Vậy mới phải - Hồ Biểu Chánh

Started by Sao_Online, 09/11/07, 21:05

Previous topic - Next topic

Sao_Online

VẬY MỚI PHẢI

Ho Van Trung Tự Biểu Chánh

"Duyên hội ngộ, đức cù lao,
Chử tình chử hiếu chử nào nặng hơn"
Nguyễn-Du

I


Trên đời chữ hiếu chữ tình,
Cả hai đều trọng khó gìn vẹn hai.
Đêm thu nương án thơ-đài,
Buồn xem ngoại-sử thấy bài kỳ-duyên.
Triều Lê niên hiệu Thuận-thiên,
Có quan học-sĩ Thanh-Tuyền là danh.
Kinh luân gồm đủ tài-tình,
Vua minh trọng dụng, dân lành chuộng yêu.
Tuổi xanh công cán đã nhiều,
Khi nưng vạt cả, khì điều binh nhung.
Niên cao tóc bạc gối dùn,
Bệ rồng giúp chánh, lòng trung không dời.
Vinh hoa tót bực trên đời,
Bền lòng giữ phận, không lời ngạo ai.
Phước lành trời mới đốc loài,
Con nhà sớm sản một trai nối dòng.
Tên chàng là Lý-thanh-Tòng,
Tuổi vừa hai chín, oai phong khác phàm.
Những khi hội hữu luận đàm,
Phút thi cung kiếm, ai làm cho cân.
Danh thơm tràn nhẩy xa gần,
Lầu hồng các tía, dần dần tương tư.
Thanh-Tòng những nỗi tóc tơ,
Thì cha sẵn có, ước mơ đã rồi.
Đồng-liêu Đô-thống Nhị-Lôi,
Cũng dòng chánh trực, cũng tôi trung thần.
Nền thao lược cửa đai cân [1],
Ngai vàng công chép, hải tần danh bay.
Đường thương mũi kiếm ai tày[2],
Bốn phương bờ cõi, một tay vững bền.
Lửa hương từ thuở bén duyên,
Con trai chẳng có, giữ giềng về sau.
Thấy người có dạ khẩn cầu,
Phật bà cho một gái hầu thần hôn[3]
Tên nàng Lệ-Bích khuê môn,
Tuổi nên hai tám, tiếng đồn thơm xa.
Hương trời sắc nước chói lòa,
Tây-thi thẹn mặt, Hằng-nga hổ mình.
Nhộn nhàng hào kiệt rấp ranh,
Nhị-Lôi đẹp ý, một anh Thanh-Tòng.
Trăm vàng đã lãnh Lý-công,
Thang mây[4] chờ trẻ, chỉ hồng nối xe.
Trai tài gái sắc lăm le,
Tuy chưa chăn gối, giấc hòe vẫn trông.
Trộm nguyền tạc một giải đồng,
Sao dời vật đổi, giữ lòng không phai.

