh sáng của con luôn cháy trong lòng mẹ, nhưng không phải sáng lên ở Drogheda.
Chương 45
Fritz ra mở cửa, rời bỏ bộ quần áo tài xế màu xanh nước biển rất đẹp, thay vào là chiếc áo gilê bó sát của người đầu bếp.
- Fritz, anh chỉ là người phụ vụ tầm thường của ngài Hartheim hay là người bảo vệ cho ông ấy? Nàng vừa hỏi vừa đưa chiếc áo khoác cho Fritz.
Mặt anh ta lạnh như tiền.
- Ngài Hartheim đang ở trong phòng làm việc thưa cô O'' Neill.
Rainer ngồi nhìn ngọn lửa, người hơi nghiêng về phía trước, con mèo cái Natasha mà Rainer mang về nuôi từ khi Hồng Y qua đời nằm lim dim trước lò sưởi. Khi cánh cửa phòng mở, ông ngước mắt lên, nhưng không nói tiếng nào và cũng chẳng tỏ ra vui mừng gặp lại nàng.
Justine bước vào, đến ngồi dưới đất đối diện với Rainer và ngả đầu lên gối của ông ta.
- Rainer, em hối hận đã làm phí tất cả những năm tháng, nàng thì thầm. Em không làm sao chuộc lại được.
Rainer không đứng lên, không kéo nàng vào lòng, anh ta ngồi xuống đất bên cạnh Justinẹ
- Một phép mầu, Rainer nói.
- Anh vẫn chưa hết yêu em phải không? Nàng mỉm cười hỏi.
- Không, không bao giờ.
- Chắc em đã làm anh đau khổ rất nhiều.
- Không như em tưởng đâu. Anh biết em yêu anh và anh có thể chờ đợi. Anh vẫn tin rằng một người kiên trì rồi cuối cùng thế nào cũng sẽ thắng lợi.
- Thế cho nên anh để mặc em tự vật lộn mình. Anh chẳng có chút buồn lo nào khi báo với anh em sẽ về Drogheda vĩnh viễn, có đúng không?
- Ồ, không phải thế đâu! Nếu chuyện ấy liên quan đến một người đàn ông khác thì anh đã chiến đấu đến cùng. Nhưng còn với Drogheda? ... Một đối thủ quá lợi hại. Ồ, có, có chứ, anh rất buồn lo!
- Em không ngờ rằng đầu óc của anh lại rắc rối đến thế! Tại sao lúc ấy anh không nói một cách đơn giản là anh vẫn còn yêu em? Em thiết tha được nghe câu đó!
- Anh không nói vì nó đã quá rõ ràng, em có thể tự tìm hiểu lấy. Tự em phải nhận ra điều đó chứ!
- Có lẽ em bị mù, một mình em không thấy gì hết, em cần sự giúp đỡ. Cuối cùng thì mẹ em buộc em phải mở mắt ra. Một lá thư của mẹ nằm chờ em ở nhà sau khi em chia tay với anh. Mẹ em khuyên em không nên về nhà.
- Mẹ em là một người phụ nữ tuyệt vời.
- Em biết anh đã gặp mẹ em, Rainer. Lúc nào vậy anh?
- Anh đi gặp mẹ em cách đây khoảng một năm. Drogheda là một trang trại đẹp vô cùng, nhưng đúng là không thích hợp với em, Justine. Mục đích chuyến đi của anh là làm cho mẹ em hiểu điều đó. Em không thể tưởng tượng anh vui sướng đến mức nào khi cuối cùng mẹ đã thấy ra, mặc dù anh không nghĩ rằng các lý lẽ của anh có sức thuyết phục cho lắm.
Justine đưa ngón tay đặt lên miệng Rainer.
- Em cũng thế, em hoài nghi Rain à. Em luôn hoài nghi. Có thể em sẽ hoài nghi mãi mãi.
- Ồ, Justine, anh hy vọng rằng không! Phần anh, không thể có người phụ nữ nào khác hơn. Chỉ có em. Cả thế giới đều biết như thế từ nhiều năm qua. Nhưng những lời tỏ tình chẳng có ý nghĩa gì. DÃN¹ cho anh có hét to lên đến lạc giọng cũng không làm tan đi được những hoài nghi ở em. Vì vậy Justine à, anh không kêu gào tình yêu của em nữa, mà anh sống với tình yêu ấy. Làm sao em có thể nghi ngờ những tình cảm của người hiệp sĩ trung thành nhất của em? Rốt cuộc thì em ở lại nhưng không phải do anh. Rất có thể rồi đây em vẫn phải tiếp tục dựa vào những lời khuyên can, vỗ về của mẹ đấy...
- Em van anh đừng nói thế, nhất là với giọng ấy! Rain tội nghiệp của em, em đã lạm dụng sự kiên nhẫn của anh đến tận cùng! Em xin quỳ xuống trước mặt anh.
- Lạy Chúa, cảm ơn em! Em hạ mình không lâu đâu! - ông nói vui vẻ. - Rồi em sẽ trở lại là em ngay ngày mai thôi.
Sự căng thẳng đã biến mất, cái khó nhất đã qua.
- Anh muốn lúc nào em cũng vẫn là em, vẫn là Justine. Em không được thay đổi một tí nào, dù là một chấm tàn nhang hay một tế bào trong não của em.
Justine vòng tay qua cổ Rainer, những ngón tay luồn vào mân mê mái tóc bạch kim dày của ông.
- Ôi, anh có biết được em đã chờ cái giây phút này như thế nào không? Nàng thì thầm. Em không bao giờ quên.
Chương kết
Bức điện tín được viết như sau...
Con đã trở thành bà Rainer Moerling Hartheims. Lễ cưới tại Vatican. Giáo Hoàng tha hồ ban phép lành các bà vợ muôn năm! Sẽ về nhà tuần trăng mật sớm nhất có thể được, nhưng từ nay gia đình ở châu Âu. Muôn vàn âu yếm của Rain nữa cho mọi người. Justine.
Meggie đặt tờ giấy điện báo xuống bàn, mắt nhìn ra cửa sổ, hướng về phía những đóa hoa hồng mùa thu đang nở khắp vườn. Hương thơm hoa hồng, những rung động hoa hồng; cả những cây bông bụt, cây cọ, cây bạch đàn, và cả cây hoa giấy vốn nhìn cuộc đời từ trên cao.
Vườn hoa đẹp và sống động vô cùng. Nhìn những chồi nụ và những mầm xanh nẩy nở rồi héo tàn; rồi những ước mơ mới lại đến, tiếp tục môt chu kỳ không thay đổi, mãi mãi không hề dừng lại ở nơi kết thúc.
Thế là Drogheda không còn nữa. Vâng, đã đến lúc, thật đúng lúc. Chu kỳ cứ tiếp tục với những người xa lạ. Hình phạt tôi xin chịu một mình, tôi không thể phiền trách ai. Và tôi chẳng luyến tiếc gì.
Hết
Title: Re: Tiếng chim hót trong bụi mận gai (tiếp)
Post by: khoiyeuhoai on 10/11/09, 20:29
Post by: khoiyeuhoai on 10/11/09, 20:29
Tiếng chim hót trong bụi mận gai, chim hót để làm gì, đơn giản là hót thôi chẳng vì gì, chẳng để làm gì cả.