TUYỂN TẬP TRUYỆN NGẮN 2 - Không đọc hơi phí

Started by Sao_Online, 09/10/07, 09:11

Previous topic - Next topic

Sao_Online

HẠNH PHÚC (Hoàng Ngọc Hà)

    Tôi sinh ra trong một gia đình hạnh phúc, cha mẹ tôi đã sống bên nhau ba mươi năm, theo trí nhớ của tôi thì hình như chưa bao giờ nghe thấy họ cãi cọ hoặc giận dỗi nhau. Vậy mà không hiểu sao cảm giác giả giả cứ ám ảnh, y như một người đàn bà đẹp hoàn hảo quá thì có vẻ như họ là sản phẩm của mỹ viện.

    ẤN tượng nặng nề ấy khiến tôi kinh hãi mỗi khi nghĩ đến chuyện lập gia đình, mặc dù tôi đã từng yêu say đắm một cô gái duyên dáng dịu dàng. Nhưng rồi nàng chẳng đủ kiên nhẫn chờ đợi sự quyết đoán của tôi.

    Nàng khóc nức nở trên vai tôi: "Chúng mình yêu nhau đã lâu mà sao anh thờ ơ thế?". Tôi lắp bắp trả lời: "Anh yêu em vô cùng, anh chỉ sợ mất em". Nàng thiết tha hỏi: "Thế tại sao anh không cưới em đi?".

    Tôi run lên vì hạnh phúc và đau đớn nghe em hỏi vậy, biết nói sao cho phải đây? Em chân thành quá, thật thà quá, còn tôi thì rối bời: "Anh sợ, anh sợ lắm". Em ngạc nhiên: "Anh sợ điều gì mới được chứ? Cả hai gia đình đều quý chúng mình cơ mà?". Tôi ngu dại thốt lên: "Cưới nhau thì tình yêu sẽ tan biến mất, đó là điều anh sợ nhất". Nàng ngẩng phắt nhìn tôi với đôi mắt kinh hoàng, rồi nàng dằn giọng nói: "Anh là thằng điên, em không cần thứ tình yêu ấy của anh".

    Nàng quay ngoắt bỏ chạy, và từ đấy nàng chẳng bao giờ gặp lại tôi nữa. ít lâu sau tôi nghe tin nàng lấy chồng, và gia đình nàng rất êm ấm.

    Còn tôi, tôi vẫn yêu nàng, có lẽ càng yêu sâu sắc hơn, bền chặt hơn và tôi nghĩ có thể mãi mãi yêu nàng.

    Không hiểu điều gì đã ngăn cản tôi tìm đến hạnh phúc gia đình. Nhiều lần mẹ tôi đã giục dã: "Này con, đã gần ba mươi rồi đấy, đến bao giờ mới chịu lấy vợ có cháu cho mẹ bế?". Tôi đột nhiên buột ra câu hỏi dớ dẩn: "Mẹ ơi, mẹ có hạnh phúc không?". Mẹ tôi lặng đi rồi lẩm bẩm: "Thế con thấy gia đình ta không hạnh phúc sao?". Tôi lẩn thẩn trả lời: "Gia đình ta êm đềm quá, có lẽ thiếu ngọn lửa tình yêu nên mới phẳng lặng như thế?. Mẹ tôi sững sờ buông rơi tấm áo đang vá, phải một lúc sau bà mới nhỏ nhẹ nói: "Mẹ ngẫm ra ở đời này cái Nghĩa quý hơn cái Tình con ạ". Nói xong mẹ tôi chống tay đứng dậy, lưng còng xuống lững thững đi về phòng riêng. Chẳng lẽ hạnh phúc là một gánh nặng?

    Nếu mẹ tôi cư xử với tôi dè dặt như đối với khách lạ thì cha tôi lại thân tình cởi mở với tôi như bạn thân. Hai cha con có thể ngồi đàm đạo suốt đêm về mọi sự trên đời trừ chuyện gia đình. Một hôm tôi hỏi cha: "Thế nào là hạnh phúc hở cha?". Ông cười vỗ vai tôi: "Thế là con trai cha đã bắt đầu quan tâm đến hạnh phúc rồi đấy, cha mừng cho con". Tôi hỏi lại: "Cha có hạnh phúc không cha?". Cha cười cười: "Hạnh phúc tự nơi mình con ạ". Tôi ngơ ngác hỏi lại: "Sao lại thế được?". Cha nghiêm trang nói: "Nếu biết tự bằng lòng thì hoàn cảnh nào cũng có thể hạnh phúc". Thật mập mờ quá, hình như cha tôi muốn lẩn tránh điều gì đó. Biết vậy nên cha con tôi chẳng bao giờ trở lại với đề tài đó nữa.

    Còn tôi vẫn triền miên gặm nhấm mối tình không thành của mình, và nhất quyết không muốn xây dựng một gia đình yên ổn mà lạnh lẽo như cái nhà mồ bằng cẩm thạch thật đẹp đẽ ở nghĩa trang xứ Ðạo quê tôi.

    Có thể đó là hội chứng tâm thần của con người được sống trong một gia đình bão hòa về hạnh phúc???

    Ðể tôi kể chuyện nhà tôi, mọi người thử xem xét có phải đó là một gia đình tuyệt vời không?

    Cha tôi là giáo sư Ðại học Văn khoa, ông chinh phục lòng ngưỡng mộ của mọi người không chỉ bằng danh hiệu Nhà giáo Nhân dân, mà chính là bằng những bài giảng có sức truyền cảm với kiến thức uyên bác và sự rung động tâm hồn. Nhiều nữ sinh viên đã thầm lặng say đắm thầy giáo của mình. Vậy mà cha tôi lấy mẹ tôi, một người đàn bà học vấn tầm thường mà dung nhan cũng chẳng có gì đặc sắc, tính nết lại trầm lặng. Thực ra tôi không hiểu hai người có yêu nhau không, họ đối đãi với nhau trân trọng như khách quý.

    Tôi có hai đứa em gái song sinh xinh xắn vui vẻ. Cha tôi yêu quý chúng bởi các em tôi là niềm vui của gia đình, chúng tếu táo đùa nghịch suốt ngày. Mẹ tôi chăm sóc hai đứa cứ như hầu hạ những nàng công chúa. Tôi nghĩ vậy với đôi chút hậm hực, bởi mẹ tôi lạnh lùng xa cách tôi cứ như tôi là con riêng của cha. Nhưng tôi chẳng nhỏ nhen ghen tị, tôi cũng yêu các em tôi với tình thương bao dung của người anh cả, chấp gì cái thói nhõng nhẽo của bọn con gái.

    Mẹ tôi có biệt tài nấu ăn rất ngon, mỗi bữa cơm mẹ thường sung sướng ngắm nhìn cha con tôi ăn ngon lành. Cha gắp một miếng thức ăn nhấm nháp rồi gật gù nói: "Cứ như thế này thì chẳng thể bỏ cơm nhà mà đi ăn quà được". Mẹ tôi tủm tỉm cười: "Ông cứ việc ăn quà, tôi có cấm ông đâu". Hai đứa em tôi ré lên cười: "Cơm là vợ, bồ là quà. Ai ai cũng phải ăn quà, ai ai cũng phải về nhà ăn cơm".

    Tôi chợt nghĩ phân vân cha có người yêu không nhỉ? Chẳng lẽ một người hào hoa phong nhã như thế mà sống khô khan như vậy sao?

    Gia đình tôi là một gia đình hạnh phúc, nhất định là thế, bởi vợ chồng rất mực chung thủy với nhau, con cái đều thành đạt cả, mọi người đều tự hào về nhau.

    Thế mà tôi vẫn không tin cái hạnh phúc đó, càng chẳng muốn mình sẽ có một gia đình như thế. Vậy thì tôi mong muốn điều gì mới được cơ chứ?

    Chính cái sự mung lung đó đã kìm giữ tôi với cuộc sống độc thân. Trái lại hai đứa em gái của tôi thì yêu đương cuồng nhiệt và thành lập gia đình rất sớm.

    Mỗi đứa đều có một gia đình sung túc, chúng sống phong lưu vui vẻ, nhưng mà cãi cọ giận dỗi nhau suốt ngày, có khi còn định làm đơn ly dị nữa, vậy mà vợ chồng vẫn không thể rời nhau được một ngày.

    Mẹ tôi cứ lắc đầu phàn nàn: "Yêu nhau lắm, cắn nhau đau".

    Tôi cứ ngầm nghĩ mãi về câu nói của mẹ.

** *

    Năm cha tôi bước vào tuổi sáu mươi ba, ông bị một cơn đột quỵ do nhồi máu cơ tim. Ông vẫn tự hào về sức khỏe của mình có thể làm việc thâu đêm suốt sáng mà vẫn tỉnh táo, chỉ phải tội hút thuốc lá liên miên. Mỗi buổi sáng mẹ tôi đem đổ một gạt tàn đầy ắp mẩu thuốc. Thế rồi bây giờ hậu quả đã ập đến một cách bất ngờ.

    Tối hôm ấy cả nhà đang ngồi xem ti-vi, trên màn hình hiện lên hình ảnh một cô giáo đã luống tuổi nhưng vẫn còn rất đẹp, họ đưa tin cô vừa được phong tặng danh hiệu Nhà giáo Ưu tú. Tôi bật dậy reo lên: "Cô Mai, giáo viên chủ nhiệm của con kia kìa". Cha tôi cũng nhổm dậy rồi bỗng từ từ xỉu đi trên ghế. Hai đứa em gái của tôi cùng xô đến lay gọi và kêu khóc ầm ĩ, còn tôi thì đứng sững như trời trồng. Mẹ tôi điềm tĩnh gạt hai đứa ra xa, từ tốn nói: "Ðể yên, đừng lắc như thế nguy hiểm lắm, gọi điện thoại cấp cứu đi". Mẹ nhẹ nhàng đỡ cha nằm xuống đi văng, lấy một viên thuốc trong túi áo cánh ra đặt dưới lưỡi cha, rồi xoa nhè nhẹ lên ngực một cách kiên nhẫn. Lúc đó tôi không hiểu tại sao mẹ lại sẵn thuốc như thế, chẳng lẽ mẹ đã tiên đoán được bệnh tình của cha sao? Sau này tôi mới biết mẹ đã bị suy động mạch vành từ lâu, nhưng bà lặng lẽ chịu đựng một mình. Khi bác sĩ cấp cứu đến, họ khen mẹ tôi đã xử lý tình huống bệnh tình của cha tôi rất kịp thời, nếu không thì khó mà cứu được. Cha đã hơi hồi tỉnh mở mắt ngơ ngác nhìn mọi người. Hai đứa em gái vô tích sự của tôi lúc này lại hơn hớn tếu táo nói với cha: "Suýt nữa thì cụ đã trốn đi Văn Ðiển rồi". Ðến nỗi cha phải bật cười, và hai tay vội ôm ngực đau đớn. Tức giận quá tôi đuổi hai đứa ra khỏi phòng. Mẹ tôi giúp các bác sĩ làm các công việc sơ cứu mãi cho đến sáng thì tạm ổn mới chuyển đi bệnh viện. Tôi nhìn mẹ tôi vừa khâm phục vừa băn khoăn, tại sao bà lại có thể lạnh lùng bình tĩnh đến thế? Bà cứ như là một y tá giỏi chứ không phải là người vợ yêu thương chồng.

    Bệnh viện bảo cha tôi phải nằm viện từ hai đến ba tháng mới có thể phục hồi được, bác sĩ dặn dò mẹ tôi: "Quả tim của ông nhà bây giờ như quả trứng dập phải gượng nhẹ, nếu không thì sẽ vỡ tung ra đấy".

    Mẹ tôi ở lại bệnh viện suốt ngày đêm với cha. Ðêm đêm bà không dám ngủ, mắt lúc nào cũng chăm chăm theo dõi màn hình nhịp tim. Còn ban ngày lại tất bật lo thuốc men, ăn uống cho cha. Cái bệnh tim này rất kỳ lạ, sau cơn đau đột ngột ban đầu, bây giờ lại chẳng còn dấu hiệu đau đớn nào, vậy mà phải nằm bất động, không được tiếp khách, thậm chí cấm cả đọc sách, và chỉ được ăn tí chút một. Bởi vậy mà cứ một giờ đồng hồ lại ăn một lần, mà mỗi lần chỉ được ăn nửa cốc sữa hoặc nửa bát xúp. Ðang ốm mà cha tôi vẫn đùa: "Cha bây giờ như trẻ sơ sinh, mẹ các con lại phải nuôi con mọn một lần nữa".

    Hàng ngày tôi vào thăm cha vào lúc hết giờ làm việc. Tôi ở lại bệnh viện vài tiếng đồng hồ để mẹ tôi nghỉ ngơi chốc lát. Những lúc đó cha con tôi lại rì rầm tâm sự, bởi bác sĩ cấm nói nhiều sợ mệt tim. Cha tôi thường nắm chặt tay tôi "Con là người bạn tâm đắc nhất của cha". Quả có thế, ông vừa là cha vừa là bạn vong niên của tôi. Cha con tôi quấn quít nhau từ thuở tôi còn đi học mẫu giáo cho đến bây giờ, lúc nào hai cha con tôi cũng có chuyện để kể cho nhau nghe cùng tìm ra những nhận xét độc đáo nào đó để rồi cùng thú vị tán thưởng nhau.

    Một buổi chiều rảnh rỗi công việc, tôi vào bệnh viện sớm để mẹ tôi được nghỉ dài hơn. Vừa đến phòng bệnh tôi nghe cha mẹ tôi đang nói chuyện, nên tôi ngồi xuống ghế ở hành lang, tôi không muốn ngắt quãng câu chuyện của hai người.

    Cửa phòng he hé nên tôi nghe rành rọt câu chuyện của cha mẹ tôi.

    Cha tôi nói: "Suốt đời mình đã tận tâm chăm sóc tôi, nếu không có mình thì tôi chẳng thể làm nên sự nghiệp gì".

    Tiếng mẹ nhỏ nhẹ: "Ông đừng nói thế, tôi biết ơn ông vô cùng. Ông ơi tôi đã mắc tội lớn với ông, hôm nay tôi muốn nói thật mọi điều để ông xá tội cho tôi". Giọng trầm trầm của cha tôi: "Mình đừng nói, tôi biết hết rồi, biết từ lâu. Nhưng tôi cám ơn mình đã đem đến cho tôi một đứa con trai tuyệt vời".

    Tiếng thút thít nghèn nghẹn: "Vậy ư? Vậy ra ông đã cưu mang người đàn bà lầm lỗi này, lại còn đem đến cho đứa con hoang tình cha con ấm áp, tôi xin quỳ lạy tạ ơn trời biển của ông". Tiếng cựa sột soạt. "Ðừng! Mình đứng dậy đi, đừng làm thế".

    Tai tôi ù lên, mắt tôi tối sầm, ngực tôi đau tức, tôi vịn tường lần lần đi ra khỏi bệnh viện. Hết cơn choáng tôi phóng xe trên suốt dọc đường đê, rồi tôi đi vòng quanh Hồ Tây, và cuối cùng tôi đi ra bờ sông, lang thang suốt đêm mà đầu óc vẫn chẳng nghĩ ra được cái gì, chỉ ước muốn sao mình biến thành dòng nước để cứ trôi, trôi mãi chẳng bao giờ trở lại nữa. Tôi không dám giáp mặt cha, từ trước đến nay tôi yêu quý ông với tình yêu hồn nhiên của đứa con trai, còn bây giờ hóa ra ông lại là ân nhân của tôi, tôi biết dành cho ông tình cảm nào đây?

    Tôi cũng không muốn gặp mẹ tôi nữa, người mẹ mà tôi hằng tôn sùng như Ðức Thánh Mẫu. Vậy mà suốt đời bà đã lừa dối tôi.

    Tiếng gà eo óc gáy ở xóm ven bãi, mặt sông đã loang loáng ánh hồng, gió ban mai thấm đẫm sương đang tỏa lan mơn man mái tóc bù xù của tôi. Tôi chợt tỉnh lại. Trời ơi! Tôi đã làm gì thế này? Có lẽ cha mẹ tôi đang hốt hoảng lo lắng cho tôi, mà có thể vì thế bệnh tình cha tôi sẽ... Tôi không dám nghĩ tiếp nữa, tôi lao vào bệnh viện.

    Phòng bệnh ngộn lên những máy móc, bình ô-xy, những bóng áo trắng đi lại khẩn trương, mẹ tôi quỳ xuống cạnh giường bệnh, mặt trắng bệch thất thần, mấy đứa em tôi đứng thút thút khóc. Cha tôi nằm thiêm thiếp, vầng trán xanh xao dưới mái tóc bạc lòa xòa. Tôi lao vào hét lên: "Cha ơi". Chợt mi mắt ông nhấp nháy, một tiếng gọi phào ra như hơi thở: "Con trai của cha!". Mọi người xôn xao: "Tỉnh lại rồi". Mẹ tôi ghé sát tai cha tôi nói: "Tôi mời cô Mai đến với ông nhé". Cha tôi lắc đầu: "Ðừng! Gặp cô ấy tim tôi đau lắm". Lặng đi một lúc rồi ông nói tiếp: "Nếu tôi ra đi, bà báo tin cho cô ấy biết". Mẹ tôi rũ xuống như tàu lá héo, nước mắt chan hòa. Cha tôi mỉm cười, đầu ngật ra khỏi gối.

    Vừa lúc đó tia nắng sớm thả một bông hoa mai long lanh trên mặt gối trắng.

** *

    Khi tôi viết chuyện này thì tôi đã cưới vợ và có một cậu con trai kháu khỉnh. Chẳng hiểu tại sao cháu rất giống ông nội. Không giống dáng nét mà giống ở thần thái khí sắc. Cũng điềm đạm mà hóm hỉnh, cũng có nét cười đôn hậu, và ánh mắt trong trẻo hơi buồn buồn.

    Tôi thường đem cháu đến thăm bà Mai, cô giáo năm xưa của tôi, người đã dẫn dắt tôi đi vào con đường khoa học. Nhờ cô mà tôi đã đỗ thủ khoa khi tốt nghiệp phổ thông và được vào thẳng đại học. Sau này nối tiếp đà đó tôi đã bảo vệ thành công luận án Phó tiến sĩ xuất sắc và được chuyển tiếp làm luận án Tiến sĩ.

    Vợ tôi là một người đàn bà hiền hậu. Mẹ tôi yêu quý con dâu hơn con trai của mình. Bao giờ mẹ tôi cũng yêu những người khác hơn yêu tôi.

    Thỉnh thoảng mẹ tôi lại nhắc câu nói thuở trước: "Tình yêu vốn không bền, cho nên phải vun đắp cái Tình thành cái Nghĩa. Ðó là nền tảng vững chắc của một gia đình con ạ".

    Tôi nghiệm ra quả có thế thật!
Đi dân nhớ, ở dân thương!

Sao_Online

TRÒ ĐÙA (Nguyễn Thị Anh Thư)

    Thủy nâng chiếc kính vào đúng vị trí thường đeo trên mắt. Ðất trời bừng sáng, mọi vật như xích lại gần. Cô khẽ lắc nhẹ đầu sang hai bên, mắt vẫn nhìn thẳng đằng trước. Các hình ảnh cô nhìn được trong tầm mắt không hề bị lay động. Không có cảm giác bị chóng mặt. Vậy là tốt rồi. Kinh nghiệm đeo kính cận lâu năm cho biết cô đã chọn được kính hợp với mắt mình. Cửa hiệu kính này đang rất có tiếng. Bây giờ, với cặp mắt kính mới tinh trong veo này, cô lại có thể nhìn thấy rõ nét mặt của từng người đi ngang qua đường.

    Bỗng một cặp trai gái líu ríu dừng lại ngay cửa ra vào của hiệu kính. Người thanh niên có vẻ như là một Việt kiều hoặc một du khách Ðông Nam á đang lúng túng trước đề nghị gì đó của cô bạn gái. Cô ta uốn éo bám lấy eo lưng của người thanh niên, lôi kéo, thúc giục, âu yếm, vuốt ve thản nhiên như xung quanh không bóng người. Cô ta mặc một chiếc quần soóc mini đỏ chót bó chặt hông. Ðôi chân mập mạp ngăm ngăm đi một đôi giầy da đen ngắn cổ, loại đang thịnh hành. Một chiếc áo vàng không khuy buộc thắt ở đằng trước, ngắn đến ngang lưng hở một đoạn ở rốn. Mặt cô ta bự phấn son, mắt tô xanh, cái miệng đỏ chót liến thoắng, nũng nịu - Ôi quen quá!

    Thủy bỗng giật nẩy người như phải bỏng. Cô nép vào cánh cửa một cách không ý thức, như một phản xạ tự nhiên trước nguy hiểm. Loan, cái con mèo cái ấy! Hơn mười năm đã qua rồi, nhưng nỗi đau vẫn còn nguyên chẳng thể chữa lành. Mấy năm qua đắm chìm trong hạnh phúc gia đình cô cứ ngỡ mình đã quên đi dĩ vãng đau đớn. Nào ngờ chỉ một thoáng tình cờ cũng đã khơi dậy tất cả. Vết thương lại toác miệng và trái tim cô lại rỉ máu. Những hình ảnh cũ ào ạt tuôn về. Quá khứ tràn đầy tâm thức.

*
* *

    Chuyện bắt đầu từ hôm cô và Công đi xem các loại thiếp mời, chuẩn bị cho đám cưới sắp tới của họ. Sau một hồi bát phố, họ dừng lại ở Tràng Tiền ăn kem. Kem Tràng Tiền thuở đó ngon có tiếng và đông nghìn nghịt. Thủy đứng trông xe nhìn Công chui vào đám đông chen vai thích cách thể hiện vai trò hiệp sĩ của mình.

    - Này Thủy! Lâu lắm mới gặp - Có tiếng một cô gái gọi giật ngay bên tay, sau một cú đập tay nhẹ vào vai thân thiện.

    Thủy ngoảnh lại nhíu mày tò mò. Một cô gái xinh đẹp nhưng son phấn nặng nề mọc lên trước mặt Thủy. Cô ta mặc rất diêm dúa lòe loẹt, đầu uốn kiểu xù mì.

    - Không nhận ra tớ à? - Cô gái bíu vào tay Thủy xoắn xuýt niềm nở - Loan đây mà.

