Hạt cơ bản - Michel Houellebecq

Started by saos@ngmo, 03/01/07, 17:11

Previous topic - Next topic

saos@ngmo

Hạt cơ bản
Tác giả: Michel Houellebecq
Dịch bởi: Cao Việt Dũng


Lời giới thiệu


Ở Pháp, đã lâu không có cuốn sách nào mới ra đời đã gây chú ý như Hạt cơ bản. Năm 1998, cuốn sách của Michel Houellebecq khiến mọi người phải quan tâm đặc biệt. Khen có, chê có, nhưng sự thật là cho đến giờ vẫn chưa có cuốn tiểu thuyết nào ngang tầm Hạt cơ bản được xuất bản. Cuốn tiểu thuyết dữ dội phê phán kịch liệt xã hội phương Tây hiện nay, cũng như những năm 60, 70 của thế kỷ trước; nhà văn còn cực đoan đến mức muốn xóa bỏ cái xã hội đầy rẫy cái xấu xa và tệ nạn ấy.
Michel Houellebecq sinh năm 1958 ở đảo Réunion. Từ năm lên sáu Michel sống với bà nội (mất năm 1978); Houellebecq là họ của người bà mà nhà văn lấy làm bút danh. Ông sống ở Dicy (Yonne), rồi ở Crécy-la-Chapelle (ngoại ô Paris). Học nội trú trường trung học Henri Moissan ở Meaux (cũng ở ngoại ô Paris), được bạn bè đặt biệt hiệu "Einstein" vì có khả năng suy tư và phân tích vượt xa các bạn cùng độ tuổi. Sau khi học xong dự bị, năm 1975 ông vào học trường Nông nghiệp. Những nét tiểu sử này rất đáng lưu ý với bạn đọc Hạt cơ bản, bởi Houellebecq sẽ lấy nguyên xi cái nền tảng gia đình này để xây dựng tiểu thuyết của mình. Hai nhân vật chính, Bruno Clément và Michel Djerzinski, đều sống với bà và đều học ở trường trung học ở Meaux. Houellebecq đã rút tỉa các sự kiện từ chính cuộc đời mình; theo một cách nào đó ông đã tự phân tích mình, cuộc tiểu phẫu đó là tiền đề cho cuộc đại phẫu áp dụng cho toàn xã hội, mà ông đã tiến hành một cách xuất sắc trong Hạt cơ bản. Con dao mổ của Houellebecq sắc nhọn, nó bới tung từng ngóc ngách của con người và xã hội. Nhưng lẽ dĩ nhiên, trước đó nó đã gây đau đớn cho chính ông.
Năm 1980, Houellebecq học xong đại học và cưới vợ. Bắt đầu giai đoạn thất nghiệp kéo dài. Ông sinh con trai Etienne năm 1981. Sau khi ly hôn, ông rơi vào trạng thái trầm cảm, thường xuyên phải điều trị ở các bệnh viện tâm thần. Ðây cũng lại là một nét trùng hợp nữa với nhân vật Bruno Clément. Trong Hạt cơ bản, sự miêu tả người giáo viên dạy văn trung học này nhiều khi thể hiện rõ niềm cảm thông và thương xót - ông đang thương xót cho nhân vật hay cho chính mình?
Sự nghiệp văn học của Houellebecq bắt đầu từ khi ông 20 tuổi, năm ông bắt đầu qua lại với các nhóm thơ ca. Trước khi thành tiểu thuyết gia, Houellebecq là một nhà thơ. Năm 1985 ông gặp Michel Bulteau, giám đốc tờ tạp chí Nouvelle Revue de Paris, người đầu tiên in thơ ông. Năm 1991 ông xuất bản cuốn chân dung nhà văn người Mỹ nổi tiếng ở thể loại huyền ảo Howard P. Lovecraft (1890-1937) với tên Chống lại thế giới, chống lại cuộc đời (Contre le monde, contre la vie). Ông vào làm thư ký hành chính ở Quốc hội. Cùng năm đó ông in ở Nhà xuất bản Différence tác phẩm Còn sống (Rester vivant) và năm sau đó, 1992, cũng tại đây ông in tập thơ đầu tiên, Kiếm tìm hạnh phúc (La Poursuite du bonheur); tác phẩm sau đó đoạt giải thưởng Tristan Tzara, giải thưởng mang tên nhà thơ dada danh tiếng.
Năm 1994, Maurice Nadeau, một nhà phê bình danh tiếng và cũng là chủ một nhà xuất bản mang tên chính ông, in Mở rộng phạm vi đấu tranh (Extension du domaine de la lutte), tiểu thuyết đầu tiên của Houellebecq, sau đó cuốn này được dịch ra nhiều thứ tiếng. Tập thơ thứ hai, Ý nghĩa của chiến đấu (Le sens du combat) đoạt giải thưởng của quán cà phê văn học Flore năm 1996. Năm 1998, ông nhận Giải thưởng Quốc gia dành cho tài năng trẻ về toàn bộ tác phẩm tính đến khi đó. Năm đó cũng là năm ông in Phát biểu (Interventions), tuyển tập các bài phê bình và Hạt cơ bản (Les particules élémentaires), tiểu thuyết thứ hai, và cưới Marie-Pierre. Lúc này ông đã trở thành con cưng của nhà xuất bản lớn Flammarion. Năm 1999 ông hợp tác với Philippe Harel, đạo diễn nổi tiếng với những bộ phim hài chua chát, chuyển thể Mở rộng phạm vi đấu tranh thành kịch bản phim. Năm đó ông in tập thơ mới có tên Hồi sinh (Renaissance).
Mô típ nhân vật của Houellebecq đã bắt đầu hình thành từ Mở rộng phạm vi đấu tranh. Trong tác phẩm đó các nhân vật đều là những người rất bình thường, làm việc trong ngành máy tính, ở các căn hộ khép kín, ăn đồ đông lạnh bán ở siêu thị, cô đơn cùng cực, sản phẩm của một nền văn minh suy tàn. Hai nhân vật chính, "tôi" và Tisserand, đi về các tỉnh để giới thiệu sản phẩm phần mềm cho công ty; những chuyến đi đó tạo ra các cơ hội cho "tôi" quan sát những người xung quanh, và nhận ra tình trạng bi thảm của mình cũng như của người đồng nghiệp đi cùng. Nhân vật Tisserand của Mở rộng phạm vi đấu tranh cũng mang trong mình nhiều ẩn ức tình dục, loay hoay trong những cơn hoang tưởng, báo trước cho nhân vật Bruno Clément của Hạt cơ bản.
Tác phẩm nổi tiếng nhất của Houellebecq dĩ nhiên vẫn là Hạt cơ bản, dù sau đó ông còn có thêm một tiểu thuyết mới, Plateforme (2001), viết về đề tài du lịch tình dục và phân tích con người hiện đại dưới khía cạnh người-đi-du-lịch, cũng có kết cục rất bi thảm khi nhân vật "tôi" tưởng chừng đã nắm chặt được hạnh phúc của đời mình lại mất đi người tình Valérie xinh đẹp trong một vụ khủng bố bằng bom ở Thái Lan. ở Pháp, Hạt cơ bản rất ăn khách. Năm 1998, việc Houellebecq "trượt" giải Goncourt làm người ta nhớ lại năm 1932 kiệt tác Hành trình đến tận cùng đêm tối của Céline cũng để tuột giải này về tay nhà văn hạng xoàng Guy Mazeline. Hạt cơ bản chỉ giành giải nhỏ là giải Novembre (Tháng Mười Một). Năm đó giải Goncourt danh tiếng về tay Paule Constant với tác phẩm ít người nhắc tới, Tâm sự thân mật (Confidence pour Confidences).
Thành công trong văn chương, nhưng Houellebecq vẫn là một con người lập dị, thích sống ở nơi hẻo lánh, và hay đưa ra những lời phê phán cay độc khiến không ít lần ông phải vướng vào những rắc rối lớn. Sự mạnh bạo và lối suy nghĩ riêng, đầy gai góc của nhà văn khiến Elizabeth Roudinesco, một nhà phân tâm học nổi tiếng gốc Rumani, trong một cuộc phỏng vấn trên tờ Libération gần đây đã nói: các nhận định của Houellebecq về xã hội Pháp những năm 60, 70 là "ngu xuẩn".
Sự kiện khiến Houellebecq nổi đình đám hơn cả được gọi là L'affaire Houellebecq (lấy tên theo L'Affaire Dreyfus - Vụ án đại úy Dreyfus hồi đầu thế kỷ XX, từng lôi kéo tất cả các trí thức hàng đầu của Pháp vào cuộc, với bài báo danh tiếng của Emile Zola Tôi tố cáo đăng trên tờ Aurore). Tháng Chín năm 2001, Houellebecq trả lời phỏng vấn của tạp chí Lire, đã gọi đạo Hồi là "thứ tôn giáo ngu xuẩn nhất"; ông coi đạo Hồi là "tôn giáo nguy hiểm ngay từ khi mới ra đời". Ông phát biểu câu đó sau khi đọc kinh Coran. Tại một đất nước rất đông người Hồi giáo như nước Pháp, câu nói của nhà văn gây ra một cú sốc thật sự. Nên nhớ là gần đây, chỉ vì muốn cấm nữ sinh Hồi giáo đội khăn truyền thống tại trường học mà chính phủ Pháp đã lao đao vì vấp phải sự phản ứng dữ dội, dấy lên một làn sóng tranh luận khắp nơi. Vì chuyện này, Houellebecq phải ra hầu tòa, vì bị ba tổ chức Hồi giáo lớn (các nhà thờ Hồi giáo lớn Paris, Lyon và Liên đoàn Hồi giáo thế giới) đâm đơn kiện. Tại tòa ông tự biện hộ với lý lẽ mình không khinh bỉ người Hồi giáo, mà chỉ khinh bỉ đạo Hồi. Các nhà văn như Philippe Sollers, Michel Braudeau, Dominique Noguez hay nhà báo của tờ Le Monde Josyane Savigneau ký đơn kêu gọi tha bổng Houellebecq. Cuối cùng tòa đã xử cho Houellebecq được trắng án. Sự kiện này cho thấy phần nào chất phản kháng trong tính cách của nhà văn.
Houellebecq còn vướng vào vòng kiện tụng với chủ nhân của Ðịa Ðiểm Thay Ðổi - mà ông đã đưa vào Hạt cơ bản (lấy lại đúng tên thật ngoài đời) để làm khung cảnh cho một chút hạnh phúc thoáng qua của cuộc đời bi thảm của Bruno Clément. Người chủ Ðịa Ðiểm Thay Ðổi kiện ông vì tội bôi nhọ. Lại một lần nữa nhà văn thắng kiện.
Mới đây Houellebecq đã bỏ nhà xuất bản Flammarion, chuyển sang nhà Fayard. Với ngành xuất bản, đó là một sự kiện đáng chú ý. Vài tờ báo so sánh sự kiện này với hiện tượng các danh thủ bóng đá như Ronaldo và Beckham chuyển câu lạc bộ... Ðiều đó cũng cho thấy mức độ danh tiếng của Houellebecq ở Pháp, cũng như mức độ quan tâm của người ta dành cho ông.
Hạt cơ bản mở đầu bằng việc nhà khoa học Michel Djerzinski xin nghỉ làm tại Trung tâm Khoa học Quốc gia sau 15 năm làm việc tại đây, lấy lý do là để dành thời gian suy nghĩ. Trên thực tế anh sẽ tiến hành những nghiên cứu mang ý nghĩa lớn cho toàn bộ loài người. Tiếp đó câu chuyện quay về những năm tháng tuổi thơ của hai anh em Michel và Bruno, xen lẫn với cuộc sống sau này của họ. Ở Bruno khía cạnh nổi bật là ham mê tình dục đến mù quáng, còn Michel lại hoàn toàn ngược lại: anh là con người của lý trí, dịu dàng và luôn hướng tới một đạo đức theo lối của triết gia Kant. Câu hỏi lớn của Michel là hạnh phúc có tồn tại thật không, và phải giải quyết mối tương quan giữa đàn ông và đàn bà như thế nào. Hai anh em (cùng mẹ khác cha) chỉ giống nhau ở điểm cả hai cùng cô độc, từ bé đến lớn không có chỗ dựa nào khác ngoài những bà nội bà ngoại già nua. Số phận họ bị kết án không thể hạnh phúc, dù đã có lúc bên cạnh Bruno có Christiane dịu dàng và tinh tế, Michel có Annabelle kiều diễm. Sự bi thảm nằm ở từng câu chữ của tiểu thuyết, và trong từng sự kiện nhỏ nhặt nhất của cuộc sống hàng ngày của mỗi người. Bruno và Michel sống bên lề của những biến chuyển xã hội phương Tây, họ không phải hippie, không phải rock star, mà chỉ là những con người cô đơn, luôn thấy cuộc sống nhàm chán, trống rỗng và đáng căm ghét. Cùng với sự xuống dốc cuộc đời của họ là sự xuống dốc không phanh của phương Tây, rơi tõm vào cơn cuồng loạn của chủ nghĩa tiêu dùng, sự đi xuống của đạo Thiên chúa, sự đe dọa của nhân bản vô tính, tính hủy diệt của các giá trị tự do, trong đó có vai trò không nhỏ của phong trào giải phóng tình dục những năm 60; tất cả những cái đó, theo Houellebecq sẽ hủy diệt loài người như một quả bom hạt nhân (Chính vì thế mà ông đặt tên tác phẩm của mình là Hạt cơ bản).
Theo nhiều nhà phê bình Pháp, kể từ Con quái vật (Roi des Aulnes) của Michel Tournier năm 1970 đến nay chưa có tiểu thuyết Pháp nào chứa đựng nhiều ý tưởng như tác phẩm của Houellebecq. Cả hai tác phẩm đều có tham vọng giải quyết các vấn đề to lớn của toàn nhân loại, Tournier bằng con đường tôn giáo còn Houellebecq bằng con đường khoa học.
Dịch Hạt cơ bản là một trong những nỗ lực của chúng tôi để giới thiệu văn học Pháp đương đại, một nền văn học luôn chuyển động, luôn tạo ra những giá trị mới để thêm vào những giá trị đã có chỗ đứng vững chắc trong lịch sử văn học Pháp và thế giới trước đây.

Tháng 8/2004
Cao Việt Dũng

saos@ngmo

Mở đầu

Cuốn sách này trước hết là câu chuyện của một con người đã sống phần lớn cuộc đời mình ở Tây Âu nửa sau thế kỷ XX. Dù thường xuyên cô độc, ông vẫn có mối quan hệ mật thiết với những người khác. Ông đã sống qua thời kỳ bất hạnh và biến động. Ðất nước nơi ông sinh ra rung chuyển lần lần, nhưng không thể đảo ngược, trong vùng kinh tế của những nước phát triển hạng trung; thường xuyên bị sự khốn cùng rình rập, con người của thế hệ ông còn phải sống trong cảnh cô đơn và cay đắng. Tình yêu, sự dịu dàng và nhân ái giữa người với người gần như đã biến mất hẳn; trong quan hệ với nhau những người cùng thời với ông thường xuyên tỏ ra bàng quan, thậm chí tàn bạo.
Khi chết đi, Michel Djerzinski trước hết được nhìn nhận như một nhà sinh học, người ta từng nghiêm túc nghĩ đến việc trao giải Nobel cho ông; nhưng tầm quan trọng thực sự của ông mãi sau này mới được nhận ra.
Vào thời của Djerzinski, người ta thường nghĩ triết học không có giá trị thực tiễn, thậm chí không có mục đích. Trên thực tế, thế giới quan chung nhất vào một thời điểm nhất định sẽ quyết định kinh tế, chính trị và phong tục.
Trong lịch sử nhân loại, rất hiếm có các biến chuyển siêu hình học - nghĩa là các chuyển hóa cơ bản và ở mức độ rộng lớn của cách nhìn thế giới được đa số lựa chọn. Chúng ta có thể lấy sự xuất hiện của Thiên chúa giáo như một ví dụ minh chứng.
Ngay khi một biến chuyển siêu hình học xuất hiện, nó sẽ tiếp tục phát triển tự do cho đến những hậu quả cuối cùng của mình. Nó sẽ quét sạch mọi hệ thống kinh tế và chính trị, các giá trị đạo đức và các thang bậc xã hội. Con người không thể làm gì để ngăn chặn bước tiến của nó - trừ khi xuất hiện một biến chuyển siêu hình học mới.
Ðặc biệt không thể nói là các biến chuyển siêu hình học tấn công các xã hội suy yếu, trên đà suy thoái. Khi Thiên chúa giáo xuất hiện, Ðế chế La Mã đang ở đỉnh cao sức mạnh; được tổ chức hết sức chặt chẽ, nó thống trị toàn bộ vũ trụ được biết đến; ưu thế về kỹ thuật và quân sự của nó là vô tiền khoáng hậu; nhưng dù vậy nó không có chút may mắn nào hết. Khi khoa học hiện đại xuất hiện, Thiên chúa giáo Trung cổ đã thiết lập được một hệ thống hoàn chỉnh cách hiểu con người và vũ trụ; nó là nền tảng của các chính phủ, tạo ra kiến thức và các tác phẩm, quyết định hòa bình và chiến tranh, tổ chức sản xuất và phân phối tài sản; nhưng tất cả những cái đó không ngăn cản nó sụp đổ.
Michel Djerzinski không phải là người đầu tiên, cũng không phải là người kiến tạo chủ chốt của cuộc biến chuyển siêu hình học thứ ba, biến chuyển căn bản nhất xét về nhiều mặt, cái sẽ mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử thế giới; nhưng vì nhiều hoàn cảnh đặc biệt của cuộc đời ông, ông là một trong những người kiến tạo có ý thức nhất và sáng suốt nhất.

Ngày nay chúng ta sống trong một thời đại hoàn toàn mới,
Sự chằng chịt của các hoàn cảnh nuôi nấng cơ thể ta,
Tắm cơ thể ta,
Trong vầng hào quang niềm vui.
Ðiều mà con người xưa kia đôi khi dự cảm thông qua âm nhạc của mình,
Giờ đây ngày qua ngày chúng ta thực hiện chúng.
Ðiều với họ từng là bất khả nhập và tuyệt đối,
Chúng ta coi như là cái gì đó hoàn toàn đơn giản và dễ hiểu.
Tuy thế, chúng ta không khinh khi những con người đó;
Chúng ta biết rằng chúng ta nợ họ những giấc mơ,
Chúng ta biết rằng chúng ta sẽ chẳng là gì nếu không có sự chằng chịt những đớn đau và niềm vui từng xây nên cuộc đời họ,
Chúng ta biết rằng họ mang hình ảnh của chúng ta khi họ đi qua sự hận thù và nỗi sợ, khi họ va phải nhau trong bóng tối,
Khi họ dần viết nên lịch sử đời mình.
Chúng ta biết rằng họ không thể tồn tại, không thể tồn tại nếu họ không nuôi dưỡng niềm hy vọng đó trong thẳm sâu trái tim,
Họ không thể tồn tại nếu không có giấc mơ của mình.
Giờ đây chúng ta sống bên cạnh ánh sáng
ánh sáng tắm táp cơ thể chúng ta,
Phủ lên cơ thể chúng ta,
Trong vầng hào quang niềm vui
Giờ đây chúng ta được ở bên cạnh dòng sông,
Trong những buổi chiều chan chứa
Giờ đây ánh sáng quanh cơ thể chúng ta đã trở nên hiện hữu,
Giờ đây chúng ta đã đi đến đích
Và chúng ta đã để lại sau lưng mình vũ trụ của sự chia cắt,
Vũ trụ tinh thần của sự chia cắt,
Ðể tắm mình trong niềm vui bất động và dạt dào
Của một quy luật mới
Ngày nay,
Lần đầu tiên,
Chúng ta có thể dò tìm lại cái kết của thời đại cũ.

saos@ngmo

Phần thứ nhất(a)

Vương quốc đánh mất
1.

Ngày mồng Một tháng Bảy năm 1998 rơi đúng vào thứ Tư. Cho nên cũng lô gích, dù quả có hơi khác thường, khi Djerzinski tổ chức bữa tiệc tạm biệt vào buổi tối thứ Ba. Chiếc tủ lạnh hiệu Brandt xếp đầy những chai sâm banh đặt giữa đám túi phôi đông lạnh; nó hơi oằn xuống dưới sức nặng của đống chai; thường nó được dùng để bảo quản các sản phẩm hóa học thông thường.

Bốn chai cho mười lăm người, quá ít ỏi. Nhưng toàn bộ bữa tiệc cũng thật giả tạo: động lực tập hợp họ ngồi lại với nhau rất hời hợt; một câu nói vụng về, một cái nhìn liếc xéo là đủ để nhóm người giải tán, mỗi người vội vã đi ra xe của mình. Họ đang ở dưới tầng hầm, trong một căn phòng có máy lạnh, tường lát đá hoa ca rô trắng và treo một bức ảnh lớn chụp vài cái hồ ở Ðức. Không ai đề nghị chụp ảnh. Một nghiên cứu viên trẻ mới đến hồi đầu năm, rậm râu và trông khá ngu xuẩn, sau vài phút đã cáo từ, viện lý do phải đi sửa xe. Một nỗi bồn chồn ngày càng rõ rệt dần xâm chiếm những người khách - đã sắp đến kỳ nghỉ hè. Vài người sẽ đến nhà người thân nghỉ ngơi, một số khác sẽ đi du lịch sinh thái. Những câu nói chầm chậm rơi lộp độp trong bầu không khí. Họ nhanh chóng chia tay nhau.
Mười chín giờ ba mươi, bữa tiệc kết thúc. Djerzinski đi cắt ngang bãi để xe cùng với một đồng nghiệp nữ tóc đen dài, da rất trắng, bộ ngực đồ sộ. Cô nhiều tuổi hơn anh một chút; gần như chắc chắn cô sẽ thay anh đứng đầu tổ nghiên cứu. Phần lớn các bài viết của cô xoay quanh gen DAF3 của ruồi giấm; cô còn độc thân.

Ðứng trước chiếc Toyota của mình, anh mỉm cười chìa tay ra (mấy giây trước đó anh đã nghĩ mình sẽ làm động tác này, đi kèm với một nụ cười, anh đã chuẩn bị trong đầu như thế). Hai bàn tay nắm lấy nhau và khẽ lắc lắc. Một lúc sau anh nghĩ là cái bắt tay đó hơi thiếu độ nồng ấm; nhẽ ra họ cần phải ôm hôn như các ông bộ trưởng hay vài ca sĩ nhạc nhẹ vẫn thường làm.

Nói xong lời tạm biệt, anh ngồi trong xe năm phút, năm phút thật dài. Tại sao cô không nổ máy? Cô đang vừa nghe Brahms [1] vừa thủ dâm chăng? Hay cô đang nghĩ đến sự nghiệp của mình, đến những quyền lực cao hơn sắp sửa có, cô có sung sướng với chúng không? Cuối cùng, chiếc Golf của cô chuyên gia về gen rời khỏi bãi đỗ xe; anh lại trơ trọi một mình. Ngày hôm nay thật đẹp, trời vẫn còn nóng. Trong những tuần đầu tiên của mùa hè này, tất cả dường như cố định trong một sự bất động tuyệt vời; tuy nhiên Djerzinski cũng hiểu rằng ngày đang ngắn dần lại.