II

Trời xuân lặng lẽ trong ngoài,
Tứ dân [5] vui thú, tam tài yên ngôi.
Trống đền dục dã mấy hồi,
Quần thần tề tựu, đài lôi [6]công đồng.
Vua chọn lựa trước bệ rồng:
« Thanh-Tuyền học-sĩ, có công triều-đình.
Tấn phong Thiếu-phó [7] Văn-minh,
Đông-cung dạy dỗ, giữ gìn hoàng cơ.
Thanh-Tuyền phỉ bấy ước mơ,
Cuối đầu bái tạ, mong nhờ hoàng ân.
Bãi chầu văn võ tặng mừng,
Nhị-Lôi đô-thống, phừng phừng sôi gan!
Dừng chơn nép đứng bên đàng,
Thanh-Tuyền vừa tới, ngó ngang mà rằng :
« Gẫm ông tài nhện trí lằn [8],
Lược thao chi đó, mà thăng công hầu.
Xem ra thì tốt bộ râu,
Công phu chẳng có, ngao đầu [9] cũng không.
Văn-minh để mổ [10] mới công,
Ra ngoài nanh vút, vào trong cột rường.
Thấy lời khí bạo bất lương,
Thanh-Tuyền cũng gượng, kiếm phương đáp lời.
« Tài ông xuất chúng trong đời,
Dễ tôi chẳng biết, dỉ hơi làm gì ?
Lịnh trên phong thưởng chi chi,
Có khi cũng đã, xét suy công rồi.
Thôi đừng hờn giận chi tôi,
Suôi gia lẽ phãi, tài bồi cho nhau »
Nhị-Lôi chẳng xét cạn sâu,
Cứ nài muốn một nhượng trao tước quyền.
Nhiều lời xỉ mạ Thanh-Tuyền,
Lịnh vua chẳng kể, cao niên không vì.
Lý-công tức giận sân si,
Ớm toan trở gót, đơn trì tâu qua.
Nhị-Lôi lửa giận chói lòa,
Nắm tay kéo lại, đá già nhào lăn.
Bá quan can gián lăn xăn,
Kẻ ôm Đô-thống, người dằn Văn-minh.

III

Thanh-Tuyền lần bước về dinh,
Hổ thân yếu sức, tức mình tuổi cao.
Cho đòi công-tử thẳng vào,
Nỗi thù nỗi oán đuôi đầu bày ngay.
Rằng. « công sanh dưỡng bấy nay,
Hội nầy con khá thế tay tẩy hờn.
Người đời danh giá là hơn,
Xấu cha thì cũng xấu dần đến con.
Thảo thân con giữ cho tròn,
Sanh thành nghĩa nặng tày non chập chồng. »
Thanh-Tòng trở gót thơ-song,
Nỗi thù đau đớn, nỗi lòng dở dang
Ví dầu chữ hiếu vẹn toàn,
Chữ tình trắc trở biết toan thế nào ?
Trách trời khuấy khỏa anh-hào,
Chưa gần khiến cách, chưa vào khiến ra.
Chữ tình sánh với thù cha,
Bên tình đã nặng bên cha lại càng.
Chiều xuân dựa án bàng hoàng
Hết thương rồi giận, hết than rồi rầu.
Nghĩ ra chữ hiếu đứng đầu,
Không cha thì có biết đâu là tình.
Động lòng cảm đức sanh thành,
Mang cung đai kiếm một mình ra đi.
Nỗi lòng phú nấy hóa-nhi [11],
Tới đâu hay đó trước suy đặng nào.
Gặp quan Đô-thống lai trào,
Thanh-Tòng cản lộ gởi trao đôi lời.
Trách người chi tệ bấy người,
Ỷ mình mạnh sức hiếp người yếu tay.
Tuy là gánh nặng hai vai,
Cù lao báo trước, duyên hài liệu sau.
Thù cha dễ lấp ngơ nào,
Xin người đấu sức thấp cao cho tường.
Ví dầu lâm lấy mũi thương,
Sanh thành trọn đạo, sâm thương [12] cam lòng.
Nhị-Lôi nhắm dạng Thanh-Tòng,
Thốt rằng : « Như vậy thiệt dòng hùng anh.
Đông đào tây liễu duyên lành,
Một nguyền chẳng thẹn, ba sanh [13] trọn bề.
Khuyên chàng Đông-bích trở[14] về,
Thừa-long[15] phải khoản, nào chê bai gì.
Đèo bồng cung kiếm mà chi,
Tài đây sức đấy dám bì hay sao ? »
Sanh rằng : « Tài đợi tuổi nào,
Đó đây ra sức thấp cao mới tường.
Nhị-Lôi nghe nói bẩ  gan,
Dằn lòng chẳng đặng đề[16]  chàng thích[17]  ngay.
Đôi bên đề kiếm giao tay,
Hùm ngồi góc núi rồng bay giữa trời.
Lược thao bày bố đua tài,
Bên lo thủ thế bên thời phá vây.
Vừng hồng vừa gát hiên tây,
Sa cơ Đô-thống bị tay Thanh-Tòng.
Tiếc thay danh giá trào trung,
Rủi ro một phút thoát vòng trần-gian.