    - ờ, ờ... à Loan 5c! - Thủy nhớ ra rồi. Cái Loan thô kệch, ù lì, học dốt ngày xưa. Vậy mà nay nó bỗng trở nên xinh đẹp, nhanh nhảu, chải chuốt như lột xác. Hồi đó Thủy học giỏi nhất lớp và chỉ chơi với nhóm "tứ quái" tức bốn đứa học giỏi, thường chia nhau hết các điểm 9, 10 của lớp nên cũng không quan tâm đến Loan mấy.

    - Sao lại đứng đây một mình? - Loan hỏi tự nhiên như thể họ vừa chia tay nhau hôm qua.

    - à, tớ chờ... - Thủy hất hàm về phía đám đông. Vừa lúc đó Công chui ra, hai tay cầm mười que kem vẻ đắc thắng.

    - Chiến lợi phẩm đây! - Anh vẫn thường tự hào về cái tài chen ngang của mình. Nhìn thấy Loan đứng đó vẻ thân mật e lệ bên Thủy, Công hơi sững lại một giây trước ánh mắt cầu thân của Loan rồi điệu đà nghiêng mình chào cô ta. Anh nhún vai, lắc đầu ra vẻ chỉ vì vài que kem vớ vẩn mà anh không được chỉnh chu cho lắm khi ra mắt Loan - Xin thứ lỗi!

    Những cử chỉ điệu bộ của lần đầu Công gặp gỡ Thủy! Linh tính như mách bảo cô một điều gì đó chẳng mấy tốt đẹp. Nhưng Thủy vội gạt đi.

    - Xin giới thiệu với Loan đây là anh Công, chồng sắp cưới của mình. - Rồi quay sang Loan, Thủy nói - Ðây là Loan, bạn học với em từ hồi lớp 5. Em chỉ học cùng có một năm nên từ đó đến nay không gặp lại, Loan đã chuyển sang trường khác... - Phải cố kiềm chế lắm Thủy mới không nói nốt rằng Loan học dốt, bị đúp 3 năm 1 lớp nên không được học tiếp ở trường. Cô cảm thấy không thích cuộc gặp gỡ này.

    - Một tháng nữa chúng tôi làm lễ cưới. Rất vinh hạnh được quý cô nương kiều diễm đến dự ngày vui với chúng tôi. Còn bây giờ thì xin mời - Anh đưa cho Loan ba chiếc kem - Xin chúc mừng cuộc hạnh ngộ của chúng ta ngày hôm nay.

    Thủy hơi ngạc nhiên trước những lời lẽ hoa mỹ cải lương của anh. Mọi khi Công rất ghét những kẻ nói năng uốn éo. Bản năng lại mách bảo cô một điều gì đó nguy hiểm. Nhưng cô cố gạt đi. Cô phải tin anh, chẳng gì thì họ cũng đang chuẩn bị cho đám cưới của mình. Khi chia tay, Công nhận xét: "Con bé đó chỉ được cái mặt, còn nói chuyện thì nhạt hoét, rỗng tuếch lại còn uốn éo. Chân tay thì thô kệch cứ như chân vú Ngò trong AQ. Thẩm mỹ thật kinh khủng đến lố lăng...". Có vẻ như có bao nhiêu nỗi xấu xa Công đổ hết lên cô ta. Thủy cảm thấy hơi hổ thẹn vì hình như mình đã ghen tuông một cách vô lối. Cô muốn chữa lại bất công cho Loan bằng cách bênh vực cô ta.

    - Làm gì mà anh cứ như mẹ chồng xem xét nàng dâu mới thế? Cũng có người thế này thế nọ chứ. Nó bảo rằng đám đàn ông lúc nào cũng muốn ăn sống nuốt tươi nó như ăn gỏi ấy. Chứng tỏ cũng khối anh thích những gu như nó.

    - Anh thì anh chẳng thích - Công hăng hái khẳng định - Từ thuở bé đến nay anh chẳng ăn gỏi bao giờ.

    Sau đó mấy ngày, như thể tình cờ, tiện miệng anh kể, vừa gặp lại Loan ngang đường một cách vô tình. "Con bé đến khiếp, mồm mép liến thoắng. Chẳng quen biết gì mấy mà cứ xoắn xuýt đến vô duyên...". Thủy lại ra sức biện hộ cho bạn.

    Những ngày sau đó Loan đến chơi liên tục, để giúp Thủy chuẩn bị đám cưới và cũng để giải nỗi buồn trong lúc thất nghiệp. Cô ta học lớp trung cấp thương nghiệp đã tốt nghiệp được hai năm chẳng nơi nào nhận. Có lần Loan đến nhờ Thủy viết cho một bức thư bằng tiếng Anh nội dung đại khái là muốn trốn đi nước ngoài và nhờ các ông trong lãnh sự quán giúp đỡ. Loan giấu không cho Thủy biết họ là người nước nào. Kinh hoàng trước một việc động trời như vậy, Thủy chối từ với lý do vốn tiếng Anh của mình quá kém không đủ khả năng viết nổi một bức thư quan trọng đến thế. Cô ta không ấy thế làm mất lòng. Qua vài lần giao du, Thủy biết Loan đã mấy lần vượt biên nhưng không thoát. Lại có lần chị gái của Loan kể cho Thủy biết Loan đã từng bỏ nhà đi đâu mất ba ngày, khi trở về cô ta tàn tạ như một nắm giẻ rách. Loan quẳng ra giường một nắm tiền rồi ngủ suốt một ngày. "Ba chị tra hỏi nó, nhưng nó chẳng khai gì. Nó gan lắm. Sau này công an người ta đến báo cho nhà chị biết Loan có tên trong sổ đen vì tội "giao du quá mức" với người nước ngoài. Nó luôn hy vọng được ai đó bảo lãnh cho ra nước ngoài. Nhưng nó chỉ toàn bị lợi dụng rồi bị ném ra đường..."

    Chỉ vài lần gặp gỡ, Loan đã mở mang, khai trí cái đầu óc thủ cựu của các cô gái mới lớn trong khu tập thể của Thủy khá nhiều. Mỗi lần Loan đến chơi là cả bọn xúm xít quanh cô ta, tròn mắt nghe cô ta dạy những bài học vỡ lòng về cách cưa cẩm đàn ông. "Ðàn bà là phải tình tứ một chút. Cứ khô khan, đứng đắn quá đàn ông họ cũng không thích...", "Muốn làm anh nào chết chỉ cần ba chớp mắt, một cúi đầu e lệ, tức là hãy nhìn anh ta một cách say đắm trong vài giây sau đó chớp chớp mắt rồi cúi đầu e thẹn như thể: Anh đáng yêu quá! Em xấu hổ lắm! Trái tim em rạo rực quá! Thế là xong. Ðảm bảo anh ta sẽ cun cút đi theo mình..." Thủy không thể tin điều đó, nhưng cũng không thể bác bỏ ma lực của Loan. Bằng chứng là ông anh ruột của Thủy thuộc loại mực thước, đứng đắn có tiếng, và cũng đang có một mối tình rất sâu sắc nên thơ, lại nổi tiếng là sợ người yêu, vậy mà cũng mất hẳn một tối thứ bảy đèo Loan đi khắp Hà Nội với lý do ngớ ngẩn là tìm Thủy cho cô ta gặp mặt. Chuyện đó thật kỳ cục nhưng lại đáng tin vì ngay cả Thủy nữa, đàn bà con gái hẳn hoi cũng khó lòng từ chối điều gì khi Loan nhờ vả bằng cái giọng thật nũng nịu, thật ngọt ngào. Cũng vì cái giọng ấy, có lần Thủy đã đèo Loan đi suốt mấy phố Tạ Hiền, Hàng Buồm... vòng đi vòng lại mấy lần, canh chừng công an cho cô ta bán thuốc lá ngoại lậu.

    Sau này Thủy mới hiểu rằng những lời lẽ của Công khi đó, thật ra không phải là để nói cho cô nghe mà chính là đang cố gắng trấn an những bất ổn trong lòng mình. Anh không còn bàn luận về đám cưới của họ một cách sôi nổi như trước nữa.

*
* *

    Chỉ còn một tuần nữa sẽ đến ngày dự định tiến hành đám cưới, bỗng Loan đến tìm cô.

    - Tớ có chuyện định nói với cậu... - Loan ngần ngừ... Nhưng mà thôi cũng được.

    - Chuyện gì thế? - Thủy ngạc nhiên không hiểu sao hôm nay Loan lại có bộ mặt quan trọng đến như thế - Cứ nói đi. Làm gì mà úp úp mở mở, quanh quanh co co...

    - à, ừ, ... nhưng cậu phải bình tĩnh. Cậu phải hứa với tớ là sẽ không làm gì ầm ĩ, tớ mới nói.

    - Sao vậy? - Thủy sửng sốt rồi tò mò - Cứ nói đi, tớ hứa là sẽ không làm sao hết. Có chuyện gì thế? Làm sao lại có thể có chuyện gì liên can đến tớ. Cậu lại định vượt biên nữa à? Tớ có viết thư hộ cậu đâu?

    - Không phải là chuyện đó mà là chuyện ông Công kia. Ông ấy đang đợi Loan ở nhà ông ấy... - Loan dừng lại thăm dò rồi nói tiếp giọng đầy thương hại, nhưng cũng không giấu vẻ ban ân - Tớ đang trên đường đến đó, nhưng nghĩ đến Thủy dù sao cũng là bạn Loan nên Loan rẽ vào để báo cho Thủy biết...

    Thủy lặng người. Con tim cô bỗng quặn buốt tái tê. Một nỗi đau điếng lan nhanh ra toàn thân. Cổ cô tắc nghẹn. A vì thế mà lúc nãy anh rẽ vào báo cho cô biết: Chiều nay anh bận đèo mẹ đi lo một số công chuyện. Mẹ anh đấy ư? Chao ôi là man trá. Cô muốn gào thét một câu gì đó cho thỏa giận nhưng cố nén. Phải bình tĩnh. Bình tĩnh! Cô căm hận ai đây? Hận Loan hay hận Công? Phải gào vào mặt ai đây mới thỏa đáng? Mặt Công hay mặt Loan?

    - Kìa, Thủy không sao đấy chứ? - Loan hốt hoảng lay Thủy.

    - Mặt Thủy tái mét đi kìa!

    - Không! Không sao! Kể tiếp đi - Thủy gạt tay Loan ra một cách phũ phàng và đứng dựa vào tường, cố giấu đôi chân đang run rẩy - Kể tiếp đi.

    - Nhưng Thủy phải hứa là sẽ không sao cả Loan mới kể. Bởi vì với Loan chuyện này chẳng là gì nữa rồi. Nhưng Loan biết với Thủy đây là lần đầu tiên. Ông Công đã nói cho Loan biết Thủy hoàn toàn trong trắng khi đến với ông ấy.

    Ðồ khốn khiếp! Ðồ bẩn thỉu! Ðồ phản bội! Thủy muốn thét lên. Nhưng cô chỉ nhếch mép - Hừ, kể tiếp đi! Thủy đủ nghị lực để nghe tất cả. Thủy hứa sẽ không có chuyện gì. Thủy cần biết sự thật.

    - Ðược, nếu thế Loan sẽ kể. Hoàn toàn là sự thật, không thêm không bớt... Những ngày gần đây ông Công luôn đi qua cửa nhà Loan. Loan và ông ấy hay chào hỏi nhau dăm ba câu. Chiều qua ông ấy mời Loan về nhà chơi. Ông ấy năn nỉ Loan đến xem tranh ông ấy vẽ và hứa sẽ vẽ cho Loan một bức chân dung. Nể ông ấy là người yêu của Thủy nên Loan cũng đến. Vào nhà, ông ấy pha nước mát bằng chanh ngâm muối, mang bánh ra mời Loan, rồi bật những băng nhạc mà ông ấy nói rằng ông ấy yêu thích cho Loan nghe. Ông ấy bê những bức tranh của ông ấy vẽ ra cho Loan xem, giảng giải cho Loan về cái đẹp của hội họa... - Nghe Loan kể Thủy hình dung ra buổi đầu gặp gỡ của cô và Công. Mọi việc diễn ra giống hệt. Cũng cốc nước chanh trái mùa, nhờ sự khéo léo tẩm ướp, vừa lờ lợ vừa hăng hắc, đăng đắng, Cũng những chiếc bánh quy, những bản nhạc, những bức tranh và mùi nước hoa cạo râu của Công sực nức trong phòng như vẫn đang còn phảng phất đâu đây. Chỉ có điều nhân vật nữ trung tâm của sự đón tiếp long trọng, gallant ấy bây giờ là Loan. Cô đau đớn thừa nhận rằng đó hoàn toàn là sự thật. Sự thật như buổi đầu Công đón tiếp Thủy.

    ... Ông ấy đã hôn tớ và cả... - Giọng Loan vẫn đều đều, mỗi lời như một nhát gươm đâm vào tim Thủy. Thủy nín thở lắng nghe trái tim mình như một con thú nhỏ đang tuyệt vọng giãy giụa, đau đớn giữa một rừng gươm dao. - Thủy biết đấy, đối với Loan chuyện đó chỉ còn như một sự giao tiếp, sinh hoạt xã hội. Kìa Thủy! Ðừng có thất thần đi như thế. Thủy phải tỉnh táo lại. Loan xin lỗi vì đã làm Thủy đau khổ. Nhưng Loan nghĩ Thủy nên biết sự thật... Ông ấy không yêu Thủy lắm! Thủy không sao đấy chứ? Ðừng đau đớn quá thế!

    - Ðau đớn ư? Không! Tao chỉ thua thôi - Thủy buột miệng cay đắng mỉa mai.

    - Sao lại thua ? - Loan ngạc nhiên.

    - à... - Thủy định giải thích rằng trong cuộc chiến giành giật tình yêu, cô đã thua Loan. Phải cô, một cô gái trong trắng, ngây thơ và chân thành, học hành giỏi giang lại thua một ả lẳng lơ, thập thành, học hành dốt nát... Trong cuộc chơi tàn nhẫn này Loan và Công thắng thì được một chút vui vẻ, thua thì chẳng mất gì. Còn cô có thắng thì mối tình đầu cũng đã trở nên kém thiêng liêng, nó đã bị hoen ố, còn khi thua thì cô mất tất cả. Cô đã thua. Cô đã mất tất cả sự ngây thơ trinh bạch lẫn tình yêu, cả đám cưới lẫn niềm tin vào cuộc đời. Chao ôi, giá cô có thể trở nên mất trí để đừng phải đối diện với thực tại thì hạnh phúc biết bao. Không thể như thế! Không thể như thế được. Cô đã thua. Ôi người yêu! Ôi bạn bè! Ôi mối tình đầu! Cô bỗng cười phá lên như điên dại:

    - Thủy đã thua. Thủy thua mất 5 hào kẹo lạc. Thủy đã ca ngợi Loan. Thủy đã tin tưởng Loan là một người từng trải, vậy mà sao Loan lại đổ một cách quá ư là dễ dàng - Thủy nín thở một lát rồi trút ra một cách khoan khoái. - Mình đã thách anh ấy cưa đổ Loan!

    - Ơ kìa! - Loan sững sờ quắc mắt giận dữ. - Sao mày lại dám làm như thế với tao? Tại sao? Tại sao hả? Trời ơi!

    Giờ thì Thủy cảm thấy trái tim mình đã bớt đau đớn đi nhiều, như thể những chuyện cô vừa nói hoàn toàn là sự thật. Không biết sự nhẫn tâm chưa từng xảy ra của cô có độc ác bằng sự vô tâm tàn nhẫn của họ không?

    Loan bỏ chạy trong khi miệng vẫn lẩm bẩm: "Tại sao? Tại sao hả?" Có vẻ như cô ta vẫn chưa hết bàng hoàng. Chỉ khi đó Thủy mới chui vào buồng tắm, vặn nước xối xả cho át đi tiếng nức nở nghẹn ngào. Bây giờ cô có thể để mặc cho nước mắt tuôn rơi xót thương cho tình cảm thiêng liêng nhưng lầm lạc của mình.

*
* *

    Tối hôm đó Công vẫn đến rủ Thủy đi chơi như thường lệ vào những tối thứ bảy. Thủy cố gắng giữ bình tĩnh như không có chuyện gì xảy ra, nhìn thẳng vào mắt Công.

    -Thế nào, chiều qua anh vui không? -Thủy bắt gặp một thoáng thảng thốt khi Công nghe câu hỏi, nhưng anh ta bình tĩnh được ngay.

    -à, chiều qua anh gặp Loan. Nó cứ nằng nặc đòi đến nhà anh chơi. Nể nó là bạn thân của em nên anh đành phải chiều. Hì, hì, con bé đó tự nhiên quá cứ vô tư như ở nhà... Lại còn đòi anh phải vẽ một bức chân dung cho nó nữa chứ... Có mà dở hơi, thóc đâu mà đãi gà rừng... -Công cười vẻ lấy lòng.

    -Anh này! - Thủy cười buồn, giờ thì cô hiểu chẳng ai xứng đáng để cô phải buồn vì họ. -Em đã biết hết rồi. Nó đã đến và kể cho em nghe. Chứng tỏ nó cũng không tôn trọng gì anh hết. Nó cũng chẳng yêu anh gì cho lắm. Em rất buồn cho anh và cho em. Cho nên để giữ thể diện cho cả hai chúng ta và vì những tình cảm thiêng liêng đã từng có của em, em đã nói dối nó rằng có chuyện đó là vì em đã thách anh cưa đổ nó. Rằng đó chỉ là chuyện đùa... Còn giờ đây thì mình hãy chia tay nhau. Em nghĩ rằng như thế sẽ tốt hơn cho cả hai chúng ta. Anh hãy đi đi. Ðừng ngoái lại. Ðừng nói gì hết. Như thế em sẽ tôn trọng anh hơn. Hãy để cho em nguyền rủa cái ngày mà số mệnh đã run rủi cho em gặp anh. Hãy để cho em căm dận cái phút giây em đã nhận lời yêu anh còn hơn phải căm hận anh. Hãy để cho em được vô cảm với quá khứ để còn có thể làm lại cuộc đời. Em vẫn còn yêu cái thế giới này, còn yêu bố mẹ, anh chị em của em, em chưa muốn chết. Vậy hãy làm ơn cho em một lần cuối, nếu anh còn một chút tình nghĩa nào với em, đó là hãy vĩnh viễn biến mất khỏi cuộc đời em. Thôi đừng nói gì cả... Em không bao giờ có thể tha thứ cho mình vì tội đã lầm lẫn yêu anh...

*
* *

    Chưa bao giờ như lúc này, Thủy bỗng thèm khát bộ ngực lực lưỡng của chồng, vòng tay ấm áp, âu yếm đầy che chở của chồng mình. Cô muốn về nhà - chốn nương thân - hang ổ cuối cùng nơi che chắn mọi bất hạnh của đời cô. Thủy cẩn thận bước ra đường ngó nghiêng. Một làn khí ấm mọng nước khẽ lướt trên đôi gò má nóng bừng của Thủy, để lại những bụi sương li ti chưa đủ để nhìn thấy trên làn da mỏng manh. Ðôi trai gái ngoài cửa hiệu kính thuốc đã mất tăm giữa dòng người đông đúc. Ðó đây, loáng thoáng những cành đào gần như trơ trụi, lác đác vài nụ hoa đỏ rực như những đốm lửa nhỏ thắp giữa búp lá xanh biếc, bên những mặt người hớn hở ngược xuôi trên dòng xe cộ. Thủy bỗng nhận ra: Mùa xuân đã đến! Cả cái mùa đông rét buốt của đời cô vĩnh viễn trôi qua rồi. Hơn mười năm đã qua đi, cuộc đời của Thủy ba năm nay thật yên ấm. Chồng cô là một người tuyệt vời, tuyệt vời trên cả mong ước của cô. Nhưng cô vẫn sợ. Sự xuất hiện của Loan, ai dám bảo sẽ không là một nỗi nguy hiểm cho gia đình đang hạnh phúc? Cô cần bảo vệ tổ ấm của mình. Cô không muốn gặp lại Loan. Dù rằng cô đã tha thứ. Dù về một khía cạnh nào đó cô biết ơn Loan. Nếu không có "trò đùa" nghiệt ngã ngày hôm ấy, không biết đời cô rồi sẽ trôi đến đâu bên một người chồng lang chạ như Công. Chỉ biết rằng sau "trò đùa" ấy, không phải chỉ có cô không muốn gặp lại hai người đó, mà họ cũng không bao giờ dám nhìn lại mặt nhau.
Đi dân nhớ, ở dân thương!

Sao_Online

Mẹ chồng tôi (Nguyễn Minh Chính)

    Bây giờ thì mẹ chồng tôi đã về cõi vĩnh hằng. Từ ngày bà mất, không ngày nào là tôi không nhớ bà, không đêm nào là tôi không gọi: Mẹ ơi...! Song sự chết bao giờ cũng khốc liệt, cũng sâu thăm thẳm và cũng rất đỗi linh thiêng, rất mênh mông vời vợi và cũng rất thấm nỗi buồn man mác. Những đêm thao thức, tôi như thấy đang được trò chuyện với bà...

    Tôi về làm dâu khi vừa 20 tuổi, còn chồng tôi - anh Hòa năm ấy ở độ tuổi 22. Chồng tôi là một thanh niên khỏe mạnh, đẹp trai, đã học hết cấp III hai năm về trước, có giấy báo đi đại học thì địa phương giữ lại, nói là "để đào tạo lâu dài cho xã". Anh đang làm kế toán phụ cho hợp tác xã nông nghiệp. Nhà chúng tôi ở gần nhau, hai gia đình đã có ước vọng từ khi chúng tôi còn nhỏ, mong sao khi lớn lꮠch破頮ꮠvợ nꮠchồng. Ở tuổi thành niên chúng tôi đã thương nhau và đã dẫn đến cuộc hôn nhân tốt lành của chúng tôi.

    Nhà Hòa chỉ có hai mẹ con, có thêm tôi, đứa con mới trong nhà, mẹ chồng tôi vui lắm. Bà âu yếm thân tình chỉ cho tôi từng cách làm ăn, cách sống, cách đối xử với chồng và những điều cần kiêng kỵ, cách ăn ở với bà con họ hàng, làng xóm. Tôi sáng ý, vâng theo bà và do đó bà tỏ ra rất hài lòng. Ðược chồng yêu, mẹ chồng quý, dân làng mến nể, tôi sống những ngày tràn đầy hạnh phúc.