Anh làm việc trong một môi trường thuận lợi, anh nghĩ trong lúc nổ máy xe. Với câu hỏi: "Làm việc ở Palaiseau bạn có cảm thấy được hưởng một môi trường nhiều ưu đãi không?", 63% người trả lời: "Có". Ðiều này cũng dễ hiểu: các tòa nhà không cao lắm, nằm xen kẽ giữa những bãi cỏ. Có nhiều siêu thị lớn, mua bán rất dễ dàng; khái niệm chất lượng cuộc sống có vẻ rất phù hợp ở trường hợp Palaiseau này.

Ðường cao tốc Nam Paris vắng tanh không một bóng người. Anh có cảm giác đang ở trong một bộ phim khoa học viễn tưởng New Zealand mà anh đã xem hồi còn là sinh viên: anh đang là người cuối cùng của Trái Ðất sau khi toàn bộ sự sống đã biến mất. Ðiều gì đó trong bầu không khí gợi lên một sự tận thế khô khốc.

Djerzinski sống ở phố Frémicourt từ khoảng mười năm nay; anh đã quen với khu phố yên tĩnh này. Năm 1993, anh cảm thấy cần có bầu có bạn, một ai đó chờ đón anh vào mỗi tối khi anh trở về. Anh đã chọn một con chim bạch yến, một con chim rất hay sợ hãi. Nó hay hót, nhất là vào buổi sáng nhưng dường như nó không được vui; nhưng một con chim yến liệu có thể cảm thấy vui? Niềm vui là một cảm xúc dày đặc và sâu sắc, một thứ tình cảm tràn trề phấn khích chỉ ý thức trọn vẹn mới cảm thấy được; người ta có thể ví nó với sự say sưa, sự hân hoan, sự phấn khích. Một hôm, anh thả con chim ra khỏi lồng. Sợ quá, nó [em xin lỗi, em là người chửi bậy] xuống đi văng và lao vào chấn song để tìm lối ra. Một tháng sau, nó lặp lại ý đồ đó. Lần này nó bị ngã khỏi cửa sổ. Yếu đi ít nhiều vì cú ngã, con chim đành đậu xuống ban công một căn hộ thấp hơn năm tầng của tòa nhà đối diện. Michel phải đợi nữ chủ nhân về, sốt ruột vì sợ cô ta có nuôi mèo. Sau đó anh biết cô gái là biên tập viên ở tạp chí Tuổi 20, cô sống một mình và về nhà rất muộn. Cô không nuôi mèo.

Ðêm xuống, Michel lấy lại được con chim đang run lên vì đói và lạnh, lẩy bẩy dựa vào thành ban công bằng bê tông. Nhiều lần, chủ yếu khi đi đổ rác, anh gặp lại cô biên tập viên. Cô gật đầu, có lẽ để tỏ cho anh thấy là cô nhận ra anh; anh cũng gật đầu chào lại. Tóm lại, sự cố đã cho phép anh thiết lập một mối quan hệ hàng xóm. Xét về mặt đó, sự cố là tốt.

Nhìn qua cửa sổ nhà anh có thể nhìn thấy khoảng chục tòa nhà, tương đương khoảng ba trăm căn hộ. Thường thì khi buổi tối trở về, con chim yến sẽ làm toáng lên và hót líu lo trong khoảng năm hoặc mười phút. Rồi anh thay thức ăn, nước và rơm độn trong lồng. Nhưng tối đó, đón chờ anh là sự yên lặng. Anh lại gần cái lồng: con chim đã chết. Cơ thể nhỏ bé màu trắng của nó đã lạnh ngắt giữa đám rơm và sỏi.

Bữa tối của anh là một hộp cá biển trộn rau mua ở siêu thị Monoprix Gourmet, kèm với một chai rượu Valdepenas loại rẻ tiền. Sau một hồi lưỡng lự anh đặt xác con chim vào một cái túi ni lông rồi ném tất cả vào ống đổ rác. Còn làm thế nào khác được bây giờ? Làm một lễ mi-xa chăng?

Anh chưa bao giờ biết cái ống đổ rác với cái miệng bé xíu (nhưng đủ để chứa xác một con chim yến) đó dẫn đến đâu. Anh mơ thấy những thùng rác khổng lồ, đầy những phin cà phê, tim xắm ăn liền tưới nước sốt và bộ phận sinh dục bị chặt ra. Những con sâu to đùng, to bằng con chim, vũ trang bằng cái mỏ, sẽ tấn công cái xác chết. Chúng sẽ vặt chân của nó, xâu xé nội tạng của nó, ngấu nghiến hai con mắt của nó. Anh ngồi bật dậy giữa đêm, run rẩy; mới một giờ rưỡi. Anh nuốt chửng ba viên Xanax. Ðó là cách anh kết thúc ngày đầu tiên tự do của mình.


2.

Ngày 14 tháng Chạp năm 1900, trong một báo cáo ở Viện Hàn lâm Berlin dưới cái tên "Zur Theorie des Gesetzes der Energieverteilung in Normalspektrum" [2] , Max Planck lần đầu tiên giới thiệu khái niệm lượng tử của năng lượng, cái sẽ đóng một vai trò quyết định trong bước tiến triển sau này của vật lý. Từ 1900 đến 1920, chủ yếu với đóng góp của Einstein và Bohr, những mô hình ngày càng tinh vi tìm cách đưa lối nghĩ mới vào bộ khung các lý thuyết trước đó. Mãi từ đầu những năm hai mươi bộ khung đó dường như mới bị vứt bỏ hoàn toàn.

Niels Bohr được coi là cha đẻ thực sự của cơ học lượng tử không chỉ vì các phát hiện cá nhân của ông, mà nhất là còn vì ông biết cách tạo ra xung quanh mình một môi trường sáng tạo đặc biệt, sự sôi trào của tri thức, tự do trí tuệ và tình bạn hữu. Viện Vật lý Copenhagen, do Bohr thành lập năm 1919, đã đón nhận tất cả các nhà khoa học trẻ tuổi mà vật lý châu Âu sẽ biết ơn trong tương lai. Heisenberg, Pauli, Born đã trui rèn ở đó. Không nhiều tuổi hơn họ bao nhiêu, Bohr có thể dành hàng giờ trao đổi cặn kẽ các giả thuyết của họ, theo lối nói chuyện rất đặc trưng hòa trộn sự sáng suốt triết học, lòng tốt và tính nghiêm khắc. Chính xác đến mức bị ám ảnh, ông không bao giờ tha thứ bất kỳ sự đại khái nào trong cách diễn tả các thí nghiệm, nhưng ông cũng không bao giờ nghĩ bất kỳ ý tưởng mới nào là điên rồ, không khái niệm cổ điển nào không thể bị lật đổ. Ông thích mời sinh viên đến ngôi nhà thôn quê của mình tại Tisvilde; tại đó ông còn đón tiếp các nhà khoa học của các ngành khác, các nhà chính trị, các nghệ sĩ; những buổi trò chuyện của họ có thể tự do nhảy từ vật lý sang triết học, từ lịch sử đến nghệ thuật, từ tôn giáo đến đời thường. Kể từ thời các nhà tư tưởng Hy Lạp đến giờ chưa bao giờ có được một cái gì tương tự như thế. Chính trong môi trường đặc biệt đó, từ năm 1925 đến 1927, các khái niệm cơ bản nhất của trường phái Copenhagen đã ra đời, phá bỏ rất nhiều các quan niệm cũ về không gian, luật nhân quả và thời gian.

Djerzinski chưa bao giờ tạo được quanh mình một môi trường như thế. Không khí trong tổ nghiên cứu mà anh đứng đầu không khác gì không khí văn phòng hành chính. Còn xa mới trở thành các Rimbaud [3] của kính hiển vi mà một công chúng mùi mẫn thích được thấy, các nhà khoa học sinh học phân tử thường là những kỹ thuật viên trung thực, không có thiên tài, đọc báo Người quan sát mới và mơ đi nghỉ ở Thanh Ðảo. Ngành sinh học phân tử không cần đến tính sáng tạo, không cần phát minh; trên thực tế đó là một hoạt động gần như đã trở thành thói quen, chỉ cần đến một số khả năng trí tuệ khá khiêm tốn. Người ta học tiến sĩ, bảo vệ luận án, trong khi chỉ cần hai năm đại học là quá đủ để vận hành các loại máy móc. Desplechin, giám đốc ban sinh học Trung tâm Nghiên cứu Khoa học Quốc gia CNRS, thường vẫn hay nói: "Ðể hiểu mã di truyền là cái gì, để phát hiện nguyên tắc tổng hợp prô-tê-in, vâng, thì cũng phải toát mồ hôi một tí đấy. Mà các anh cũng thấy Gamow, một nhà vật lý, đã nhúng mũi đầu tiên vào vụ đó. Còn thì việc giải mã ADN, phì... Chúng ta giải mã, giải mã, giải mã. Chúng ta tạo ra một phân tử, rồi lại một phân tử nữa. Chúng ta nhập dữ liệu vào máy tính, máy tính tính toán các chuỗi con. Chúng ta gửi fax đến Colorado: họ làm gen B27, chúng ta làm gen C33. Ðều đều thế thôi. Ðôi khi cũng có vài tiến bộ nhỏ nhặt về mặt máy móc; nhìn chung thế cũng đủ để được trao giải Nobel. Công việc vụn vặt, như trò đùa."

Buổi chiều ngày mồng Một tháng Bảy nóng tàn bạo, một buổi chiều sẽ kết thúc rất tệ, cơn giông sẽ nổ ra, ào lên những cơ thể trần trụi kia. Văn phòng của Desplechin nhìn thẳng xuống kè Anatole-France. ở bờ bên kia sông Seine, trên kè Tuileries, những người đồng tính đang đi vòng vòng dưới ánh mặt trời, trò chuyện với nhau, hai người một hoặc từng nhóm nhỏ, dùng chung khăn tắm với nhau. Gần như tất cả đều mặc quần lót nhỏ xíu. Cơ bắp bôi dầu chống nắng của họ ánh lên trong nắng, những cặp mông bóng lên và mây mẩy. Vừa chuyện phiếm, một số trong đó vừa lấy tay mân mê bộ phận sinh dục của mình qua lần ni lông của quần lót, hay thò một ngón tay vào trong để nghịch những sợi lông kín và đầu dưới của dương vật. Cạnh cửa kính văn phòng, Desplechin đặt một ống nhòm. Bản thân ông, theo lời đồn đại, cũng là người đồng tính; trên thực tế từ vài năm nay ông nghiện ngập khá nặng. Một buổi chiều như chiều hôm nay, hai lần ông đã thử thủ dâm, mắt vẫn dán vào chiếc ống nhòm, đặt trọng tâm vào một thằng bé để người khác tụt quần lót ra, cái chim của nó khiến bầu không khí dâng lên đầy rạo rực. Còn cái của ông thì vẫn rũ xuống, nhẽo nhợt và nhăn nheo, khô khốc; ông cũng không cố thêm.

Djerzinski đến vào lúc mười sáu giờ đúng. Desplechin đòi được gặp anh. Trường hợp của anh làm ông rối trí. Vẫn thường có những trường hợp một nhà khoa học xin nghỉ một năm để đi làm trong một ê kíp khác ở Na Uy, Nhật Bản hoặc một trong những đất nước u ám với hàng đống người ở lứa tuổi bốn mươi tự tử hàng loạt. Những người khác - rất thường thấy trong "những năm Mitterand", những năm mà cơn háu đói tiền của đã đạt đến những mức độ kinh hoàng - lao vào kiếm tiền theo lối được ăn cả ngã về không, thành lập một công ty để thương mại hóa một loại phân tử nào đó; cũng có một số trong một thời gian ngắn tạo lập được một tài sản kha khá, hèn hạ tìm cách biến những kiến thức thu được trong những năm nghiên cứu hờ hững nảy ra tiền. Nhưng việc Djerzinski xin nghỉ, không dự định, không chủ đích, không thanh minh, với Desplechin là không thể hiểu nổi. Bốn mươi tuổi anh đã là giám đốc nghiên cứu với mười lăm nhà khoa học làm việc dưới quyền; bản thân anh chỉ phụ thuộc Desplechin và cũng chỉ thuần túy về mặt lý thuyết. Ê kíp của anh có được những kết quả tuyệt vời, người ta coi nó là một trong những ê kíp tốt nhất của châu Âu. Tóm lại, có gì không ổn ở đây? Desplechin cố làm cho giọng nói của mình linh hoạt lên: "Anh có kế hoạch gì à?" Im lặng ba mươi giây, rồi Djerzinski buồn thảm bật ra: "Suy nghĩ." Bắt đầu tệ rồi đây. Cố bắt mình tỏ ra vui vẻ, ông hỏi tiếp: "Việc cá nhân à?" Nhìn chằm chằm vào khuôn mặt nghiêm túc, đường nét gãy gọn, đôi mắt buồn đang chiếu thẳng vào ông, đột nhiên ông cảm thấy ngượng ngập. Việc cá nhân là cái gì? Chính ông là người đã đến tìm Djerzinski tại trường đại học Orsay, mười lăm năm về trước. Lựa chọn của ông quá tuyệt: đó là một nhà nghiên cứu chính xác, nghiêm khắc, có óc sáng tạo: kết quả công việc cứ tích tụ dần, khối lượng rất lớn. CNRS có được vị trí đáng kể tại châu Âu về sinh học phân tử chính là nhờ một phần lớn vào anh. Hợp đồng đã được hoàn thành, rất nhiều lợi ích.

"Ðược rồi", Desplechin kết thúc, "anh sẽ vẫn có quyền truy nhập hệ thống máy tính. Chúng tôi sẽ giữ mã truy nhập của anh vào các dữ liệu để trong máy chủ, và vào kênh Internet của trung tâm; thời hạn là không hạn chế. Nếu anh cần gì nữa, tôi sẽ vui lòng thực hiện ngay."

Sau khi Djerzinski đã đi, ông lại bước đến gần cửa kính. Ông hơi toát mồ hôi. Trên kè sông đối diện, một tay thanh niên tóc nâu Bắc Phi đang cởi quần đùi. Còn quá nhiều vấn đề cần giải quyết cho ngành sinh học phân tử. Các nhà sinh học nghĩ và hành động như thể các phân tử là những yếu tố vật chất tách rời, chỉ được liên hệ với nhau thông qua lực hút và lực đẩy điện từ; không ai trong số họ, ông chắc chắn vậy, từng nghe nói đến nghịch lý EPR [4] , các thí nghiệm của Aspect; thậm chí cũng không có ai buồn tìm hiểu về các tiến bộ trong vật lý kể từ đầu thế kỷ đến nay; quan niệm của họ về phân tử gần như dừng lại từ thời Démocrite [5] . Họ tích tụ các loại dữ liệu, nặng nề và lặp đi lặp lại, chỉ với mục đích duy nhất là rút ra từ đó các ứng dụng công nghiệp ngay tức khắc, không bao giờ thèm ý thức là nền tảng khái niệm của cách làm việc của mình đã bị xói mòn. Djerzinski và chính ông, nhờ trước kia được đào tạo để trở thành nhà vật lý, rất có thể là những người duy nhất ở CNRS nhận thức được điều ấy; ngay khi người ta thực sự động đến các cơ sở nguyên tử của cuộc sống, toàn bộ nền móng của sinh học hiện nay sẽ vỡ vụn thành nhiều mảnh nhỏ. Desplechin suy ngẫm về những vấn đề đó trong bóng chiều đang xuống trên dòng sông Seine. Ông không tài nào tưởng tượng ra được những hướng mà suy nghĩ của Djerzinski có thể tìm tới; ông còn không cảm thấy mình đủ tầm để bàn chuyện đó với anh. Ông đã bước vào tuổi sáu mươi; về mặt tri thức mà nói, ông cảm thấy mình đã hoàn toàn cạn kiệt. Giờ đây những người đồng tính đã đi khỏi, kè sông vắng ngắt. Ông không còn nhớ được lần cuối cùng cương cứng của mình là bao giờ nữa; ông đợi cơn giông.


3.

Cơn giông bắt đầu vào khoảng chín giờ tối. Djerzinski vừa nghe tiếng mưa rơi vừa nhấm nháp từng ngụm rượu Armagnac loại rẻ tiền. Anh đã bước vào tuổi bốn mươi: liệu anh có là nạn nhân của khủng hoảng tuổi bốn mươi? Hiện tại điều kiện sống của những người bốn mươi tuổi rất lý tưởng, họ đang sung mãn về mặt thể chất. Những dấu hiệu đầu tiên - cả về vẻ bề ngoài lẫn phản ứng của các cơ quan hoạt động nhiều - cho thấy họ bước qua một bậc thềm nào đó, bắt đầu bước vào chặng đường đi đến cái chết thường chỉ bắt đầu rõ rệt ở tuổi bốn nhăm, thậm chí năm mươi. Ngoài ra, cơn "khủng hoảng tuổi bốn mươi" thường gắn liền với các hiện tượng tình dục, với sự tìm kiếm đột ngột và say sưa những cơ thể những cô gái còn rất trẻ. Ở trường hợp Djerzinski, khỏi cần để ý đến những cái đó. Con cu của anh chỉ dùng để đi tiểu, không hơn.

Khoảng bảy giờ sáng hôm sau anh ngủ dậy, lấy trong tủ sách của mình cuốn Bộ phận và Tổng thể hồi ký khoa học của Werner Heisenberg [6] , và đi bộ về hướng khu Champs-de-Mars. Bình minh trong vắt và mát mẻ. Anh có quyển sách này từ khi mười bảy tuổi. Ngồi dưới một cây tiêu huyền ở lối đi Victor-Cousin, anh đọc lại chương đầu tiên, trong đó Heisenberg miêu tả những năm đầu đi học và liên hệ với hoàn cảnh lần đầu ông gặp gỡ với vật lý nguyên tử:

"Việc đó đã diễn ra, tôi nghĩ vậy, vào mùa xuân năm 1920. Thế chiến thứ nhất vừa chấm dứt đã gieo rắc sự bối rối và hoang mang ở những người trẻ tuổi đất nước chúng tôi. Thế hệ trước, thất vọng sâu sắc vì thất bại, đã để tuột dây cương khỏi tay mình; và thanh niên tụ tập thành hội nhóm, thành những cộng đồng nhỏ hoặc lớn, để tìm kiếm một con đường mới, hay chí ít là tìm ra một kim chỉ nam mới hướng lối cho họ, bởi chiếc la bàn cũ đã bị vỡ hoàn toàn. Chính trong hoàn cảnh đó, trong một ngày đẹp trời mùa xuân, tôi ở trên đường cùng với một nhóm bạn khoảng mười, hai mươi người. Nếu tôi nhớ chính xác, cuộc đi dạo đó đã dẫn chúng tôi đi qua những ngọn đồi sát bờ Tây hồ Starnberg; cái hồ, mỗi khi có một lỗ hổng trong đám sồi xanh đậm, lại hiện ra bên trái, phía dưới chúng tôi, và trải rộng gần đến tận những ngọn núi làm nền cho phong cảnh. Thật lạ lùng, chính trong buổi đi dạo đó, tôi đã có cuộc tranh luận đầu tiên về thế giới vật lý nguyên tử, cuộc bàn cãi có tầm quan trọng rất to lớn với tôi trong sự nghiệp sau này."

Khoảng mười một giờ, cái nóng bắt đầu tăng lên. Quay về nhà, Michel cởi hết quần áo và đi nằm. Ba tuần tiếp theo, cử động của anh được giảm xuống tối đa. Có thể tưởng tượng anh giống như một con cá thỉnh thoảng nhô đầu khỏi mặt nước để hớp không khí, ngắm nhìn trong vài giây ngắn ngủi thế giới bên trên, hoàn toàn khác biệt - thiên đường. Sau đó dĩ nhiên nó phải quay về với thế giới đầy rong rêu của mình, nơi đồng loại của nó cắn xé lẫn nhau. Nhưng trong vài giây nó đã có trực cảm về một thế giới khác, một thế giới hoàn hảo - thế giới của chúng ta.

Buổi tối ngày 15 tháng Bảy, anh gọi điện cho Bruno. Trên nền nhạc jazz cool, giọng nói của người anh cùng mẹ khác cha truyền đạt một thông tin ở độ thứ hai. Bruno hiển nhiên là nạn nhân của khủng hoảng tuổi bốn mươi. Anh mặc áo da không thấm nước và để râu. Ðể chứng tỏ mình hiểu biết cuộc sống, anh nói năng như một nhân vật của phim truyền hình hình sự hạng hai, anh hút xì gà nhỏ, tập tạ để phát triển cơ ngực. Nhưng về phía Michel, anh không hề tin chút nào vào sự giải thích của "khủng hoảng tuổi bốn mươi" này. Một người đàn ông nạn nhân của cơn khủng hoảng tuổi bốn mươi chỉ đòi hỏi được sống, được sống thêm một chút; anh ta chỉ đòi hỏi kéo dài cuộc đời thêm một chút. Bản thân anh đã hoàn toàn chán ngán nó; chỉ đơn giản anh không hề thấy một lý do nào để tiếp tục nữa cả.

Cũng buổi tối đó anh tìm lại một bức ảnh, chụp ở trường tiểu học ở Charny. Và anh bật khóc. Ngồi ở bàn học, đứa bé cầm trên tay một quyển sách giáo khoa đang mở. Nó tươi cười nhìn chăm chăm vào người xem, vẻ rất vui sướng và dũng cảm. Thật không thể tin nổi đứa trẻ này lại là anh. Ðứa trẻ làm bài tập, học bài với một sự nghiêm túc đầy tự tin. Rồi nó bước vào đời, khám phá thế giới, và thế giới không làm nó sợ. Tất cả những cái đó người ta có thể đọc thấy trong cái nhìn của đứa trẻ. Nó mặc một chiếc áo khoác có cái cổ nhỏ.

Trong suốt nhiều ngày Michel để bức ảnh trong tầm tay với, dựa vào cái đèn ngủ. Thời gian là một bí ẩn tầm thường, và tất cả đều nằm trong trật tự, anh cố tự nhủ như thế; cái nhìn tắt ngấm, niềm vui và sự tự tin biến mất. Duỗi dài trên tấm nệm Bultex, anh cố tập cho quen với đổi thay này mà không nổi. Trán của đứa trẻ có một vết lõm nhỏ - vết sẹo do bệnh thủy đậu để lại. Vết sẹo này đã đi qua năm tháng. Sự thật nằm ở đâu? Cái nóng giữa trưa lan tỏa trong căn phòng.


4.