IV

Phòng thêu Lệ-Bích điểm trang,
Mắn tin tranh đấu kinh hoàng ngã lăn.
Đao thương bạc bẽo khôn ngăn,
Cội trung chẳng nể xích thằng[18] chẳng kiêng.
Trông chừng chiến-địa thành biên,
Giọt châu lã chã, gót tiên bôn trần.
Giữa đường xảy gặp tình-nhân
Nửa mừng nửa sợ nóng phừng hỏi han.
Thanh-Tòng khép nép bên đàng,
Rỉ rằng : « Lưỡng hổ nhứt thương ấy lề.
Phụ thù mang rất nặng nề,
Ghét thương tự ý, khen chê mặc tình.
Cho hay trời biển minh minh,
Làm con ai cũng là tình ấy thôi.
Bây giờ việc đến thế rồi,
Thân nầy còn kể tài bồi nữa chi.
Ví dầu chẳng dạ xét suy,
Gươm vàng xin đó dùng đi rữa hờn.
Giết người người giết cho cân,
Dám còn mong mõi Tấn Tần cùng ai. »
Dứt lời gươm báu trao tay,
Ngẩn ngơ Lệ-bích vắn dài dọt sa.
Tưởng thôi đến cội thung già,
Dật dờ hồn quế, thiết tha lòng vàng.
Trông người dạ lại kinh hoàng,
Xót xa vì oán, ngổn ngang vì tình.
Đao vàng muốn đứt chỉ mành,
Thù cha vẹn vẽ duyên lành dỡ dang.
Nghĩ thôi giọt lụy chứa chan,
Đài lôi đề nẻo, bệ vàng quì tâu.

V

Lê-Hoàng lóng hết đuôi đầu.
Chiếu đòi Thiếu-Phó ứng hầu cha con.
Phán : « Công Đô-thống tày non,
Muôn ngàn lầm lỗi cũng còn trẩm đây.
Có đâu riêng lịnh ra tay.
Thanh-tòng tội đáng phân thây pháp tràng. »
Lệ-nương tâu trước bệ vàng :
« Muôn đều tội lỗi một quan Thanh-Tuyền,
Ỷ mình lớn tước cao quyền,
Xuối con giết kẻ không kiên phép triều.
Cho hay luật sẵn có điều,
Xưa nay : mủi vạy cứ theo lái đòn. »
Thanh-tuyền trong dạ héo don.
Nghe lời như mở lòng son vui mừng.
Rằng : « Lời Lệ-nữ cân phân,
Bao nhiêu tội lỗi tại chưng[19] lão già.
Pháp tràng xin khiến đem ra,
Cái thân vô dụng lưu mà ích chi.
Mong nhờ lượng thánh rộng suy,
Thứ tha con trẻ một khi lỡ lầm.
Cũng là một đứng hiếu tâm,
Cũng là đáng mặt lãnh cầm binh nhung. »
Lê-Hoàng còn hãy bần dùng,
Ải ngoài phi báo trùng trùng binh vây.
Hung-nô kéo tới dầy dầy
Xô thành cướp luỹ thế tày[20] chẻ tre.
Trấn quan ngăn cãn tư bề,
Bị thương chiến-địa hồn về cõi tiên.
Lê-Hoàng nghe điến điền điên,
Phán rằng : « Đô-thống sanh tiền có đâu.
Thanh-Tòng khoe sức lược thao,
Cầm binh xuất trận thế nào sẽ hay.
Ví bằng thắng trở về đây,
Còn như thất bại phơi thây chiến-tràng. »