    Ở bên nhau được gần ba tháng thì anh Hòa trúng tuyển bộ đội và lên đường vào đầu tháng giêng năm ấy. Vợ chồng mới cưới xa nhau thật là một sự thử thách lớn: lúc anh sắp đi, tôi cứ ngỡ là anh đi rồi. Lúc anh đi rồi, tôi cứ tưởng anh hãy còn ở bên cạnh. Nhưng sau đó, những đêm mưa lạnh mới thấy thấm thía làm sao. Tháng 10, anh Hòa có lệnh đi B, anh được nghỉ phép và may quá, anh về đúng dịp kỷ niệm lần đầu ngày cưới của chúng tôi. Với sự say nồng của những ngày sắp xa, chúng tôi sống bên nhau thật hạnh phúc, đậm đà.

    Từ khi anh đi, mẹ chồng tôi càng thương tôi hơn. Ðêm đến bà thường bảo: "Bu nằm một mình ở ngoài lạnh lắm, cái Thuận ra nằm với bu cho ấm". Tôi hiểu ý mẹ tôi muốn cho tôi khỏi buồn nên gọi tôi ra nằm bên cho vui. Mẹ tôi rất tâm lý, nếu tôi biết hôm sau phải đi cày bừa, hoặc làm việc nặng là bà giục đi ngủ sớm. Còn khi mùa màng thư thái, ban đêm bà kể cho tôi nghe nhiều mẩu chuyện, trong đó có chuyện đời tư của bà.

    Bà lấy chồng từ năm 13 tuổi, lúc ấy bố chồng tôi 17. Bà bảo: "Ban đầu xấu hổ bỏ mẹ, nhưng sau đó nó quen đi". Bà nói lấy chồng sáu tháng rồi mà bà chẳng hiểu cái cuộc sống vợ chồng "như thế, như thế" để làm gì, mà làm sao lại phải làm như vậy. Mãi đến khi bố chồng tôi đi làm xa, bà mới thấy nhớ, thấy thương, mới hiểu vợ chồng "là vậy, là vậy". Rồi năm 18 tuổi bà sinh chồng tôi, sau lại sinh hai em nữa nhưng đều chết bệnh năm đói. Năm sau, bố chồng tôi đi bộ đội rồi "nam tiến", cuộc chia tay đầy nước mắt và bố chồng tôi ra đi biền biệt không về. Mãi đến giữa năm 1956, gia đình mới nhận được giấy báo tử, lúc ấy mẹ tôi vừa 34 tuổi. Từ đó năm nào bà cũng làm giỗ vào đúng ngày cưới của hai người, để kỷ niệm những ngày thơ ngây, đẹp đẽ của cuộc sống vợ chồng buổi xa xưa. Mẹ tôi kể: bà nội chồng tôi rất thương bà, khi biết tin con trai đã chết, bà nội đã nhiều lần gợi ý mẹ tôi đi bước nữa, để đỡ khổ cái tuổi xuân, nhưng mẹ chồng tôi không đi. Chứ thuở ấy thiếu gì các ông bộ đội phục viên chưa vợ, thiếu gì ông bần cố vì nghèo chưa lập gia đình, lại một số ông vợ đã quá cố, cũng đến ngỏ lời nhưng mẹ chồng tôi đều cảm ơn và từ chối hết. Có lần thân ái quá, tôi hỏi mẹ tôi, rồi mới giật mình vì tôi là con dâu:

    - Làm sao bu không đi bước nữa?

    - Vì bu thương bà nội lắm. Những ai có con trai nên vợ nên chồng, mà con mình chết sớm thì thường mất cả con dâu. Mất một đứa con đã chết điếng người lại mất con dâu, biết mất trờ trờ ra, mà không níu lại được, thì nỗi đau đớn của người mẹ tăng lên gấp bội phần. Bà nội đã mất bố mày, lại mất cả tao nữa thì khổ lắm. Vả lại bu rất thương thằng Hòa, nó côi cút rất cần có bu, và dù nhỏ nó cũng chẳng muốn ai chiếm đoạt mẹ của nó.

    Hết hạn, anh Hòa trả phép để đi B, mẹ tôi quay vào nhà khóc, còn tôi tiễn anh ra tận bến sông Hồng. Ði được 10 ngày anh Hòa viết thư về báo tin anh đã hành quân đến Quảng Bình. Ôi! Ðọc thư anh, càng thấy thấm thía càng thấy nhớ anh như cào cấu ruột gan.

    Mẹ chồng tôi có tính cẩn thận, quần áo của bà, của tôi khi khô bà đều gấp gọn gàng bỏ vào trong rương. Một hôm vào khoảng nửa tháng sau khi anh Hòa đi B, tôi đi làm về, thấy bà đang gấp mấy miếng vải màn của tôi. Tôi thấy rất rõ vẻ buồn trên khuôn mặt bà và hình như bà khóc nữa. Bà xếp quần áo vào rương, tôi quay ra và lúc ấy tôi mới hiểu, là chồng tôi ra đi, không để lại một giọt máu thiêng liêng trong tôi, tôi cũng cảm thấy buồn xao xuyến.

    Khoảng 20 ngày khi chồng tôi đi B, hợp tác xã điều tôi đi dân công tỉnh một tháng nhưng làm thủy lợi ở ngay địa bàn huyện. Chồng tôi có người cậu họ là ông Thảo, làm phó phòng thủy lợi, được chỉ định làm trưởng ban chỉ huy công trường. Ông Thảo ghé thăm mẹ tôi, thấy mẹ tôi nói tôi sắp đi dân công, ông Thảo liền nảy ra một ý kiến:

    - Cháu nó đi dân công à? Thế thì thế này, tôi sẽ cắt định suất đất của xã cho cháu. Nó hát hay, giọng nói lại trong trẻo, tôi cho nó lên chỗ tôi để phục vụ thông tin văn nghệ, công việc vừa đỡ vất vả mà lại có tiền tiêu, mỗi tháng tôi phụ cấp cho cháu 36 đồng, công trường có thể kéo dài ba, bốn tháng, chị có đồng ý không?

    - Cám ơn cậu, tôi chẳng biết thế nào, cậu thử hỏi cháu xem.

    Ông quay lại nói với tôi:

    - Huyện mới mua máy phóng thanh, công trường trải dài hai cây số, ngày ngày cháu cứ cầm ống nói hát hoặc đọc tin, có loa phát to lắm. Công việc chỉ có thế, được chứ?

    - Vâng, cháu đồng ý.

    - Nhưng phải đi trước 5 ngày, đến đúng ngày 1 để dễ tính lương.

    Thế là đúng ngày quy định tôi lên đường, đến ban chỉ huy công trường cách nhà tôi hơn hai chục cây số. Ðến nơi, tôi đã thấy lán của ban chỉ huy làm xong. Tối ngủ lại lán đó, có hai chị cán bộ trong ban chỉ huy, tôi và một nhân viên phụ trách kỹ thuật và điều khiển máy phóng thanh, tên anh là Lực. Ngày công trường ra quân, ông Thảo giới thiệu trên loa là: "Có cô Bích Thuận là người chuyên phục vụ văn nghệ và thông tin của công trường". Và sau đó tôi say sưa với công việc được giao, nhưng kẹt nhất là cái máy phóng thanh hay trục trặc, anh Lực đi vắng là tôi chịu, không biết xoay xở ra sao. Vì thế độ hai ba ngày, các đơn vị phản ảnh về là hát hay lắm nhưng tắc luôn, nghe dở dang "xem kịch ngắt quãng". Trước tình hình như vậy, ông Thảo liền phân công anh Lực ở nhà vừa trực và điều khiển máy phóng thanh. Từ đó ban ngày nhiều khi chỉ có tôi và anh Lực ở lán.

    Lực là chàng trai khỏe, ít nói nhưng giọng nói dịu dàng, anh cũng vào loại điển trai. Anh thi trượt tốt nghiệp phổ thông đã hai năm, được ông bác làm chủ tịch huyện xin cho vào làm nhân viên phòng thủy lợi. Khi huyện mua máy phóng thanh, anh được cử đi học vài ngày để sử dụng.

    Làm ở công trường đã bốn tuần. Một hôm ông Thảo cho tôi về thăm nhà. Thấy tôi về mẹ chồng tôi mừng lắm, nhưng về tới nhà thì tôi thấy váng đầu chóng mặt lại hay buồn nôn. Mẹ tôi bảo: "Ðúng con bé phải cảm rồi". Bà vội vàng lấy gừng giã ra xào với rượu, đổ lẫn vào búi tóc cho vào khăn để đánh cảm cho tôi. Bà bảo tôi cởi áo rồi làm từ đầu, mặt, vùng lưng, sau đến vùng ngực. Tôi thấy bà làm ở vùng ngực rất kỹ lưỡng, tự nhiên mặt bà biến sắc, mồ hôi toát ra, tay chân run rẩy. Rồi bà nhìn tôi rất nghiêm bà bảo:

     - Thuận, con có mang rồi đấy. Tôi giật bắn người, chưa biết nói ra sao thì bà đã tiếp: "Thâm cà thì khú, thâm vú thì chửa", hai đầu vú của con bắt đầu nở và núm vú bắt đầu thâm rồi.

    Nói xong bà thở dài, bà xuống ngồi ở cửa bếp, bà khóc. Tháng qua không thấy kinh, nhưng không có kinh nghiệm nên tôi coi thường, giờ nghe mẹ chồng phát giác tôi thấy rợn tóc gáy. Tôi đi xuống bếp với bà, bà nhìn tôi vừa khóc vừa hỏi:

    - Con đi lại với ai mà đến cơ sự này?

    Tôi thấy sự trầm trọng của câu chuyện, nhưng đã có ý chuẩn bị lơ mơ, tôi thưa rằng:

    - Một buổi tối con vào trong làng để tắm, con đi đường tắt qua cánh đồng, khi tắm về đến gần một gò đất bỗng có người đi sau bịt mồm con, bắt con vào sau gò làm cái chuyện ấy, hắn khỏe như vâm, con không kháng cự lại được nên mới đến cơ sự này.

    - Thế da hắn trắng hay đen? Tóc hắn dài hay ngắn?

    - Trời tối lắm, con không nhìn rõ được.

    Mẹ chồng tôi chưa tin nhưng bà cũng không hỏi nữa. Bà lên nhà, nằm vật ra giường bà khóc, bà kêu:

    - Hòa ơi! Con ơi!

     Trước cảnh tình ấy, tôi càng bối rối vì tối đó và hai ngày hôm sau bà nằm liệt, không ăn, chỉ uống chút nước lại đi nằm. Tôi càng lo lắng hơn và tôi rất sợ. ở làng này tôi có một con bạn, nó lấy chồng trước tôi hai năm, chồng đi B, nó bị chàng phó chủ nhiệm hợp tác xã mua bán xơi liền, vài lần vụng trộm, nó có thai. Mẹ chồng nó biết nhưng cứ phớt lờ, vẫn tỏ ra vui vẻ bình thường với con dâu và thông gia. Bà tìm thấy lá thư của chồng nó gởi về sau một tuần lên đường và bà cất kỹ. Khi con bạn tôi có thai được bảy tháng, thấy mẹ chồng không để ý, làng xóm không ai nói gì, cả gã phó chủ nhiệm cũng cho bà vào loại đần độn. Rồi một hôm bà được mời sang nhà thông gia ăn giỗ, bà sang vẫn bình tĩnh thắp nhang, cười cười, nói nói, uống chén rượu chơi. Giữa chừng, trong lúc mọi người đang vui ăn uống, bà gọi cô dâu lại bên, cầm tay cô dâu ra chiều âu yếm, bà đứng lên thưa:

    - Trình họ nhà, họ nhà sắp có cháu bế rồi đây - Bà móc túi lấy lá thư và tiếp: - Cháu nhà tôi đi B gởi về lá thư sau một tuần, tính đến nay đã được 9 tháng rưỡi. Cháu của quý họ mới có mang độ bảy tám tháng thôi, vậy tôi sang cáo với tổ tiên bên này và tặng họ nhà cái trống để đánh chơi.

    Nói rồi bà vỗ đít ra về, cả họ sa sầm tái mặt. Ba ngày sau con bạn tôi và gã phó chủ nhiệm bỏ nhà trốn biệt tăm, nghe nói họ lên miền ngược. Vợ gã phó chủ nhiệm càng cay sè, ngày nào chị ta cũng réo chửi cha mẹ đẻ con bạn tôi, chị ta chửi đủ ba tháng rưỡi mới ngừng. Thật khiếp quá. Chỉ một việc chửa không phải với chồng mà tổ tiên cũng bị động, ba bốn kẻ đau đầu, nhiều kẻ long tóc gáy. Nghĩ đến thế tôi càng thấy sợ hơn.

    Sang ngày thứ ba, mẹ tôi dậy sớm, bà gọi tôi lại bên, tôi vừa lo, vừa sợ, vừa thẹn, bà kéo tôi lại gần và nói.

   - Chuyện xảy ra với con thực đáng buồn. Bu thương thằng Hòa lắm, bu cũng thương mày. Bu chỉ mong cái thằng của nợ đừng vác mặt đến đây. Nó mà bén mảng đến đây thì bu sẽ kiện nó ra toࠣho nචo tণ7902; đời đã có tiếng "lỗi lầm" thì có sự "lỗi lầm" nên bu không lạ. Mày muốn bu cứu chữa thì phải giữ mồm giữ miệng, chớ hé răng cho ai biết, kể cả ông bà bên nhà. Ðiều quan trọng là phải chấm dứt quan hệ với thằng khốn nạn đó khi nó xuất hiện bất cứ dưới dạng nào. Mày không nghe thì bu sẽ chết, chết truớc cho mày xem. Bu thương lắm, cứ an tâm đi làm. Giả như nếu câu chuyện vỡ lở, sau này thằng Hòa nó về bu sẽ liệu. Nó thông cảm thì là vợ chồng, nó chia tay thì mày là con nuôi, con gái của bu. Ráng sống cho tử tế để cho thiên hạ khỏi chê cười.

    Tuy vẫn lo nhưng tôi cảm động trước những lời chân tình của mẹ chồng. Tôi biết mẹ tôi vẫn không tin câu chuyện mà tôi đã bịa đặt ra, nhưng bà đã nhìn tôi với con mắt thương hại thực sự.

    Còn cái thai là của ai? Vụ việc như thế này: khi ông Thảo cử Lực ở nhà trực và điều khiển máy phóng thanh, những ngày đầu quan hệ giữa tôi và anh ta không có gì đặc biệt. Lúc rỗi anh đọc sách, tôi thấy cái rương của anh có đến hơn chục quyển sách, tôi ngỏ ý mượn, anh đồng ý để tôi chọn tùy ý. Phần nhiều sách anh có ở rương, tôi đã đọc rồi. Riêng quyển Giông tố là tôi chưa xem, tôi mượn anh để đọc. Là con gái mới lấy chồng đọc nhiều trang tôi thấy người nóng ran, mặt đỏ nhừ, những biểu hiện ấy Lực biết. Công trường đã mở trọn tuần, bước đầu đã ổn định về nhiều mặt, chiều thứ bẩy mọi người tranh thủ về qua nhà sáng mai có mặt sớm. Phân công ở lại lán chỉ huy có tôi và một chị cán bộ nữa ở lại đêm ấy, nhưng nhà chị cán bộ kia có câu chuyện, nên chị rỉ tai tôi để chị về nhà sáng mai chị đến sớm. Tôi định bụng gần tối sẽ vào nơi xã tôi đóng quân, rủ mấy đứa bạn đến ngủ cho vui. Chưa kịp đi thì mưa gió ập đến, tôi lại không có áo mưa thì đi làm sao được, vả lại tôi không sợ ma tà, nên tối đến cứ thắp đèn đọc sách. Hình như lúc chúng tôi rỉ tai nhau về việc chị cán bộ kia về thì Lực nghe thấy, đêm ấy mưa rét lắm, khoảng 9 giờ tối Lực trở lại, anh ta nói lý do quay lại vì sợ mất máy. Anh lại cởi áo mưa, ủng rồi lên giường nằm. Tôi vẫn say mê đọc. Xa chồng thời con gái, tôi đọc tiếp thấy rạo rực, tôi thở dài, mắt lim dim để tưởng tượng những hình ảnh trong sách. Nào ngờ Lực đến bên tôi lúc nào tôi không biết. Anh ta đặt tay lên vai tôi và hỏi:

    - Em sao thế?

    - Em... Em rét.

    - Thế thì lên giường nằm cho ấm.

    Ngoài trời mưa gió càng mạnh và lạnh thấu xương, nhanh như cắt Lực thổi phụt ngọn đèn rồi ôm tôi kéo lên giường.

    Tôi sực tỉnh táo, biết chuyện gì sắp xảy ra, tôi chống cự kịch liệt, tôi tát vào mặt Lực mấy cái, mắng nhiếc thậm tệ, Lực vẫn không buông tôi ra, tiếp tục cuộc vật lộn. Hồi lâu tôi thấy đuối sức không còn khả năng kháng cự. Lực đã thắng cuộc. Trái với sự mạnh mẽ quyết liệt khi tấn công, khi gần làm chủ, giọng anh ta run run: "Tha thứ cho anh, anh yêu em ngay từ khi mới gặp, em là người con gái đầu tiên trong đời anh...". Thắng cuộc mà anh ta lúng túng, vụng về, lập cập, mãi mới biết cách xoay xở. Nhưng sau thì quen, anh ta tò mò, nghiến ngấu, thức suốt đêm, không bỏ phí một phút thời gian nào. Ðộ 4 giờ sáng anh ta bảo tôi: "Em nằm một mình vậy, anh đi độ gần 7 giờ anh đến, nằm lỳ ở đây lộ mất". Anh ta vùng dậy, lấy áo mưa, đi ủng, dắt xe đạp đi, ngoài trời mưa gió vẫn lạnh. Lúc ấy sợ anh đi đường bị ngã vì trời tối quá, tôi gọi đưa cho anh ta cái đèn pin ở đầu giường tôi mà đêm qua anh đã nhiều lần sử dụng. Anh ta đi rồi, mình tôi trên giường tôi thấy lạnh, lúc ấy tôi mới hoàn toàn tỉnh táo, lướt lại những gì đã diễn ra trong đêm, tôi thấy mình tội lỗi, nhuốc nhơ, dơ dáng và bệ rạc. Tôi khóc. Cái thai có từ đó và tôi căm thù Lực.

    Sau mấy ngày ở nhà, tôi xuống công trường. Công việc vẫn làm như mọi khi. Tôi buồn bực và căm giận nên không nói chuyện với Lực, chắc hiểu ý tôi nên Lực cũng chẳng nói năng gì, thấy thái độ anh ta thờ ơ, tôi càng giận. Một buổi sáng khi mọi người đã ra công trường rồi, nghĩ đến hậu quả mà Lực gây ra sẽ làm cho đời tôi khốn đốn, lòng căm thù dâng cao, tôi tiến lại phía Lực:

    - Anh có biết anh làm hại đời tôi không?

    Lực im lặng, tôi nói nhỏ nhưng giọng đầy đay nghiến:

    - Anh cưỡng tôi để bây giờ tôi mang thai rồi đây.

    Lực vẫn im lặng, lại còn cúi cúi viết viết gì đó, tôi điên lên:

    - Ðồ đểu cáng, đồ khốn nạn!

    Thấy căng, Lực đứng lên định đi, tôi liền rút dép cao su quật vào mặt anh ta ba, bốn cái liền, máu mũi anh ta trào ra. Giữa lúc đó thì ông Thảo về, Lực đang phủi đất và lấy khăn lau máu ở mặt. Tôi sợ. Ông Thảo đảo mắt một lần, ông giận dữ:

    - Thế này thì quá quắt lắm.

    Ông gọi tôi và Lực ngồi lại. Ông hỏi, cả hai đều im, mãi sau ông ra lệnh:

    - Lực, cậu viết kiểm điểm, thành thật hối lỗi thì được chiếu cố, nếu không tôi cho cậu đi tù vì đã động vào vợ bộ đội. Còn Thuận viết tường trình lại. Hai ngày nữa đưa tôi.

    Ông ta nhìn Lực có vẻ căm tức rồi bỏ đi. Lực ngồi đó vẻ mặt lạnh lùng, song lại tỏ ra rất bình tĩnh, anh đứng lên lấy gương soi.

    - Thuận, em đánh anh đau quá, mặt tím bầm lại rồi - Tôi tái mặt, nhìn anh thấy máu mũi vẫn rỉ ra, tôi thấy mình cũng động lòng trắc ẩn và bối rối. Lực lại lấy khăn lau mặt, anh quay sang tôi: - Anh viết như thế nào đây?

    - Viết thế nào thì tùy anh.

    - Thuận định viết như thế nào?

    - Tôi viết thế nào thì tùy tôi.

    Lúc đó Lực tỏ ra bình tĩnh và minh mẫn, anh nói:

    - Nếu em tường thuật đầy đủ mọi chi tiết thì có nghĩa là em đeo cái thòng lọng vào cổ anh và cổ em. Viết cũng chẳng cứu được chúng ta đâu. Chi bằng ta không viết gì cả.

      - Thế thì giải thích như thế nào với ông Thảo về chuyện xảy ra mà ông ta nom thấy?

    - Anh đã làm với ông ta hai năm, biết ông này là loại người luồn trên nạt dưới và cũng chẳng phải là người đứng đắn gì. Lãnh đạo chỉ "hừm" một cái là mặt ông ta đã tái mét, chỉ "hừ" một cái là ông ta run cầm cập. Bác anh làm chủ tịch huyện, anh đến nói thật với ông, nhờ ông bịt mồm ông Thảo lại - Lực suy nghĩ một lát, anh ta nói tiếp: - Còn chuyện vừa xảy ra, ta dàn dựng thế này: do phải bê cái bao gạo mà ông Thảo khoét của công trường mang về cho vợ, để ở giữa lối đi, nên mấy cái cúc áo ở cổ em bật ra, nhìn thấy anh đưa tay gần để chỉ em cài lại, chưa kịp nói thì em đã tưởng anh "chộp" nên chửi rủa và tặng anh mấy cái dép vào mặt.

    Thấy sự trầm trọng rắc rối của câu chuyện, lại nghe Lực nói có lý, tôi đồng ý với cách của anh. Tôi hỏi:

    - Nhưng còn cái mặt tím bầm của anh thì giải thích với mọi người thế nào?