Sinh năm 1882 tại một ngôi làng nằm sâu trong đảo Corse, trong một gia đình nông dân mù chữ, dường như Martin Ceccaldi được sinh ra để sống một cuộc đời điền viên thôn dã, ít hoạt động, giống như đời tổ tiên của cậu bé qua rất nhiều thế hệ. Ðó là cuộc sống lâu nay đã biến mất khỏi các vùng đất của chúng ta, nên việc phân tích rốt ráo nó hẳn không đem lại ích lợi gì lớn lắm; dù một vài nhà sinh thái học cực đoan cứ lâu lâu lại thể hiện lòng hoài nhớ không hiểu nổi về cuộc sống đó, để hoàn thiện, tôi cũng sẽ miêu tả ngắn gọn một cách tổng hợp cuộc sống ấy: họ có thiên nhiên và không khí trong lành, họ gieo trồng trên vài mẫu ruộng (số lượng được định ra chính xác theo thừa kế), đôi khi họ săn một con lợn rừng; họ làm tình với những người đàn bà xung quanh, thường là với vợ của mình, kết quả là họ có những đứa con; họ nuôi dạy những đứa con này để sau này chúng thừa hưởng lại vị trí của họ trong cái hệ sinh thái đó, họ lâm bệnh, và thế là tiêu.

Số phận đặc biệt của Martin Ceccaldi mang đầy đủ đặc điểm của sự xâm nhập xã hội Pháp và thúc đẩy tiến bộ kỹ thuật của trường học phi tôn giáo suốt trong chiều dài nền Cộng hòa thứ III. Thầy giáo của cậu bé nhanh chóng hiểu là mình đang đứng trước một học sinh xuất sắc, cự phách về khả năng tư duy trừu tượng và sáng tạo mang tính hình thức, rất khó thể hiện được trong môi trường nơi cậu sinh ra. Ý thức đầy đủ rằng trách nhiệm của mình không chỉ là cung cấp cho mỗi công dân tương lai một hành trang kiến thức cơ bản mà còn phải tìm ra những nhân tố ưu tú để làm nòng cốt cho các chức vụ quan trọng của nền Cộng hòa, ông đã thuyết phục bố mẹ Martin rằng con đường vận mệnh của con trai họ nhất thiết không thể nằm ở đảo Corse. Năm 1894, được hưởng một học bổng, cậu bé vào nội trú ở trường trung học Thiers ở Marseille (được miêu tả rất kỹ trong hồi ký tuổi thơ của Marcel Pagnol [7] , tập hồi ký sẽ dựng lại từ đầu đến cuối, bằng một sự tái tạo mang tính hiện thực tuyệt vời những thần tượng lớn lao của một thời qua bước đường một chàng trai trẻ tài năng sinh ra trong một gia đình nghèo khó ít học, quyển sách mà Martin Ceccaldi thích nhất). Năm 1902 cậu được nhận vào trường Bách khoa, biến đầy đủ những hy vọng của người thầy giáo cũ thành sự thật.

Năm 1911 Martin Ceccaldi giành được một công việc sẽ quyết định phần còn lại của cuộc đời ông. Ðó là việc làm hệ thống dẫn nước trên toàn lãnh thổ Algérie. Ông làm việc ở đó suốt hai mươi nhăm năm, tính toán độ cong của các đường nước và đường kính các hệ thống ống. Năm 1923 ông cưới Geneviève July, một nhân viên thu chi gốc Languedoc nhưng gia đình đã chuyển đến Algérie từ hai thế hệ. Năm 1928 họ sinh được một đứa con gái, Janine.

Chuyện một đời người có thể rất dài hoặc rất ngắn tùy ý thích người kể. Lựa chọn mang tính siêu hình hoặc bi kịch, chỉ giới hạn sự phân tích vào ngày sinh và ngày mất ghi trên một tấm bia mộ, thường được áp dụng vì tính ngắn gọn cao độ của nó. Trong trường hợp Martin Ceccaldi, có lẽ là tốt hơn nếu nêu ra chiều lịch sử và xã hội, nhấn mạnh vào các đặc điểm cá nhân ít hơn tiến trình phát triển của xã hội mà ông mang trong mình đặc điểm tiêu biểu. Một mặt bị đưa đẩy bởi sự phát triển lịch sử, mặt khác lại lựa chọn hòa nhập vào đó, các cá nhân có tính chất tiêu biểu thường có một cuộc đời đơn giản và sung sướng; chuyện đời do đó có thể, một cách kinh điển, chỉ chiếm một hoặc hai trang sách. Janine Ceccaldi lại thuộc vào hạng những người báo trước đáng thất vọng. Một mặt hết sức hòa nhập với cách sống chung của thời đại mình, mặt khác rất quan tâm vượt lên "phía trên" bằng cách tạo lập những cung cách sống mới hoặc phổ biến những cung cách chưa được áp dụng nhiều lắm, thế nên cần miêu tả kỹ hơn những người báo trước này, nhất là khi đời họ thường sóng gió và hỗn loạn. Tuy vậy họ chỉ đóng một vai trò thúc đẩy lịch sử - thông thường, thúc đẩy một sự tan rã mang tính lịch sử - không bao giờ có thể thiết lập được một hướng đi mới cho các sự kiện - vai trò đó đã được dành cho các nhà cách mạng hoặc các nhà tiên tri.

Rất sớm, con gái của Martin và Geneviève Ceccaldi đã thể hiện những khả năng trí tuệ siêu phàm, ít nhất cũng ngang bằng với bố mình, thêm vào những biểu hiện đó là một tính cách hết sức độc lập. Con bé mất trinh năm mười ba tuổi (điều này là ngoại lệ thời đó, trong môi trường của bố mẹ cô) trước khi cống hiến toàn bộ những năm chiến tranh (khá yên bình ở Algérie) cho những buổi vũ hội tổ chức vào tất cả các cuối tuần, lúc đầu ở Constantine, sau đó ở Alger. Những cuộc nhảy nhót đó không hề làm giảm những kết quả ấn tượng ở trường, từ học kỳ này sang học kỳ khác. Năm 1945, cầm trong tay tấm bằng tú tài hạng giỏi cùng kinh nghiệm tình dục đã chín muồi, cô bé rời bố mẹ đến học y khoa ở Paris.

Những năm hậu chiến thật khó nhọc và dữ dội; chỉ số sản xuất công nghiệp xuống đến mức thấp nhất, chế độ khẩu phần ăn mãi đến năm 1948 mới chấm dứt. Tuy vậy, trong một nhúm những kẻ giàu có của xã hội đã xuất hiện những dấu hiệu đầu tiên của tiêu thụ ở mức độ lớn các trò giải trí liên quan đến tình dục, xu hướng du nhập từ Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, sẽ lan rộng trong đại bộ phận dân châu Âu những thập kỷ tiếp theo. Là sinh viên y khoa ở Paris, Janine Ceccaldi có cơ hội sống rất gần gũi với những năm "hiện sinh chủ nghĩa" và thậm chí còn có lần được nhảy một điệu be-bop ở quán Tabou với Jean-Paul Sartre [8] . Không ấn tượng lắm với tác phẩm của nhà triết học, nhưng cô bàng hoàng trước sự xấu xí của con người ông, gần như một người bị dị tật, và sau lần đó cũng không có gì xảy ra. Cô rất đẹp, kiểu Ðịa Trung Hải rất rõ nét, và trải qua rất nhiều cuộc phiêu lưu tình ái cho đến năm 1952 khi gặp Serge Clément, vừa tốt nghiệp chuyên khoa phẫu thuật.

"Ngài muốn biết chân dung ông bố tôi không?" Nhiều năm sau Bruno rất thích nói câu đó. "Ngài hãy lấy một con khỉ, đeo điện thoại di động cho nó, ngài sẽ hình dung ra ông ấy." Thời đó, hiển nhiên Serge Clément không có điện thoại di động, nhưng quả thật người ông rất lắm lông. Nhìn chung chàng trai hồi đó không hề đẹp, nhưng con người anh có chất nam tính mạnh mẽ, chẳng khó khăn gì anh đã quyến rũ được cô sinh viên nội trú trẻ trung. Ngoài ra, anh có những dự định. Một chuyến đi sang Mỹ đã thuyết phục anh rằng ngành phẫu thuật thẩm mỹ sẽ tạo ra những cơ hội tương lai to lớn cho một bác sĩ nhiều tham vọng. Sự mở rộng nhanh chóng của thị trường làm đẹp, đồng thời với sự phá vỡ khái niệm cặp vợ chồng truyền thống, sự cất cánh nhen nhúm của kinh tế Tây Âu: tất cả phối hợp với nhau để hứa hẹn cho ngành mới những khả năng phát triển tuyệt vời, và Serge Clément có vinh dự là một trong những người đầu tiên ở châu Âu - và chắc chắn là người đầu tiên ở Pháp - hiểu được điều đó; vấn đề là anh thiếu vốn cần thiết để khởi động kế hoạch. Martin Ceccaldi, có ấn tượng tốt với tinh thần kinh doanh của con rể tương lai, đã đồng ý cho anh vay tiền, và phòng khám đầu tiên mở cửa năm 1953 ở Neuilly. Thành công được bơm lên bởi những trang thông tin của các tờ báo phụ nữ lúc đó đang phát triển như vũ bão, và năm 1955 một phòng khám mới đã được mở trên vùng cao nguyên ở Cannes.

Hai vợ chồng xây dựng nên cái mà sau đó người ta sẽ gọi là "cặp vợ chồng hiện đại", và chỉ do sơ suất Janine mới mang thai với chồng mình. Tuy nhiên cô quyết định giữ lại đứa bé; cô cho là làm mẹ cũng là một trong những kinh nghiệm mà một người đàn bà cần trải qua. Thời kỳ mang thai cũng là thời kỳ khá dễ chịu, và Bruno ra đời tháng Ba 1956. Với hai vợ chồng sự nhàm chán của việc nuôi dạy một đứa bé có thật ít điểm chung với lý tưởng tự do cá nhân của họ, và theo một thỏa thuận chung năm 1958 Bruno được gửi đến nhà ông bà ngoại ở Alger. Lúc đó, Janine đã lại mang thai: nhưng lần này, bố của đứa trẻ là Marc Djerzinski.

Bị thúc đẩy bởi sự nghèo đói khốn cùng, gần như là chết đói, năm 1919 Lucien Djerzinski rời vùng mỏ Katowice [9] , nơi hai mươi năm trước anh sinh ra, với hy vọng tìm thấy việc làm ở Pháp. Anh vào làm công nhân trong ngành đường sắt, đầu tiên là xây dựng, sau đó sửa chữa đường, và cưới Marie Le Roux, con gái của một cặp vợ chồng làm thợ công nhật, cũng làm trong ngành đường sắt. Họ có với nhau bốn đứa con, rồi Lucien mất năm 1944 trong một trận bom Ðồng minh.

Ðứa con thứ ba, Marc, lên mười bốn tuổi khi bố mất. Ðó là một cậu bé thông minh, nghiêm túc, tính khí hơi buồn bã. Nhờ một người hàng xóm, năm 1946 anh vào xưởng phim Pathé ở Joinville làm thợ điện học việc. Ngay sau đó anh tỏ ra rất có năng khiếu với công việc này: chỉ với những chỉ dẫn rất chung chung, anh chuẩn bị được những phông ánh sáng tuyệt hảo trước cả khi người phụ trách đến. Henri Alekan đánh giá anh rất cao và năm 1952, khi quyết định vào làm cho ORTF [10] , khi đó mới bắt đầu các chương trình phát sóng, ông đem theo người phụ tá của mình.

Khi gặp Janine vào đầu năm 1957, Marc đang làm một phóng sự truyền hình về vùng Saint-Tropez. Ðặc biệt đặt trọng tâm vào Brigitte Bardot [11] (Và Chúa đã tạo ra người đàn bà, khởi chiếu năm 1956, là bước lăng xê thực sự cho huyền thoại Bardot), phóng sự của anh cũng mở rộng đến một số trung tâm nghệ thuật và văn chương và đặc biệt chú trọng cái mà sau này người ta sẽ gọi là "bè lũ Sagan". Thế giới đó đóng im ỉm trước mặt Janine dù cô có nhiều tiền, và dường như cô thật sự đem lòng yêu Marc. Cô tự thuyết phục mình rằng anh có dáng dấp một nhà điện ảnh lớn, mà cũng có thể là như thế thật. Trong khuôn khổ bài phóng sự, với một thiết bị chiếu sáng nhẹ, anh sáng tác bằng cách dịch chuyển vài thứ đồ vật của những xen nóng bỏng, vừa hiện thực, êm ả vừa tuyệt vọng một cách hoàn hảo, rất gần với tác phẩm của Edward Hopper [12] . Anh đi bên cạnh những người nổi tiếng mà anh nhìn với cái nhìn xa cách, và quay Bardot hay Sagan với sự chăm chú ngang bằng với khi anh quay cá mực hay tôm. Anh không nói chuyện với ai hết, không thân thiện với ai, anh thực sự quyến rũ.

Janine ly dị năm 1958, không lâu sau khi gửi Bruno đến nhà ông bà ngoại. Ðó là một cuộc ly hôn êm thấm, tài sản chia đôi. Rất rộng lượng, Serge nhường cho cô phần của mình ở phòng khám Cannes, chỉ riêng nó cũng đã đảm bảo cho cô một thu nhập dư dả. Sau khi đến ở trong một tòa biệt thự ở Sainte-Maxime, Marc không hề thay đổi các thói quen cô độc của mình. Cô ép anh theo đuổi sự nghiệp điện ảnh, anh đồng ý nhưng không làm gì cả, chỉ hài lòng chờ đợi chủ đề của bài phóng sự tiếp theo. Khi cô tổ chức một bữa tối anh thường thích ăn trước một mình trong bếp, rồi đi dạo ở bờ biển. Anh về nhà ngay trước khi khách khứa đi, viện cớ mắc bận dựng phim. Sự ra đời của đứa con, tháng Sáu năm 1958, khơi dậy trong anh một sự khuấy động rõ ràng. Anh đứng hàng phút liền nhìn đứa trẻ, nó giống anh đến lạ kỳ: cùng khuôn mặt với những đường nét nhọn, gò má nhô cao, cùng đôi mắt to màu xanh đó. Không lâu sau đó, Janine bắt đầu lừa dối anh. Có lẽ anh cũng khổ sở vì chuyện đó, nhưng thật khó nói, vì quả thật anh ngày càng ít nói đi. Anh dựng những bàn thờ nhỏ bằng sỏi, cành cây, vỏ ốc vỏ sò, rồi chụp ảnh chúng dưới ánh nắng chói chang.

Phóng sự của anh về Saint-Tropez thu được thành công rất lớn trong giới, nhưng anh từ chối trả lời phỏng vấn của Tạp chí điện ảnh [13] . Tiếng tăm của anh càng tăng lên sau khi một phim tài liệu ngắn được chiếu, bộ phim rất dữ dội anh quay vào mùa xuân năm 1959 về chương trình Xin chào các bạn và sự ra đời của hiện tượng yéyé [14] . Màn ảnh bạc không hấp dẫn anh tí nào, hai lần anh từ chối làm việc với Godard [15] . Cùng thời gian đó Janine bắt đầu thường xuyên quan hệ với những người Mỹ đến nghỉ ở Bãi biển. ở Mỹ, California, một điều gì đó hoàn toàn mới mẻ đang diễn ra. Tại Esalen, gần Big Sur, các cộng đồng hình thành, dựa trên sự tự do tình dục và sử dụng thuốc phiện tác động thần kinh, được cho là kích thích mở ra hoàn toàn ý thức. Cô trở thành tình nhân của Francesco di Meola, một người Mỹ gốc ý quen biết Ginsberg [16] và Aldous Huxley [17] , và tham gia sáng lập một trong các cộng đồng ở Esalen.

Tháng Giêng năm 1960, Marc đi làm một phóng sự về xã hội cộng sản theo phương thức mới đang được xây dựng ở Trung Hoa dân quốc. Giữa buổi chiều ngày 23 tháng Sáu anh về đến Sainte-Maxime. Nhà vắng tanh vắng ngắt. Tuy nhiên, một đứa bé gái chừng mười lăm tuổi, hoàn toàn khỏa thân đang ngồi xếp chân trên tấm thảm phòng khách. "Gone to the beach..." [18] , cô bé trả lời những câu hỏi của anh trước khi trở lại trạng thái vô hồn. Trong phòng ngủ của Janine một người đàn ông rậm râu to béo, rõ ràng đang say sưa, nằm vật ngang giường mà ngáy. Marc căng tai ra nghe ngóng, anh nhận ra tiếng rên rỉ và hổn hển.

Phòng ngủ trên tầng đầy mùi hôi thối nặng nề; mặt trời xuyên qua ô cửa kính làm lóe lên những ô gạch men màu đen trắng. Con trai anh đang vụng về bò trên sàn nhà, thỉnh thoảng lại trượt vào một vũng nước [em xin lỗi, em là người chửi bậy] hoặc một bãi cứt. Nó liên tục nháy mắt vì chói và rên rỉ. Nhận ra sự có mặt của người khác, nó tìm cách chạy trốn. Marc bế nó lên. Sợ hãi, đứa trẻ run lên trong tay anh.

Marc ra khỏi nhà, anh mua một ghế ngồi dành cho trẻ con ở cửa hiệu gần đó. Anh để lại một mẩu giấy nhắn cho Janine, trèo lên xe, đặt đứa trẻ lên ghế vào nổ máy đi về hướng Bắc. Ðến ngang Valence, anh rẽ về hướng Massif central. Trời sập tối. Ðôi khi, giữa hai lần quẹo, anh ngoái nhìn đứa con trai đang thở đều đều phía sau. Anh cảm thấy một cảm xúc kỳ lạ xâm chiếm lấy mình.

Kể từ ngày đó Michel được bà nội nuôi; bà về hưu và sống ở Yonne, quê của bà. Không lâu sau mẹ cậu bé đi California, sống trong cộng đồng của di Meola. Mãi đến năm mười lăm tuổi Michel mới gặp lại mẹ. Cậu cũng không thường xuyên gặp bố. Năm 1964, ông bố đi làm một phóng sự về Tây Tạng, khi đó đang chịu sự chiếm đóng quân sự của Trung Quốc. Trong một bức thư gửi cho mẹ cậu ông cho biết vẫn khỏe, và kể là rất say mê Phật giáo Tây Tạng, mà Trung Quốc muốn dùng vũ lực để thanh toán triệt để. Rồi không có tin tức gì của ông nữa. Sự phản đối mà nước Pháp gửi đến chính phủ Trung Quốc không mang lại kết quả nào, và một năm sau đó, dù không tìm thấy thi hài của ông, ông vẫn bị chính thức tuyên bố là mất tích.


5.

Ðang là mùa hè năm 1968, và Michel lên mười tuổi. Từ hai tuổi, cậu đã sống một mình cùng bà nội. Họ sống ở Charny, vùng Yonne, giáp ranh với Loiret. Buổi sáng cậu dậy thật sớm để chuẩn bị bữa sáng cho bà. Cậu làm một phiếu đặc biệt ghi thời gian hãm chè, số lát bánh mì phết bơ, và nhiều thứ khác nữa.

Thường thì cho đến bữa trưa cậu ở lì trong phòng mình. Cậu đọc Jules Verne [19] , Con chó Pif hoặc Hội năm người bạn; nhưng sở thích lớn nhất của cậu là đắm chìm trong bộ sưu tập Hoàn Vũ [20] của mình. Trong đó viết về kháng lực của các chất, về hình dạng các đám mây, về điệu nhảy của những con ong. Còn có Taj Mahal, cung điện do một ông vua rất cổ xưa xây dựng cho hoàng hậu quá cố của ông, có cái chết của Socrate [21] , hoặc hình học do Euclide [22] sáng tạo cách đây ba nghìn năm.

Buổi chiều, cậu ngồi trong vườn. Tựa lưng vào cây anh đào, mặc quần đùi ngắn cũn, cậu ngửi thấy mùi đám cỏ bồng bềnh. Cậu cảm thấy cái nóng của mặt trời. Những cây rau diếp hấp thụ ánh nắng và nước, cậu biết sẽ phải tưới chúng khi chớm buổi tối. Cậu tiếp tục đọc bộ Hoàn Vũ, hoặc một cuốn nào đó trong bộ Một trăm câu hỏi; cậu hấp thụ kiến thức.

Cũng thường xuyên, cậu đi xe đạp trong vùng quê. Cậu đạp hết sức, thở đầy hai buồng phổi mùi vị của vĩnh cửu. Sự vĩnh cửu của tuổi thơ là một sự vĩnh cửu ngắn ngủi, nhưng khi đó cậu còn chưa biết. Cảnh vật lần lượt trôi đi.

Ở Charny chỉ có một hiệu bán hàng khô, nhưng chiếc xe tải của ông bán thịt đi qua vào ngày thứ Tư, xe của người bán cá ngày thứ Sáu. Thường thì trưa Chủ nhật bà cậu làm món cá tuyết trộn kem. Michel đang sống mùa hè cuối cùng ở Charny, nhưng cậu còn chưa biết điều đó. Ðầu năm, bà cậu bị một cơn đau tim. Hai con gái của bà, sống ở ngoại ô Paris, tìm cho bà một ngôi nhà không xa nhà họ lắm. Bà không thể sống được một mình suốt năm, trông coi khu vườn của mình nữa.

Michel hiếm khi chơi với những đứa bé trai cùng độ tuổi, nhưng quan hệ của cậu với chúng không đến nỗi xấu. Cậu chỉ bị coi là hơi cách biệt, kết quả học tập ở trường của cậu rất tốt, cậu hiểu tất cả mà không phải cố gắng gì lắm. Từ lâu cậu vẫn là người đứng đầu trong mọi môn học, và dĩ nhiên bà cậu rất lấy làm tự hào vì cậu. Nhưng cậu không hề bị lũ bạn cùng lớp ghét bỏ hay đối xử thô bạo; cậu cho chúng thoải mái chép bài mình khi có kiểm tra trên lớp. Cậu chờ cho đến khi đứa bạn ngồi bên cạnh chép xong thì giở sang trang khác. Dù học rất xuất sắc, cậu luôn ngồi ở hàng ghế cuối. Vương quốc của cậu rất mong manh.


6.