VI

Thanh-Tòng bái tạ ngai vàng,
Đề binh ngũ vạn ải-quan băng chừng.
Cung thương người ngựa rần rần,
Năm ngày tới ải kíp[21] phân trận đồ.
Ma-vương thống lãnh Hung-nô,
Hỏi thăm tiểu-tướng danh mô cho tường.
Bảo rằng : « Tiểu-tuớng đề thương,
Thanh-Tòng chữ đặt đường đường oai nghi.
Trong thi lập, ngoài song phi,
Binh gia đông nức, tinh kỳ nghiêm trang. »
Ma-vương nghe báo cười vang,
Thốt rằng : « Nhụ tử cả gan nộp mình. »
Lịnh truyền phát pháo xuất binh,
Mười muôn quân sĩ mỡ thành xông ra.
Đôi bên nổi trống dóng la,
Lửa ngời gươm báu mưa sa tên thần.
Kim ô[22] chen núi lấn lần,
Thanh-Tòng điểm tướng mười phần còn ba.
Binh triều mấy đạo trông ra,
Tốp liều tử chiến, tốp đà vỡ tan.
Thanh-Tòng dòm thấy câm gan,
Đề thương khóa mã[23] chiến tràng xông vô.
Tư bề binh tướng Hung-nô,
Một thân bao đởm , trận đồ đột xông.
Lại qua dườngthể đồng không,
Man-binh trông thấy oai hùng vở tan.
Ma-vương giục ngựa cãn đàng,
Kẻ siêu vớt nhấu, người thương đâm đùa.
Đôi đàng chưa rõ hơn thua,
Thanh-Tòng hồi mã bắn đùa Ma-vương.
Hờ cơ chẳng kịp trỡ đương,
Bị tên Ma-tướng chiến trường bó tay.
Thanh-Tòng bắt đặng đầu thây,
Đốc quân thừa thắng rượt vày Hung-nô.
Bại binh sức quả thế cô,
Tìm đàng tị tử cơ đồ kể chi
Hãi hùng trong lúc loạn ly,
Nửa thì thoát khỏi nửa thì qui lai[24].

VII

Thanh-Tòng đắc thắng vui thay,
Đặt quan trấn ải định ngày ban sư.
Lê-Hoàng báo thiệp đặng tờ,
Sắp bày diễn yến đợi chờ khao quân.
Thanh-Tòng danh giá lẫy lừng,
Trên vua khen ngợi, dưới dân kính nhường.
Vào chầu nạp gả Ma-vương,
Lịnh vua dạy dẫn pháp trường phân thây.
Cho đòi Lệ-Bích phán ngay,
Thanh-Tòng tội ấy công nầy cũng ngang.
Trẩm đà phóng xả cho chàng,
Lại phong Đốc-tướng hiển vang mọi bề.
Khuyên nàng thôi chớ chấp nê,
Chĩ Tần tơ Tấn sớm xe duyên hài.
Lệ-nương quì trước kim-giai,
Tuy vui màu quí không phai sắc hờn.
Trông người nhớ chữ keo sơn,
Nhớ người lại nghĩ nguồn cơn thêm phiền.
Tâu rằng : « Thù bất cộng thiên,
Lòng nào mà nỡ kết duyên cho đành.
Trời kia đã phụ lòng thành,
Thảo thân khôn trả, chỉ mành xe lơi.
Cái đời còn kể chi đời,
Thà liều một thác cho người hiển vang. »
Rút ra một ngọn đao vàng,
Đâm ngay vào ruột ; bá quan kinh hoàng.
Thanh-Tòng vội đỡ lấy nàng,
Thì là thiếp thiếp hồn nương mây vần.
Cả trào văn võ trân trân,
Tiếc lòng hiếu nghĩa thương thân liễu bồ.
Lê-Hoàng phán trước trào đô,
Chọn ngày tống táng yên mồ Lệ-nương.