    - Em đánh anh đau quá, nhưng c᩠mặt đau n๠anh sẽ giải th??? lࠢị ng㮠Ở công trường thủy lợi thì lắm kiểu ngã lắm, nào do trơn, do trượt chân, do ngã xe đạp, có đến x lý do.

    Lực lấy xe đi về huyện cách đó chừng hai cây số, hơn tiếng sau anh trở lại, mang về bức thư của ông chủ tịch. Anh bảo tôi:

    - Ông Thảo có hỏi ai đưa lá thư, thì nói là một cô nào đó, đưa rồi đi ngay.

    Tôi mở lá thư để ngỏ đọc thấy: "Anh lãnh đạo tồi quá. Anh đưa người "của anh" đến trước mũi mọi người, sinh ra rắc rối, tôi sẽ báo lại với thường trực ủy ban cho anh nghỉ việc ở công trường. Tối nay anh về gặp tôi". Trưa ấy ông Thảo về, thấy cái thư trên bàn, ông đọc vội, tôi thấy mặt ông ta đỏ rồi biến thành xám xịt, miệng ông há hốc, mắt lờ đờ... quả là ông đã trúng cái mưu của Lực. Tối ấy ông về huyện, sáng mai trở lại lán chỉ huy, lúc vắng người ông bảo tôi và Lực:

    - Hai đứa không phải viết gì nữa, nhưng sau không được làm thế. Thằng Lực ra quán mua tao lạng trà Bắc Thái, đi mau về.

   Lực đi ngay. Lúc còn mình tôi, ông Thảo hỏi chuyện, tôi trình với ông như Lực đã chỉ. Ông nghe có lý, ông bảo:

    - Ðẹp gái thế này thì đến bố thằng Lực cũng mê, cũng muốn "cài cúc áo" chứ chẳng riêng gì thằng Lực - Ông ta đi đi lại lại, tưởng ông ta làm gì, bất ngờ ông ôm tôi hôn lấy hôn để, tay ông khua trên mấy cái cúc áo ở ngực tôi. Tôi đẩy mạnh ông ta ra. Cũng vừa sau đó thì Lực về, thấy tôi đỏ mặt, anh ta đoán rằng ông Thảo vừa tra tôi chuyện hôm qua.

    Sau những chuyện xảy ra như vậy, tôi và Lực hầu như không nói chuyện với nhau, mãi đến hôm chỉ có hai đứa ở lán, Lực tự nhiên hỏi:

    - Con chúng ta em định thế nào?

    - Tôi đi nạo thai - Tôi thăm dò ý anh.

     Nghe vậy Lực buồn, mắt anh ta rưng rưng:

    - Tội nghiệp! Cứ để nuôi có được không?

    - Lấy gì mà nuôi, còn chồng tôi, mẹ chồng tôi, hạnh phúc của tôi. Anh đã đẩy tôi vào con đường chết.

    Lực thở dài:

    - Ở đời chẳng bao giờ được hết mọi thứ cả, được cái này thì mất cái kia. Nhưng anh van em đừng phá thai, làm thế tội nghiệp con chúng ta.

    Lại có người đến, câu chuyện dừng ở đó. Những ngày tiếp tôi thấy anh có vẻ suy tư tính toán, còn cái mặt của anh nửa tháng sau mới khỏi. Ðến lúc ấy tôi cũng chưa hiểu về con người đã có một đêm chăn gối. Một lần tôi hỏi anh:

    - Cha mẹ anh còn không?

    Câu hỏi đột ngột của tôi làm Lực xúc động, anh khóc. Sau anh kể với tôi: bố anh chết bệnh bốn năm nay rồi. Mẹ anh cũng mất cách đây gần ba năm. Bà bị bệnh tai biến mạch máu não đúng vào học kỳ năm cuối cấp III nên anh phải dành nhiều thời gian chăm sóc mẹ. Mẹ anh mất đúng ba hôm trước ngày thi tốt nghiệp. Học hành do thiếu sự tập trung, mẹ lại mất đúng vào dịp thi, nên anh đã trượt tốt nghiệp. Nhà anh có ba anh em trai thì hai người đều học hết phổ thông, đi bộ đội và đã ra tiền tuyến, còn một mình anh nên buồn lắm. Anh cho biết đã xin nghỉ việc vào đầu năm tới để ôn tập lại chương trình cấp III, xin thi tốt nghiệp và nộp đơn thi vào đại học, vì nhà có ba anh em thì hai anh đã đi B, nên anh xin thi đại học chắc sẽ không có gì trở ngại. Anh nói thêm: ở đời không mấy người hiểu và thông cảm với anh, anh cô quạnh...

    Chà, nghe Lực kể về hoàn cảnh gia đình, về anh, về hướng đi tới, tôi thấy bùi ngùi.

    Tôi quyết định làm trọn hai tháng sẽ nghỉ. Biết tôi chỉ còn ở công trường hai ba ngày nữa, tôi thấy vẻ mặt anh vừa buồn vừa có vẻ toan tính một việc nào đó. Rồi anh xin phép nghỉ một ngày, sáng hôm sau anh lên, chờ lúc vắng người, với vẻ thành thật anh nói với tôi:

    - Cuộc đời éo le trắc trở, anh đã gây nhiều phiền hà rắc rối cho em, hãy tha thứ cho anh. Bằng tấm lòng thành và trách nhiệm, em hãy vui lòng nhận món quà nhỏ của anh.

    Anh đưa cho tôi một gói nhỏ bọc trong giấy báo, tôi hỏi:

    - Thứ gì thế này?

    - Tiền, đây là tiền mẹ anh tiết kiệm, tiền anh góp hai năm qua, tiền của hai anh đi B, anh đưa em 1.500 đồng để phòng lúc ốm đau hoặc là thêm vào chút đỉnh để tăng dòng sữa cho con.

    - Không, tôi không nhận đâu, anh cũng cần chi tiêu sau này, cầm về mà lo cho anh.

    - Anh còn để lại 1.000 đồng (lúc ấy vàng 30 đồng/chỉ) cũng đủ dùng vào những năm tới, hãy cầm lấy đi em.

    - Cảm ơn anh, tôi không nhận. Tôi chỉ xin anh một điều: là sau này xin anh để cho tôi yên, đừng gặp tôi, đừng gặp con, đừng "triển lãm" chuyện chúng ta ra với mọi người.

    - Việc ấy thì được, nhưng cũng tùy điều kiện.

    Lực thẫn thờ, nhìn ra phía chân trời xa xôi. Gói tiền vẫn để trên bàn, tôi ép anh:

    - Nếu anh muốn nói chuyện nữa thì anh phải cất tiền đi.

    Lực tần ngần, bất đắc dĩ anh làm theo ý tôi. Anh cất tiền đi, rồi ra nói chuyện tiếp. Tôi hỏi anh:

    - Anh có người yêu chưa?

    - Ðã có nhưng lại chưa có - Ðôi mắt anh nhìn tôi rất sâu anh tiếp - Chiến tranh không thể ngăn được yêu đương, nhưng với tuổi trẻ, yêu đương trong chiến tranh nhiều khi là sự đánh đố trước số phận cuộc đời.

    - Thế bao giờ anh lấy vợ?

    Ðôi mắt anh đang nhìn về phía chân trời vô định, rồi anh quay lại tôi:

    - Chắc không bao giờ. Nhưng nếu có chuyện ấy thì chỉ có em là người đứng lên tổ chức hoặc là em trở thành người giới thiệu mà thôi.

    Tôi vụt nghĩ đến cô em gái đang học cuối cấp III của tôi.

    Ngày tôi rời công trường, Lực chào tôi, rồi đi về huyện có việc. Lúc sắp về chỉ còn ông Thảo và tôi ở lán, ông Thảo hỏi tôi còn quên gì nữa không, ông ta kiểm giúp, bước lại sát bên tôi. Bỗng ông ta ôm chầm lấy tôi, một tay ông ghì chặt vai, còn tay kia ông tranh thủ lần mò. Tôi cố giãy mãi mới buột khỏi tay ông. Bằng điệu cười hô hố của một người ngoại tứ tuần, ông nhăn nhở, trơ trẽn bảo tôi:

    - Mẩy đấy nhỉ, về nhé, hôm nào cậu đến.

    Thật là quỷ sứ.

    Tôi về nhà, mẹ chồng tôi bảo: "Về là phải vì thai nghén, đi lại vất vả, ảnh hưởng đến đứa trẻ". Những ngày tôi mang thai, bà bắt tôi tránh làm những việc nặng, mỗi tuần bà mua cho tôi hai ba con cá chép, mỗi con độ hai ba lạng, bà đem nấu cháo mỗi lần một con, trông cho tôi ăn hết bà mới chịu. Bà nói theo kinh nghiệm dân gian, ăn cá chép dễ sinh và da đứa trẻ thêm đẹp. Bà còn dặn thêm: "Khi có mang phải gạt bỏ cái xó xỉnh "bờ đê gốc dứa" ấy đi, hãy nhớ thằng Hòa, làm được việc ấy, đứa trẻ sẽ giống người mình yêu".

    Những đêm không ngủ, tôi giận Lực, giận mình. Tôi căm thù quân xâm lược. Không biết ở đất nước này có bao nhiêu người lính vào cảnh bất hạnh như Hòa của tôi, có bao nhiêu người vợ lỡ lầm và đau khổ như tôi, có bao nhiêu bà mẹ ở vào cảnh ngộ như mẹ chồng tôi. Qua nhiều đêm thao thức mỗi khi đặt tay lên bụng, cái thai càng ngày càng lớn, tôi càng thấy thương Hòa của tôi. Có lần tôi hỏi mẹ chồng:

    - Bu ơi, gia đình ta là gia đình liệt sĩ, anh Hòa lại là con độc nhất, nếu ngày ấy bu xin ở lại thì chắc chắn anh Hòa không phải đi, tại sao bu không xin.

    Câu hỏi của tôi vừa thành thật, nhưng cũng hàm ý trách khéo mẹ chồng, mẹ tôi kéo tôi nằm sát lại, bà nói:

    - Bu biết chứ, nhưng bu không làm thế, chẳng phải là vì vinh dự hay sĩ diện gì. Việc tuyển bộ đội đã có chỉ tiêu cho từng xã, con mình không đi thì phải thế con người khác vào cho đủ. Mình xa con đã thấy lo lắng, thương nhớ như cào cấu ruột gan, biết thế mà mình cứ đẩy cho người khác phải chịu thì ác quá. Mặt khác cha ông mình có câu: "Giặc đến nhà, đàn bà cũng đánh", bu già rồi, thằng Hòa đi đánh giặc là rất phải đạo.

    Nghe mẹ tôi giải thích, lúc ấy tôi nghĩ cũng chỉ là một cách nói. Sau này càng ngày tôi càng hiểu, một người bình thường ở nơi thôn dã như mẹ tôi, đã từng nếm vị cay đắng của chiến tranh, nhưng ý thức về đạo lý làm người, ý thức về việc nước thật trong sáng, rõ ràng, mạch lạc.

    Sau khi tôi sinh con trai, mẹ tôi đặt tên cho nó là cu Hoài. Có điều lạ là nó rất giống anh Hòa của tôi. Khi cu Hoài đã cứng cáp, qua thời kỳ kiêng khem nghiêm ngặt theo sự hướng dẫn của mẹ chồng, tôi mới được làm việc đồng áng. Mẹ tôi bảo: "Cháu khỏe, mau lớn, ngoài việc đồng ruộng mẹ mày còn phải tham gia công tác cho vui, đừng dựa vào có con mà bê trễ công việc được giao". Có điều lạ, là mỗi lần tôi nhắc đến việc làm khai sinh cho cháu, thì mẹ tôi lờ đi, bà nói: "Việc ấy để bu lo". Khi cu Hoài được 7 tháng, mẹ tôi mới đi làm giấy khai sinh cho cháu. Thì ra bà làm chậm phần vì để xem "mặt thằng của nợ ấy" có xoay xở gì không, mặt khác để mọi người không tò mò, lãng quên không để ý tới. Làm giấy khai sinh rồi, bà đem về bảo tôi:

    - Thằng Hòa đi 1-10-1963, mẹ khai sinh cho cu Hoài vào 18-7-1964, tức là tính 9 tháng 10 ngày thì đúng vào dịp thằng Hòa nghỉ phép. Cầm lấy cất đi cho cẩn thận. Cha mày, lần khác nữa thì mày lo lấy và bu không để yên đâu.

    - Con cảm ơn bu - Nói rồi tôi ôm lấy bà, tôi khóc.

    Cháu Hoài được 2 tuổi, tôi được bầu làm bí thư xã đoàn. Một hôm họp giao ban ở cụm, có ông bí thư huyện ủy đến dự. Lúc tôi phản ánh tình hình và đề xuất công việc tới, ông bí thư rất chú ý nghe, ông nhìn tôi tỏ vẻ hài lòng. Cuối năm đó đại hội huyện đoàn, trước đại hội độ hơn một tuần, ông bí thư huyện ủy và anh bí thư huyện đoàn về xã làm việc có ghé thăm mẹ tôi. Thế rồi một điều bất ngờ đã đến với tôi: tôi đã được đại hội bầu vào ban chấp hành huyện đoàn với số phiếu cao nhất; khi họp chấp hành để phân công, tôi được cử làm phó bí thư huyện đoàn. Hôm đó ông bí thư huyện ủy tỏ ra rất vui, ông chúc mừng tôi và động viên tôi cố gắng hoàn thành nhiệm vụ. Hai hôm sau tôi có quyết định điều lên huyện công tác, mẹ tôi vui lắm, bà giết mấy con gà mời bố mẹ tôi và vài bà con đến ăn bữa cơm vui. Theo ý mẹ tôi: cu Hoài ở nhà với bà, khi đi mẹ tôi dặn: "Ra đời phức tạp lắm con, đừng sai lầm lần thứ hai nữa nhé". Tôi hứa với mẹ tôi: mong bà an tâm, tôi không dám làm điều gì thêm để bà buồn. Công tác của tôi thuận lợi, làm phó bí thư huyện đoàn hai năm, đến năm thứ ba tôi được cử làm bí thư huyện đoàn, được bầu vào ban chấp hành huyện ủy. Lúc này tôi đã học xong chương trình cấp III bổ túc văn hóa. Làm bí thư huyện đoàn được một năm tôi được cử đi học chính trị ở trường Nguyễn ái Quốc, vừa về tôi được bầu vào Hội đồng nhân dân huyện, được Hội đồng nhân dân cử làm phó chủ tịch huyện phụ trách nông nghiệp. Do khiêm tốn, học hỏi, tôi được tiếng là làm việc nhanh nhạy, sâu sát, có tín nhiệm với các ban ngành của huyện và cơ sở. Khi sang ủy ban huyện, tôi đón mẹ tôi lên ở một gian tập thể để có điều kiện gần gũi chăm sóc mẹ tôi và cu Hoài. Ðã là năm 1971.

    Sang ủy ban huyện công tác, tôi hay chạm trán với hai nhân vật cũ là ông Thảo và anh Lực. Ông Thảo hay làm việc với tôi, mỗi lần làm việc ông ta luôn lắp bắp: "Báo cáo chị... báo cáo chị". Có lần ông ta nheo mắt nhìn tôi với giọng cười hô hố, ông ta nói: "Báo cáo chị... so với dịp ở công trường thì bây giờ chị mập mạp hơn nhiều...". Ông ta đưa mắt lướt một lượt toàn thân của tôi. Thật là láu cá. Sau ông ta được cử làm trưởng phòng thủy lợi, tôi không phản đối.

    Còn Lực - người mà em gái tôi gọi là "người không có trái tim" tôi đã chạm trán trong hai năm ở ủy ban. Anh đã vào đại học kinh tế tài chính năm 1964 cùng cô em gái tôi. Em tôi kể rằng: Lực rất chịu khó học, anh tốt nghiệp loại giỏi, do chăm học, ra trường anh có thể tự dịch và nói được tiếng Nga, tiếng Anh và tiếng Trung Quốc. Anh không có bạn gái, thường lẩn tránh mỗi khi bạn gái mời đi chơi. Em tôi bảo: "Nếu anh ta có trái tim thì em đã là vợ anh ấy rồi, hay là anh ta "ái nam ái nữ". Nghe nói, tôi quay đi và trả lời: "Không biết...". Sau khi tốt nghiệp, Lực về huyện công tác đến năm tôi sang ủy ban thì anh ta được cử làm phó phòng lao động. Lực làm việc tốt, có uy tín, đấu tranh thẳng thắn. Bất đắc dĩ anh ta mới làm việc với tôi, anh gọi tôi bằng "chị", xong việc anh ta đứng lên đi ngay, vội vàng. Tuy nhiên đôi lúc ở xa xôi tôi vẫn nhìn anh bằng con mắt thiện cảm. Anh chẳng bao giờ đến chỗ tôi ở. Cả huyện này đặt cho anh cái tên "Lực lim" tức là tình cảm của anh khô khan như gỗ lim.

    Rồi một hôm sau nửa tháng, tôi đi tập huấn lớp củng cố cải tiến quản lý hợp tác xã ở trên tỉnh về thì Lực đến nơi tôi ở. Mẹ tôi nghĩ anh đến bàn công tác nên bà không để ý, bà đi sang nhà hàng xóm thăm mẹ con bạn tôi mới đến chơi. Lực cho biết sáng mai anh ta sẽ lên đường đi dân công hỏa tuyến, đoàn quân của huyện có trên sáu trăm người, huyện cử anh làm đoàn trưởng. Tôi nghe tin này đột ngột quá, vì sao họ lại cử anh đi? Theo bình diện các gia đình ở hậu phương thì gia đình anh đóng góp như thế là đã quá đủ rồi. Tôi đang suy nghĩ thì Lực nói là đến chào tôi. Anh xin lỗi vì những gì đã xảy ra 9 năm về trước, và anh xin phép tôi cho anh được hôn cháu Hoài một lần. Cu Hoài vừa đi học chiều về, chờ nó chào hỏi xong, anh gọi nó lại gần, anh ôm nó vào lòng và hôn lên trán, lên má nó. Tôi thấy anh rưng rưng nước mắt, anh nói với nó: "Chịu khó học và ngoan nghe con". Sau vài phút anh đứng lên về, chúc tôi gặp nhiều may mắn trong cuộc sống. Anh nói nhỏ câu cuối cùng: "Mong Thuận hiểu anh". Ði được vài bước anh vụt quay lại, ôm chầm lấy cu Hoài lần nữa, nước mắt anh dàn dụa. Khi Lực đi rồi, cu Hoài hỏi tôi: "Sao chú ấy khóc hở mẹ?". Tôi trả lời: "Vì chú ấy đi nam". Sáng hôm sau Lực lên đường, cùng lãnh đạo của huyện tôi cũng có mặt để tiễn quân, tiễn anh. Khi bắt tay tôi, Lực nói nhỏ: "Ðừng buồn anh nghe em". Tôi khẽ gật đầu. Sau ngày Lực lên đường, tôi đến ông chủ tịch ủy ban chất vấn về việc cử Lực đi, ông cho biết vì Lực là cháu ông, ông đấu tranh để Lực ở nhà không tiện. Tôi lại sang ông bí thư huyện ủy, ông trả lời: "Khối kẻ đánh giặc mồm thì mạnh lắm, nhưng khi cử đi tiền tuyến thì nhiều lý, lắm lẽ. Chú đã bàn với tổ chức tính để Lực đi một năm gọi là thử thách, sau nó về sẽ đưa vào cấp ủy và ý định giao cho nó làm chủ tịch huyện. Hôm nay cũng như lâu dài, phải có những người chủ chốt ở huyện nhà có đạo đức, có trình độ, có năng lực. Những yêu cầu ấy xem ra Lực có khả năng đáp ứng được". Nghe sự giải thích của ông bí thư huyện ủy, tôi an tâm và mừng với anh.

    Lực ra tiền tuyến được hơn ba tháng, một hôm tự nhiên tôi thấy ông chủ tịch vẻ mặt đau buồn, vào phòng làm việc của tôi, ông nói: "Thuận ơi! Thằng Lực hy sinh rồi, nó bị trúng bom trên đường làm nhiệm vụ". Tôi bủn rủn chân tay, mắt tôi nhòa lệ. Ông chủ tịch bảo tôi: "Bác hiểu!". Ðây là lần đầu tiên ông xưng hô với tôi như vậy. Hai tháng sau có giấy báo tử của Lực. Lễ truy điệu anh được quyết định tổ chức ở dưới quê. Biết tin này, tôi thấy sự thương tiếc anh thể hiện ở nhiều người trong các ban ngành. Mấy chị, mấy cô ở phòng thủy lợi, phòng lao động và văn phòng ủy ban khóc sưng cả mắt. Mọi người đều khen anh: chịu học, chịu khó làm việc, khiêm tốn, đứng đắn và chân thành. Tôi buồn, cái buồn vừa có lý trí, vừa có tình cảm, cái buồn đó có sự đúng, sự sai...

    Ðêm ấy tôi thao thức, thở dài, thương nhớ Lực. Lực không phải của tôi, nhưng dẫu sao anh vẫn là người cha bí mật của cu Hoài. Càng nghĩ tôi càng thấy rối bời không sao chợp mắt được. Mẹ tôi hình như có linh tính, tự nhiên bà hỏi tôi:

    - Thuận, con có thể nói cho bu nghe bố cu Hoài là ai không?

    Tôi suy nghĩ hồi lâu mới dám trả lời:

    - Con thưa thực với bu, bố cu Hoài là anh Lực mà mai là ngày truy điệu của anh.

    Mẹ tôi lặng thinh, đến hơn tiếng sau thấy tôi vẫn chưa ngủ, bà dậy vặn đèn lên cho sáng, bà gọi:

    - Cái Thuận, dậy bu bảo.

    Lúc này tôi mới thấy lo, vì khi biết đích xác bố cu Hoài bà có thể nổi lòng tự ái, có thể sáng mai bà sẽ bỏ mẹ con tôi ở lại để về quê, lại có thể bà làm ầm lên thì bất tiện. Tôi lo đến không thở nổi, nhưng vẫn phải dậy để nghe bà phán quyết. Bằng một giọng ôn tồn, bà hỏi tôi:

    - Con định thế nào trong lễ truy điệu anh Lực?