Một chiều hè, khi còn ở Yonne, Michel cùng cô chị họ Brigitte dạo chơi trên cánh đồng. Brigitte là một cô gái mười sáu tuổi xinh đẹp, tính tình cực kỳ dễ chịu, vài năm sau sẽ lấy một thằng chồng hết sức vũ phu. Ðó là mùa hè năm 1967. Cô nắm tay cậu và xoay cậu quay xung quanh, rồi họ ôm nhau lăn lộn trên bãi cỏ mới xén. Cậu dựa vào bầu ngực nóng bỏng của cô chị; cô mặc một chiếc váy ngắn. Ngày hôm sau cả hai bị mọc những mụn nhỏ màu đỏ, người họ trở nên ngứa ngáy khủng khiếp. Thrombidium holosericum, tên khoa học của con mạt gà, có rất nhiều trong cỏ vào mùa hè. Ðường kính của nó vào khoảng hai mi-li-mét. Người nó dày, nung núc thịt, khum khum, màu đỏ tươi. Nó cắm vòi vào da các động vật có vú, gây ra những ngứa ngáy hết sức khó chịu. Linguatulia rhinaria, hay nhện giun, sống trong lỗ mũi và xoang mũi hoặc hàm chó, đôi khi ở cả người. Phôi của nó hình ô van, có đuôi đằng sau; miệng nó có một bộ máy nhai nghiền. Hai bên (là hai mỏm cụt) có những móng vuốt dài. Con trưởng thành màu trắng, có hình ngọn giáo, dài từ 18 đến 85 mi-li-mét. Thân hình nó dẹt, trong suốt, phủ đầy ki-tin nhọn hoắt.

Tháng Chạp năm 1968, bà cậu chuyển nhà đến ở Seine-et-Marne cho gần hai cô con gái. Thời gian đầu, cuộc sống của Michel thay đổi ít nhiều. Crécy-en-Brie chỉ cách Paris năm mươi cây số, thời đó vẫn còn là thôn quê. Ngôi làng rất đẹp, toàn nhà cổ. Corot [23] đã vẽ vài bức tranh ở đó. Một hệ thống kênh đào dẫn nước từ Grand Morin, khiến Crécy tự phụ ví mình là Venise vùng Brie trong vài tờ rơi quảng cáo. Rất hiếm người Crécy làm việc ở Paris. Phần lớn là nhân viên tại các xí nghiệp địa phương, và chủ yếu ở Meaux.

Hai tháng sau đó, bà cậu mua vô tuyến. Quảng cáo mới chỉ xuất hiện trên kênh truyền hình duy nhất. Ðêm 21 tháng Bảy năm 1969, cậu xem truyền hình trực tiếp những bước đi đầu tiên của con người trên Mặt trăng. Sáu trăm triệu người rải rác trên khắp hành tinh xem hình ảnh đó cùng lúc với cậu. Vài giờ phát đi phát lại hình ảnh đó có lẽ là điểm tột cùng của giai đoạn đầu tiên của giấc mơ công nghệ Tây phương.

Mặc dù đến nơi ở mới vào giữa năm học, cậu thích ứng rất tốt với trường trung học của Crécy-en-Brie, và không khó khăn gì qua được lớp bảy. Mỗi buổi chiều thứ Năm cậu mua Pif, vừa thay đổi hình thức. Trái ngược với rất nhiều độc giả khác cậu không mua nó để lấy mấy thứ đồ chơi đi kèm, mà để đọc toàn bộ những câu chuyện phiêu lưu. Vô vàn những sự kiện lịch sử cùng bao nhiêu tranh vẽ mô ta kiểu trang phục cũng không làm mờ đi những bài học đạo đức đơn giản ẩn trong những câu chuyện. Ragnar người Viking, Teddy Ted và Apache, Rahan "người con trai của những thời đại dữ dội", Nasdine Hodja người chơi đùa với các tể tướng và vua Thổ Nhĩ Kỳ: tất cả đều xoay quanh một đạo đức chung. Michel dần dần ý thức được điều đó, và vĩnh viễn bị chúng ghi dấu ấn. Việc đọc Nietzsche [24] chỉ khơi dậy trong cậu một sự tức tối thoáng qua, đọc Kant [25] chỉ để khẳng định lại những gì cậu đã biết. Ðạo đức thuần túy là duy nhất và phổ quát. Nó không chịu bất kỳ một thay đổi nào theo dòng thời gian, cũng không chấp nhận nhập thêm vào gì hết. Nó không phụ thuộc vào bất kỳ nhân tố lịch sử, kinh tế, xã hội hay văn hóa nào; nó hoàn toàn không phụ thuộc vào bất cứ gì. Nó không được xác định mà dùng để xác định những cái khác. Nó không bị quy định mà quy định cái khác. Nói cách khác, nó là một tuyệt đối.

Ðạo đức của đời thường luôn là kết quả của sự hòa trộn theo các tỉ lệ khác nhau các nhân tố đạo đức thuần túy và các nhân tố khác có nguồn gốc ít nhiều mờ ám, chủ yếu là từ tôn giáo. Các yếu tố đạo đức thuần túy càng lớn, cái xã hội nơi đạo đức đó ngự trị sẽ càng có sức tồn tại lâu dài và hạnh phúc. Ở mức độ cao nhất, một xã hội chỉ do các nguyên tắc của đạo đức phổ quát điều chỉnh sẽ có tuổi thọ ngang bằng với thế giới.

Michel ngưỡng mộ tất cả các nhân vật của Pif, nhưng nhân vật cậu thích hơn cả là Sói Ðen, người Da Ðỏ cô độc, sự tổng hợp cao quý của các phẩm chất của những người Apache, Sioux và Cheyenne. Sói Ðen mãi mãi đi qua đồng cỏ, cùng với con ngựa Shinook và con sói Toopee của mình. Chàng không chỉ hành động, sẵn sàng lao đến cứu giúp những sinh vật yếu hơn, mà còn thường xuyên bình luận những hành động của chính mình trên nền tảng một tiêu chí đạo đức trong suốt, đôi khi thi vị hóa bởi những câu ngạn ngữ dakota hay cree [26] , có lúc thâm trầm hơn khi nhắc đến "luật rừng". Nhiều năm sau Michel vẫn tiếp tục coi chàng như hình mẫu lý tưởng của người hùng theo kiểu Kant, luôn hành động "như thể mình là, theo các châm ngôn của ông, một thành viên lập pháp của vương quốc phổ quát của những kết cục." Một vài tập như Chiếc vòng bằng da với nhân vật nổi loạn cựu lãnh tụ người Cheyenne đi tìm kiếm những ngôi sao, đã vượt quá khuôn khổ hơi quá chật hẹp của loại truyện phiêu lưu để tắm mình trong một bầu không khí hoàn toàn thơ mộng và đạo đức.

Truyền hình không thu hút cậu bằng. Tuy nhiên hàng tuần cậu nín thở ngồi xem chương trình Thế giới động vật. Linh dương và hoẵng, những động vật có vú yếu ớt, ngày ngày phải sống trong nỗi khiếp sợ. Sư tử và báo sống trong trạng thái lờ đờ u mê điểm xuyết bằng những thời điểm bùng nổ ngắn ngủi của sự hung dữ. Chúng giết, xé xác, nhai ngấu nghiến những con thú yếu hơn, già nua hoặc bị ốm; sau đó chúng trở lại cơn mê ngủ ngu ngốc, chỉ bị khuấy động bởi sự tấn công của những loại ký sinh trùng gặm nhấm từ bên trong. Một số ký sinh trùng cũng bị một số loại ký sinh trùng khác bé hơn tấn công; đến lượt những con đó lại trở thành mảnh đất màu mỡ để các loại virut sinh sôi nảy nở. Các loài bò sát trườn đi giữa đám cây, tấn công chim chóc và động vật có vú bằng những cái răng đầy nọc độc của chúng; trừ phi chúng bị mỏ một loài chim ăn thịt chặt đứt người. Giọng nói trang trọng và ngu ngốc của Claude Darget bình luận những hình ảnh tàn bạo đó với vẻ đầy ngưỡng mộ khó giải thích. Michel run lên vì phẫn nộ, và cũng cảm thấy hình thành trong mình một niềm tin không thể lay chuyển: bị nhốt kín trong môi trường của mình cái thiên nhiên hoang dại hoàn toàn chỉ là một điều ngu xuẩn đáng nhục nhã; bị nhốt kín trong môi trường của mình cái thiên nhiên hoang dại thể hiện một sự tàn phá hoàn toàn, một lò thiêu mang tầm vũ trụ - và sứ mệnh của con người trên Trái đất có lẽ là hoàn thành cái lò thiêu đó.

Tháng Tư năm 1970 trong Pif xuất hiện một món đồ chơi sẽ còn nổi tiếng rất lâu: bột của cuộc sống. Mỗi số được bán kèm một gói đựng trứng một loài thân giáp biển nhỏ, Artemia salina. Từ nhiều thiên niên kỷ, những cơ thể đó vẫn ở trạng thái sống lơ lửng. Tiến trình ấp nở chúng cũng khá phức tạp: phải gạn nước trong ba ngày, đun chúng ấm lên, thả cái gói vào đó và lắc nhẹ. Những ngày tiếp theo phải giữ hợp chất đó gần một nguồn sáng và có hơi ấm; phải thường xuyên thêm nước ở nhiệt độ thích hợp để bù vào quá trình bay hơi; thận trọng lắc hỗn hợp để thay khí ô-xi. Vài tuần sau cái bình đã lúc nhúc một đống động vật thân giáp trong suốt, nói thật ra cũng đáng tởm, nhưng không thể chối cãi là đang sống. Không biết làm gì với chúng, cuối cùng Michel vứt tất cả xuống sông Grand Morin.

Trong cùng số đó, câu chuyện phiêu lưu hoàn chỉnh trong hai mươi trang hé lộ đôi chút về tuổi trẻ của Rahan, về những hoàn cảnh đã dẫn chàng đến vai trò người anh hùng đơn độc vào thời tiền sử. Khi còn bé, bộ lạc của chàng bị một cơn động đất xóa sổ. Cha chàng, Craô Thông thái, khi chết chỉ kịp đưa lại cho chàng một chiếc vòng cổ có ba cái vuốt. Mỗi vuốt tượng trưng cho một phẩm chất cho "những-kẻ-đứng-thẳng", tức là con người. Có vuốt trung tín, vuốt dũng cảm; và cái quan trọng hơn cả, vuốt lòng tốt. Kể từ đó Rahan đeo chiếc vòng này, cố tỏ ra xứng đáng với những gì nó tượng trưng.

Ngôi nhà ở Crécy có một khu vườn chạy hết chiều dài, trong đó trồng một cây anh đào, lớn hơn cây ở Yonne một chút. Cậu thường xuyên đọc các bộ Hoàn Vũ và Một trăm câu hỏi. Sinh nhật mười hai tuổi, bà tặng cậu một hộp Bé tập làm nhà hóa học. Hóa học đã trở nên đáng chú ý ngang bằng với cơ khí và điện, nó còn bí ẩn và biến hóa hơn. Các sản phẩm nằm trong hộp, khác nhau về màu sắc, hình dạng và kết cấu, như là những chất vĩnh viễn tách rời nhau. Tuy nhiên, chỉ cần cho chúng vào với nhau là chúng sẽ phản ứng mãnh liệt, tạo thành một lóe sáng của những hợp chất mới hoàn toàn.
Một buổi chiều tháng Bảy, khi đang đọc sách trong vườn, Michel cảm thấy các nguyên tố hóa học của cuộc sống nhẽ ra có thể khác hoàn toàn. Vai trò của các-bon, ô-xi và ni-tơ trong các phân tử của các cơ thể sống nhẽ ra có thể được đảm nhiệm bởi các phân tử có cùng hóa trị nhưng có trọng lượng nguyên tử lớn hơn. Tại một hành tinh khác, trong các điều kiện nhiệt độ và áp suất khác, các phân tử của cuộc sống có thể sẽ là silic, thủy ngân và phốt pho; hoặc có thể là gemani, selen và asen, hoặc cũng có thể là thiếc, telu và antimon. Cậu không có ai để thảo luận vấn đề đó: theo yêu cầu của cậu, bà mua cho cậu nhiều sách về sinh hóa.

© 2004 talawas



[1]Johannes Brahms (1833-1897), nhạc sĩ người Ðức.
[2]Tiếng Ðức trong nguyên văn: Về định luật phân giải năng lượng trong quang phổ thường.
[3]Arthur Rimbaud (1854-1891), nhà thơ Pháp.
[4]Nghịch lý về đo lường lượng tử. Alain Aspect là nhà toán học, vật lý hiện đại nổi tiếng của Pháp.
[5]Démocrite (460? - 370? tr. CN), triết gia Hy Lạp.
[6]Werner Heisenberg (1901 - 1976), nhà vật lý người Ðức.
[7]Marcel Pagnol (1895-1974), nhà văn Pháp.
[8]Jean-Paul Sartre (1905-1980), triết gia, nhà văn, nhà phê bình Pháp.
[9]Katowice: một tỉnh ở miền Trung Ba Lan.
[10]ORTF (Office de Radio- Télévision Franỗais): Cơ quan quản lý cao nhất về phát thanh và truyền hình của Pháp, thành lập năm 1964.
[11]Brigitte Bardot (sinh năm 1934): nữ diễn viên điện ảnh Pháp.
[12]Edward Hopper (1882-1967): họa sĩ người Mỹ.
[13]Cahiers du Cinéma: tờ tạp chí phát ngôn của phong trào điện ảnh Làn sóng mới (Nouvelle vague).
[14]Phong trào nhạc trẻ thành công rầm rộ ở Pháp và Canada những năm 1960, được chương trình phát thanh Xin chào các bạn (Salut les copains) tung hô.
[15]Jean-Luc Godard : đạo diễn nổi tiếng của Làn sóng mới.
[16]Allen Ginsberg (1926-1997), nhà thơ Mỹ.
[17]Aldous Huxley (1894-1963), nhà thơ, nhà báo, nhà văn Anh.
[18]Tiếng Anh trong nguyên văn: Ði ra bãi biển rồi...
[19]Jules Verne (1828-1905), nhà văn Pháp.
[20]Bộ sách khoa học cho thiếu nhi (Tout l'Univers) của NXB Hachette.
[21]Socrate (470-399 tr.CN), triết gia Hy Lạp.
[22]Euclide (450-380 tr.CN), triết gia Hy Lạp.
[23]Corot (1796 - 1875), họa sĩ người Pháp chuyên vẽ phong cảnh.
[24]Friedrich Nietzsche (1844-1900), triết gia Ðức.
[25]Immanuel Kant (1724-1804), triết gia Ðức.
[26]Datoka, Cree: các vùng xưa kia thuộc về người da đỏ.

saos@ngmo

Phần thứ nhất(b)

Vương quốc đánh mất
7.

Kỷ niệm đầu tiên Bruno còn nhớ là vào năm lên bốn tuổi; đó là kỷ niệm về một sự nhục nhã. Khi đó cậu đang ở nhà trẻ ở công viên Laperlier, Alger. Một buổi chiều mùa thu, cô giáo dạy cho các cậu bé tết vòng lá. Những cô bé gái chờ đợi, ngồi duỗi chân trên mặt đất, đã có dấu hiệu của sự nhẫn nhục ngu ngốc của giống cái; phần lớn mặc váy trắng. Ðất đầy lá vàng, nhiều nhất là lá dẻ và tiêu huyền. Lần lượt mấy thằng bạn của cậu làm xong vòng và đến quàng vào cổ cô bé mà chúng thích nhất. Cậu không tiến triển được tí nào, lá cứ rách mãi, tất cả be bét trong tay cậu. Làm thế nào giải thích cho các cô bạn gái biết cậu cần tình yêu của họ? Làm thế nào giải thích mà không cần đến chiếc vòng lá? Cậu bật khóc vì giận dữ; cô giáo không đến giúp cậu. Cuối cùng thì cũng kết thúc, bọn trẻ con đứng dậy đi khỏi công viên. Một thời gian sau, trường đóng cửa.

Ông bà ngoại cậu sống trong một căn hộ rất đẹp ở đại lộ Edgar-Quinet. Ðồ gỗ của tầng lớp tư sản trung tâm Alger được làm theo đúng nguyên mẫu đồ gỗ Haussman ở Paris. Một hành lang dài hai mươi mét chạy suốt qua căn hộ, dẫn đến một phòng khách có ban công nhìn xuống toàn bộ thành phố màu trắng. Nhiều năm sau này, khi đã ở tuổi trung niên, rã rượi và cau có, anh vẫn thường mơ thấy hình ảnh mình đang còn là cậu bé ở tuổi lên bốn, dồn hết sức lực đạp chiếc xe đạp ba bánh qua hành lang tối om để đến nơi ánh sáng của ban công. Có lẽ vào những giây phút đó anh đã được hưởng niềm hạnh phúc trần thế lớn lao nhất của mình.

Năm 1961, ông ngoại mất. Dưới cái khí hậu của trái đất chúng ta, một cái xác động vật có vú hoặc chim chóc thoạt tiên hấp dẫn các loại ruồi (Musca, Curtonevra); ngay khi sự phân rã đạt đến một mức độ nào đó, rất nhiều các sinh vật khác nhảy vào cuộc chơi, đặc biệt là loài Calliphora và Lucilia. Dưới tác động tổng hợp của các vi khuẩn và dịch tiêu hóa do các ấu trùng tiết ra, cái xác dần hóa lỏng và trở thành nơi lên men của các phân tử butiric và amoniac. Sau khoảng ba tháng, lũ ruồi hoàn thành tác phẩm của mình và nhường lại chỗ cho binh đoàn bọ cánh cứng như Dermestes và cánh vảy như Aglossa pinguinalis, sống được chủ yếu nhờ vào các chất mỡ. Các loại prô-tê-in trên đường lên men bị tấn công bởi các ấu trùng Piophila petasionis và loài bọ cánh cứng Corynetes. Sau khi bị rã ra nhưng vẫn còn chứa một ít chất ẩm, cái xác trở thành lãnh địa của ve bét, sẽ hút hết những mủ máu thối còn lại. Khi đã được sấy khô và ướp, nó vẫn còn là nơi trú ngụ cho nhiều vi sinh vật: ấu trùng bọ đuôi chổi và bọ lông, sâu của loài Aglossa cuprealis và Tineola bisellelia. Những loại này sẽ kết thúc toàn bộ chu trình.

Bruno nhìn thấy lại linh cữu ông ngoại, màu đen óng đính một cây thập tự bạc. Ðó là một hình ảnh dễ chịu, thậm chí sung sướng; ông của anh hẳn sẽ rất thoải mái trong một quan tài đẹp đẽ nhường vậy. Sau này, anh biết đến sự tồn tại của ve bét và đủ thứ ấu trùng mang những cái tên tương tự các ngôi sao điện ảnh ý. Dù vậy, ngay cả hiện giờ hình ảnh chiếc quan tài của ông ngoại với anh vẫn là một hình ảnh sung sướng.

Anh cũng nhìn thấy lại bà ngoại anh vào cái ngày họ đến Marseille, bà ngồi trên một cái hòm đặt giữa phòng bếp. Vài con gián chạy đi chạy lại trên sàn đá hoa. Có lẽ từ ngày hôm đó tâm thần của bà bắt đầu bất ổn. Trong vòng vài tuần bà phải chứng kiến ông ngoại hấp hối, chuyển nhà vội vã khỏi Alger, căn hộ rất khó tìm ở Marseille. Ðó là một khu phố bẩn thỉu ở vùng Ðông Bắc thành phố. Từ trước đến giờ bà chưa bao giờ đặt chân đến Pháp. Và con gái bà đã bỏ rơi bà, thậm chí còn không đến ngày đưa đám chồng bà. Hẳn là có nhầm lẫn gì đó. ở đâu đó người ta đã phạm một lầm lẫn nào đó.

Bà gượng dậy và sống thêm được năm năm. Bà mua đồ gỗ, đặt một cái giường cho Bruno trong phòng bếp, ghi tên cho cậu vào trường tiểu học của khu phố. Tối tối bà đến đón cậu. Cậu rất ngượng khi nhìn thấy bà già bé nhỏ, lưng còng, khô khan đến để dắt tay cậu về nhà. Những đứa trẻ khác có bố mẹ; thời đó ly hôn chưa phổ biến lắm.

Ðêm đến, bà nhắc đi nhắc lại mãi những quãng của cuộc đời đang kết thúc rất tệ hại. Trần nhà thấp, mùa hè cái nóng thật kinh người. Thường bà chỉ ngủ được khi trời sắp sáng. Suốt ngày bà lê đôi giày mòn vẹt trong nhà, nói rất to mà không biết là mình đang nói, đôi khi nhắc đi nhắc lại một câu nói năm mươi lần liên tục. Bà bị ám ảnh vì lối cư xử của cô con gái. "Nó không đến đưa đám bố nó...", bà đi từ phòng này sang phòng khác, đôi khi cầm trong tay một chiếc khăn lau hoặc một cái nồi chẳng biết dùng làm gì. "Ðưa đám bố nó... Ðưa đám bố nó...", giày của bà rin rít trên nền đá hoa. Bruno cuộn mình trong giường, kinh khiếp; cậu nghĩ tất cả rồi sẽ rất tệ. Ðôi khi bà bắt đầu ngay từ sáng, khi vẫn còn mặc áo ngủ và uốn tóc. "Algérie là nước Pháp...", rồi tiếng rin rít lại bắt đầu. Bà đi đi lại lại trong hai căn phòng, nhìn về một điểm không xác định. "Nước Pháp... Nước Pháp...", bà nhắc đi nhắc lại, giọng dần chậm đi.

Bà vẫn luôn là một đầu bếp giỏi và đó chính là niềm vui cuối cùng của đời bà. Bà cho Bruno ăn những bữa thịnh soạn như thể chuẩn bị cho mười người. ớt ngọt trộn dầu, cá, xa lát khoai tây: có khi có đến năm món khai vị trước bữa chính - bí nhồi thịt, thỏ rán dầu ô liu, có khi là món cơm couscous [1] . Bà chỉ không thành công lắm ở món bánh; nhưng những hôm nhận tiền lương hưu bà mua về kẹo nu ga, kem dẻ, bánh ngọt calisson đặc sản của vùng Aix. Bản thân bà hầu như không bao giờ ăn gì. Sáng Chủ nhật, bà dậy muộn hơn thường lệ; cậu đi đến giường bà, thu mình nằm xuống cạnh cái cơ thể nhăn nheo đó. Có lúc cậu tưởng tượng mình có một con dao, cậu thức dậy trong đêm để đâm thẳng vào trái tim bà; rồi tiếp đó cậu thấy mình khóc lóc thảm thiết bên xác bà; cậu tưởng tượng sau đó không lâu mình cũng sẽ chết.

Cuối năm 1966 bà nhận được một lá thư của cô con gái, địa chỉ lấy từ bố của Bruno - Janine liên lạc với con trai mọi năm vào dịp Noel. Janine không tỏ ra hối tiếc đặc biệt về quá khứ, chỉ viết gọn trong một câu: "Con đã biết tin bố mất và mẹ đã chuyển nhà." Cô cũng thông báo đã rời khỏi California quay trở lại sống ở miền Nam nước Pháp nhưng không đưa bà địa chỉ.