VIII

Thanh-Tòng tấc dạ bời bời,
Rơi châu không dứt, nghẹn ngào khó phân.
Nhìn cha thêm tủi muôn phần,
Nhớ nàng oan thác ruột dần như dưa.
Ngai vàng vội vã quì thưa,
Nhờ ơn Thánh-Đế sống thừa là may.
Lệ-nương tự ái hôm nay,
Ấy là cũng tại thân này mà ra.
Chết theo nàng, vậy mới là,
Ngặt vì ơn chúa, nợ cha nặng nề.
Lượng trên dầu chẳng chấp nê,
Đoái thương tình mọn, không chê bất tài.
Binh ròng ba vạn trao tay,
Lãnh đam[25] Trung-quốc ra oai côn kình[26]
Ví dầu thắng trận hồi kinh,
Thảo ngay đền đáp, thinh danh lại càng.
Bằng như thân bỏ chiến-tràng,
Tóc tơ vẹn giữ, đá vàng không phai.
Lời trung nghĩa, giọng bi ai,
Quần thần văn võ vắn dài lụy sa.
Lê-Hoàng dạ ngọc thiết tha,
Chọn binh bèn cấp cho ba muôn người.
Thanh-Tòng bái tạ chơn lui,
Lạy cha lên ngựa tách vời chơn mây.
Gẫm âu máy tạo vần xây,
Hiệp tan đã định, vơi đầy đã phân.
Đã cho tài sắc lộn trần.
Cho rồi lại khiến Tấn Tần hai phương.
Tích xưa chép để đôi trương,
Con người lấy đó mà lường phải chăng.
Nôm na ít vận lằn nhằn,
Quê mùa nào dám khoe văn chương gì.

CHUNG

-----------
[1] áo mão nhà quan
[2] bằng
[3] sớm tối
[4] thang mây : đường công danh
[5] tứ dân : 4 giai cấp trong dân chúng : sĩ, nông, công, thương ; tam tài : 3 giới của thiên địa : trời, đất, người.
[6] Đài lôi : xin hiểu là lôi đài, tức lầu trống, nơi vua truyền khẩu hịch sau tiếng trống lịnh. Không riêng gì HBC mà nhiều văn gia đồng thời như Đào Trinh Nhất - người Bắc sống ở Nam - thỉnh thoảng cũng dùng văn phạm « mới » của Hán Việt, thay vì văn phạm cổ Hán.
[7] Thiếu phó : 1. chức quan cửu khanh ; 2. thầy của thái, hoàng tử
[8] tài bằng con nhện, trí bằng con thằn lằn
[9] ngao đầu: người đỗ đầu một cuộc thi cấp đại học, 1er  lauréat du concours d'une académie
[10] ta, mình
[11] một cách gọi trời
[12] sâm, thương : tên hai vì sao đối nhau trong khóm nhị thập bát tú, nghĩa bóng : sự ngăn cách
[13] ba kiếp người=lâu dài như tình nghĩa vợ chồng
[14] Đông Bích: vách phía đông, chữ lấy ở trong thơ của Trương Thuyết "Đông bích đồ thư phủ" nghĩa là kho tranh và sách ở vách phương đông. (xem Khóc bạn, Nguyễn Khuyến), ở đây : khuyên chàng rể tương lai về nhà đọc sách
[15] cỡi rồng : cưới gả
[16] nắm
[17] đâm
[18] dây đỏ, tơ hồng: mối duyên
[19] nguyên nhân
[20] bằng, sánh với
[21] tức khắc
[22] mặt trời
[23] cầm thương cỡi ngựa
[24] đầu hàng
[25] đảm nhận gánh vác
[26] côn: thứ cá to, kình: cá voi
Đi dân nhớ, ở dân thương!

SEO ngành nghề, cỏ nhân tạo, chuyên sửa máy rửa bát tại hà nội, chuyên sửa chữa tivi tại nhà ở Hà Nội, đặt hàng tượng phật đồ thờ tâm linh làng nghề Sơn Đồng | Điện lạnh Bách Khoa Hà Nội