    - Con không đi bu ạ.

    - Nghe tao, điều ấy không nên, ở đời chuyện nào ra chuyện ấy, không nên giằng chuyện nọ xọ chuyện kia. Thằng Lực nó hy sinh vì nước, tao cũng thương nó đây (mẹ tôi khóc thật). Một ngày là nghĩa, tao cho phép con về thắp cho nó nén nhang để nó yên nghỉ dưới suối vàng. Phải cho cả cu Hoài đi nữa.

    - Nếu bu cho con đi thì con cũng không cho cu Hoài đến đó, bu hiểu cho con.

    - Không xử như vậy được con ạ. Xử như thế là trẻ con. Ngay cả bu nếu ngăn cản nó thắp hương cho bố nó là tàn ác lắm, thất đức lắm. Phải cho nó về, dù là chẳng cho ai biết mục đích, nhưng phải để nó thắp nén nhang cho bố nó. Ðược thế, hẳn bố nó ở dưới suối vàng cũng vui lòng. Biết đâu bố nó sẽ phù hộ cho gia đình mình may mắn.

    Ðã khuya, mẹ tôi đi nằm, còn tôi thao thức đến sáng. Hôm sau mẹ tôi dậy rất sớm. Bà bảo tôi chờ bà về rồi hãy đi làm, bà đi có việc. Ðợi mãi 7 giờ mới thấy mẹ tôi về mang theo hai chục huệ, ba thẻ nhang. Mẹ tôi bảo: "Hai chục huệ với hai thẻ nhang là của mẹ con mày. Cho bu gởi một thẻ nhang để viếng thằng Lực". Chiều đó tôi và cu Hoài đến trước. Tôi đi với danh nghĩa là đại diện ủy ban huyện vì hai đồng chí phó chủ tịch khác đi vắng. Tôi và cu Hoài vào nhà Lực, căn nhà mà anh đã từng gắn bó, từng lớn lên ở đây. Thấy tôi mọi người ra đón, trong đó có ông bác anh là thủ trưởng của tôi. Trên bàn thờ có ảnh anh Lực, khói hương nghi ngút, sau lời chia buồn, tôi xin phép được thắp nhang cho anh. Lúc ấy cu Hoài tự nhiên rút ra một băng tang bằng vải đen đeo vào cánh tay phải, thì ra mẹ tôi đã chuẩn bị và dạy nó cách dâng hương, cách lạy. Làm xong thủ tục tự nhiên nó tiến lại bàn thờ hai tay nâng tấm ảnh anh Lực lên, miệng nó mếu máo: "Chú Lực ơi! Hôm đi chú còn hôn cháu cơ mà". Tôi lặng người. Ông bác anh rút khăn lau nước mắt...

    Lễ truy điệu anh Lực được tổ chức trọng thể tại sân đình làng, có tới mấy trăm người dự. Hôm đó tôi được ủy ban phân công đọc điếu văn. Tôi duyệt lại một lần trước khi đến sân đình. Câu cuối cùng của bài điếu văn ghi: "Với tấm lòng thương nhớ vô hạn, chúng tôi xin vĩnh biệt anh". Tôi ghi thêm vào: "Xin vĩnh biệt anh, xin vĩnh biệt" để nói thêm cho tôi và cho cu Hoài. Tới đó đọc xong bài điếu, tôi thấy hoa mắt lên, tôi lảo đảo đi về hàng ghế quan khách. Sau ngày truy điệu anh Lực, cu Hoài thỉnh thoảng lại hỏi tôi:

    - Mẹ ơi! Bao giờ bố về?

    Mỗi lần nghe con hỏi, trước cảnh đời éo le, trắc ẩn, tôi rơm rớm nước mắt. tôi bảo cháu:

    - Bao giờ giải phóng miền nam thì bố về!

    Tháng 6-1975 anh Hòa có thư về, cả nhà đều vui, và tháng 8 năm ấy anh được về thăm nhà với quân hàm thiếu tá. Mẹ tôi, tôi và cu Hoài mừng rỡ hết chỗ nói vì thấm thoắt mà chúng tôi xa nhau đã tới hơn 12 năm trời. Những ngày đầu gặp lại, lúc vắng anh tôi khóc. Tôi nói với mẹ tôi:

    - Con thực không xứng đáng với anh Hòa, xin bu hãy nói thực với anh, nếu anh chia tay, con cũng không dám phàn nàn gì.

    Mẹ tôi an ủi:

    - Ðời có éo le thật đấy, nhưng "nước đã đánh phèn, đừng cho bùn lại vẩn lên mấy lần". Ðời còn dài, hãy ăn ở với nhau cho tốt, bu mong ngoài cu Hoài rồi đây có một hai cháu nữa cho vui. Mày mà lôi thôi là mày giết bu đấy...

    Cuối năm ấy chồng tôi chuyển ngành về Sở thương binh xã hội. Chúng tôi sống tiếp những ngày êm thắm và có thêm hai cháu trai nữa. Giữa cuộc sống thanh bình, yên vui của gia đình thì mẹ tôi đột ngột ra đi, để lại một khoảng trống trong gia đình, trong tôi, không thể lấy gì bù đắp.
Đi dân nhớ, ở dân thương!

Sao_Online

"Thủy chung" - Bài ca của đàn bà (Trần Thị Trường)

    Tôi vội vã dúi những bộ áo váy vào trong cái túi du lịch, miệng la hét thằng con trai. Nó cứ lươn khươn, dầm dề như thể định chống lại lệnh của tôi, như thể sẽ không đi cùng tôi, mà ngày thì đã trưa lắm rồi. Hôm nay không đi xe của ông ấy, mẹ con tôi phải thuê xe ngoài bến. Ðể ông ấy khỏi biết, cũng là để trong nhà, kẻ ăn người làm không bàn tán xuýt xoa. "Kẻ ăn người làm", ý tôi muốn nói là những nhân viên dưới quyền chồng tôi quản lý.

    Không thể để cho họ biết, thủ trưởng của họ "đang bị vợ con theo dõi bắt quả tang bồ bịch". Nếu họ biết, chắc rằng họ sẽ có cớ để lôi thêm vào đó những khuyết tật khác nữa và không khéo họ đánh bật ông khỏi cương vị này.

    Loanh quanh với mấy bộ áo và thằng con, mãi rồi tôi mới đi được. Ðến sân gôn thì trời đã về chiều. Một vùng cây cối xanh tươi, gió hồ man mác. Sơn thủy hữu tình, nhấp nhô đồi thông, bãi tắm, sân gôn và các nhà đa mái ẩn hiện trong những lùm cây xanh biếc. Người ra kẻ vào, những chiếc ô tô sang trọng, những cô gái xinh đẹp thoang thoảng mùi nước hoa. Một không khí quý tộc và trưởng giả. Thằng Nam nhà tôi háo hức nhìn, vẻ mặt bực bội của nó biến đâu mất, thay vào là hân hoan, thích thú. Nó bảo: "Ðấy mới là thế giới của con người". Một tốp đàn ông quần soóc trắng, áo may ô, bước từ con đường rải đá răm vào phòng uống. "Câu lạc bộ - Bia - nước khoáng". Trông họ cường tráng, cơ bắp cuồn cuộn, đầy sức sống. Câu chuyện của họ xoay quanh bãi tập, đường ban, thi thoảng nhắc đến vài cái tên của các cô gái nhặt bóng nào đó: Nga, Huyền, Kiều, Mị họ gọi đó là "sự gợi hứng cho nghệ thuật và thể thao". Họ trạc tuổi chồng tôi nên bất giác tôi ngượng ngập về thân thể mình: dù được khoác một bộ trang phục với những đường may tuyệt khéo và chất vải mềm mại, tôi vẫn là người hơi đậm, lùn và chậm chạp - đàn bà ở tuổi ngoài bốn mươi, không giấu được. Thằng Nam, khác hẳn lúc khởi hành, với vẻ mặt bất đắc dĩ, buồn bực, nó nói thẳng không thích thú cái việc đi đánh ghen với mẹ. Nhiều lần nó định quay về, tôi phải lấy cái quyền làm mẹ ra lấn át, bắt buộc nó mới xong. Tôi còn nói thêm:

    - Danh dự và hạnh phúc gia đình ta đang bị đe dọa nghiêm trọng. Nguy cơ mất tất cả đang đe dọa chúng ta. Con biết thế nào là người đàn ông mê gái không? Nhất là người đàn ông ấy có địa vị, có tiền bạc và tên tuổi?

    Hai mẹ con dừng lại ở phòng tiếp đón. Tôi vào hỏi danh sách thuê phòng. Mấy cô gái tròn xoe mắt nhìn tôi, có cô hơi nhếch mép cười. Người mang số 36, một thanh niên, bảo: "Xin lỗi bà, đó là một việc không thể. Ðể làm đẹp lòng bà, chúng tôi phải xâm phạm vào bí mật của người khác và đó là tự do của họ, xin bà hết sức thông cảm cho". Tôi ứa nước mắt vì xấu hổ. Ðiều anh ta nói hết sức đúng, lại giản dị mà sao tôi không hiểu ra. Quyền làm vợ không phải là tất cả. Quyền làm vợ chỉ to trong căn hộ của mình thôi. Tôi cũng hiểu như vậy. Song nỗi đau lớn hơn sự xấu hổ ấy. Với nỗi đau, tôi có quyền làm mọi nhẽ. Tôi đưa mắt nhìn thằng con, nó đang ngắm cảnh vật ngoài sân gôn. Tôi phân vân một lát rồi quả quyết hành động, lần này thì chín chắn hơn. Tôi cười, đổi giọng:

    - Bạn thân mến này, có chút hiểu lầm, không phải mình định tìm ai đâu; mình muốn thuê phòng nghỉ ấy mà. Cho mình lấy phòng đôi, đây là chứng minh thư của mình và khai sinh con trai mình...

     Tôi đưa các thứ giấy tờ. Người tiếp viên số 36 nói:

    - Xin trả lại bà giấy tờ của cậu nhà, chúng tôi chỉ cần biết một người để liên hệ mà thôi.

    Hai mẹ con tôi lên lầu 2, buồng số 10. Ðứng trong buồng nhìn qua cửa sổ có thể thấy toàn cảnh khu nhà nghỉ này. Những sân gôn cách nhau một hồ nước, nhìn rõ cả những người chơi gôn. Các quả bóng băng qua mặt hồ sang lỗ gôn bên kia, cũng có khi đường ban đi ngắn, quả bóng rơi xuống nước. Lập tức các cô gái còn trẻ, các cậu thiếu niên chạy ào xuống nhặt. Chồng tôi, người ta cũng mới biếu một cây vợt, nghe nói đến mười triệu đồng. Việc chơi bời kéo theo những lơ đãng trong quan hệ vợ chồng làm tôi chán nản, nhiều lúc tôi định đập gẫy cây vợt đó ra...

    Cất quần áo vào trong tủ, trong khi cậu con trai tôi giơ ống nhòm nhìn ra sân gôn, tôi đi đặt bữa ăn chiều. Lúc ra cửa, tôi gặp một cô gái quá đỗi xinh đẹp. Làn da mịn màng đỏ au màu nắng, eo lưng thon nhỏ, ngực nở nang, gương mặt rạng rỡ, môi thắm hồng. Bộ đồ soóc may ô càng làm tăng vẻ trẻ trung của cô. Thảo nào đàn ông có thuật ngữ "tươi mát", cô cười cả với cánh cửa, với hành lang, với tôi, nụ cười rạng rỡ cả không gian. Cô mở phòng 12 rồi mất hút sau cánh cửa. Tôi đi xuống tầng dưới trong tâm trạng u buồn. Phải chi thời gian đừng trôi đi như đã trôi đi. Phải chi tôi có thể níu kéo thời gian, có thể đánh đổi bất cứ giá trị nào để tôi không già đi như thế này, để tôi dừng mãi mãi ở tuổi hai mươi như cô gái ban nãy.

    Tiếng thở dài bật ra, tôi bất giác đưa mắt nhìn xuống lớp mỡ bụng. Rồi cố bước đi thật nhanh để chữa sự vụng về chậm chạp của mình. Tất cả đã vèo đi nhanh thế, chỉ còn lại đây các vết nhăn và nỗi u buồn cùng các cơ bắp nhão nhoẹt. Cái ngày tôi ở tuổi hai mươi cũng biết bao chàng trai vây quanh và ông ta là người đã trổ hết tài để lấy tôi. Còn bây giờ, ông đang hết sức thận trọng để tránh xa tôi mà không ai biết, kể cả tôi, ông cũng tưởng tôi không biết là ông chỉ ở gần tôi đúng như nghĩa vụ quy định. Còn đâu là đam mê, còn đâu khát khao cháy bỏng...

    Người bán vé ăn cho tôi biết, nếu ăn ở phòng lớn thì bữa ăn khá ồn ào vì ở đấy gồm những người đầy phấn khích sau khi chơi thể thao. Còn nếu muốn yên tĩnh, nhà ăn sẽ phục vụ tại phòng riêng. Tôi đã có chủ đích bắt quả tang nên tôi mua vé ăn phòng lớn, hy vọng ông và cô bồ cũng đến ăn ở đó. Trong suốt bữa ăn tôi không nhìn thấy ông ấy đâu cả. Ngoài trời hoàng hôn dần thẫm. Thằng con tôi nhắc khẽ:

    - Con thấy mẹ không lịch sự, cái nhìn nhớn nhác của mẹ hệt như một tên mật thám đang rình mò.

    Tôi ngượng ngập nhưng cố thanh minh:

    - Thì mẹ chỉ nhìn thôi chứ có làm gì đâu! Mẹ nén nhịn đến thế là tốt lắm rồi đó.

    - Nhưng có ai rình mẹ đâu?

    - Mẹ thì làm gì để bị rình cơ chứ?

    - Mỗi người có sở thích riêng, có cách chơi riêng. Mẹ ưa gì, bố có bao giờ ngăn cản?

    Tôi còn mải nhìn để tìm ông ta, nên không muốn tranh cãi với nó. Vả lại nó còn bé quá, làm sao hiểu được vợ chồng là một cuộc chơi chung ở mọi phương diện?

    Thằng con nhắc lại:

    - Có khi mẹ nghe nhầm, người như bố còn bao nhiêu việc, thì giờ đâu để làm những điều vô ích?

    - Thế còn cây vợt? Tao thấy người ta bảo ông ấy thường xuyên lên đây, lần nào cũng vậy, vợt, quần áo thể thao, giày, mũ mang đi sạch cả, chơi bời chả là điều vô ích hay sao?

    Nấn ná dùng món tráng miệng, vẫn không thấy tăm hơi ông ấy, mẹ con tôi đành ra về. Tôi lên phòng nghỉ, còn thằng Nam thì thả bộ ra đồi cây. Ðến cửa phòng, tôi mới chợt nhớ ra rằng cô gái phòng 12 cũng không có mặt ở phòng ăn lớn. Không hiểu vì lẽ gì, tôi đột ngột nghĩ rằng ông ta ở trong phòng cô gái. Tim tôi thắt lại, mắt tôi hoa lên, đầu gối khuỵu xuống. Tôi tựa vào tường hồi lâu, tim mới đỡ thổn thức. Mệt mỏi rã rời, tôi ước ao cái chết. Nhưng trạng thái ấy được thay thế bằng câu hỏi: "Tại sao ta lại phải chết nhỉ, ta là người đàn bà đoan chính, lấy chồng một cách xứng đáng như tất cả các phụ nữ nề nếp gia phong, quý tộc và sang trọng, tại sao lại phải chết vì bọn "gái bao cướp chồng"?" Câu hỏi ấy giúp tôi thăng bằng lại. Ðúng hơn là khỏe hẳn lên. Tôi định giang thẳng tay đấm mạnh cửa buồng số 12. Song lóe ra trong đầu tôi câu nói của tiếp viên số 36: "Thưa bà, điều đó không thể. Chúng ta không có quyền xâm phạm bí mật của người khác. Ðó là quyền tự do tối thiểu của mỗi con người". Toát mồ hôi, tôi buông tay xuống rồi ủ rũ chậm chạp bước về mở khóa buồng số 10. Trong phòng mình, tôi như con hổ bị nhốt, gầm gừ với chính mình. Soạt. Tôi nghe tiếng phòng bên đổ một cái gì đó. Ðúng là họ đang ham muốn nhau, khao khát nhau. Mịn màng là thế, đỏ au lên màu nắng, mọng, mát. Ðến mình còn thấy đẹp, còn muốn áp má vào nữa. Tôi cũng muốn làm đổ một cái gì đó, thì cô đơn cũng cần tiếng động mạnh chứ sao! Không, không đủ, phải gào lên cơ. Nhưng rồi tôi không dám, cái môi cô tiếp viên nhếch lên cười mỉa lúc tôi đòi xem danh sách thuê phòng như chế giễu tôi. Tôi ngồi phịch xuống ghế, vơ lấy chai nước uống một hơi. Phải làm thế nào? Làm thế nào ngăn chặn cơn cuồng nhiệt của "chúng" bên kia? Tôi đứng lên thì tiếng thằng con trai vẳng đến: "Mỗi người được hành động theo sở thích của mình, mẹ làm gì ai rình mẹ? Sao mẹ đi rình bố?" "Phải rồi, tôi khát thì tôi uống không ai cấm, nhưng thứ nước tôi khát trong sạch biết bao, thứ mà ông ta khát, nhơ bẩn dường nào?". Nhơ bẩn nào? Ðôi mắt cô gái mặc soóc như muốn hỏi tôi: "Nhơ bẩn nào, ai bảo bà tôi nhơ bẩn? Bà cho rằng thế thì tùy bà, đó là quan niệm riêng của bà. Còn tôi, tôi cười cả với thế giới là vì tôi trong sạch đấy. Thế gian không có điều nhơ bẩn. Có chăng đó là sự ích kỷ mà thôi"...

    Lại có tiếng cười, tiếng cười của cô gái. Hẳn là ông ta đã làm cho cô ta mãn nguyện! Trời! Thế có điên không! Với tôi thì ông thờ ơ. Không, nói đúng ra thì tôi không muốn ông quá gần gũi, tôi ốm luôn mặc dù rất béo. Thân xác tôi rất mệt mỏi, song chỉ thân xác thôi. Tôi muốn ông vẫn phải say mê, ngưỡng vọng quấn quýt tôi như ngày thân xác tôi còn tươi tắn. Và bây giờ tinh thần tôi vẫn minh mẫn lắm, vẫn cần tình cảm lắm, còn ông thì hình như nếu đàn bà không có một thân thể quyến rũ, song hành với tinh thần thì là một bất hạnh cho ông. Ðã có lần hai vợ chồng cãi nhau. Tôi bảo ông đã làm tuổi trẻ, sức lực, nhan sắc của tôi tàn tạ chứ ai? Ông cười: "Ô hay, thế tôi đã làm gì nào, cuộc vui nào chúng ta chẳng vui chung? Bà góp bao nhiêu sức thì tôi góp bấy nhiêu đấy chứ? Có khi tôi còn góp hơn ấy cơ!" Tôi thừa nhận, hai chục năm chung sống, vợ chồng tôi rất hài lòng về khoản tình cảm, chưa kể đến việc ông là một cán bộ cao cấp có trọng trách và làm được rất nhiều việc. Ðuối lý, tôi đành viện cớ: "Vợ chồng là nghĩa trăm năm, phải thủy chung như nhất mới là người tốt". Ông lại cười: "Thì tôi vẫn thủy chung với bà đó thôi, bao nhiêu điều bà cần tôi đều đáp ứng cả, con cái nữa, thằng Nam, con Hải tôi chăm nom học hành, nuôi dạy, tôi có định bỏ bà lấy ai đâu. Thế là thủy chung nhất đấy". Tôi nói: "Nhưng dạo này, ông không đậm đà với tôi, ông cứ vắng nhà tuần một lần đó thôi?". Ông bảo: "Thế bà có muốn tôi đậm đà đâu?". Thế là hết nói. Ðúng, nhiều khi ông ôm ấp ve vuốt tôi, tôi đã kêu lên: "Xin ông để cho tôi yên, tôi mệt lắm...."

    "Dù sao thì...". "Dù sao thì, ông cũng không được phép ôm ấp một thân thể khác, như thế là ông phản bội tôi. Còn danh dự của tôi nữa, của gia đình nữa, nếu ông không định giữ lấy danh dự của ông!..." Suy nghĩ ấy khiến tôi một lần nữa định nhào ra đập phá căn phòng bên cạnh. Bỗng cánh cửa mở ra, thằng con tôi bước vào. Nó vui vẻ xin lỗi tôi:

    - Ðẹp quá mẹ ạ, lẽ ra con phải rủ mẹ đi cùng, để mẹ ở nhà một mình, thật có lỗi. Không khí dễ chịu, thoảng mùi hoa hồng, gió vi vu, xao động cành lá, mẹ cứ ở trong buồng làm sao thấy được?

    Tôi thở dài, con trai tôi hồn nhiên hết chỗ nói. Tuyệt không một lời an ủi mẹ. Nó vào phòng tắm rồi trở ra với vẻ mặt tươi rói: "Thôi con đi ngủ đây".