Một sáng tháng Ba năm 1967, trong lúc rán món bí nhồi, bà già đánh đổ cả một chảo mỡ sôi vào người. Bà còn đủ sức bò ra hành lang của tòa nhà, tiếng hét của bà đánh động những người hàng xóm. Tối đến, khi ra khỏi trường, Bruno nhìn thấy bà Haouzi, hàng xóm tầng trên; bà dẫn cậu đến thẳng bệnh viện. Sau đó vài phút cậu được quyền vào thăm bà; những vết thương của bà được giấu dưới lớp chăn. Người ta đã tiêm cho bà kha khá morphin; tuy thế bà vẫn nhận ra Bruno, cầm lấy tay cậu; rồi người ta dẫn cậu bé ra ngoài. Ðêm đó tim bà ngừng đập.

Lần thứ hai trong đời Bruno đối diện với cái chết; cũng là lần thứ hai cậu thấy không hiểu được trọn vẹn ý nghĩa của sự kiện. Mấy năm sau, những lần được điểm cao môn tiếng Pháp hay môn luận về lịch sử, cậu vẫn nghĩ sẽ về khoe với bà. Dĩ nhiên, ngay sau đó cậu tự nhủ bà đã chết; nhưng đó là một ý nghĩ không thường trực, nó không thực sự tách rời cậu với bà. Khi đỗ kỳ thi sư phạm văn chương, Bruno đã bình luận về điểm số rất lâu với bà; tuy rằng khi đó không phải lúc nào anh cũng tin vào mối liên hệ này nữa. Nhân dịp đó, anh đã mua hai hộp kem dẻ; đó là cuộc trò chuyện lớn cuối cùng giữa họ. Sau khi học xong, khi đã được bổ vào chức giáo viên, anh chợt nhận ra mình đã thay đổi, anh không còn thật sự liên lạc được với bà nữa; hình ảnh người bà dần tan biến sau bức tường.

Sau ngày đưa tang một sự kiện kỳ quặc đã xảy ra. Bố mẹ cậu, những người lần đầu tiên cậu gặp, tranh cãi với nhau sẽ làm gì với đứa con của mình. Họ ngồi trong căn phòng chính của căn hộ ở Marseille; Bruno ngồi trên giường lắng nghe họ nói. Cậu luôn tò mò lắng nghe người khác nói về mình, nhất là khi họ có vẻ không để ý đến sự có mặt của cậu. Người ta có xu hướng mất ý thức về chính bản thân mình, điều đó không tệ chút nào. Nhìn chung, cậu không cảm thấy trực tiếp liên quan. Dù vậy cuộc nói chuyện đó đóng một vai trò quyết định trong cuộc đời cậu, và sau đó cậu sẽ còn nhiều lần nhớ đến nó mà không bao giờ cảm thấy một tình cảm gì đặc biệt, một mối dây liên hệ máu mủ giữa cậu và hai con người của ngày hôm đó, trong phòng bếp, với thân hình cao lớn và dáng vẻ trẻ trung từng làm cậu choáng ngợp. Bruno sẽ vào lớp sáu vào tháng Chín tới, và hai người kia quyết định sẽ tìm một trường nội trú và bố cậu sẽ đưa cậu về Paris vào cuối tuần. Mẹ cậu sẽ cố thỉnh thoảng đưa cậu đi chơi vào các kỳ nghỉ lớn. Bruno không có gì để phản đối hết; hai con người đó không có vẻ gì thù địch với cậu. Dù sao, cuộc sống thực sự, cuộc sống với bà ngoại, đã nằm lại phía sau.


8.

Animal Oméga

Bruno đứng dựa lưng vào bồn rửa. Cậu đã cởi áo pyjama. Những nếp gấp trên cái bụng trắng của cậu tì vào bồn rửa bằng sứ. Cậu mười một tuổi. Cậu muốn đánh răng như mỗi tối; cậu hy vọng việc vệ sinh của mình không gặp trắc trở. Nhưng Wilmart đã tiến lại gần, thoạt tiên mới một mình, nó đẩy vào vai Bruno. Cậu lùi lại, run rẩy vì sợ hãi; cậu gần như biết chắc điều gì sẽ xảy đến. "Ðể tao yên...", cậu yếu ớt nói.

Ðến lượt Pelé tiến lại. Nó thấp tịt, lực lưỡng, cực kỳ khỏe. Nó tát Bruno rất mạnh, cậu bé bật khóc. Sau đó chúng đẩy cậu nằm ra đất, đạp cậu và kéo cậu đi trên nền nhà. Tới gần bồn tiểu, chúng tụt quần pyjama của cậu ra. Con chim của cậu nhỏ xíu, vẫn còn mềm oặt, chưa hề có lông. Hai đứa trong bọn chúng nắm tóc cậu, chúng bắt cậu mở miệng. Pelé quét một cái chổi chùi phân lên mặt cậu. Cậu ngửi thấy mùi cứt. Cậu rú lên.

Brasseur nhập bọn; nó mười bốn tuổi, là đứa lớn nhất trong số học sinh lớp sáu. Nó chìa cu ra, Bruno thấy nó thật khổng lồ, cả một cục. Nó đứng thẳng phía trên mặt cậu và [em xin lỗi, em là người chửi bậy] xuống. Ngày hôm trước nó đã bắt Bruno mút chim và liếm đít, nhưng tối nay nó không muốn thế nữa. "Clément, chim mày nhẵn thín thế kia à, nó giễu cợt nói; phải giúp mọc lông lên chứ..." Nó ra hiệu và bọn còn lại bôi bọt cạo râu lên quanh chim cậu. Brasseur duỗi thẳng con dao cạo và đưa lưỡi dao lại gần. Bruno ị ra quần vì sợ.

Một đêm tháng Ba năm 1968, một giám thị tìm thấy cậu trần truồng, người dính đầy cứt [em xin lỗi, em là người chửi bậy], thu lu trong chuồng xí cuối sân. Ông mặc quần pyjama cho cậu bé và dẫn cậu lên gặp Cohen, tổng giám thị. Bruno sợ không dám nói; cậu sợ phải nói ra tên Brasseur. Nhưng tuy vậy Cohen dù bị đánh thức giữa đêm khuya, đã dịu dàng đón tiếp cậu. Trái ngược với các giám thị dưới quyền, ông xưng hô rất trịnh trọng với các học sinh. Ðó là ký túc xá thứ ba mà ông phụ trách, và không phải cái tồi tệ nhất; ông biết là gần như luôn luôn các nạn nhân sẽ từ chối không chịu khai tên những kẻ đã hành hạ mình. Ðiều duy nhất ông có thể làm là phạt giám thị phụ trách khu phòng ngủ tầng sáu. Phần lớn những đứa trẻ ở đây bị bố mẹ chúng bỏ rơi, với chúng giám thị là người đại diện duy nhất của quyền lực. Nhẽ ra người đó phải giám sát chúng sát sao hơn, phải can thiệp trước khi tội lỗi xảy ra - nhưng cũng không thể, vì chỉ có năm giám thị trên tổng số hai trăm học sinh. Sau khi Bruno đã đi, ông đun một cốc cà phê, dò tìm trong các phiếu học sinh tầng sáu. Ông nghi ngờ Brasseur và Pelé nhưng không có bằng chứng nào hết. Nếu ông bắt quả tang chúng, chúng sẽ bị đuổi học; chỉ cần có một vài phần tử nổi loạn như thế là đủ lôi kéo những đứa trẻ khác. Phần lớn những thằng bé, nhất là khi chúng tụ tập thành băng đảng, thích làm hại, hành hạ những đứa khác yếu ớt hơn. Ðặc biệt ở đầu độ tuổi thiếu niên, sự hoang dã của chúng đạt đến những mức độ khó tin. Ông không nuôi chút ảo tưởng nào vào cách cư xử đẹp đẽ của con người khi nó không được đặt dưới sự kiểm soát của pháp luật. Kể từ khi đến nhận chức ở ký túc xá Meaux, ông đã thành công trong việc gây kính nể. Không có bức tường thành luật lệ cuối cùng mà ông là đại diện, ông biết là những trò xấu xa mà những đứa trẻ như Bruno phải chịu đựng sẽ là vô bờ bến.

Bruno thở phào khi cậu đúp lớp sáu. Pelé, Brasseur và Wilmart đều được lên lớp bảy và sẽ ở khu khác. Nhưng thật bất hạnh, theo các quy định của Bộ Giáo dục mới ban hành sau các sự kiện năm 68, người ta quyết định rút bớt số lượng giám thị để dành chỗ cho một hệ thống tự giác hơn; biện pháp đó hợp thời, và còn có lợi thế là giảm chi phí tiền lương. Từ bây giờ việc đi lại từ khu phòng ngủ này sang khu khác trở nên dễ dàng hơn; ít nhất mỗi tuần một lần bọn trẻ lớp bảy thường có thói quen tổ chức những cuộc càn quét đối với những đứa bé hơn; chúng trở về khu của mình với một, có khi hai, nạn nhân, và bữa tiệc bắt đầu. Khoảng cuối tháng Chạp, Jean-Michel Kempf, một đứa trẻ gầy gò và rụt rè vừa đến hồi đầu năm, đã nhảy khỏi cửa sổ để trốn những kẻ hành hạ mình. Cú ngã có thể gây chết người, nhưng cậu bé gặp may, chỉ bị gãy xương nhiều chỗ. Mắt cá chân bị chấn thương nặng, người ta không tài nào nhặt lại đủ các mẩu xương vụn; cậu bị cắt chân. Cohen tổ chức một buổi hỏi cung lớn và càng chắc chắn hơn vào các nhận định của mình; Pelé bị đuổi học ba hôm dù nó đã ra sức chối tội. Các xã hội thú vật hoạt động gần như luôn theo một hệ thống thứ bậc dựa trên chênh lệch về sức mạnh của các cá thể. Hệ thống đó có đặc điểm là một phân cấp chặt chẽ: con đực mạnh nhất trong nhóm được gọi là animal alpha; con đứng thứ hai về sức khỏe được gọi là animal bêta, và cứ thế cho đến con kém cỏi nhất trong phân cấp đó, được gọi là animal oméga. Các vị trí trong phân cấp thường được xác định thông qua các nghi thức đối đầu; những con vật ở thứ hạng thấp tìm cách cải thiện tình hình bằng cách thách đấu những con ở thứ hạng cao hơn, vì nếu chiến thắng chúng sẽ leo lên trong hệ thống. Một cấp bậc cao đi kèm với một số ưu tiên: được ăn đầu tiên, được giao cấu với các con cái của nhóm. Tuy nhiên, con đực yếu ớt nhất thường tránh được phải đánh nhau tay đôi nếu chấp nhận vị thế đầu hàng (chổng mông hướng đít ra ngoài). Bruno còn ở tình trạng bi đát hơn thế. Sự tàn bạo và sự thống trị, vốn còn rất thông thường ở các xã hội loài vật, ở loài đười ươi chimpanzé (Pan troglodytes) đi kèm với các hành động bạo ngược tùy hứng dành cho con yếu nhất. Xu hướng này đạt đến mức độ cao nhất ở các xã hội người nguyên thủy, và trong các xã hội phát triển nó còn để lại dấu tích ở trẻ con và thiếu niên. Sau này xuất hiện khái niệm thương hại, hay nhận dạng thống khổ ở người khác; lòng thương hại này nhanh chóng được hệ thống hóa dưới hình thức luật luân lý. Tại ký túc xá trường trung học Meaux, Jean Cohen đại diện cho luật luân lý đó, và không hề có ý định từ bỏ nó. Ông không hề coi việc bọn nazi [2] sử dụng tư tưởng của Nietzsche là khó hiểu: vừa từ chối sự cảm thông, vừa tự đặt mình ở bên ngoài luật luân lý, lại vừa thiết lập ham muốn và sự ngự trị của ham muốn, tư tưởng của Nietzsche theo ông dẫn dắt đến chủ nghĩa nazi một cách rất tự nhiên. Nhìn vào thâm niên và bằng cấp, ông có khả năng được thăng chức hiệu trưởng, nhưng ông tự nguyện tiếp tục làm tổng giám thị. Ông nhiều lần gửi kháng nghị lên cơ quan thanh tra của Bộ phản đối việc giảm bớt số lượng giám thị; những kháng nghị đó không đi đến đâu cả. Trong một vườn bách thú, một con kanguru đực (macropodidés) thường coi tư thế đứng thẳng của người gác nó là một thách thức giao chiến. Sự hung hãn của con kanguru có thể giảm bớt nếu người canh gác đi lom khom, đặc điểm của những con kanguru hiền lành. Jean Cohen không hề có mong muốn biến thành kanguru hiền lành. Sự nhẫn tâm của Michel Brasseur, giai đoạn tiến triển bình thường của sự ích kỷ đã có mặt nơi các loài vật ít tiến hóa hơn, đã biến một trong các bạn của nó thành kẻ tật nguyền mãn đời; nó có khả năng để lại ở Bruno những tổn thất tâm lý không thể chữa lành. Khi triệu tập Brasseur lên văn phòng để tra hỏi nó, ông không hề nghĩ đến việc che giấu sự khinh bỉ của mình dành cho nó, cũng không che giấu mình đã có lệnh đuổi học nó trong tay.

Tất cả các buổi tối Chủ nhật, khi được bố đưa về trường trong chiếc Mercedes, Bruno bắt đầu run lên khi xe đi về Nanteuil-les-Meaux. Sảnh trước của trường được trang trí bằng những tấm phù điêu tạc hình các học trò nổi tiếng của trường: Courteline và Moissan. Georges Courteline, nhà văn Pháp, tác giả những mẩu chuyện miêu tả sâu cay sự phi lý của lối sống trưởng giả và hành chính. Henri Moissan, nhà hóa học Pháp (giải Nobel năm 1906) đã thúc đẩy sử dụng lò điện và tách được silic khỏi flo. Bố cậu luôn đưa cậu đến đúng bữa tối lúc bảy giờ. Thường thì Bruno chỉ ăn được vào buổi trưa, khi ở trường còn có các học sinh ngoại trú; tối đến, chỉ có học sinh nội trú. Những dãy bàn tám người, những chỗ đầu tiên bị bọn lớn nhất chiếm. Chúng lấy rất nhiều đồ ăn, rồi khạc nhổ vào đĩa để ngăn những đứa bé hơn chạm vào chỗ còn lại.

Tất cả các Chủ nhật Bruno đều lưỡng lự không biết có nên nói cho bố mình không, rồi cuối cùng kết luận là không thể được. Bố cậu nghĩ cậu là đứa có thể tự vệ được; và quả thật một số - không lớn hơn cậu - đã đáp lại, đánh nhau tay đôi và cuối cùng được bọn kia kiềng mặt. Bốn mươi hai tuổi, Serge Clément thuộc mẫu đàn ông đến đích. Bố mẹ ông chỉ có một quầy hàng khô ở Petit-Clamart, còn ông hiện giờ đã có đến ba phòng khám chuyên về sửa sang sắc đẹp: một ở Neuilly, một ở Vésinet và một ở Thụy Sỹ, gần Lausanne. Khi vợ cũ của ông đến sống ở California, ông lấy lại phòng khám ở Cannes, và được hưởng một nửa lợi nhuận từ đó. Từ lâu nay ông không còn tự tay phẫu thuật nữa mà trở thành, như người ta nói, một nhà quản lý cừ. Ông không biết chính xác con trai mình ra sao. Ông muốn nó gặp điều tốt đẹp, miễn là không mất nhiều thời gian cho nó quá; ông cũng hơi cảm thấy có lỗi. Các cuối tuần khi Bruno đến, ông thường không tiếp các nhân tình của mình. Ông mua các món ăn làm sẵn ngoài hiệu rồi hai bố con ăn với nhau; sau đó họ xem vô tuyến. Ông không biết chơi một trò bài bạc nào hết. Ðôi khi Bruno thức dậy trong đêm, mò mẫm đi ra tủ lạnh. Cậu đổ ngũ cốc vào một cái bát, cho thêm sữa và kem; rồi cậu phủ lên một lớp đường dày. Rồi ăn. Cậu ăn nhiều bát, cho đến khi quặn cả ruột lên. Bụng cậu nặng trịch. Cậu cảm thấy khoan khoái.


9.

Về phong tục mà nói, năm 1970 được đánh dấu bởi sự lan rộng nhanh chóng việc tiêu thụ đồ dùng liên quan đến tình dục, dù có những can thiệp của một chế độ kiểm duyệt vẫn còn cảnh giác cao độ. Vở nhạc kịch hài Tóc [3] , với mục đích phổ thông hóa việc sử dụng "tự do tình dục" cho công chúng rộng rãi những năm sáu mươi, thành công vang dội. Những bầu ngực trần lan tràn nhanh chóng trên các bãi biển miền Nam. Trong vòng vài tháng, số lượng sex-shop [4] ở Paris tăng từ ba lên bốn mươi nhăm.

Tháng Chín, Michel vào lớp tám và bắt đầu học sinh ngữ thứ hai, tiếng Ðức. Chính trong những giờ học tiếng Ðức mà cậu quen với Annabelle.

Hồi đó, Michel có những ý tưởng chừng mực về hạnh phúc. Mà đúng nhất thì cậu không bao giờ thực sự nghĩ đến nó. Những ý tưởng mà cậu có thể có, cậu đều có được từ bà mình, người đã trực tiếp truyền lại chúng cho các con mình. Bà cậu theo đạo Thiên chúa và bỏ phiếu cho de Gaulle; hai con gái bà lấy những người cộng sản; điều đó không làm thay đổi bao lăm. Ðó là những ý tưởng của thế hệ thời thơ ấu từng biết đến thiếu thốn của chiến tranh, lên hai mươi tuổi khi Giải phóng; họ muốn truyền lại cho con cái thế giới của họ. Người vợ ở nhà làm nội trợ (nhưng được các loại máy gia dụng trợ sức rất nhiều; người vợ có rất nhiều thời gian dành cho gia đình). Người chồng làm việc ở bên ngoài (nhưng quá trình rô bốt hóa đã khiến anh ta phải làm việc ít hơn, và công việc cũng bớt nặng nhọc hơn). Các cặp vợ chồng chung thủy với nhau và rất hạnh phúc; họ sống trong những ngôi nhà dễ chịu ở bên ngoài thành phố (các ngoại ô). Thời gian giải trí của họ được dành cho những việc nhẹ nhàng, làm vườn, mỹ thuật, trừ khi họ thích đi du lịch hơn, khám phá những cách sống và văn hóa nhiều vùng khác, nhiều đất nước khác.

Jacob Wilkening sinh ở Leeuwarden, Tây Frise; đến Pháp ở tuổi mười bốn, ông chỉ có một ý thức mơ hồ về nguồn gốc Hà Lan của mình. Năm 1946, ông cưới em gái một người bạn thân. Cô mới mười bảy tuổi và chưa biết đến người đàn ông nào. Sau khi làm việc một thời gian trong một nhà máy sản xuất kính hiển vi, ông mở một hiệu ống kính máy ảnh, chủ yếu thầu phụ cho Angénieux và Pathé. Sự cạnh tranh của người Nhật thời đó chưa xuất hiện; nước Pháp sản xuất được những ống kính tuyệt hảo, một số trong đó có thể sánh được với đồ của Schneider và Zeiss; công ty của ông rất ăn nên làm ra. Hai vợ chồng sinh được hai con trai vào năm 48 và 51; rồi, rất lâu sau đó, vào năm 1958, có thêm Annabelle.

Sinh ra trong một gia đình hạnh phúc (trong suốt hai mươi nhăm năm sống chung, bố mẹ nàng chưa hề có cuộc cãi nhau nặng nề nào), Annabelle biết rằng số phận của mình sẽ giống như thế. Mùa hè trước khi gặp Michel, cô bé đã bắt đầu nghĩ đến điều đó. Khi đó nàng mười ba tuổi. Ở nơi nào đó trong đời có một chàng trai mà nàng còn chưa biết, người đó cũng chưa biết đến nàng nhưng nàng sẽ sẻ chia đời mình với người đó. Nàng sẽ biết cách làm cho anh hạnh phúc, và anh cũng sẽ biết cách làm cho nàng hạnh phúc. Nhưng nàng còn chưa biết người đó sẽ như thế nào; thật là rối rắm. Trong một bức thư gửi tờ Báo Chuột Mickey, một độc giả bằng tuổi nàng cũng gặp vấn đề tương tự. Câu trả lời không hề đảm bảo chút nào, nó kết thúc như thế này: "Ðừng lo lắng, cô bé Coralie; bạn sẽ biết cách nhận ra người đó."

Hai người bắt đầu hay gặp nhau để cùng làm bài tập tiếng Ðức. Michel sống ở bên kia đường, cách nhà nàng có năm mươi mét. Ngày càng thường xuyên hơn, tất cả các thứ Năm và Chủ nhật họ ở bên nhau; cậu thường đến ngay sau bữa cơm trưa. "Annabelle, chồng chưa cưới của chị...", em trai nàng một hôm trong vườn liếc nhìn nàng và nói. Nàng đỏ mặt nhưng bố mẹ nàng thì tránh không trêu nàng. Nàng nhận ra điều đó; họ rất yêu quý Michel.

Michel là một cậu bé rất lạ; cậu không biết gì về bóng đá lẫn các ca sĩ nhạc nhẹ. Cậu không nổi bật trong lớp, cậu nói chuyện với nhiều người, nhưng những quan hệ đó rất hạn chế. Trước Annabelle, chưa từng có người bạn cùng lớp nào đến nhà cậu. Cậu quen với những suy nghĩ và mơ mộng cô độc; dần dần cậu quen với sự có mặt của một cô bạn gái. Họ thường đi xe đạp, leo lên bờ biển Voulangis, rồi đi bộ qua những cánh đồng và khu rừng, cho đến một ngọn đồi nơi có thể nhìn được toàn bộ thung lũng sông Morin Lớn. Họ bước đi trong đám cỏ, tìm cách hiểu nhau.


10.

Tất cả là lỗi của Caroline Yessayan

Cũng bắt đầu từ khai giảng năm 1970 đó, tình trạng của Bruno ở ký túc xá khá lên một chút; cậu vào lớp tám và bắt đầu thuộc vào hàng những đứa trẻ lớn. Từ lớp tám cho đến lớp mười hai học sinh ngủ trong những phòng chung thuộc một dãy nhà khác, thành từng nhóm bốn giường một. Cậu đã chịu đòn và sự sỉ nhục đầy đủ của những đứa hung dữ nhất; chúng dần quay sang những nạn nhân mới. Cùng năm đó, Bruno bắt đầu quan tâm đến đám con gái. Thỉnh thoảng, mà cũng hiếm khi, có những cuộc đi chơi chung tổ chức cho học sinh hai ký túc xá. Những buổi chiều thứ Năm trời đẹp, chúng đi đến tận một bãi tắm được sửa sang trên bờ sông Marne, vùng ngoại vi của Meaux. Có một quán cà phê kê đầy bàn bóng và máy chơi pinball - tuy nhiên con trăn nằm trong một cái lồng thủy tinh mới thật sự cuốn hút. Lũ con trai tiêu khiển bằng cách chọc tức nó, tì ngón tay vào con vật; tiếng rít gió làm con thú tức điên, nó lấy hết sức lao vào thành lọ cho đến khi ngã vật ra vì mệt. Một buổi chiều tháng Mười, Bruno nói chuyện với Patricia Hohweiller; cô bé là con mồ côi và chỉ rời ký túc vào kỳ nghỉ để đến nhà một ông bác ở Alsace. Cô có mái tóc vàng hoe và thân hình thon thả, nói rất nhanh, khuôn mặt luôn biến đổi đôi khi bất động trong một nụ cười kỳ quặc. Tuần sau đó cậu bị sốc nặng khi thấy cô ngồi trên đầu gối Brasseur, hai chân dạng ra; thằng kia ôm lấy người cô và hôn môi cô. Tuy vậy, Bruno vẫn chưa rút ra được kết luận chung. Nếu những thằng hung bạo từng tra tấn cậu trong suốt nhiều năm có được thành công với con gái, thì chỉ đơn giản là vì chúng là những đứa duy nhất dám đi mò gái.