    Nhìn nó ngủ, tôi ghen với nó. Bao giờ thì tôi có giấc ngủ như vậy? - Không một thoáng ưu tư... Tôi cùng nằm giường đối diện, nhưng không sao ngủ được. Bỗng tôi bắt gặp bức tranh trên tường. Tranh sơn dầu vẽ chân dung người đàn bà trạc tuổi tôi. Trông bà bình thản, mà lại kiêu sa, mà lại sang trọng. Có lẽ họa sĩ thấy cần phải ca ngợi cái vẻ ấy của bà. Và họa sĩ có lý. Người trong tranh nhìn tôi như muốn nói: "Bạn không ý thức được hạnh phúc của bạn, bạn không biết tự hài lòng - Ðiều đó làm bạn trở nên bất hạnh. Ðàn bà ai cũng có một thời và chỉ một thời thôi rồi nhan sắc sẽ tàn phai. Nhưng đàn bà vĩnh viễn đẹp, vĩnh viễn quyến rũ đó là sự yêu thương người khác. Bạn nghĩ đến bản thân nhiều quá!" Tôi cãi thầm: "Nào tôi có ăn ngon mặc đẹp mà quên đi chồng con tôi đâu". Tiếng nói trong tranh lại thì thầm: "Này nhé, bạn đòi chồng nghĩ đến mình, yêu mình, đem lại hạnh phúc cho mình, thủy chung với mình. Thế đã bao giờ bạn đặt câu hỏi ngược lại: "Mình đã làm gì cho chồng, đem lại gì cho chồng chưa?" Tôi lại cãi: "Tôi một đời chung thủy; tôi có ối kẻ theo nhưng tôi không tơ hào đến còn gì". "Thôi xin bạn, thực ra, bạn đã lựa chọn được cái mình ưng ý nhất, hài lòng nhất nên bạn không còn vấn vương điều khác mà thôi. Vả lại, nói nhỏ với bạn nhé, nếu bạn có vấn vương thì sức lực cũng không ủng hộ bạn. Trong những cuộc vui chung với chồng, bạn đã tiêu hết vốn bạn có rồi đấy! Và đó là hạnh phúc của đời người đàn bà nề nếp đoan trang. Bạn còn đòi hỏi gì nữa. Bạn không thấy sự khác biệt giữa đàn ông và đàn bà thì đó là một sai lầm. Ðàn ông, trời cho một tâm sinh lý khác đàn bà. Họ có nhu cầu riêng và cũng có những hiệu quả lao động riêng. Bạn chỉ bất hạnh khi chồng bạn là kẻ ham gái mà lười lao động, hoặc không lao động có hiệu ích cho đời. Còn sai lầm thứ hai của bạn đó là sự ích kỷ nằm sâu trong tâm: bạn không còn khả năng chơi ván bài tam cúc cùng chồng, mà bạn không cho ai chơi với chồng bạn nữa... Này, hãy nhớ lời tôi nói và ngẫm lại. Khi thấy đúng bạn sẽ thanh thản vô cùng, sẽ ngủ ngon, sẽ hoạt bát, sẽ trẻ đẹp lại và mãi mãi hạnh phúc"...

    Không biết bà còn thủ thỉ khuyên nhủ tôi thế nào nữa. Vốn cũng không phải người vô cảm, và bất khả tri nên tôi thấy bà nói hay quá, tôi không còn cãi được nữa, nhịp thở đều hơn, cơn bực tức không còn ùn tắc trong lồng ngực. Bình tĩnh lại tôi ngượng với chính tôi. Liếc nhìn sang thằng con trai, té ra nó "văn hóa" hơn tôi nhiều trong mọi hành động... Tôi thở đều đều và chìm vào giấc ngủ.

    Sáng hôm sau, tôi trang điểm trước gương, ngạc nhiên vì vẻ tươi tắn của mình. Tôi rủ thằng con đi dạo ở chân đồi. Ban mai khoác lên vùng sân gôn một tấm voan mỏng, nhấp nháy các giọt sương. Thoang thoảng hương hoàng lan. Tiếng chim chuyền cành ríu rít. Thiên nhiên đẹp và huyền diệu vô cùng.

    Khoảng chín giờ chúng tôi vào ăn sáng. Tôi bắt gặp nhiều ánh mắt của các tay gôn. Có tiếng trầm trồ. "Phụ nữ của chúng ta luôn luôn đẹp, họ đẹp ở mọi lứa tuổi ông ạ. Ðàn ông chúng ta không cẩn thận họ cho ra rìa cả đấy!" Có tiếng suỵt nhỏ. Lại có ánh mắt nhìn. Lòng tôi rộn ràng, không biết có gì mà vui thế. Một tấm gương lớn treo ở cửa phòng ăn, tôi soi vào, thấy trong gương một người thon thả, kiều diễm và thanh thoát. Tôi nghiêng bên trái, thì người trong gương nghiêng bên phải, tôi giơ tay thì người trong gương cũng giơ tay. Ðúng tôi rồi! ồ! Không có lẽ. Mà không thể. Thay đổi gì nhanh thế?

    Làm gì để có thay đổi? Nhưng dù sao thì cũng chính là tôi. Tôi đang mải ngắm chính tôi thì tôi thấy cao hơn tôi cái đầu, một người cũng đang soi gương và hơn nữa đang nhìn tôi. Tôi ngượng nghịu cúi xuống, bỗng ông ấy cười lên há há: "Ôi vợ anh - em đến chơi gôn đó à?" Tôi nhận ra tiếng ông ấy. Ðằng sau nữa là cô gái mặc soóc. Cô ấy vẫn đẹp như hôm qua. Tôi chìa tay bắt: "Chào cô - chúng ta hình như đã gặp nhau ở hành lang gác 2". Cô nói: "Vâng - thưa bà, cháu cũng mang máng nhưng hôm nay bà đẹp quá, hình như bộ áo váy này hợp hơn với bà thì phải - ông nhà chỉ cho cháu từ đằng xa và bảo: "Ðó là vợ tôi!" Cháu không ngờ ở tuổi bà lại vẫn có thể đẹp đến thế này. Chúng cháu đến tuổi ấy dễ thành nắm bột nhão..." Chồng tôi đặt tay lên vai tôi trong lúc cô ấy ríu rít nói chuyện. Rồi ông bảo: "Nào, nào, ta làm chút gì đi chứ! Tôi đói ngấu đây này". Tôi hỏi: "Ông chưa ăn sáng sao?" Ông lúng túng và ngượng nghịu: "Chưa! Tôi dậy muộn quá". Tôi thoáng nghĩ điều gì đó, lại thôi ngay. Tôi chỉ còn nhớ, y như ở nhà lúc ông ấy đòi ăn, tôi vội vàng vào mua cà phê sữa và một lát bánh phết bơ cho ông, không quên hỏi và mua cho cô gái ổ bánh mì với hai quả trứng ốp lếp. Ông và cô gái có vẻ như ân hận điều gì đó.

    Chiều đến. Ông thuê xuồng cho chúng tôi đi. Xuồng của gia đình tôi lao hết tốc lực làm mặt nước xé ra trắng xóa. Tôi hò reo thích thú như một cô gái trẻ, còn cô gái lại rất âu sầu. Bố con ông ấy luôn nhắc canh chừng: "Kẻo rồi hai chị em lại ngã xuống nước". Lúc trở lên bờ, ông hỏi mẹ con tôi thuê phòng nào. Tôi nó số phòng. Ông bảo: "Em và con về đi, lát nữa anh đến!" Rồi ông đến ngay.

    Ðêm ấy, chúng tôi còn chơi tam cúc đến khuya mới đi ngủ. Tôi quên mất không hỏi cô gái kia "quan hệ thế nào" với ông!

    Cho đến bây giờ vợ chồng tôi thi thoảng đến sân gôn. Khi cao hứng, ông thường hát câu trêu chọc tôi: "Thủy chung, bài ca riêng của đàn bà". Những khi chồng tôi đi một mình, hình ảnh cô gái hiện ra làm tôi có chút chua xót. Song tôi dẹp ngay điều đó lại không cho nó có dịp phát triển. Tôi thấy rằng kể từ khi trò chuyện với người đàn bà trong tranh, tôi trẻ khỏe hẳn lại. Vợ chồng tôi lại đam mê nhau như xưa. Tôi sống trong tâm trạng vui vẻ và thanh thản. Nếu cô gái có xen vào cuộc sống của ông ấy, đi với ông ấy một quãng đường nào thì chưa chắc mọi việc đã xấu đi... Vả lại cũng ít khi ông đi sân gôn một mình. Có điều phải nói thêm rằng cái đêm ở sân gôn, thằng Nam nhà tôi đi dạo một mình, nó đã gặp bố và người bạn trai của ông. Họ đang chơi cờ vua, bên cạnh họ là cô gái trẻ. (Một là cô gái mặc soóc). Thấy nó, lúc đầu ông cũng lúng túng, sau thì bố con, bác cháu đã tranh luận nhiều điều... Mãi sau thằng Nam mới kể lại cho tôi nghe. Nó kết luận rằng: "Nhìn vào đàn ông là nhìn vào hiệu ích cho đời, cho xã hội, cho gia đình của họ, đừng nhìn những hành động chi tiết mà sai lầm mất".

    Ðiều nó nói với tôi không hẳn đúng, theo quan niệm của tôi. Bây giờ, với tôi "ông thế nào" không quan trọng nữa, mà thiết yếu rằng "Tôi đã vươn tới tình yêu" đến đâu. Ðó chính là hạnh phúc.
Đi dân nhớ, ở dân thương!

Sao_Online

Một tối ở quán Bar (Phan Triều Hải)

    Tôi nhớ là chưa bao giờ mình có được một đêm Trung thu nào cho ra hồn ở đất Sài Gòn này ngoài việc năm nào cũng như năm nào đầu óc luôn bận rộn suy tính quanh quẩn với mấy loại bánh nướng, bánh dẻo, nhân đậu xanh hay nhân thập cẩm, một trứng hay hai trứng, vi cá hay gà quay. Mà như thế nào đã đủ nhàm chán. Suốt mười mấy năm ở đây, tôi thấy cũng chẳng có mấy dịp trẻ con được cầm lồng đèn giấy chạy ra ngoài hưởng một Trung thu khô ráo. Hiếm hoi lắm. Và đêm nay chắc cũng thế thôi, chắc cũng như năm ngoái, như năm kia, mà không chừng lại có phần thê lương hơn, bởi mưa đã bắt đầu tầm tã từ hai hôm trước, chừng mười hai âm lịch kéo dài cho đến tận bây giờ. Mưa cho tới tận tối, khi tôi vào quán. Tôi phải chạy men theo cái hành lang hẹp tí xíu lợp mái rơm có nước nhỏ thành dòng, mà nhớ một cái thống kê khoa học mới công bố gần đây rằng, khi bạn thong thả đi bộ trong mưa thì sẽ nhận một lượng nước nhiều hơn khi bạn chạy từ ba mươi đến bốn mươi phần trăm, nói nôm na là sẽ bị ướt nhiều hơn. Và trong lúc tôi vừa đi vừa nghĩ xem làm thế nào có thể từ mái hiên ấy chạy băng qua sân để vào được quán mà ít bị ướt nhất thì một giải pháp giản dị xuất hiện ngay trước mặt với cái mặt dài và một nụ cười đầy vẻ nghề nghiệp. Anh chàng phục vụ quen thuộc cũng y như lần cuối cùng gặp tôi, mái tóc dợn sóng và phong cách nhanh nhẹn, đứng đón ngay từ cuối lối lên đi với một chiếc ô căng rộng và áy náy bảo như thể đó chính là lỗi của anh ta "Chà, mưa gì mà lớn quá chừng".

    Quán hôm nay chỉ có mỗi hai người phục vụ, người kia trông có vẻ lớn tuổi và lặng lẽ mà tôi không quen. Tôi tự tìm chỗ ngồi bên cửa sổ. Bên ngoài trời đang đổ nước xuống một cái sân vắng tanh buồn hiu buồn hắt. Suốt từ sớm tinh mơ, bầu trời đã nhuốm một mầu mờ mờ mịt mịt y như mầu của mùa mưa bão miền trung, khiến không thể nào nhận ra được dáng vẻ của một thành phố lúc nào cũng sắc sảo với nắng, với gió, với khô hanh và khói bụi xe cộ qua lại ào ạt trên đường. Hồi sáng, tôi vào công ty, câu đầu tiên chào mọi người là: "Trung thu ở đây chán thật, năm nào cũng mưa lê thê". Lúc ấy, ai cũng ngẩn người ra, rồi tròn xoe mắt nhìn trời, rồi cố bới móc trong cái trí nhớ già nua và hờ hững của họ xem liệu Trung thu năm trước có thật là đã mưa không, rồi đưa ra một cái kết luận ba phải: "Làm gì có chuyện đó". Tôi không cãi được, bởi phải từng trải qua một đêm Trung thu thực sự thì người ta mới biết mình thiếu gì. Họ ít ra cũng đã từng được hưởng những mùa Trung thu năm nào cũng hứa hẹn như năm nào, trời khô mà xanh đen ngăn ngắt. Phía trên thành cổ, trăng từ từ lên như một ngọn đèn lồng đong đưa soi bóng xuống ao hồ, rót đầy thứ ánh sáng hư thực ấy vào những lá sen có phủ một lớp lông tơ mịn màng, khiến quanh đó ếch nhái bị đánh động bắt đầu cất tiếng, rộ lên nhịp nhàng bất tận như ru. ÍT RA HỌ CŨNG ÐÃ TỪNG ÐƯỢC ÐI CHÂN trần trên những con đường đất lạnh, ngoằn ngoèo luồn qua xóm này, xóm nọ, trên tay bập bùng ngọn đuốc tỏa ra một mùi khói thơm thơm, cay cay, nồng nồng của thứ lửa rất đượm từ lá. Và thế là trong tiếng trống rộn ràng, một Trung thu nữa đến, dịu dàng thơ mộng như mọi lần, như một giấc mơ giản dị hiện ra trong một không gian khô ráo, trong vắt, huyền hoặc.

    Tôi cứ nghĩ lan man như thế cho đến khi người phục vụ quay lại:

    - Anh uống gì? - Anh ta hỏi.

    - Như mọi lần.

   - À, tôi nhớ ra rồi - Anh ta ngẫm nghĩ một chút rồi đáp.

    Lúc ấy, một thanh niên đẩy cửa bước vào, trông dáng vẻ rõ là khách quen, theo sau là một thiếu nữ gọn gàng trong chiếc áo tay ngắn màu ngà và chiếc váy ngắn, để lộ đôi chân thon thả. Cả hai dừng ở giữa quán, nhìn quanh như tìm chỗ ngồi rồi đi về phía quầy bar nơi có treo ngược mấy hàng ly trong suốt khô khốc và những chiếc ghế cao đứng im lìm như thể được đặt ở đó chỉ để trang trí. Tôi không thể rời mắt khỏi đôi chân của thiếu nữ, đôi chân thon mảnh và đầy đặn, đang thả xuôi dưới ghế. Bao giờ tôi cũng cho rằng, cái mà phụ nữ được tạo hóa ban cho hào phóng nhất, không phải là khuôn mặt, mắt hay mũi, mà là đôi chân. Và một phụ nữ đẹp trước hết phải là người có đôi chân đẹp. Ở CÔ GÁI NÀY, ÐÔI CHÂN ẤY như có hồn, chúng cứ thong thả đan vào nhau, rồi lại duỗi ra nhè nhẹ, tất cả cứ khoan thai phối hợp có vần điệu. Cái bắp chân mịn màng thon dài xuống gót, thắt lại nhè nhẹ ở đó như thắt một cái eo, như cấu tạo của một hợp âm, rằng trưởng thì phải như thế, thứ thì phải như thế. Người phục vụ nói:

    - Anh đã chọn được chỗ ngồi tốt.

    - Tôi cũng nghĩ như thế. - Tôi đáp, cái gót chân hồng hồng xinh xinh đang chuồi ra khỏi chiếc giày chật chội.

    - Ngồi ở đây anh có thể nhìn ra khắp trời. - Anh ta tiếp tục.

    - Ðể làm gì?

    - Ðể ngắm nguyệt thực. - Anh ta nói, tay thắp ngọn nến trên bàn. - Sẽ có nguyệt thực toàn phần ngay chính đêm nay, đêm Trung thu. Vậy có lạ không chớ.

    Khi người phục vụ đi vào trong thì tôi ngồi nghĩ xem nguyệt thực nghĩa là gì. Là mặt trời, trái đất và mặt trăng cùng vướng phải một sợi chỉ giăng ngang giữa thiên hà, nhưng cái nào trước, cái nào sau, cái nào ở giữa thì lẫn lộn rối rắm cả. Ngày xưa quả thật tôi có đọc một vài cuốn khoa học thường thức về những hiện tượng như vậy, nhưng không hiểu gì mấy ngoài cảm giác buồn bã nhẹ nhàng về thân phận nhỏ nhoi của mình trên cõi đời này. Lúc ấy tôi nghĩ thôi, không quan tâm đến những sự kiện siêu nhiên ấy nữa vì bao giờ chúng cũng khiến cho tôi có cảm giác vô nghĩa bởi sự bất lực của mình. Mà vô nghĩa là một cảm giác tệ hại. Thế nhưng tôi đã lo xa, về sau này những đề tài ấy đôi khi tôi đọc phải mà chẳng mảy may xúc động. Cảm xúc của tôi đã khác, khác như vậy đó, trơ ra.

    - Lâu quá - anh không ghé chơi. - Người phục vụ quay lại. - Gần một năm rồi, phải không. Tôi nhớ lúc ấy trời mưa. - Anh ta đưa tay áo lướt qua mặt bàn một lượt, như đảm bảo tất cả đều đang sạch sẽ khiến ngọn nến rụt lại một màu xanh trong suốt như ngọc. Bây giờ trời cũng mưa. Hay thật.

    - Có lẽ sẽ mưa suốt đêm.

    - Không, nó sẽ tạnh ngay thôi. - Anh ta nói, đặt tách lên bàn.

    - Ai mà biết được. - Tôi nói.

    - Chắc chắn là sẽ tạnh. - Anh ta quả quyết.

    - Tôi chẳng thấy có đêm Trung thu nào mà không mưa.

    - Vâng.

    Suốt hôm nay, không có ai đồng tình với tôi một cách nhẹ nhàng như vậy.

    - Vậy thì, tối nay cũng sẽ mưa suốt đêm cho mà coi. - Tôi nói.

    - Không. Ðêm nay có nguyệt thực. - Anh ta nhắc lại. - Nguyệt thực toàn phần. Làm sao mà trời mưa suốt được trong khi ai cũng muốn xem cái sự kiện này.

    Tôi ngả người ra ghế. Nguyệt thực là cái quái gì mà phải bận tâm như vậy chứ. Sao mà nhạt nhẽo quá chừng, nếu không có ai đó trò chuyện tôi chắc chết đi được vì chán chường. Tôi nói:

    - Anh ngồi chơi cho vui.

    Anh ta chỉ chờ có thế, kéo ghế ngồi. Tôi hỏi:

    - Anh uống gì?

    - Không. Tôi chỉ ngồi một lát. - Anh ta đáp.

    - Một đêm Trung thu buồn hiu như thế này thì người ta uống gì? - Tôi lại hỏi.

    - Trà nóng.

    Tôi gọi người phục vụ kia:

    - Cho một tách trà nóng.

    Anh ta nhổm dậy:

    - Ðể tôi tự làm lấy cũng được.

    - Tại sao?

    - Tôi không quen.

    - Có gì mà không quen. Tôi mời anh mà. Anh chỉ cần gọi "cho một tách trà nóng" là xong.

    - Không đơn giản. - Anh ta lầm bầm.

    - Tôi kể anh nghe chuyện này, hồi sáng, có một tay người nước ngoài làm việc chung với tôi thu xếp đồ đạc để về nước. Y gói ghém tất cả vào một thùng giấy thật to và bảo tôi: " , kiếm cho tao băng keo dán". Tôi đi kiếm băng keo dán. Sau đó y ngồi trên ghế, tay hút thuốc, hai chân kẹp thùng giấy, còn tôi cúi xuống dán hết mọi ngóc ngách cái thùng ấy, mà nghĩ, vì sao ta phải làm cái việc vặt này mà nó không làm. Ðây là cái thùng giấy của nó, nó phải tự lo chớ. Nhưng y lại bảo tiếp, "Làm ơn kiếm giúp sợi dây buộc để làm quai". Thế là tôi đi vào kho tìm một sợi dây, mặc dù ấm ức lắm rồi. Khi buộc cái thùng cho y, tôi tự bảo, sao mày ngu thế, rõ ràng là vừa ngu vừa hèn. Nhưng đến khi tôi thắt cái quai cho y, thì tôi nghĩ, cái thùng giấy này nặng thật, nó mà nói mình khiêng xuống nhà thì phải làm sao đây. Chính lúc ấy, y nói "Cái thùng giấy này không nặng lắm đâu. Lát nữa đem giúp xuống nhà dưới nhé". Lúc ấy, đột nhiên chẳng nghĩ ngợi gì cả, tôi nói, giọng rất to, "Không, đó là việc của mày, không phải việc của tao". Y sững người, dụi tắt điếu thuốc, và tự tay xốc cái thùng giấy ấy lên, sượng ngắt mà nói "Thôi tôi đi đây. Cám ơn nhiều". Tôi thấy vậy đó. Giống như anh gọi một tách trà. Bất cứ chuyện gì mà anh không tự tin được, anh hãy xử sự như thể anh đang gọi một tách trà. "Này, cho một tách trà".

    - Nhưng ngay cả một tách trà tôi cũng không gọi được.

    - Khi gọi, anh không nên suy nghĩ nhiều.

    Chúng tôi cứ ngồi như thế một lát nữa mà không nói chuyện gì. Nói chung, tôi cần có người ngồi bên cạnh nhưng lại không muốn phải nói chuyện. Bên ngoài, nước theo mái rơm từng dòng nhỏ xuống. Những ghế ngồi rải rác trên lối đi trải sỏi đọng nước LẤP LÁNH. Ở BÀN TRONG, ÐÔI thanh niên ấy vẫn ngồi im lặng. Cô gái khoanh tay trước ngực, cái lưng mảnh dẻ có buộc một chiếc áo khoác ở cái eo nhỏ. Ðôi chân cô vẫn duỗi ra như thế, thanh thoát, sang trọng. Quả là một đôi chân có hồn. Một đôi chân mà người ta càng ngắm càng yêu.

    - Ðêm nay quán mở cửa đến mấy giờ?

    - Có lẽ suốt đêm.

    - Thật à. Nếu thế thì tôi sẽ ngồi suốt đêm.

    - Vâng. Nguyệt thực sẽ diễn ra vào lúc không giờ ba mươi phút sáng.

    Tôi ở lại vì chuyện khác. - Tôi nói. - Tôi chỉ muốn ngắm đôi chân kia. Một đôi chân quá đẹp, phải không.

    Người phục vụ đưa mắt thờ ơ nhìn.

    - Không.

    - Tại sao. Ðó là một trong những điểm hấp dẫn nhất ở phụ nữ.

    - Nhưng tôi không thích những ngón chân để trần. - Anh ta nói.

    Tôi ngắm cái bàn chân đang rất là thảnh thơi ấy.

    - Những ngón chân ấy cũng đẹp.

    - Không. Không có những ngón chân đẹp. Ngón chân là một món thừa thãi, không nên để trần trụi ra ngoài.

    - Vì sao?

    - Tôi không biết vì sao. Nhưng những ngón chân lúc nào cũng khiến tôi có cảm giác về sự trần tục. Chúng trông có vẻ xác thịt.

    - Trời đất. - Tôi nói. - Sao anh chỉ thấy có vậy.

    - Anh cũng có thể mua đôi chây ấy đấy, nếu anh muốn. - Người phục vụ nói. - Nhưng mà thôi, tôi đi lấy thêm trà đây. Anh có cần uống thêm gì không.

    - Không. Cảm ơn.

    Dưới ánh đèn vàng phủ lên tường vàng, bàn chân ấy trông nhẹ như một chiếc khăn mỏng ai đó xếp lại rồi bỏ quên trên sàn. Những ngón chân tựa vào lòng giày như đang nghỉ ngơi, đơn giản như thể ta đang cần hít khí trời, ta mở cửa sổ ra và đứng tựa đấy một lát, thư giãn. Nhưng tôi hiểu anh ta, tất cả chỉ đơn thuần là cảm giác mà thôi, như ngày xưa học nhạc, tôi bao giờ cũng có một liên tưởng kỳ lạ rằng nốt ré phải có màu nâu, và nốt la có màu trắng. Ðôi khi như vậy đấy, không thực, nhưng cũng không nhất thiết phải giải thích gì.

    Người phục vụ đi ngang đôi thanh niên ấy, dừng lại một lát cái cằm dài tận tụy gập xuống kẹp chặt chiếc nơ nhỏ. Thiếu nữ vẫn ngồi như thế, tay tựa trên quầy. Cánh tay ấy cũng đẹp, mái tóc thả sau cũng đẹp, đôi vai áo và cái lưng cong nghiêng dịu dàng về phía trước cũng đẹp. Tôi yêu những dáng ngồi trầm tư như thế. Chúng trông vừa sang trọng vừa gần gũi. Một điều hiếm hoi. Người phục vụ trở lại với chiếc tách tỏa hơi nghi ngút trên tay.

    - Có chuyện này không biết phiền anh không.

    - Chuyện gì?

    Anh ta hạ giọng.

    - Tôi đem đôi chân ấy về cho anh đấy.

    - Tôi không hiểu.

    - Anh ngạc nhiên à. Ðôi khi cũng có những điều ta muốn là được.

    Tôi sốt ruột.

    - Thôi, đừng dài dòng nữa.

    - Họ muốn được ngồi cùng bàn với anh.

    - Ðể làm gì?

    - Ðể ngắm nguyệt thực.

    Trong tôi có một cảm giác lạ lùng đang đến.

    - Vậy thì anh mời họ qua đây đi.

    Thiếu nữ ấy có một cái gì đó quả thật đặc biệt, nàng như có một sức hút kỳ lạ ở dáng đi, ở cánh tay đong đưa, ở cái cổ cao, hay ở đâu đó nữa mà tôi không rõ. Tôi chỉ biết là tôi đứng đó, kéo chiếc ghế cho nàng, và người thanh niên kia lên tiếng "Cám ơn", giọng nhẹ nhàng lạ lùng rồi hướng về phía nàng anh ta giới thiệu, "Ðây là em gái tôi. Hôm nay nó muốn ngồi bên cửa sổ". Thiếu nữ nhìn tôi chào, đôi mắt đen, rất sâu. Tôi nói "Không có chi. Tôi cũng không muốn xem nguyệt thực một mình" và thế là tất cả cùng ngồi quanh cái bàn quay ra cửa sổ. Những song cửa lấp lánh một màu kỳ lạ trong ánh sáng nến đang tàn dần.

    - Hình như trời đang tạnh. - Người phục vụ nói.

    Từ mái rơm bên ngoài, nước không còn chảy xuống thành dòng nữa mà đu đưa từng giọt ngắt quãng. Và trên cái nền khuya khoắt của đêm trước, nước thả từng giọt lên lối sỏi nghe tí tách nhè nhẹ, nghe như tiếng chim sẻ vào những trưa hè nhảy nhót đôi bàn chân gầy guộc trên mặt sân xi-măng nóng bỏng trước sân nhà, gõ những cái mỏ mảnh dẻ như vỏ trấu lách tách tìm từng hạt cỏ, hạt thóc lẫn trong khe nứt. Người thanh niên nói.

    - Nguyệt thực sẽ bắt đầu từ không giờ ba phút.

    - Ðúng như vậy. Người phục vụ vui vẻ. Tôi sẵn sàng tiếp quý vị trong suốt ba tiếng đồng hồ sau đó.

    Tôi nhìn đồng hồ.

    - Liệu có ai ngồi xem nổi suốt thời gian ấy không?

    Người thanh niên quay sang thiếu nữ, ân cần.

    - Chúng tôi sẽ xem suốt đêm.

    Thiếu nữ im lặng, mắt đăm đăm nhìn ra ngoài. Người thanh niên nói tiếp, một kiểu nói chuyện lơ mơ lạ lùng.

    - Em tôi muốn thấy trăng sẽ sáng trở lại.

    - Ðiều đó là chắc chắn rồi. - Tôi nói. - Mọi người sẽ được thấy cảnh tượng ngoạn mục cuối cùng của thế kỷ này.

    - Ngoạn mục à? Không đâu, nguyệt thực là một điều không hay.

    Anh ta phản đối, giọng nghiêm nghị.

    - Tại sao phải tin chuyện đó? - Tôi nói.

    - Tôi không biết. Nhưng một cái gì đó đang sáng tự nhiên bỗng bị che lấp đi, đã là một điều bất thường.

    - Ừ, cũng có thể nghĩ như vậy lắm. - Tôi nói.

    Người phục vụ nhỏm dậy.

    - Có phải cái bóng đen ấy không, nó xuất hiện rồi kìa.

    Trên cái nền khúc khuỷu đường nét của những mái nhà, mặt trăng xuất hiện cô độc một mình, tỏa ra một thứ ánh sáng phồn thịnh mà xa lạ, và bên cạnh đó là một khối đen như một đám mây đang trườn đến, chạm ở phần mép sáng nhất. Bóng đen ấy dần dần đi vào, rất chậm rãi, chiếm cái đĩa bạc sáng tươi ấy từng chút một. Người phục vụ nhẹ nhàng đứng dậy bước ra phía cửa lớn, chiếc khăn trắng nhàn nhạt vắt rất nền nếp trên tay. Anh ta ngước nhìn chăm chú ra ngoài, cái cằm dài hất lên, bất động. Trên bàn, ngọn nến leo lét ánh xanh sắc sảo cuối cùng lịm dần nhường chỗ cho một thứ ánh sáng đang chết dần khác, ánh sáng của trăng vằng vặc đang chết dần một nửa. Chính vào lúc ấy, khuôn mặt của người thanh niên ngồi bên cạnh tôi hóa ngây ra.

    - Vậy là nó bắt đầu rồi đó. - Anh ta thì thầm.

    - Ừ, nó bắt đầu rồi đó. - Tôi nói.

    - Nó lại bắt đầu ngay chính vào đêm Trung thu. - Anh ta nói, giọng đều đều. - Anh biết không, Trung thu là đêm mà chúng tôi có cảm giác bao nhiêu điều tồi tệ nhất trên đời này sẽ được gột bỏ. Thật đấy, bao nhiêu chuyện xấu xa sẽ được gột bỏ.

    Tôi nhìn người thanh niên, không hiểu anh ta nói gì. Tôi đang thư giãn, tôi đang muốn duỗi cả thân mình ra trong cái ghế êm ấm này bên cạnh một thiếu nữ xinh đẹp như nàng, và như thế là đủ. Tôi không thích nói nhiều, mà tôi cũng không thích phải nghe ai nói nhiều. Nói chung ai ai cũng có thân phận của mình, ai ai cũng có nỗi niềm riêng thì chỉ thích hợp để cất giữ trong một ngóc ngách nào đó.

    - Tôi chỉ thấy một điều là đêm nay đang tàn. - Tôi nói.

      - Anh thấy nó đang tàn thật à?

     - Ý tôi nói thế là hết một Trung thu. Xong.

    - Với tôi thì nó còn quan trọng hơn thế. Không đơn giản là xong một đêm. - Anh ta nói. - Một đêm như thế này thật là đặc biệt.

    - Tôi thì chẳng thấy có gì đặc biệt. - Tôi nói. - Nó cũng như mọi đêm khác thôi.

    - Khác lắm chứ. Bởi vì khi nhìn lên mặt trăng của một đêm như thế này thì không ai có thể tự cho rằng mình có thể trong sáng như nó được. Không ai có thể kiêu hãnh mà nói rằng mình không có tỳ vết gì. Lúc ấy, tất cả mọi người đều như nhau, đều được sinh ra như thể ghé ngang qua đây một cách tạm bợ. Và nếu cứ nhìn mãi như thế thì sẽ thấy trên đời này không có ai mất mát gì, cũng không ai được thêm gì. Nhìn lên trời, sẽ thấy bình yên. - Anh ta ngừng một chút rồi tiếp. - Và chỉ cần bình yên mà thôi.

    Thiếu nữ vẫn ngồi im lặng, cái ngực xinh xắn tựa lên bàn, đôi mắt không hề chớp hướng lên phía trăng lúc này chỉ còn là một lưỡi liềm mỏng, hai bàn tay nàng chắp lại, những ngón tay mảnh dẻ lắm.

    - Tôi lại không thấy được những điều như anh. - Tôi nói.

    - Có gì đâu, anh cứ nhìn lên đó, và đừng nghĩ gì cả thì anh sẽ hiểu.

    - Có thể. Nhưng tôi phải về. Khuya rồi.

    - Anh xem giờ làm gì. - Người thanh niên nói, đưa tay lên. - Từ lâu tôi không đeo đồng hồ nữa, và thấy đó đúng là một sự giải thoát.

    - Hôm nay tôi cũng đã được thư giãn. Ngày mai tôi phải đi làm.

    - Lý do ấy chính đáng nhất trong mọi lý do. - Giọng anh ta vẻ châm biếm.

    - Lý do đó thống trị đời sống mọi người. - Tôi đồng ý.

    - Nhưng không phải của chúng tôi. - Anh ta nói ngay.

    Tôi rất không thích kiểu đôi co như thế này. Tôi đứng dậy, nhìn thiếu nữ một lần cuối. Nàng vẫn im lặng như từ lúc gặp.

    - Cám ơn mọi người. Tôi về.

    Người phục vụ mở cửa cho tôi, một làn không khí trong lành tràn đến đầy hơi nước. Anh ta đưa tôi ra cổng. Trên cao, bóng tối ấy đang nuốt phần còn lại của trăng. Tôi dừng lại ở đó một lát, hít đầy ngực một làn hơi, ngắm cái cảnh tượng mà suốt đêm bao người chờ đợi.

    - Anh thấy thế nào? - Anh ta hỏi.

    - Buồn ngủ.

    - Không, tôi hỏi em gái ấy thế nào?

    - Xinh lắm.

    - Tôi biết ngay mà. Anh vẫn thích đôi chân của cô ta à?

    - Chuyện ấy thì quan trọng gì?

    - Quan trọng chứ. Bởi vì chúng tôi trả tiền để cô ta hằng đêm ngồi đó.

    - Anh nói đùa?

    - Không đùa đâu. Chỉ có điều thằng cha kia chỉ có vì vậy mà cứ ăn năn dằn vặt mãi. Y nói với anh nhiều lắm hả?

    - Ừ.

    - Y hơi điên điên rồi đó. Tôi thấy y càng ngày càng hơi điên điên.

      - Ừ. CHẮC LÀ Y XÚC ÐỘNG.

    - Cũng may là y còn đứa em gái ngoan ngoãn.

    - Ừ.

    - Anh thật sự thích cô ta chứ?

    - Ừ. Tôi không thích những người nói nhiều. Tôi thích cái kiểu cô ta im lặng như vậy. Trông thật quyến rũ.

    - Nàng hấp dẫn khách ở đây cũng nhờ thế.

    Lặng im một lát, tôi nói mà lòng ngập đầy một nỗi thất vọng.

    - Cô ta quả thật là giỏi.

    - Có giỏi gì đâu. - Người phục vụ ngạc nhiên. - Y không hề nói gì với anh sao. Nàng đâu có nghe được mà cũng đâu có nói được. Nàng bị câm mà.

    Tôi vịn tay vào cổng, cảm thấy thép đang rỉ ra ướt át, lầy nhầy. Trên cao, mặt trăng đang thoi thóp, nhúm ánh sáng lộng lẫy cuối cùng của nó đang bị bóng râm mạnh mẽ không gì cưỡng lại được ấy lấp hẳn. Tôi như thấy đó là đôi môi của nàng, đôi môi đang mím chặt nghiêm nghị, đôi môi ấy nhẹ và mịn cho dù chỉ được nhìn trong bóng tối. Tôi ngắm hình ảnh của trăng lúc ấy mà có cảm giác gần gũi với ánh sáng của nó hơn bao giờ hết, thấy như chính tôi đang vươn tay vuốt ve cái bề mặt sáng đẹp kiêu kỳ xa cách ấy, vuốt ve bằng bóng râm của mình, bóng râm của trái đất nơi tôi đang đứng đây, bóng râm của mọi người. Một cảm giác gần gũi, thân thiết lạ lùng.

    Người phục vụ đứng phía sau tôi, hỏi:

    - Anh về được chứ?

    - Ðược.

    - Cuối tuần ghé chơi nghe. Cuối tuần mới thú.

    - Liệu có gì hay hơn nữa sao?

    - Tôi không chắc. Nhưng có lẽ người đẹp sẽ cười.

    Tôi suy nghĩ một lát.

    - Ừ, tôi cũng muốn biết nụ cười của nàng như thế nào.

    - Anh thấy chưa, phụ nữ hấp dẫn ở đôi môi chứ không phải đôi chân như anh nghĩ đâu. - Người phục vụ mỉm cười. Và càng hấp dẫn hơn khi đó là một đôi môi đẹp nhưng lại không bao giờ nói được.
Đi dân nhớ, ở dân thương!

Sao_Online

Tập làm người (Dương Thanh Tùng)

    Tôi, kẻ luôn hoài niệm ưu tư về quá khứ, luyến tiếc tất cả những gì đã một thời tồn tại, đã mất đi. Nỗi quay quắt tâm tưởng vô hình biến tôi thành gã cô đơn- cô đơn trong lòng đồng loại, với những người sống và trở thành bạn của những người chết ở thế giới bên kia... dưới ba thước đất.

    Như gã hành khất trên sân ga chìa tay xin mấy cuộc chia ly, tôi có mặt ở nghĩa trang này từ lúc nó chỉ lèo tèo vài ngôi mộ cho đến khi trở thành rừng mộ bạt ngàn. Và, lúc ấy những người sống phải chạy chọt trước cả tuần, cả tháng để mong có được mấy thước đất vừa ý cho người quá cố yên nghỉ. Trong vô số những cuộc chia ly ấy, tôi đã trở thành bạn tri ân của bạn - gã đào huyệt. Nói một cách ví von bóng bẩy thì gã là người bẻ ghi mở lối cho con tàu đưa người ra vào cõi vĩnh hằng.

    Hắn từ đâu đến, không ai biết, vì có ai hỏi han hắn bao giờ. Ngay cả cái tên của hắn cũng chẳng ai hay. Dẫu tôi đã trở thành bạn bè tri ân cũng không biết gọi hắn là gì. Nhậu với nhau vài lần trên cái mả xây tôi tự đặt cho hắn cái tên - thằng Ðịa, vì dù sao hắn cũng là kẻ sống nhờ đất, đào đất mà sống. Cả cái giang sơn nghĩa địa này là của thằng Ðịa, một mình hắn cai quản, không kẻ đào đất nào dám cạnh tranh với hắn. Một ngày hắn đào có tới vài chục cái lỗ huyệt. Ai trả công nhiều ít bao nhiêu hắn cũng lấy, chẳng kêu ca phàn nàn, chẳng cò kè thêm bớt nhưng lấy rồi hắn cất đi đâu chỉ có hắn biết, trời biết. Thằng Ðịa có bộ mặt nhăn nhúm. Trong một lần chếnh choáng, hắn có nhắc đến cái tai nạn nào đó, hình như là cháy nhà. Khi ấy, thằng Ðịa mới chập chững biết đi, không hiểu sao hắn bò ra được từ cái đám cháy rừng rực, vục mặt xuống một vũng bùn cho đến khi người ta tìm đến lôi hắn dậy. Tôi đã cố gắng chắp vá, suy diễn mãi để cuối cùng có thể hiểu được na ná cái tiểu sử của thằng Ðịa là như vậy... Và cũng chỉ có vậy, nó đơn giản như cái thân hình cao nghêu nghêu với đôi tay chân dài quá khổ lêu đêu, những ngón tay to bè cứng như cái móc sắt của hắn. Mới đầu thằng Ðịa đến đây để ăn vét những nải chuối, cái bánh, xôi quả hương hoa của người chết. Rồi người ta thuê hắn đào huyệt, hắn đào thật nhanh vì con người hắn sinh ra để làm mỗi công việc này. Và cũng từ đó, thằng Ðịa chọn hẳn nơi này làm chỗ trú thân. Túp lều của hắn chỉ có mái mà không có phên che - bốn mùa nắng mưa thông thốc, nền lều là một ngôi mả xây lâu ngày được tấm thân trần trụi của hắn chà cho bóng láng. Quanh năm suốt tháng chỉ thấy hắn ở trần: xuống chợ mua rượu hắn ở trần, đứng trước ngôi mộ vừa lấp đất hương khói nghi ngút cũng ở trần - chẳng có thứ quần áo nào thích hợp với hắn bằng cái quần lửng đến đầu gối mà phía trên cạp được ở đâu đó thôi. Thằng Ðịa chẳng bao giờ tắm, ngứa thì chà chà vào thành mả xây, không đào huyệt nữa thì uống rượu, uống xong rồi thì lăn kềnh ra làm một giấc cho đến khi người lay dậy. Rất ít khi thằng Ðịa nấu nướng, trong túp lều của hắn lúc nào cũng đầy rẫy xôi quả, đôi khi còn có hẳn con gà luộc hoặc một cái đầu heo còn nguyên vẹn, tất cả là của người sống cúng cho người chết, mà người chết không ăn thì hắn ăn, thậm chí ăn không hết hắn còn phải đem cho, cho ai thì tôi chịu. Sau này, tôi mới biết rằng thằng Ðịa không cô đơn. Có một người đàn bà thường lui tới ngôi mả xây với hắn, trời đất công bằng đưa thị tới làm bạn tình với hắn, cho hắn được nếm mùi đàn bà. Nhà thị ở cánh đồng dưới kia. Thị cũng ở một mình, để giữ vịt cho cả làng. Và, cả cái làng nổi lềnh bềnh giữa vũng nước trũng quanh năm ấy cũng chẳng ai dám đến gần thị. Thị biết điều đó. Thị không oán trời, trách đất. Nhưng, còn cái chất đàn bà ngày đêm giẫy giụa trong con người thị, tự thị, thị không sao kìm giữ nổi. Ðã bao lần thằng Ðịa lếu đếu xách chai đi mua rượu ngang qua cái chòi vịt của thị. Thị thèm, thèm lắm. Ðể rồi, đến một hôm, lúc trời chạng vạng đỏ ối trên nghĩa địa mênh mông, thị lần mò tìm lên ngôi mả xây... Mới đầu thằng Ðịa còn ngơ ngác nhưng rồi thì hắn hiểu, hiểu tất cả. Hắn ghì lấy thị, đè ngược xuống nền mả xây... Ðêm mênh mang, nghĩa địa cũng mênh mang nhấp nhô như ảo ảnh. Hắn - thằng Ðịa và người đàn bà chăn vịt quấn chặt lấy nhau, quằn quại. Cái miệng toàn răng lởm chởm của hắn cạp lấy cạp để, ngấu nghiến trên thân thể tanh nồng và đang hừng hực lửa tình của người đàn bà chăn vịt... sau cùng, hắn làm thị vừa lòng bằng cách của hắn, như lúc hắn hùng hục đào đất. Thị rên rỉ còn hắn thì sung sướng vô ngần. Hắn và thị, hai con người, hai sinh vật bị chối bỏ gắn vào nhau, hòa quyện với nhau như thể tạo hóa sinh ra là để như thế rồi. Cuộc tình của thằng Ðịa và người đàn bà ấy được cả đất trời, cả vô số những vì sao đêm và hàng vạn ngôi mộ im lìm chứng giám, chẳng cần đến nghi lễ rườm rà. Hắn là của thị và thị là của hắn. Cứ vài ba bữa, người đàn bà lại lên với thằng Ðịa một lần, khi thì xách theo chai rượu, khi thì vài chục trứng vịt luộc sẵn. Thằng Ðịa ăn không hết thì dồn vào góc mả xây để đến ngày hôm sau. Bao giờ cũng vậy, sau một lần tình tự, thằng Ðịa ngồi tu rượu và ngắm nhìn người đàn bà, hắn thấy đời thật sung sướng. Ðời này mấy ai được bằng hắn. Có một lần, người đàn bà bảo hắn thôi đừng đào đất nữa, xuống dưới kia ở hẳn với thị, chăn vịt đủ sống thừa thãi thì hắn lắc đầu quầy quậy, hắn trỏ tay đuổi về lập tức. Giang sơn của hắn là ở đây, những người chết không xua đuổi hắn. Người sống, từ đứa con nít lên đây cũng không dám nói một lời làm hắn giận. ở đây hắn được là người xuống dưới kia hắn không còn là người nữa vì chẳng ai chấp nhận cho hắn làm người. Hắn biết vậy, nghĩ vậy nên rất tức tối khi nghe người đàn bà kia nói ra cái điều mà hắn không bao giờ muốn.