Từ lớp tám, lũ học sinh có thể ghi tên vào câu lạc bộ điện ảnh. Các buổi chiếu phim định kỳ vào tối thứ Năm trong phòng lễ tân của ký túc xá nam; đó là những buổi chiếu chung cho cả con trai con gái. Một buổi tối tháng Chạp, Bruno ngồi bên cạnh Caroline Yessayan xem bộ phim Ma cà rồng Nosferatu. Vào lúc cuối phim, sau khi đã suy nghĩ hơn một giờ đồng hồ, rất nhẹ nhàng cậu đặt tay trái lên đùi cô gái ngồi cạnh. Trong một vài giây thiên đường (năm? bảy? chắc chắn là không quá mười), không có gì xảy ra hết. Cô không hề nhúc nhích. Một sức nóng kinh người xâm chiếm Bruno, cậu tưởng chừng sắp ngất đến nơi. Rồi, không nói một lời, không gây ồn ào gì, cô nhấc tay cậu ra. Mãi sau này, thậm chí rất thường xuyên, khi để một cô gái điếm thổi kèn, Bruno vẫn nhớ lại mấy giây hạnh phúc khủng khiếp đó, vẫn phải nhớ lại khoảnh khắc Caroline nhẹ nhàng bỏ tay cậu ra. Cậu bé cảm thấy một điều gì đó rất thuần khiết và dịu dàng, vượt trước mọi cảm giác về tình dục, hơn mọi hoạt động dục tình. Có một ham muốn đơn giản được chạm vào một cơ thể có nam châm tính, được ôm siết trong cánh tay nam châm ấy. Sự dịu dàng đi trước sự quyến rũ, chính vì thế thật khó lòng để có thể thất vọng.

saos@ngmo

Tại sao tối đó Bruno lại đặt tay lên đùi Caroline Yessayan thay vì đặt lên cánh tay cô (rất có thể cô sẽ chấp nhận điều này, và sau đó có thể bắt đầu một câu chuyện đẹp đẽ giữa họ; bởi trước đó khi xếp hàng chờ cô đã rất vui vẻ nói chuyện với cậu, đủ để cậu có thể ngồi cạnh cô, và cô đã đặt tay lên thành ghế chung; và quả thật từ lâu cô đã để ý đến Bruno, cô rất thích cậu, và tối đó cô rất hy vọng cậu sẽ nắm tay cô?) Có khả năng bởi vì đùi Caroline Yessayan để trần, và cậu không thể nghĩ, bởi tâm hồn quá giản đơn, rằng cô có thể để chân trần không mục đích. Càng ngày, khi Bruno già đi, khó chịu khi nhớ lại tuổi thơ, mấu chốt số phận anh trở nên trong trẻo, tất cả hiện ra trong ánh sáng của một sự hiển nhiên không thể đảo ngược và rất đỗi lạnh lùng. Buổi tối tháng Chạp năm 1970 đó, rõ ràng cậu đã có đầy đủ quyền năng để thông qua Caroline Yessayan xóa bỏ đi những nỗi nhục và khổ sở trong quãng đời mấy năm trước cậu từng phải chịu. Sau thất bại đầu tiên đó (bởi sau khi cô nhẹ nhàng đặt tay cậu ra chỗ khác, cậu không còn bao giờ dám mở miệng nói với cô một lời nào nữa), tất cả đã trở nên khó khăn hơn nhiều. Tuy nhiên xét về tổng thể con người mà nói thì Caroline Yessayan không phải là nguyên nhân của thất bại đó. Hoàn toàn ngược lại với những gì cậu nghĩ, Caroline Yessayan, cô bé Armanie với đôi mắt hiền hậu, mái tóc đen xoăn dài, sau những phức tạp về mặt gia đình rối rắm lại rơi vào những tòa nhà khốn khổ của ký túc xá nữ của trường trung học Meaux, Caroline Yessayan tự xây dựng cho mình một lẽ hy vọng vào con người. Tất cả câu chuyện đảo lộn trong một mớ trống không đáng sợ là do một chi tiết cực tiểu và gần như là lố bịch. Ba mươi năm sau, Bruno chắc chắn về điều đó: nếu gán cho các yếu tố nhỏ nhặt của tình thế tầm quan trọng mà chúng đã thực sự có, người ta có thể tóm tắt tình hình vào câu sau: tất cả là do lỗi của chiếc minijupe của Caroline Yessayan.

Khi đặt tay lên đùi Caroline Yessayan, Bruno ngụ ý muốn hỏi cưới cô. Thời thiếu niên đó cậu đang sống trong giai đoạn chuyển hóa. Không tính đến một số người báo hiệu - trong số đó bố mẹ cậu đại diện cho một hình mẫu khó nhọc - thế hệ đi trước đã thiết lập một mối quan hệ có một lực đặc biệt giữa đám cưới, tình dục và tình yêu. Tiền lương tăng, sự phát triển kinh tế nhanh chóng trong những năm năm mươi trên thực tế hẳn phải - trừ trong những tầng lớp xã hội ngày càng nhỏ nơi khái niệm hồi môn vẫn giữ tầm quan trọng thực tế - dẫn đến sự giảm bớt số lượng cưới xin vì lý trí. Nhà thờ Thiên chúa giáo, vẫn thận trọng khi nhìn nhận tình dục ngoài gia đình, nhiệt tình đón nhận tiến trình hướng về đám cưới vì tình yêu hợp hơn với các lý thuyết của mình ("Ðàn ông và đàn bà do Người tạo ra"), chuẩn hơn để đi bước đầu tiên tiến về nền văn minh của hòa bình, của lòng chung thủy và tình yêu, cái tạo nên mục đích tự nhiên của nó. Ðảng Cộng sản, lực lượng tinh thần duy nhất trong những năm đó bị Nhà thờ công giáo nghi kỵ, cũng chiến đấu vì những mục đích gần như tương tự. Thế là bằng sự sốt ruột đồng lòng, những người trẻ tuổi của những năm năm mươi chờ đợi ngã vào tình yêu, cùng ngang với tiến trình thủy lợi hóa nông nghiệp, sự biến mất song song của các cộng đồng dân cư làng xã cho phép lựa chọn của tương lai chung thực hiện trong một ánh sáng gần như vô hạn định, cùng lúc chúng cấp cho nó một tầm quan trọng tối cao (chính vào tháng Chín năm 1955 ở Sarcelles chính sách được gọi là "những nhóm lớn" được đề ra, là sự diễn dịch rõ ràng hiển nhiên của một xã hội tính bị rút ngắn vào trong khung của hạt nhân gia đình). Chính vì thế người ta có thể không sợ thiên lệch mà đánh giá những năm năm mươi, đầu sáu mươi là kỷ nguyên vàng của tình cảm lứa đôi - mà những bài hát của Jean Ferrat [5] , Françoise Hardy [6] ở giai đoạn đầu vẫn còn dựng lên những hình ảnh sống động trước mắt chúng ta.

Tuy nhiên, cùng thời điểm đó, sự tiêu thụ các sản phẩm tình dục rầm rộ có nguồn gốc từ Mỹ (bài hát của Elvis Presley, phim của Marilyn Monroe) lan rộng ở Tây Âu. Song song với nó là máy lạnh và máy giặt, những vật chất đi kèm bên hạnh phúc vợ chồng, rồi đồ bán dẫn và xe pick-up phát triển, tất cả đặt lên thật cao mẫu hình xử thế của flirt adolescent [7] . Xung đột ý thức hệ, ngấm ngầm suốt những năm sáu mươi, bùng nổ vào đầu những năm bảy mươi trong các tạp chí Cô gái tuổi hoa và Tuổi 20, kết tinh hóa xung quanh câu hỏi trung tâm của thời đại: "Có thể đi đến đâu trước đám cưới?" Cũng trong những năm này, lựa chọn tình dục hoan lạc nguồn gốc từ Mỹ có được chỗ dựa vững chắc nhờ các cơ quan báo chí có khuynh hướng tự do vô chính phủ (số đầu tiên tờ Hiện tại xuất hiện tháng Mười năm 1970, số đầu của Tuần báo Charlie tháng Mười Một). Nếu chủ yếu chúng nằm trong một khuynh hướng chính trị phản đối chủ nghĩa tư bản, thì xét về bản chất các tạp chí này cũng đi kèm với ngành công nghiệp giải trí: phá hủy các giá trị đạo đức Do Thái - Thiên chúa giáo, cổ vũ tuổi trẻ và tự do cá nhân. Bị kìm kẹp giữa các áp lực đối chọi nhau, các tạp chí cho thiếu nữ nhanh chóng mang đến một sự làm quen dần dần mà người ta có thể thực hiện trong cuộc đời sau này. Thời gian đầu (nghĩa là giữa mười hai và mười tám tuổi), cô gái đi chơi với nhiều cậu con trai (sự mập mờ trong khái niệm đi chơi còn nằm ở chỗ nó là phản ánh một sự mập mờ về xử sự thực tế: đi chơi với con trai thực sự có nghĩa là gì? Có phải là hôn nhau, những thú vui sâu sắc hơn của petting và của deep-petting [8] , các quan hệ tình dục thực sự? Liệu có nên cho phép cậu con trai sờ vào ngực bạn không? Có phải cởi quần đùi cậu ta không? Và phải làm gì với các bộ phận cơ thể của cậu ta?) Với Patricia Hohweiller, với Caroline Yessayan, điều đó không hề đơn giản. Các tạp chí yêu thích của họ trả lời rất mơ hồ, đối nghịch. Giai đoạn hai (sau khi thi tú tài), cô gái cảm thấy nhu cầu phải có một chuyện tình nghiêm chỉnh (sau này sẽ được các tạp chí Ðức gọi là "big love"), câu hỏi thường trực lúc này là: "Liệu mình có nên đến ở chung với Jérémie không?"; về nguyên tắc đó là giai đoạn hai. Sự mỏng mảnh tột cùng của sự hòa giải do các tờ tạp chí cho thiếu nữ đề xuất - quả thực nó là đặt bên cạnh, đặt chúng một cách võ đoán lên hai đoạn đời nối tiếp nhau, các mô hình xử sự đối kháng như thế - vài năm sau mới xuất hiện, vào thời điểm các cô bé nhận thức được sự bình thường hóa của ly hôn. Gần như rõ ràng là cái sơ đồ bất khả này vài năm sau đó có thể xây dựng cho các cô gái trẻ dù sao cũng còn rất ngây thơ và nhẹ dạ, một cách rất nhanh chóng, những biến chuyển diễn ra quanh họ, một mô hình sống có thể tin được, mà họ dùng lý trí để thử nghiệm.

Với Annabelle, mọi chuyện hoàn toàn khác hẳn. Buổi tối, cô bé nghĩ đến Michel trước khi nhắm mắt ngủ, và sung sướng gặp lại cậu trong ý nghĩ khi tỉnh giấc. Khi trong giờ học có điều gì đó vui vẻ hay thú vị nàng liền nghĩ đến lúc kể lại cho cậu nghe. Những ngày vì lý do nào đó họ không thể gặp nhau, nàng cảm thấy lo âu và buồn bã. Trong thời gian nghỉ hè (bố mẹ nàng có một ngôi nhà ở vùng Gironde), ngày nào nàng cũng viết thư cho cậu. Dù không hề thú nhận thẳng thắn, dù những bức thư của nàng không có gì gọi là cháy bỏng mà giống thư một cô em gái gửi cho người anh cùng tuổi hơn, dù cái tình cảm bao trùm cuộc sống của nàng gợi nên một vòng hào quang êm dịu hơn là một niềm say mê nóng bỏng, thì cái sự thật mỗi ngày một hình thành trong lòng nàng là như sau: ngay từ đầu, không cần tìm kiếm, thậm chí không thực sự muốn nó, nàng đã có ngay tình yêu lớn của mình. Tình yêu đầu tiên đã tốt đẹp, thì sẽ không còn có tình yêu nào khác, vấn đề đó thậm chí không cần đặt ra nữa. Theo Thiếu nữ tuổi hoa, trường hợp này hoàn toàn có thể: khỏi cần phải để ý, vì điều đó sẽ không bao giờ xảy ra. Tuy nhiên trong một số trường hợp, cực kỳ hiếm, gần như kỳ diệu - nhưng dẫu sau cũng không thể chối cãi được là vẫn có - nó có thể xảy ra. Và đó là điều hạnh phúc nhất có thể đến với bạn trên Trái đất này.


11.

Về giai đoạn đó Michel còn giữ được một bức ảnh, chụp trong khu vườn bố mẹ của Annabelle, vào kỳ nghỉ Phục Sinh năm 1971. Bố nàng giấu trứng Phục Sinh trong lùm cây và những đám hoa. Trong ảnh, Annabelle đứng giữa một khóm cây liên kiều, nàng vén cành lá tìm kiếm chúng với dáng điệu nghiêm trang của trẻ con. Khuôn mặt nàng đã bắt đầu có những nét rõ rệt, người ta đã có thể đoán là nàng sẽ cực kỳ xinh đẹp. Ngực cô bé khẽ hiện dưới chiếc áo pun. Ðó là lần cuối trong buổi lễ Phục Sinh có trứng sô cô la. Năm sau đó hai người đã quá tuổi cho những trò chơi đó.

Từ tuổi mười ba, dưới ảnh hưởng của các hoóc-môn progestérone và oestradiol tiết ra từ buồng trứng, các mô mỡ nổi phồng lên ở người thiếu nữ ở khoảng ngực và mông. Các cơ quan này, trong trường hợp tốt nhất, có được một dáng vẻ đầy đặn, hài hòa và trọn trịa; nhìn ngắm chúng tạo cho người đàn ông một ham muốn mãnh liệt. Cũng như mẹ mình vào cùng tuổi đó, Annabelle có một cơ thể rất đẹp. Nhưng khuôn mặt của người mẹ lúc đó chỉ ưa nhìn, dễ chịu. Không có gì báo trước cú sốc đau đớn của vẻ đẹp của Annablle, và mẹ nàng bắt đầu cảm thấy lo sợ. Chắc chắn là từ bố nàng, với nguồn gốc Hà Lan, mà Annabelle thừa hưởng đôi mắt to xanh và mớ tóc vàng dày dặn, sáng rực. Nhưng phải nhờ đến một sự tình cờ về biến đổi gen ngoạn mục mới có thể sinh ra được sự trong trắng đến xé lòng của khuôn mặt nàng. Không xinh đẹp người thiếu nữ sẽ bất hạnh, vì cô mất hết hy vọng được yêu. Không ai thực sự chế giễu cô ta, không ai đối xử thô bạo với cô ta, nhưng cô ta gần như là trong suốt, không cái nhìn nào thèm vương vấn theo gót chân. Ai cũng cảm thấy gờn gợn khi có mặt cô ta, và thích lờ tịt cô ta đi cho xong. Ngược lại một vẻ đẹp quá mức, một vẻ đẹp vượt quá xa cái tươi mát thông thường và hấp dẫn của những cô bé gái, lại tạo ra một hiệu ứng siêu nhiên, và gần như luôn dự báo trước một số phận bi thảm. Ở tuổi mười lăm Annabelle đã thuộc vào hàng ngũ rất ít ỏi những cô gái trẻ khiến tất cả đàn ông phải dừng chân, không phân biệt tuổi tác sang giàu, thuộc hàng những cô gái trẻ chỉ cần đi dọc theo một khu phố thương mại của một thành phố bình thường cũng đủ sức làm tăng nhịp tim của những chàng trai trẻ và sự tiếc nuối của những ông già. Nàng nhanh chóng ý thức được sự im lặng luôn kèm theo với mỗi lần nàng xuất hiện, trong quán cà phê hay trong phòng học, nhưng nàng cần hàng năm mới hiểu được toàn bộ ý nghĩa của nó. Ở CEG [9] Crécy-en-Brie, ai cũng ngầm đoán nàng "với" Michel, nhưng ngay cả nếu không phải thế, cũng sẽ không có cậu con trai nào dám thử điều gì đó với nàng. Một trong những sự bất tiện chính của vẻ đẹp quá mức ở những cô gái trẻ là chỉ những kẻ cua gái lành nghề, rất sàm sỡ và không ngại ngần gì mới cảm thấy ở ngang tầm với họ; cho nên thường thì những kẻ có nam tính mạnh nhất sẽ chiếm đoạt được kho báu trinh tiết của họ, và điều đó sẽ tạo nên cho họ bước đi đầu tiên của một sự rơi xuống không tài nào đảo ngược.

Tháng Chín năm 1972, Michel vào học lớp mười ở trường trung học Meaux. Annabelle vào lớp chín, nàng còn một năm nữa ở tiểu học. Cậu đi học về bằng tàu, dừng ở Esbly để chuyển sang ô tô ray. Thường thì cậu đến Crécy trên chuyến tàu lúc 18h33, Annabelle đợi cậu ở ga. Họ bước đi bên nhau dọc những con kênh của thành phố nhỏ. Ðôi khi - rất hãn hữu - họ đến quán cà phê. Annabelle biết là sớm hay muộn sẽ đến lúc Michel muốn hôn nàng, vuốt ve cái cơ thể mà nàng đang cảm thấy sự biến đổi. Nàng bình thản chờ đợi đến giây phút ấy, không quá lo lắng; nàng tin tưởng.

Nếu những khía cạnh chính yếu của hành xử tình dục là bẩm sinh, thì lịch sử những năm đầu của cuộc đời có ý nghĩa quan trọng trong những cơ chế thúc đẩy, nhất là ở chim và động vật có vú. Quan hệ xúc giác sớm sủa với các thành viên của loài dường như là cốt tử đối với chó, mèo, chuột cống, lợn Ấn Ðộ và khỉ rezut Macao (Macaca mulatta). Sự thiếu tiếp xúc với mẹ thời thơ ấu sẽ gây ra những xáo trộn cực kỳ nghiêm trọng về hành vi tình dục ở chuột cống đực, đặc biệt là sự ức chế trong hành vi cưa cẩm. Cuộc đời của cậu sẽ phụ thuộc vào đó (và trong một mức độ rộng, nó quá phụ thuộc vào đó) nên Michel không có khả năng hôn Annabelle. Thường xuyên vào buổi tối, nàng vô cùng hạnh phúc thấy cậu bước ra từ ô tô ray, cặp xách trên tay, đến độ lao thẳng vào vòng tay cậu. Họ đứng ôm nhau vài giây như vậy, trong một trạng thái tê liệt đầy hạnh phúc, mãi sau đó họ mới nói chuyện với nhau.

Bruno cũng học lớp mười tại trường trung học Meaux, ở một lớp khác. Cậu biết mẹ mình có đứa con trai thứ hai với một người đàn ông khác, nhưng cậu không biết gì hơn. Cậu rất hiếm khi gặp mẹ. Cậu đã đi nghỉ hai lần tại biệt thự của mẹ cậu ở Cassis. Bà tiếp nhiều người trẻ tuổi đi ngang qua đó.

Những người trẻ tuổi này được báo chí phổ thông gọi là hippie. Quả thực, họ không làm việc, trong những lần đến ở chỗ Janine, người đã đổi tên thành Jane, họ được bà nuôi. Họ sống bằng lợi tức phòng khám thẩm mỹ do chồng cũ của bà dựng nên - mà đúng hơn cả là bằng ham muốn của một số phụ nữ giàu sang chống lại sự xuống cấp đến với họ theo thời gian, hoặc để sửa chữa một số khiếm khuyết tự nhiên. Họ tắm truồng trong những vũng biển đầy đá. Bruno từ chối cởi áo tắm. Cậu cảm thấy mình trông nhợt nhạt, bé nhỏ, hôi thối, béo ị. Ðôi khi mẹ cậu cho một cậu thanh niên lên giường với mình. Bà đã bốn mươi nhăm tuổi, âm hộ đã nhỏ đi, hơi nhão ra, nhưng các đường nét vẫn còn rất đẹp. Bruno thủ dâm ba lần mỗi ngày. Âm hộ của phụ nữ trẻ dễ vào, có khi sâu đến một mét, nhưng Bruno hiểu rất rõ là với cậu chúng đã đóng lại: những thằng con trai khác to lớn hơn, da cháy nắng hơn và khỏe hơn. Nhiều năm sau này, Bruno sẽ nhận ra là vũ trụ của giới tiểu tư sản, vũ trụ của những người làm công và công chức hạng vừa dễ tính hơn, nồng nhiệt hơn và rộng mở hơn vũ trụ của những kẻ bên lề xã hội, mà thời đó giới hippie là đại diện. "Tôi có thể đóng giả thành một cán bộ đáng kính, và có thể được họ chấp nhận», Bruno thích nói như thế. Chỉ cần mua một bộ quần áo, một chiếc ca vát và một chiếc áo sơ mi, tất cả chỉ có 800 franc ở C&A mùa giảm giá. Quả thật thực tế chỉ cần biết thắt ca vát. Dĩ nhiên còn có vấn đề ô tô - xét cho cùng đó là khó khăn duy nhất của người công chức hạng vừa, nhưng người ta có thể giải quyết được điều đó bằng cách mua chịu, làm việc vài năm là sở hữu được chiếc xe. Ngược lại, tôi không tài nào đóng giả thành một kẻ ngoài lề cho được: tôi không đủ trẻ, cũng không đủ đẹp, cũng không đủ cool [10] . Tôi bị rụng tóc, tôi có nguy cơ béo lên, và càng già tôi càng hay lo sợ và nhạy cảm, các dấu hiệu vứt bỏ và khinh bỉ lại càng thường làm tôi đau đớn. Nói ngắn gọn tôi không được tự nhiên cho lắm, nghĩa là không được animal cho lắm - và ở đây vấn đề là một thứ ẩn tì không thể chữa lành: dù tôi có nói gì, dù tôi có làm gì, dù tôi có mua gì, tôi vẫn không khi nào có thể vượt qua được sự kém cỏi này, bởi nó có tất cả sự hung dữ của một kẻ tàn tật tự nhiên." Ngay lần đầu tiên đến ở chỗ mẹ mình, Bruno đã nhận ra mình sẽ không bao giờ được giới hippie đón nhận; cậu không phải và sẽ không bao giờ trở thành một con thú đẹp. Ðêm đến, cậu mơ thấy những âm hộ mở rộng. Vào cùng quãng thời gian đó, cậu bắt đầu đọc Kafka [11] . Lần đầu tiên trong đời cậu cảm thấy cảm giác về cái lạnh lẽo, về cái băng giá âm ỉ, vài giờ sau khi đọc xong Vụ án cậu còn cảm thấy đờ đẫn và mềm yếu hơn trước. Ngay lập tức cậu biết là cái vũ trụ bị làm chậm lại này, bị ám ảnh bởi nỗi tủi hổ, nơi những con người gặp nhau trong một sự trống rỗng vô cùng, không một liên hệ nào giữa họ là có thể, chính xác là giống như vũ trụ tinh thần của cậu. Vũ trụ chậm rãi và lạnh lẽo. Tuy nhiên cũng có một cái nóng bỏng, là cái mà phụ nữ có giữa hai chân, nhưng lần này vẫn không có lối vào.