    Bên cạnh túp lều của thằng Ðịa có một ngôi mộ lúp xúp không xây. Trên ấy có một cụm hồng lúc nào cũng mơn mởn vài búp hoa đỏ thắm, cũng lạ, đất sỏi đá đến cỏ tranh còn mọc không nổi thế mà hoa hồng lại mọc được. Mỗi ngày, sau khi xong công việc, thằng Ðịa lại đem xẻng ra vun đất xung quanh ngôi mộ, hắn làm nhẹ nhàng như sợ người nằm dưới đất giật mình. Và, chiều nào cũng thế, thằng Ðịa xách chai vào tận trong núi hứng lấy từng giọt nước trời về tưới cho khóm hoa trên mộ. Nhiều lúc gió hanh quất ràn rạt, cả vùng đất khô cằn đến người dưới đất còn khát cháy nhưng cụm hồng của thằng Ðịa lúc nào cũng đẫm nước. Bàn tay to bè đen đúa của hắn nâng niu từng nhánh hồng cứ run lên lập cập - hắn sợ gãy. Tôi hỏi thì hắn kể rằng đây là nấm mộ của một người con gái. Cái đám tang ấy rất buồn, chẳng có ai khóc, lấp đất xong người ta vứt lại mấy bông hồng, thoạt đầu thằng Ðịa không để ý, đến hai ngày mà không khô quắt lại. Cho đến một hôm, khi đào đất về, hắn thấy trên mộ vẫn còn một cái cuống hồng tươi xanh. Cuống hồng đã bén rễ vào đất và từ đó nhú lên một cái mầm. Thằng Ðịa rùng mình, hắn nghĩ đến người con gái nằm dưới kia... và cũng từ đó hắn tự đặt ra công việc chăm chút cho cây hồng, cho ngôi mộ. Ngày nào cũng thế, hắn thấy người nhẹ nhàng lắm, sau khi làm xong việc ấy...

    Tôi có việc phải đi xa, cuộc đi xa chưa hẹn trước ngày trở lại. Một buổi khi chiều sắp tàn, tôi lên để giã từ thằng Ðịa. Ðêm ấy, tôi và hắn uống nhiều lắm, rượu cứ vơi đầy. Hắn nói gì, tôi không thể nào nhớ hết. Chỉ biết rằng khi tôi chìa tay chào hắn để ra về thì hắn bảo:

    - Chờ một chút!

    Cái bóng lêu đêu của thằng Ðịa đổ dài dưới trăng hạ huyền, nhấp nhô, nhấp nhô trên từng dãy bia mộ đen kịt cho đến khi mất hút. Thật lâu sau đó thằng Ðịa trở lại, dúi vào tay tôi một cục tiền giấy nhơm nhớp đất. Hắn khóc, khóc thành tiếng, vừa khóc hắn vừa nói:

    - Cầm lấy, cầm đi, đừng trả lại. Khi nào không còn việc đào đất nữa tôi sẽ tìm anh nhưng biết tìm ở đâu.

    - Không sao đâu anh Ðịa - tôi cố ghìm những giọt nước mắt cứ chực trào ra - đến một nơi nào đó tôi sẽ viết thư về... Nói đến đó thì tôi òa khóc thực sự, tôi biết mình lỡ lời. Thằng Ðịa không biết chữ đã đành rồi, nhưng ai công nhận sự tồn tại của hắn ở nghĩa trang này với tư cách một con người... Thằng Ðịa không cha, không mẹ, không một dòng địa chỉ cư trú. Chẳng có thứ giấy tờ nào của nhà chức trách ghi là: có hắn, trừ khi hắn làm chuyện bậy bạ. Mà, cái thằng người đi đến đâu cũng bị xua đuổi như hắn thì có thể làm được gì bậy bạ ngoài chuyện đào đất?! Chắc chắn sẽ chẳng có ai chuyển thư tôi đến cho hắn được. Tôi quay người lao thật nhanh xuống đường để lại sau lưng tiếng khóc tồ tồ của thằng Ðịa giữa chập chùng hoang mộ.

    Thời gian rồi cũng qua đi. Khoảng khắc từ lúc tôi chia tay với thằng Ðịa hôm ấy cho đến ngày trở lại vừa đủ cho một đứa trẻ kịp sinh ra, lớn lên và biết cắp sách đến trường. Cảnh cũ thay đổi nhiều. Trước nghĩa trang, nhà cửa mọc lên san sát, hàng quán buôn bán sầm uất. Nghe nói sắp tới người ta sẽ dời cả nghĩa trang này đi để xây dựng khu chế xuất hay siêu thị gì đó. Tìm mãi mới thấy lối vào nghĩa trang, lối đi nhỏ hẹp chỉ còn vừa đủ cho chiếc xe tang. Ngay ngã ba, một ngôi nhà hai tầng lầu có vẻ như mới vừa được xây dựng cách đây chưa lâu. Trước cổng ngôi nhà treo tấm biển xanh đỏ lòe loẹt.

"Công ty Dịch vụ mai táng Gò Cát.

Tên giao dịch: Matagoca.

Nơi đáng tin cậy của quý khách.

Rất hân hạnh được đón tiếp

Tel...Telex...Fax..."

    Trong sân, người ra vào tấp nập. Mấy chiếc xe tang loại vừa, cũ mèm đang sửa máy, phun khói mù mịt. Trước cửa ra vào, dưới mấy bậc tam cấp, một chiếc xe bốn chỗ, đời mới, choáng lộn đậu nghênh ngang, xoay mũi ra cổng sẵn sàng lao đi bất cứ lúc nào chứng tỏ chủ nhân của nó là người rất đỗi sang trọng và hay phải đi công án. Tôi quyết định: chưa vội lên nghĩa trang thăm thằng Ðịa.

    Người bảo vệ già sau khi xem xét kỹ giấy tờ của tôi, ngẩng lên nói một hơi:

    - Quý anh nhà báo, anh liên hệ xin đất, mướn xe hay có việc chi?

    - Tôi muốn gặp giám đốc công ty.

    - Dạ, anh chờ cho một chút. Dạ, giám đốc đang bận. Dạ khách khứa của ổng nhiều lắm.

    - Nhờ chú nhắn giùm, tôi xin gặp ổng sau mười lăm phút nữa. Nếu không được thì tôi sẽ hẹn ông khi khác vậy.

    Sau cú điện thoại của người bảo vệ già, tôi được hướng dẫn vào phòng đợi... Máy lạnh chạy ro ro, ghế xô-pha mềm lún. Một cô gái từ phòng trong đi ra, tay ôm chồng giấy tờ dày cộm. Cô gái nhẹ nhàng bảo tôi chờ, giám đốc Trương Thiên sẽ tiếp ngay bây giờ. Phải công nhận, cô gái có cặp đùi thon thả và dáng đi uyển chuyển đầy hấp dẫn. Tự nhiên tôi nảy ra cái ước mơ hão huyền: Giá như mình được làm giám đốc, chỉ một ngày thôi...

    Cánh cửa lại khẽ mở ra. Mùi nước hoa thoang thoảng. Một cô gái khác nhẹ nhàng trong tà áo dài xanh dịu bảo tôi:

    - Mời ông vào, giám đốc Trương Thiên đang đợi.

    Ôi trời ơi! Tý nữa thì tôi té ngửa. Thằng Ðịa. Ðúng nó rồi!

    - Ðịa, phải anh đấy không Ðịa?!

    Hắn nhe răng - phải, vì miệng của hắn chỉ toàn có răng, hềnh hệch cười. Càng cười mặt hắn càng dúm dó lại, quái đản.

    - Anh, anh về từ bao giờ? Chà lâu quá - Vừa nói hắn vừa đường bệ đứng dậy đưa cái tay dài ngoằng níu tôi ngồi xuống ghế.

    Lại một cô gái nữa xuất hiện, tay bưng cái khay đựng mấy lon bia, ba ly đá lạnh. Ðặt nhẹ cái khay xuống bàn, cô gái gật đầu chào tôi rồi quay sang nhoẻn miệng cười tình với Ðịa. Rót đầy bia vào ly xong, cô ta vén gấu váy, ngồi xuống, nép vào lòng hắn. Thằng Ðịa nhìn tôi, cười, lại cười. Hắn bảo:

    - Hôm nay anh ở lại đây với tôi. Ngày hôm nay tôi nghỉ làm việc. Ai chết mặc kệ. Tôi với anh uống một trận rồi anh muốn gì, tôi, Trương Thiên này sẵn sàng chiều hết.

    Chuông điện thoại leng reng. Cô gái nhoài người, với tay cầm ống nghe:

    - Alô, ai đấy? Dạ Hải Yến thư ký giám đốc Công ty MATAGOCA đây, ông cần gì ạ? Dạ, giám đốc, ông Trương Thiên...- Cô gái bịt tay vào ống nghe, đưa mắt liếc nhìn thằng Ðịa - hắn xua tay.

    - Dạ, ông Trương Thiên đi vắng, ông cần đất ạ, giá cả sẽ thỏa thuận sau, mà có lẽ hơi cao. Ông nên đến làm việc trực tiếp với công ty chúng tôi vào sáng ngày mai để nhận phần đất như ông muốn, à, đáng lẽ định chôn vào chiều nay thì ông phải liên hệ sớm hơn chứ. Ông, ông cũng là giám đốc, giám đốc công ty hữu hạn? Dạ, dạ được, dạ ông có quen giám đốc Trương Thiên...

    - Ai đấy? - Thằng Ðịa hỏi.

    - Thằng cha xưng là giám đốc cái công ty hữu hạn gì đó. Chả nói có quen biết anh.

    - Xin đất chôn người hay đất cho chả làm nhà.

    - Ðất chôn.

    Thằng Ðịa sầm mặt xuống, không nói năng gì. Mấy ngón tay dài ngoẵng, to bè của hắn quặp cứng vào nhau. Thật lâu, sau khi ngửa cổ nốc cạn ly bia, thằng Ðịa quay sang tôi:

    - Anh, anh có muốn một miếng đất làm nhà không?

    - Ðất làm nhà ở đâu?

    - Kia, ngoài kia, nếu anh muốn, tôi sẽ bảo chúng nó cắt cho anh vài trăm thước - hắn nói và chỉ tay ra nghĩa trang trập trùng, mênh mông. Tôi rùng mình, một cảm giác lành lạnh chạy dọc sống lưng.

    Thằng Ðịa tiếp tục:

    - Một trăm thước đất ở nghĩa trang này bữa nay giá cả chục cây vàng rồi đấy. Dân thành phố đổ xô lên đây, giành giật, căng thép gai, cắm cọc gần hết rồi. Tôi vẫn giành lại được ít đất tốt cho người quen...

    - Nhưng, mồ mả người ta còn đầy ra đấy - Tôi bảo hắn.

    - Còn, không những còn mà mỗi ngày có thêm hàng trăm cái mả mới. Nhưng, có luật pháp nào ngăn cản cấm đoán người sống tranh giành đất của người chết đâu?

    Tôi bàng hoàng thật sự khi nghe Ðịa nói ra điều ấy. Hắn, cái thằng vốn không tên tuổi, chẳng biết gì hơn ngoài việc hùng hục đào đất giờ đây đã thực sự là chủ nhân ông của cả một vùng nghĩa địa mênh mênh béo bở mà hàng trăm ngàn con người sống ở dưới thành phố đông đúc đến nghẹt thở kia đang thèm khát. Hắn, bây giờ nghiễm nhiên thành kẻ ban phát, gia ân, gia ân cho cả người sống, lẫn người chết. Tên của hắn - giám đốc Trương Thiên được nhắc đến thường xuyên trong các cuộc họp của Hội đồng tỉnh lỵ.

    Người nghèo nhìn hắn như ông thánh, kẻ giàu sang chờ chực đưa rước. Và, không biết từ bao giờ, để củng cố cho cái quyền lực đất đai, thằng Ðịa đã kịp trang bị cho mình cái lý lẽ đầy ấn tượng nhưng cũng đầy thuyết phục. Phải, luật pháp có đủ cả mọi điều nhưng còn điều duy nhất là "cấm người sống và người chết không được tranh giành đất của nhau" thì luật pháp lại vô tình bỏ quên. Và cũng như một thiên mệnh, chính cái điều ấy nghiễm nhiên củng cố thêm sự vững chắc của thằng Ðịa ở vùng mồ mả mênh mông này. Nghĩ cũng buồn cười, tôi gọi hắn là Ðịa thì hắn lại là Thiên, lại còn thêm cái họ Trương nữa - tự hắn nghĩ ra hay không biết ai đặt cho hắn? Cái tên Thiên có vẻ thích hợp lắm với cương vị của Ðịa bây giờ. Qua khung cửa sổ gắn kính màu, tôi lặng yên, đăm đăm nhìn vào khoảng mông lung chập chờn bia mộ, lỗ chỗ cọc ngắn, cọc dài của người sống cắm xuống giữ đất. Xa tít trên kia là nơi có túp lều liêu xiêu ngày nào của thằng Ðịa. Nhưng biết có còn không? Cả người đàn bà đen đúa bẩn thỉu lúc nào cũng tanh mùi vịt là bạn tình của hắn. Còn gì nữa nhỉ... ừ, phải rồi! Tôi quay vào hỏi hắn:

    - Cái cụm hồng dạo nọ trên ngôi mả không xây có còn không anh Ðịa.

    - Chết rồi! Tôi cho người bưng về đây trồng nhưng sống không nổi. Ðất này mà trồng gì được.

    - Còn người đàn bà?

    - Vẫn ở dưới đó, chăn vịt nhưng tôi không gặp nữa. Mà thôi anh đừng hỏi nhiều. Uống đi cứ tiếp tục uống đi. - Hắn nói và ngửa cổ dốc trọn vào miệng ly bia đầy ự.

    Tôi và hắn không gặp nhau nữa, từ hôm đó. Mãi cho đến một lần, khi cụ thân sinh của một người bạn làm cùng cơ quan qua đời. Không nỡ từ chối sự nhờ vả của anh, tôi tìm đến thằng Ðịa. Vẫn là ngôi nhà cũ, vẫn tấm biển to tướng treo trước cổng...

    Tôi hỏi thăm một người vừa trong đó bước ra:

    - Giám đốc Trương Thiên có nhà không anh?

    - Hả? Anh hỏi ai? Giám đốc nào, Thiên nào?

    - Thiên, Trương Thiên.

    - á, à, à, cái thằng đào đất đó hả, lên trên đó mà tìm, nhà hắn ở trên đó - Người ấy chỉ tay bâng quơ vào một góc nghĩa trang xa vời.

    Người bảo vệ già nhận ra tôi. Ông kể lại rằng cái cơ ngơi này là do một mình thằng Ðịa bỏ vốn ra gây dựng nên. Nghe nói có một ông lớn nào đó cảm kích trước việc thằng Ðịa chăm sóc chu đáo ngôi mộ của con gái ông khi ông đi xa nên đã lo toan giúp đỡ các khoản giấy tờ cần thiết để hình thành công ty mai táng. Sau mấy năm làm giám đốc, với cách toan tính của một thằng người chỉ biết đào đất, một nửa cái chữ bẻ đôi cũng không biết, thằng Ðịa không những trắng tay mà còn thêm nợ nần chồng chất. Ðám con gái đông đúc bu quanh hắn thi nhau vét sạch những đồng tiền bán đất cuối cùng còn sót lại rồi lặng lẽ chia tay mỗi người một ngả. Bao nhiêu chủ nợ ngao ngán nhìn thằng Ðịa lững thững rời bỏ cái cơ ngơi đồ sộ để trở lại với túp lều xưa, trên nghĩa địa. Kiện hắn ư? Thân xác hắn đấy. Ðòi nợ ư? Mênh mông đấy, mà đất đai của nhà nước còn mồ mả là của thiên hạ, ai muốn đòi chia thì cứ đem cọc lên đấy mà cắm. Còn hắn, không làm giám đốc nữa thì lại về đào đất. Dư luận ồn ào xôn xao, nhiều vị chức sắc đau đầu vì hắn một thời gian rồi rốt cuộc đâu lại vào đó. Công ty Matagoca do hắn lập giờ đây đã có người khác đảm đương. Nói tóm lại, người ta lại bắt đầu coi như không có hắn trên cõi đời này như từ bao lâu nay vẫn thế.

    Tôi thẫn thờ theo lối mòn xưa dẫn lên túp lều của thằng Ðịa, lòng không khỏi chạnh buồn. Thế là hắn, thằng Ðịa, bạn tôi đã lại về với cái công việc xưa cũ, biết người ta có còn thuê hắn như xưa nữa không!? Nhưng đống tiền mà hắn chắt chiu chôn giấu sau bao nhiêu năm trời đào đất đã tan theo giấc mộng bọt bèo. Ðịa ơi! Tôi hiểu cái gì đã thôi thúc anh. Bao nhiêu năm hùng hục đào đất, chôn giấu nâng niu từng đồng tiền còm cõi để mong có ngày đổi đời, được ngửa mặt, được làm người - thì đấy, anh đã có tất cả, đã mua được tước vị làm người!! Dẫu chỉ là trò phù du nhưng cũng đáng để cho anh mở mặt suốt mấy năm trời...

    Túp lều xiêu vẹo trống không. Gió trái mùa đang ra sức giật nốt mấy miếng tôn mục nát còn sót lại. Thằng Ðịa nằm đấy thẳng thớm với chiếc quần lửng cột dây dừa. Vị linh mục già khẽ cúi xuống nới đầu sợi dây thòng lọng quấn quanh cổ hắn. Sợi dây đã được tháo hẳn ra để lại trên cổ thằng Ðịa một vòng tròn sâu hoắm. Sau khi vị linh mục già đọc bài kinh dài rửa tội cho hắn, cầu mong cho hắn được nương náu dưới cánh tay che chở của Chúa trời, một tăng ni của nhà Phật bao lần lui tới tiễn đưa người chết ở nghĩa trang này cũng không ngần ngại ban cho thằng Ðịa những dòng kinh siêu thoát lê thê, bàn tay lần tràng hạt mơ hồ những mong linh hồn hắn thanh thản mà lên cõi niết bàn với Ðức Phật. Nghi lễ của loài người tiễn đưa thằng Ðịa về cõi vĩnh hằng xem ra trọn vẹn vô cùng. Hắn kẻ duy nhất trên thế gian ra đi đã cùng một lúc đón nhận hai đặc ân của Chúa Trời và của nhà Phật. Nếu như ở nghĩa trang này hôm ấy có sự hiện diện của thánh A-la nữa thì chắc ngài cũng không ngần ngại giang tay ra đón hắn. Tôi đăm đắm nhìn xuống vết tròn sâu trên cổ thằng Ðịa, lòng mênh mang buồn, buồn vô tận. Phần hồn thằng Ðịa có lẽ đã được tắm gội sạch sẽ nhưng còn cái vết hằn sâu trên cổ là dấu ấn trên thân xác của kiếp người đa mang thì thằng Ðịa vĩnh viễn phải đem theo vì không ai xóa nổi.

    Người đàn bà chăn vịt, hôm ấy, không có mặt để khóc chia tay thằng Ðịa. Nhưng, thật lâu, lâu lắm, khi tôi trở lại, có người kể với tôi rằng trong một đêm mưa, nước từ nghĩa trang tràn xuống đen kịp cả cánh đồng, dân làng nghe trong gió tiếng hú gào thảm thiết của người đàn bà vốn là bạn tình chung thủy của hắn. Sáng ra cả cánh đồng ngập trắng xác vịt. Tự tay người đàn bà ấy đã bóp chết tất cả rồi bỏ đi. Thị đi đâu thì không ai rõ.

    Khi ở nghĩa trang ấy đã thấp thoáng bóng dáng của những tòa cao ốc lộng lẫy, một rừng mộ bạt ngàn chỉ còn lại vài ngôi lèo tèo vắng chủ. Với số tiền ít ỏi trong tay, tôi mong tìm thấy mộ thằng Ðịa để cùng người ta đưa hắn đi nơi khác yên nghỉ, chừa đất cho thiên hạ làm nhà. Nhưng, có còn gì nữa đâu mà tìm. Dưới bóng hoàng hôn sậm đỏ, tôi lại nhìn thấy người đàn bà chăn vịt. Thị đứng như trời trồng giữa vùng đất phẳng lỳ gào lên từng chuỗi, từng chuỗi âm thanh ai oán, não nề. Tiếng gào mơn man chập chờn thổn thức quắt quay của thị đến với hắn - thằng Ðịa. Mấy đứa trẻ chăn trâu bảo với tôi rằng chiều nào cũng thấy người đàn bà ấy đứng đấy, gào lên thê thảm cho đến khi đêm xuống...

    Ðịa ơi! Tôi thắp ba nén nhang lạy anh để viết lại chuyện này. Dưới suối vàng kia mong anh hãy ngậm cười vì trên cõi đời này còn có người đàn bà điên cuồng gào gọi tên anh trong mỗi buổi chiều tà.

    Người ta bảo rằng trước khi chết, suốt mấy ngày trời anh ngồi bó gối trên cái mả xây, thẫn thờ nhìn xuống tòa nhà lộng lẫy khang trang được tạo dựng lên từ sau chuỗi ngày lê thê hùng hục đào đất, chắt chiu chôn giấu từng đồng tiền còm cõi... Anh đã bỏ tiền ra mua được kiếp người ba năm trời trong cái tòa nhà ấy. Nhưng anh có biết đâu rằng suốt ba năm đằng đẵng anh mới chỉ đang là kẻ tập làm người giữa một bầy người hoàn hảo - ấy là tôi nói về những đứa con gái xúm xít quanh anh hàng ngày, những bạn hàng, khách hàng của anh, cả người sống lẫn người chết. Thôi thế cũng đành anh Ðịa nhỉ! Làm người không được thì làm cái thây ma. Mà cái thây ma của anh đã được người ta gột rửa sạch sẽ mọi tội lỗi trần gian thì còn gì nữa đâu mà tiếc nuối. Tiếc làm gì phải không anh Ðịa. Sau này, khi cả nghĩa địa mênh mông biến thành phố phường sầm uất, nhiều người, lúc rảnh rỗi lục tìm trong ký ức và nhắc đến anh như một món nợ khó đòi. Có thể anh còn nợ người ta. Nhưng, đòi từ lúc anh còn sống trên cõi đời đã khó, huống gì...

    Trước cửa mỗi ngôi nhà khang trang của khu phố mới ấy thường có cái khóm thờ nhỏ nghi ngút khói hương, đầy rẫy xôi quả vào ngày rằm, mồng một. ở đâu đó trong cõi hư vô, anh có linh thiêng xin hiện về chứng giám lòng thành của con người mà phù hộ cho họ làm ăn phát đạt.
Đi dân nhớ, ở dân thương!

SEO ngành nghề, cỏ nhân tạo, chuyên sửa máy rửa bát tại hà nội, chuyên sửa chữa tivi tại nhà ở Hà Nội, đặt hàng tượng phật đồ thờ tâm linh làng nghề Sơn Đồng | Điện lạnh Bách Khoa Hà Nội