Ngày càng hiển nhiên là Bruno không được ổn cho lắm, cậu không có bạn, cậu sợ hãi các cô gái, tuổi thiếu niên của cậu nhìn chung là một thất bại đáng than thở. Bố cậu nhận ra điều này và cảm thấy dâng lên trong lòng một cảm giác phạm tội. Noel năm 1972 ông đòi gặp vợ cũ để nói về chuyện này. Trong cuộc trò chuyện ông biết là người em cùng mẹ khác cha của Bruno đang học cùng trường trung học, cùng học lớp mười (dù khác lớp) và hai đứa chưa bao giờ gặp nhau. Ðiều này tác động mạnh đến ông như một biểu tượng của sự tan rã mang tính gia đình xấu xa, mà cả hai người đều có trách nhiệm. Lần đầu tiên tỏ ra có uy quyền, ông yêu cầu Janine liên lạc lại với đứa con thứ hai của bà để cứu vãn những gì còn có thể.

Janine ít có ảo tưởng về những tình cảm mà bà của Michel có thể có về phía cô con dâu, tuy nhiên sự việc còn tồi tệ hơn thế một chút. Khi Janine dừng chiếc Porsche của mình trước tòa nhà ở Crécy-en-Brie, bà già bước ra, chiếc túi đi chợ trên tay. "Tôi không thể cấm cô gặp nó, đó là con trai cô, bà nói thẳng tưng. Tôi đi chợ đây, và hai tiếng nữa sẽ về, tôi muốn lúc đó cô đã đi rồi." Rồi bà quay gót bước đi.

Michel đang ở trong phòng. Janine mở cửa và bước vào. Bà đã định bụng sẽ ôm hôn con, nhưng khi bà chuẩn bị làm vậy thì cậu lùi lại đến gần một mét. Khi lớn lên, cậu trở nên giống bố một cách đặc biệt: cùng mái tóc vàng và mảnh, cùng khuôn mặt nhọn, gò má cao. Bà mang đến món quà là chiếc máy quay đĩa cùng với nhiều đĩa nhạc của Rolling Stones [12] . Cậu cầm tất cả không nói một lời (cậu sẽ giữ chiếc máy nhưng vài ngày sau sẽ phá toàn bộ đống đĩa). Phòng cậu u tối, không dán tranh ảnh gì trên tường. Một quyển sách toán đang mở đặt trên chiếc bàn cánh gập. ,,Cái gì thế", bà hỏi – ,,Phương trình tích phân", cậu miễn cưỡng trả lời. Bà định nói về cuộc sống, mời cậu đi nghỉ; rõ ràng điều đó là không thể. Bà đành thông báo anh trai cậu sẽ đến, cậu đồng ý gặp. Bà ở đó khoảng một giờ, và sự im lặng bao trùm khi giọng của Annabelle vang lên trong vườn. Michel bước vội ra cửa sổ, gọi cô bé bước vào. Janine ném một cái nhìn lên cô bé khi cô đi qua cửa vườn. "Nó xinh quá, bạn gái của con..." bà nhận xét, miệng hơi xệch đi. Michel lĩnh đòn toàn bộ câu nói, mặt cậu đanh lại. Khi trèo lên chiếc Porsche, Janine gặp Annabelle, nhìn thẳng vào mắt cô bé; trong cái nhìn đó có sự căm giận.

Còn với Bruno, bà của Michel không hề ghét bỏ gì, cậu cũng chỉ là nạn nhân của người mẹ trái tự nhiên ấy, đó là cách nhìn nhận vấn đề của bà già - rất ngắn gọn nhưng chính xác. Bruno bắt đầu có thói quen đến thăm Michel tất cả các buổi chiều thứ Năm. Cậu đi ô tô ray từ Crécy-la-Chapelle mỗi khi có thể (gần như lần nào cũng có thể) và ngồi đối diện một cô gái. Phần lớn đều vắt chéo chân, mặc một chiếc sơ mi trong suốt, hoặc gần như vậy. Cậu không thực sự ngồi trước mặt, mà đúng hơn là hơi chéo, nhưng thường là cùng băng ghế, và không xa quá hai mét. Cậu đã bắt đầu thủ dâm khi nhìn thấy những mái tóc dài, vàng hoặc nâu. Lúc chọn chỗ ngồi, lượn giữa những hàng ghế, sự đau đớn đã hiện hình trong quần lót của cậu. Vào lúc ngồi xuống, cậu lôi từ trong túi quần ra một chiếc khăn mùi soa. Chỉ cần mở một chiếc cặp tài liệu, đặt nó lên đùi, và chỉ cần đưa đẩy vài phát là xong. Ðôi lúc, khi cô gái bỏ cái chân bắt chéo xuống vào lúc cậu thò dương vật ra, thì thậm chí cậu không cần chạm vào nó. Cậu giải phóng một làn hơi khi nhìn thấy chiếc quần lót nhỏ. Chiếc khăn mùi soa là một dụng cụ bảo hiểm, thường thì cậu phóng tinh thẳng lên những trang giấy trong chiếc cặp: lên những phương trình của chương trình toán lớp mười, lên những bảng sơ đồ vòng đời sâu bọ, lên sản lượng than của Liên Xô. Cô gái vẫn tiếp tục đọc tờ tạp chí.

Nhiều năm sau, Bruno vẫn còn nghi ngờ. Những chuyện đó đã được thực hiện; chúng có một quan hệ trực tiếp với một cậu bé con béo phì và luôn e sợ, mà cậu vẫn còn giữ được những bức ảnh. Cậu bé đó vẫn còn có quan hệ với người đàn ông bị ham muốn thiêu đốt ngày nay. Tuổi thơ của cậu nặng nề, tuổi thiếu niên bi thảm; giờ đã bốn hai tuổi, rõ ràng còn cách khá xa cái chết. Anh còn gì để sống nữa đây? Có thể một vài lần khổ dâm mà anh biết mình sẽ ngày càng dễ dàng chấp nhận trả tiền để có được. Một cuộc sống luôn hướng về một mục đích không để lại nhiều chỗ cho kỷ niệm. Trong chừng mực những cơn cương cứng ngày càng khó khăn và ngắn ngủi hơn, Bruno cảm thấy một sự thỏa mãn buồn bã xâm chiếm mình. Mục đích chính yếu của cuộc đời anh là tình dục, giờ thì không còn có thể thay đổi được nữa, anh đã biết thế. Ở điểm này, Bruno là đại diện cho thời đại của mình. Khi cậu ở tuổi thiếu niên, cạnh tranh kinh tế khốc liệt mà xã hội Pháp biết đến từ hai thế kỷ đã giảm xuống. Trí tưởng tượng của xã hội bắt đầu cho phép nghĩ là điều kiện kinh tế đang hướng đến một sự bình đẳng nào đó một cách đầy tự nhiên. Mô hình Dân chủ - Xã hội Thụy Ðiển thường xuyên được trích dẫn, qua miệng các nhà chính trị và chủ doanh nghiệp. Bruno thấy không mấy được khuyến khích trong việc xếp hạng quá cao những người cùng thời của mình thông qua thành công về kinh tế. Về mặt chuyên môn, mục tiêu chính của anh - rất có lý - là tan chảy vào trong cái "tầng lớp trung lưu rộng lớn có rìa ít bị cắt xén" sau này sẽ được Tổng thống Giscard d'Estaing [13] miêu tả. Nhưng con người đã nhanh chóng thiết lập các thứ bậc, và luôn nóng lòng được cảm thấy mình cao hơn người khác. Ðan Mạch và Thụy Ðiển, các nước mô hình cho các nền dân chủ châu Âu trong tiến trình bình đẳng hóa về kinh tế, cũng cung cấp ví dụ về tự do tình dục. Theo một cách không được chờ đợi, trong cái tầng lớp trung lưu mà dần dần công nhân và công chức cũng gia nhập - hoặc chính xác hơn là con cái của tầng lớp đó - một môi trường mới đã được mở ra cho sự cạnh tranh về cái đẹp cá nhân. Vào một lần đi học tiếng tháng Bảy năm 1972 ở Traunstein, một thành phố nhỏ vùng Bavare gần biên giới nước Áo, Patrick Castelli, một người Pháp trẻ khác cùng nhóm đã xử lý được ba mươi bảy cô nàng trong vòng ba tuần. Cùng lúc đó, kết quả của Bruno là con số không tròn trĩnh. Cuối cùng cậu cũng thò được dương vật ra trước một cô bán hàng siêu thị - may quá cô đã phá lên cười mà không gọi cảnh sát. Cũng giống cậu, Patrick Castelli thuộc một gia đình tư sản và khá thành công về mặt học tập. Ðiều kiện kinh tế của họ có lẽ là tương xứng nhau. Phần lớn kỷ niệm thời niên thiếu của Bruno nằm ở những cái như thế.

Sau này, toàn cầu hóa kinh tế sẽ làm nảy sinh một sự cạnh tranh khó nhọc hơn nhiều, nó sẽ thổi tan những giấc mộng đưa được toàn bộ người dân vào một tầng lớp trung lưu phổ thông hóa với sức mua ngày càng gia tăng; các giai tầng xã hội ngày càng trải rộng ngập trong sự tạm bợ và thất nghiệp. Sự khốc liệt của cạnh tranh tình dục không vì thế giảm bớt, mà còn ngược lại.

Bruno biết Michel được hai mươi nhăm năm. Trong quãng thời gian đáng sợ đó, anh có cảm tưởng mình chỉ thay đổi một chút; anh nhận thấy thật hiển nhiên giả thuyết về một hạt nhân của bản sắc cá nhân, về một hạt nhân không biến chuyển của các đặc điểm cơ bản. Tuy vậy, những mảng lớn của đời anh đã chìm vào lãng quên tuyệt đối. Anh tưởng như mình hoàn toàn không sống qua hàng tháng, hàng năm trời. Tất nhiên không thể gộp vào đó hai năm cuối cùng của thời niên thiếu đầy ắp kỷ niệm và kinh nghiệm quan trọng. Ký ức của một con người, sau này người em cùng mẹ khác cha giải thích cho anh, giống như một câu chuyện cô đặc Griffiths. Hai người ngồi trong căn hộ của Michel, uống rượu Campari, đó là một buổi tối tháng Năm. Hiếm khi họ nhắc về quá khứ, mà thường chỉ nói chuyện về thời sự chính trị hay xã hội; nhưng tối đó họ nói về quá khứ. "Anh có ký ức về nhiều thời điểm của cuộc đời anh", Michel tóm tắt, ,,những ký ức đó hiện ra dưới nhiều vẻ khác nhau; anh nhìn thấy lại những suy nghĩ, những động lực của mình hoặc những gương mặt đã gặp. Ðôi khi anh chỉ nhớ đến một cái tên, như là Patricia Hohweiller mà anh vừa nói với em ấy, nhưng giờ thì anh không thể nhớ mặt được nữa. Ðôi khi anh nhớ đến một khuôn mặt mà không hiểu khuôn mặt đó gắn với kỷ niệm nào nữa. Trong trường hợp Caroline Yessayan, tất cả những gì anh biết về cô ấy tập trung hết vào mấy giây rất chính xác khi anh đặt tay lên đùi cô. Những câu chuyện cô đặc Griffiths đã được trình bày năm 1984 để đưa các đơn vị lượng tử vào các truyện kể hư cấu. Một câu chuyện Griffiths được xây dựng từ một chuỗi các đơn vị ít hay nhiều tùy ý xảy ra ở các thời điểm khác nhau. Mỗi đơn vị biểu diễn ý một đại lượng vật lý nhất định, mỗi đại lượng khác nhau, được bao gồm, vào một thời điểm nào đó, trong một nhóm giá trị nhất định. Chẳng hạn vào thời điểm t1, một electron mang một vận tốc nào đó, được quy định truớc với độ chính xác phụ thuộc phương thức đơn vị; vào thời điểm t2, electron đó được đặt vào một vị trí nào đó trong không gian; vào thời điểm t3, nó chịu một lực quay nào đó. Từ một tập con các đơn vị người ta có thể định ra một câu chuyện, về lô gích là đặc quánh, tuy thế ta không thể biết nó có đúng không; nó có thể chỉ đơn giản là không có mâu thuẫn. Trong số các câu chuyện có thể có trong thế giới, trong khuôn khổ kinh nghiệm cho trước, một số có thể được viết lại dưới dạng chuẩn hóa Griffiths; khi đó chúng được gọi là những câu chuyện cô đặc Griffiths; và tất cả sẽ diễn ra như là thế giới được tạo nên từ những đồ vật tách biệt, có những giá trị nội sinh và bền vững. Tuy nhiên, số lượng câu chuyện cô đặc Griffiths viết lại được từ một chuỗi đơn vị thường lớn hơn một. Anh có một ý thức về bản thân anh; ý thức này cho phép anh đặt một giả thuyết: câu chuyện mà anh có thể tái tạo từ những kỷ niệm của chính mình là một câu chuyện cô đặc, có thể chứng minh theo nguyên lý một tường thuật đơn ứng. Với tư cách một cá thể độc lập, có trong tồn tại của mình một giãn cách thời gian, bị đặt dưới tác động của một bản thể học đồ vật và sở hữu, anh không hề phải nghi ngờ gì về điểm này: người ta cần thiết phải có thể gắn cho anh một câu chuyện cô đặc dạng Griffiths. Về tiên nghiệm anh thực hiện giả thuyết này trong cuộc đời thực; anh không thể thực hiện đối với một giấc mơ."

Anh thì nghĩ bản thân mình là một ảo tưởng; không có gì ngăn cản nó là một ảo tưởng đau đớn..." Bruno nhẹ nhàng nói; nhưng Michel chỉ biết trả lời, anh không biết gì về Phật giáo hết. Cuộc trò chuyện không hề dễ dàng, mỗi năm họ chỉ gặp nhau hai lần. Khi còn trẻ họ từng có những cuộc tranh luận sôi nổi; nhưng thời đó đã vĩnh viễn trôi qua rồi. Tháng Chín năm 1973, cả hai cùng theo các giờ toán và vật lý. Michel ở trình độ quá cao so với cả lớp. Vũ trụ của con người - cậu bắt đầu nhận ra - thật đáng thất vọng, đầy lo sợ và cay đắng. Các phương trình toán học mang lại cho cậu những niềm vui thanh thản và sống động. Cậu tiến bước trong sự mù mờ, và đột nhiên cậu tìm thấy một ngả rẽ: với vài công thức, vài nhân tử hóa táo bạo, cậu đạt tới tận bậc thềm của sự thanh thản chói sáng. Phương trình của đề bài gây xúc động lớn, vì sự thật bay lượn ở trước vẫn còn mơ hồ; phương trình cuối cùng sáng chói nhất, vui sướng nhất. Cùng năm đó, Annabelle vào học lớp mười trường trung học Meaux. Họ thường xuyên gặp nhau, cả ba người, sau khi lớp học kết thúc. Rồi Bruno về ký túc; Annabelle và Michel đi ra ga tàu. Tình trạng đó có một tính chất kỳ lạ và buồn bã. Ðầu năm 1974, Michel ngụp lặn trong các không gian của Hilbert; rồi cậu bắt đầu bước vào lý thuyết giới hạn, khám phá tích phân Riemann, Lebesgue và Stieltjes. Cùng thời gian đó, Bruno đọc Kafka và thủ dâm trên ô tô ray. Một buổi chiều tháng Năm, ở bể bơi vừa mở cửa ở La Chapelle-sur-Crécy, cậu có niềm vui vạch khăn tắm cho hai con bé mười hai tuổi xem chỗ kín của mình; cậu thích thú nhất khi thấy hai đứa bé gái hích cùi chỏ nhau, chứng tỏ chúng rất quan tâm đến cảnh tượng trước mặt; cậu nhìn thật lâu một trong hai đứa con gái đó, một con bé tóc nâu đeo kính. Quá bất hạnh và quá bi quan, khó có thể thực sự biết được tâm lý người khác, nhưng Bruno cũng nhận ra người em cùng mẹ khác cha của mình đang ở vào tình trạng còn bi đát hơn mình. Hai người thường đi uống cà phê với nhau; Michel mặc áo anorak [14] và đội những chiếc mũ kỳ cục, không biết chơi bilắc; thường chỉ có Bruno nói, Michel không động đậy, và ngày càng nói ít đi; cậu nhìn Annabelle với một con mắt chăm chú và trơ ì. Annabelle không quay mặt đi, với nàng, khuôn mặt của Michel giống với lời bình luận từ một thế giới khác. Khoảng cùng thời kỳ đó nàng đọc Bản xônat Kreuzer [15] , trong một lúc nàng tin là đã hiểu được cậu thông qua cuốn tiểu thuyết đó. Hai mươi lăm năm sau Bruno vẫn thấy rõ ràng họ từng ở vào một trạng thái mất cân bằng, không bình thường, không tương lai; nhìn lại quá khứ, người ta thường có cảm tưởng - có lẽ chỉ là ảo ảnh - về một quyết định luận nào đó.



[1]Couscous: món cơm A rập rất phổ biến ở Pháp.
[2]Nazi: chủ nghĩa phát xít cuồng tín.
[3]Vở nhạc kịch (Hair), do Ragni và Rado sáng tác năm 1967.
[4]Sex-shop: các cửa hàng chuyên bán đồ liên quan đến tình dục.
[5]Jean Ferrat (sinh năm 1930), ca sĩ Pháp.
[6]Françoise Hardy (sinh năm 1944), ca sĩ Pháp.
[7]Flirt adolescent: tiếng Anh trong nguyên bản, chỉ tình dục ở tuổi thiếu niên.
[8]Deep-petting: hôn kiểu Pháp.
[9]CEG: trường trung học.
[10]Từ tiếng Anh được dùng thông dụng trong các ngôn ngữ khác, nghĩa là hay ho, hấp dẫn.
[11]Franz Kafka (1883-1924), nhà văn Séc viết tiếng Ðức.
[12]Rolling Stones: ban nhạc của Anh nổi tiếng từ những năm 1960.
[13]Valéry Giscard d'Estaing (sinh năm 1926), Tổng thống Pháp từ 1974 đến 1981.
[14]Anorak: loại áo khoác có mũ.
[15]Bản xônat Kreuzer (viết 1887-1889, công bố 1891): truyện của L. Tolstoi.

saos@ngmo

Phần thứ nhất(c)

Vương quốc đánh mất

12.

Chế độ mẫu

"Trong các thời kỳ cách mạng, những người tự cho mình, với một sự cao ngạo lạ kỳ, có vinh dự phát triển ở những người cùng thời những đam mê vô chính phủ, không nhận thức được cái vẻ thành công đáng hổ thẹn của họ chủ yếu chỉ là một cái gì đó bột phát, do tổng thể tình hình xã hội tương ứng quy định."

(Auguste Comte - Bài giảng triết học thực chứng, Bài số 48)

Ðiều nổi bật của những năm giữa thập niên bảy mươi ở Pháp là thành công của cuộc xì căng đan mà Con ma ở thiên đường, Quả cam tự động và Những kẻ lang thang [1] tạo ra được: ba bộ phim cực kỳ khác nhau, mà thành công chung hẳn đã tạo ra tính thương mại thường trực của một văn hóa "trẻ", về bản chất dựa trên tình dục và bạo lực, cái sẽ còn chiếm lĩnh thị trường nhiều thập niên sau nữa. Những người ở độ tuổi ba mươi làm giàu trong những năm sáu mươi thấy lại mình hoàn toàn trong bộ phim Emmanuelle, trình chiếu năm 1974: trình bày một kiểu tiêu xài thời gian, các địa điểm xa lạ và những cuộc đắm say, bộ phim của Just Jaeckin thuộc về một mình ông, ở giữa một nền văn hóa từ lâu gắn sâu trong truyền thống Do Thái - Thiên chúa giáo, là một tuyên ngôn cho bước tiến đầu tiên vào nền văn minh giải trí.

Nói một cách chung hơn, phong trào ủng hộ tự do hóa quan hệ vào năm 1974 có được những thành công quan trọng. Ngày 20 tháng Ba ở Paris câu lạc bộ Vilatopp đầu tiên mở cửa, nó sẽ đóng vai trò đi tiên phong trong lĩnh vực hình thể và sùng kính cơ thể. Ngày 5 tháng Bảy thông qua đạo luật đưa tuổi chịu trách nhiệm hành vi xuống mười tám, ngày 11 là luật ly hôn với sự đồng thuận chung - điều khoản ngoại tình biến mất khỏi bộ Luật hình sự. Cuối cùng, ngày 28 tháng Mười một, đạo luật Veil cho phép phá thai đã được thông qua, nhờ vào sự ủng hộ của cánh tả, sau một trận tranh cãi ầm ĩ - được đánh giá là "lịch sử" bởi phần đông những người bình luận. Quả thực nhân học Thiên chúa, từ lâu chiếm đa số trong những nước phương Tây, đã thỏa thuận một tầm quan trọng vô hạn với mỗi đời người, từ khi sinh ra cho đến khi chết đi; tầm quan trọng này là nối lại với việc các tín đồ Thiên chúa tin vào sự tồn tại ở bên trong cơ thể, của một hồn - hồn trong nghĩa bất tử của nó, và sau này được dùng để chỉ đức Chúa. Dưới sự thúc đẩy của những tiến bộ sinh học dần dần phát triển ở thế kỷ XIX và XX một nhân học duy vật, hoàn toàn khác biệt với những gì trước đó, và khiêm tốn hơn nhiều trong những khuyến dụ đạo đức của mình. Một mặt là bào thai, tập hợp nho nhỏ các tế bào đang ở trạng thái phân chia tăng dần, chỉ thấy mình là sự tồn tại cá nhân độc lập với điều kiện tập hợp được một sự chấp nhận của xã hội (sự thiếu vắng tì vết về gen thủ tiêu hiệu lực, sự nhất trí của bố mẹ). Mặt khác người già, đồng nghĩa với các cơ quan đang liên tục bị tan rã, chỉ có thể tỏ ra sự sống qua sự phối hợp đầy đủ các chức năng cơ quan - sự xuất hiện của khái niệm phẩm cách con người. Những vấn đề đạo đức được đặt ra như thế bởi các tuổi cực của cuộc đời (phá thai, rồi sau đó vài thập kỷ, trợ tịch) ngay từ đó hẳn đã thiết lập những yếu tố chống đối không thể vượt qua giữa hai cách nhìn nhận thế giới, hai nhân học về bản chất đối kháng nhau kịch liệt.

Thuyết bất khả tri nằm ở nguyên lý của Cộng hòa Pháp hình như đã giúp rất nhiều cho cái thắng lợi đạo đức giả, lũy tiến và thậm chí hơi xảo trá của nhân học duy vật. Chưa bao giờ được công khai đưa ra, các vấn đề giá trị cuộc sống con người vẫn tiến lên những bước mạnh mẽ không ngừng trong mỗi tâm trí; có thể khẳng định chúng đóng góp một phần, trong những thập niên cuối cùng của văn minh Tây phương, cho việc tạo ra một bầu không khí nhìn chung là u ám, thậm chí có phần khổ dâm.

Với Bruno, khi đó vừa mười tám tuổi, mùa hè năm 1974 là một quãng thời gian quan trọng, thậm chí cốt tử. Nhiều năm sau khi đến gặp bác sĩ tâm lý, anh sẽ quay trở lại với nó nhiều lần, thay đổi một vài chi tiết - bác sĩ tâm lý rõ ràng có vẻ đánh giá rất cao câu chuyện này. Ðây là phiên bản chính thức mà Bruno thường thích kể:

"Ðiều đó xảy ra vào khoảng cuối tháng Bảy. Tôi ở nhà mẹ tôi ở Bãi biển một tuần. Luôn có nhiều người qua lại. Mùa hè năm đó, bà làm tình với một anh chàng Canada trẻ tuổi rất cường tráng, một tiều phu thực thụ. Buổi sáng hôm ra đi, tôi vào phòng họ, cả hai đều đang ngủ. Tôi do dự vài giây, rồi kéo chăn ra. Mẹ tôi cử động, tôi tưởng chừng bà sắp mở mắt; hai chân bà vẫn hơi dạng ra. Tôi quỳ xuống trước âm hộ bà. Tôi đã đưa tay lại gần nó chừng vài xăng-ti-mét, nhưng không dám chạm vào. Tôi đi ra khỏi phòng để thủ dâm. Bà mẹ tôi nuôi nhiều mèo, tất cả bọn chúng không ít thì nhiều cũng hơi hoang dại. Tôi lại gần một con mèo đen đang sưởi nắng trên một tảng đá. Ðất quanh nhà đầy sỏi trắng, một màu trắng kinh người. Con mèo nhiều lần nhìn tôi khi tôi thủ dâm, nhưng nó nhắm mắt lại trước khi tôi phóng tinh. Tôi cúi xuống, nhặt một hòn đá to. Ðầu con mèo vỡ tung ra, một ít não vãi ra xung quanh. Tôi lấy đá phủ lên xác nó, rồi quay vào nhà. Vẫn chưa ai ngủ dậy. Trong buổi sáng mẹ tôi chở tôi đến nhà bố, cách đó khoảng năm mươi cây số. Trong xe, lần đầu tiên, bà nói đến di Meola. Ông ta cũng đã rời khỏi California, bốn năm trước. Ông đã mua một mảnh đất lớn gần Avignon, trên sườn đồi Ventoux. Mùa hè ông tiếp những người trẻ tuổi đến từ khắp châu Âu và Bắc Mỹ. Bà nghĩ tôi nên đến đó một mùa hè để mở rộng tầm mắt. Giáo dục mà di Meola nhận được chủ yếu tập trung ở truyền thống Brahms, nhưng theo bà không hề có cuồng tín hay co cụm nội bộ. Ông cũng coi trọng những thành tựu của điều khiển học, PNL [2] và các kỹ thuật giải chương trình do Esalen phát triển. Vấn đề tiên quyết là giải phóng cá nhân, khả năng sáng tạo tiềm ẩn ở bề sâu. "Chúng ta mới chỉ sử dụng 10% nơ ron thần kinh của mình thôi."

"Thêm vào đó, Jane nói tiếp (họ đang đi qua một khu rừng thông), ở đó con sẽ gặp những người ở độ tuổi của con. Trong thời gian con ở đây, bọn mẹ đều có cảm giác con có vấn đề về tình dục." Cung cách sống tình dục của phương Tây, bà nói thêm, là hoàn toàn chệch hướng và đồi bại. Trong nhiều xã hội nguyên thủy, sự hướng dẫn tình dục diễn ra tự nhiên hơn, vào đầu thời kỳ thiếu niên, dưới sự kiểm soát của những người trưởng thành của bộ lạc. "Mẹ là mẹ con" bà nói cụ thể hơn. Bà tránh không thêm vào là vào năm 1963 bà đã hướng dẫn David, con trai di Meola. Khi đó David mười ba tuổi. Buổi chiều đầu tiên, bà cởi quần áo trước mặt cậu ta để khuyến khích cậu ta trong cuộc thủ dâm. Buổi chiều thứ hai, bà đã tự tay giúp cậu thủ dâm và thổi kèn cậu. Cuối cùng, vào buổi chiều thứ ba, cậu ta đã có thể đi vào cơ thể bà. Với Jane đó là một kỷ niệm rất dễ chịu, dương vật của cậu bé con rất cứng và hoàn toàn có khả năng hành sự, ngay cả sau nhiều lần phóng tinh. Chính từ lúc đó bà đã quyết định hướng hẳn về các chàng trai trẻ. "Tuy nhiên, bà nói thêm, sự hướng dẫn ban đầu luôn được thực hiện ở bên ngoài quan hệ gia đình trực hệ. Ðiều đó là nhất thiết để có thể mở ra với thế giới." Bruno thiếu điều nhảy dựng lên, tự hỏi không biết sáng đó quả thực bà có mở mắt không khi cậu đang nhìn hau háu vào âm hộ bà. Nhận xét của bà mẹ, tuy nhiên, không có gì là đáng ngạc nhiên; cấm kỵ loạn luân đã được thử nghiệm ở ngỗng tro và khỉ mặt xanh. Xe dừng lại ở Sainte-Maxime.

"Khi đến nhà bố tôi, Bruno tiếp tục, tôi nhận ra ông không được khỏe. Mùa hè năm đó, ông chỉ có thể đi nghỉ hai tuần. Hồi đó tôi chưa nhận thức được nhưng quả thật ông có vấn đề về tiền bạc, lần đầu tiên công việc kinh doanh của ông gặp trục trặc. Sau này, ông đã kể cho tôi tất cả. Ông đã bỏ lỡ dịp nhảy vào thị trường si li côn độn ngực đang nổi lên. Với ông đó là một thứ mốt thoáng qua, không thể vượt quá được thị trường Mỹ. Rõ ràng là quá ngu ngốc. Không có ví dụ nào cho thấy một mốt đến từ Mỹ lại không phát triển mạnh ở Tây Âu mấy năm sau đó, không hề có. Một trong những liên doanh của ông đã chớp lấy cơ hội, nhảy vào bằng tiền túi của mình và chiếm được một lượng lớn khách hàng sử dụng ngực si li côn làm sản phẩm phụ trợ."

Khi thú nhận điều đó, bố của Bruno đã bảy mươi tuổi, và sắp sửa quỵ ngã vì bệnh xơ gan. "Lịch sử lặp lại, ông buồn rầu nói, khua mấy cục đá trong cốc. Thằng ngốc Poncet đó (tức là nhà phẫu thuật thẩm mỹ trẻ tuổi đầy sức bật, người hai mươi năm trước là nguồn gốc sự lụn bại của ông), cái thằng ngốc Poncet đó vừa mới từ chối đầu tư vào ngành phẫu thuật kéo dài dương vật. Nó thấy như thế là xôi thịt, mà không hiểu là thị trường thẩm mỹ cho đàn ông sẽ lớn mạnh ở châu Âu. Thằng ngu. Cũng ngu ngang với bố thời đó. Nếu bây giờ bố mới ba mươi tuổi, bố sẽ lao ngay vào việc kéo dài dương vật!" Nói xong ông thường chìm đắm vào một cơn mộng tưởng xa xôi, rất gần với trạng thái lơ mơ. Câu chuyện chậm chạp hơn một chút ở tuổi đó.

Vào tháng Bảy năm 1974 đó, bố Bruno mới chỉ ở giai đoạn đầu của sự xuống dốc. Buổi chiều ông trốn vào phòng với một chồng truyện tranh San Antonio và một chai Bourbon. Ðến bảy giờ ông mới bước ra, nấu ăn với bàn tay run rẩy. Không phải ông không muốn nói chuyện với con trai, nhưng ông không thể làm được, thực sự ông không thể làm được. Hai ngày sau, bầu không khí trở nên vô cùng nặng nề. Bruno bắt đầu ra khỏi nhà, cả buổi chiều. Anh nằm đờ đẫn trên bãi biển.

Bác sĩ tâm lý không đánh giá cao lắm đoạn tiếp theo của câu chuyện, nhưng Bruno lại rất thích kể, anh không muốn nó bị trôi qua trong im lặng. Mà cái thằng cha ngu xuẩn ấy ngồi đó để lắng nghe cơ mà, không phải hắn được thuê để làm việc ấy à?

"Nàng ngồi một mình, Bruno kể tiếp, nàng ngồi một mình suốt buổi chiều trên bãi biển. Một đứa con gái nhỏ tội nghiệp của những người giàu có, giống như tôi vậy; nàng mười bảy tuổi. Trông nàng tròn xoe, thân hình đồ sộ cộng với khuôn mặt dè dặt, da quá trắng lại đầy mụn. Buổi chiều thứ tư, ngay trước hôm tôi chuẩn bị ra đi, tôi đặt khăn tắm và ngồi xuống cạnh nàng. Nàng đang nằm sấp, đã tháo dây xu chiêng áo tắm. Ðiều duy nhất tôi tìm ra được để nói, tôi còn nhớ, là: "Em đang đi nghỉ à?" Nàng ngước mắt lên: rõ ràng nàng không chờ đợi một cái gì chói sáng, thậm chí cũng có thể không phải cả là cái gì đó ngu ngốc đến thế. Sau đó chúng tôi hỏi tên nhau, nàng tên là Annick. Vào một lúc nào đó nàng phải đứng lên, và tôi tự hỏi: nàng có định cài lại xu chiêng từ đằng sau không? Hay nàng sẽ đứng lên và để lộ bộ ngực? Ðiều nàng làm nằm giữa hai cái đó: nàng quay người lại và giữ một nửa cái xu chiêng trên ngực. Trong tư thế cuối cùng cái bao vú bị lộn ra, nó chỉ che được phân nửa. Nàng có bộ ngực thật là đồ sộ, thậm chí hơi nhão, chắc sau này sẽ sệ xuống một cách khủng khiếp. Tôi tự nhủ nàng thật là dũng cảm. Tôi đưa tay lại gần và luồn tay xuống dưới cái bao vú, khám phá dần dần bầu vú. Nàng không cử động nhưng người nàng hơi cứng lại, nàng nhắm mắt. Tôi tiếp tục đưa tay đi tiếp, hai núm vú của nàng cứng đanh. Ðó là một trong những giây phút hạnh phúc nhất đời tôi.

Sau đó, mọi việc trở nên khó khăn hơn. Tôi đưa nàng về nhà, và cả hai leo ngay lên phòng tôi. Tôi sợ bố tôi trông thấy nàng; dù sao ông cũng đã từng có rất nhiều người đàn bà đẹp trong đời. Nhưng ông đang ngủ, quả thật buổi chiều hôm đó ông say hoàn toàn và mãi đến mười giờ tối mới tỉnh dậy. Thật lạ lùng, nàng không chịu để tôi cởi quần lót. Nàng chưa bao giờ làm thế, nàng nói với tôi, nàng chưa bao giờ làm gì với một cậu con trai, quả thật là như thế. Nhưng nàng không ngần ngại thủ dâm cho tôi, rất hăng hái; tôi nhớ nàng đã mỉm cười. Tiếp đó, tôi đưa dương vật lại gần miệng nàng, nàng mút vài cái nhưng không thích lắm. Tôi không ép nàng, tôi nhảy lên ngồi lên người nàng. Khi tôi đưa dương vật vào giữa hai vú nàng tôi cảm thấy nàng thực sự hạnh phúc, nàng thốt ra một tiếng rên nhỏ. Ðiều đó kích thích tôi mạnh đến nỗi tôi đứng dậy và kéo tụt quần lót của nàng ra. Lần này thì nàng không chống cự, thậm chí nàng còn nâng hai chân lên để giúp tôi. Quả thật nàng không phải một cô gái đẹp, nhưng âm hộ nàng rất hấp dẫn, hấp dẫn hơn của bất kỳ người đàn bà nào khác. Nàng nhắm mắt lại. Vào lúc tôi trườn tay xuống dưới mông nàng, nàng dang rộng hoàn toàn hai đùi. Ðiều này gây cho tôi một hiệu ứng mạnh đến nỗi tôi phóng tinh ngay lập tức, trước khi vào được trong nàng. Một ít tinh trùng dính lại trên đám lông kín của nàng. Tôi vô cùng hối tiếc, nhưng nàng nói không có gì đâu, nàng đã thỏa mãn rồi.

Chúng tôi không có nhiều thời gian lắm để nói chuyện, đã tám giờ tối và nàng phải về nhà bố mẹ ngay lập tức. Nàng nói với tôi, tôi cũng không hiểu lắm tại sao, rằng nàng là con một. Nàng có vẻ vô cùng hạnh phúc, vô cùng hãnh diện vì có lý do về ăn tối muộn, đến nỗi tôi suýt trào nước mắt. Chúng tôi hôn nhau rất lâu trong vườn trước nhà. Buổi sáng hôm sau, tôi lên đường về Paris."

Sau khi kể câu chuyện nhỏ đó, Bruno ngừng nói một lúc. Nhà trị liệu kín đáo nuốt khan, rồi nói chung chung: "Tốt." Rồi vì giờ đã sắp hết ông nói một câu vô thưởng vô phạt: "Hôm nay thế thôi nhỉ?" và hơi lên giọng ở cuối câu để chứng tỏ đó là một câu hỏi. Nụ cười của anh trước câu nói này nhẹ nhõm một cách cao thượng.


13.

Cùng mùa hè năm 1974 đó, Annabelle để cho một thằng con trai hôn mình trong một sàn nhảy ở Saint-Palais. Nàng vừa đọc trên tờ Spéphanie một hồ sơ về tình bạn trai-gái. Ðề cập đến vấn đề tình bạn tuổi thơ, tờ tạp chí phát triển một chủ đề đặc biệt đáng tởm: cực kỳ hiếm người bạn trai thời bé thơ trở thành người yêu; số phận tự nhiên của chàng ta phần nhiều sẽ là trở thành một người bạn, một người bạn trung thành; thậm chí cậu ta có thể thường xuyên trở thành người để tâm sự và giúp đỡ khi có những khủng hoảng về tình cảm do những ve vãn đầu tiên gây ra.

Trong những giây đầu tiên sau nụ hôn đầu tiên này, và dù đã có những khẳng định của tờ tạp chí, Annabelle vẫn cảm thấy vô cùng buồn bã. Một điều gì đó đau đớn và mới mẻ nhanh chóng xâm chiếm lồng ngực nàng. Nàng ra khỏi Kathmandou, từ chối để thằng con trai đi theo. Nàng hơi run lên khi mở khóa chiếc xe máy của mình. Tối đó nàng mặc chiếc váy đẹp nhất. Nhà anh trai nàng chỉ cách đó một cây số, lúc nàng đến nơi mới chỉ là mười một giờ, vẫn còn đèn sáng trong phòng khách; khi nhìn thấy ánh đèn, nàng bật khóc. Chính trong những tình huống như thế này, một đêm tháng Bảy năm 1974, Annabelle đã có nhận thức đau đớn và quả quyết về sự tồn tại cá nhân của mình. Thoạt tiên được thức tỉnh theo kiểu con vật dưới hình thức đau đớn bên ngoài, sự tồn tại cá nhân chỉ xâm nhập các xã hội người với đầy đủ ý thức về chính mình bởi trung gian là lời nói dối, quả là sự tồn tại đó có thể bị nhầm với cái này. Cho đến mười sáu tuổi, Annabelle không hề có bí mật nào với bố mẹ; nàng cũng không hề có - và điều đó đã từng, cho đến giờ thì nàng nhận ra, là một điều gì đó quý giá và hiếm có - bí mật với Michel. Trong vài giờ đêm đó, Annabelle nhận thức được rằng đời người là một chuỗi không dứt những lời nói dối. Cũng dịp đó, nàng nhận thức được vẻ đẹp của mình.

Sự tồn tại của cá nhân, cảm giác về tự do nảy trào từ đó tạo nên nền tảng tự nhiên của dân chủ. Trong chế độ dân chủ, các mối quan hệ giữa những cá nhân được điều hòa một cách cổ điển bởi hình thức khế ước. Mọi khế ước vượt quá những quyền tự nhiên của một trong những người tham gia, hay không xuất phát từ những điều khoản rõ ràng của điều khoản hủy bỏ, sẽ vô hiệu trong thực tế.

Rất sẵn sàng nhắc lại chi tiết mùa hè năm 1974, nhưng Bruno lại ít khi nói về năm học tiếp theo đó; nói đúng ra nó chỉ để lại trong anh ấn tượng về một sự khó chịu ngày càng lớn. Một mảnh thời gian không xác định, nhưng lại có giọng điệu rất sâu thẳm. Cậu vẫn thường xuyên gặp cả Annabelle và Michel, về nguyên tắc hai người rất thân thiết; tuy nhiên họ sẽ thi bằng tú tài, và chắc chắn đến cuối năm sẽ phải chia tay nhau. Michel đã thay đổi: cậu nghe Jimmy Hendrix và lăn lộn trên thảm, âm nhạc đó thật căng thẳng; khá lâu sau những người khác, cậu mới bắt đầu có những dấu hiệu rõ ràng của tuổi niên thiếu. Annabelle và cậu cảm thấy ngượng ngùng, hai người không còn dễ dàng cầm tay nhau nữa. Tóm lại, câu chuyện giống như Bruno một lần đã tóm tắt cho bác sĩ của mình: "Tất cả dừng lại ở đùi non."

Từ sau khi gặp Annick, người mà cậu có xu hướng tưởng tượng đẹp hơn thực trong kỷ niệm của mình (dù vậy cậu cũng thận trọng tránh nhắc đến cô), Bruno cảm thấy tự tin hơn một chút. Cuộc chinh phục đầu tiên ấy dù sao cũng không thể thay thế được các cuộc chinh phục khác sau này, và cậu đã bị Sylvie tống cổ thẳng cánh khi cố hôn cô, Sylvie là một cô gái tóc nâu xinh đẹp rất ngon lành học cùng lớp với Annabelle. Tuy nhiên đã từng có một cô gái muốn cậu, cậu vẫn có thể có những người khác nữa; và cậu bắt đầu cảm thấy một tình cảm mơ hồ cần phải bảo vệ Michel. Dù sao đó cũng là em trai cậu, cậu hơn em trai những hai tuổi. "Em phải làm điều gì đó với Annabelle đi», cậu nhắc đi nhắc lại, «nó chỉ chờ có thể thôi đấy, nó yêu em và nó là đứa con gái xinh nhất trường đấy." Michel vặn vẹo trên ghế, đáp: "Vâng." Nhiều tuần trôi qua. Có thể thấy rõ ràng là cậu đang lưỡng lự ở bên bờ ngưỡng trở thành người lớn. Hôn Annabelle, có lẽ với cả hai người, là phương cách duy nhất để vượt qua được ngõ cụt ấy; nhưng cậu không có ý thức về điều đó; cậu bồng bềnh trong một cảm giác giả dối về sự vĩnh hằng. Tháng Tư, cậu khiến các thầy giáo của mình tức giận vì không chịu điền vào hồ sơ đăng ký học lớp dự bị. Hiển nhiên là, hơn tất cả những học sinh khác, cậu có những cơ hội rất lớn vào được một trường lớn. Kỳ thi tú tài sẽ đến trong một tháng rưỡi nữa, và càng ngày cậu càng gây cảm giác mình đang bồng bềnh trôi nổi. Qua những cửa sổ rèm sắt của phòng học cậu ngắm nhìn những đám mây, những cây mận, những học sinh khác; có vẻ như không một sự kiện nào của loài người có khả năng chạm được đến cậu nữa.

Bruno, về phần mình, đã quyết định ghi tên học văn chương: cậu bắt đầu đã chán các công thức Taylor-Maclaurin, và nhất là ở các khoa văn chương có rất nhiều, rất nhiều con gái. Bố cậu không phản đối gì. Cũng giống như tất cả những người từng có thời sống phóng túng, về giai đoạn cuối đời ông trở nên tình cảm, và tự trách mình thậm tệ đã làm hỏng cuộc đời con trai vì thói ích kỷ; điều này không hoàn toàn sai. Ðầu tháng Năm ông bỏ Julie, người tình cuối cùng của ông, nhưng cũng là một người đàn bà rất đẹp; cô tên là Julie Lamour, nhưng tên hiệu khi đi diễn là Julie Love. Cô đóng trong những bộ phim porno [3] đầu tiên theo kiểu Pháp, những bộ phim của Burd Tranbaree hay Francis Leroi ngày nay đã bị quên lãng. Cô hơi giống Janine, nhưng điên rồ hơn rất nhiều. "Tôi bị trừng phạt... Tôi bị trừng phạt..." bố của Bruno lặp đi lặp lại khi ông nhận ra sự giống nhau lúc tình cờ nhìn lại một bức ảnh thời trẻ của người vợ cũ. Trong một bữa tối ở Bénazéraf người tình của ông đã gặp Deleuze, và kể từ đó cô thường xuyên lao vào công việc mang lại những giải thích mang tính trí tuệ cho các bộ phim porno, điều này thật quá sức chịu đựng. Hơn nữa cô khiến ông tốn quá nhiều tiền, cô có thói quen đi đến phòng quay bằng xe Rolls đi thuê, mặc áo khoác lông thú, tất cả những trò điệu bộ mang tính dục tình này với ông, khi đã về già, trở nên đặc biệt nặng nề. Cuối năm 74, ông phải bán nhà ở Sainte-Maxime. Vài tháng sau, ông mua cho con trai một căn hộ nhỏ gần vườn Thiên văn tại Port-Royal: một căn hộ rất đẹp, sáng sủa, yên tĩnh, không đối diện với nhà khác. Khi đưa Bruno đến thăm nhà ông không hề có cảm giác đang tặng cậu một món quà đặc biệt, mà chỉ để cố gắng, trong phạm vi có thể, sửa chữa lỗi lầm của mình; và dù thế đây cũng là một việc tốt. Nhìn quanh căn nhà một vòng, ông hơi vui lên một tí: "Con có thể dẫn bạn gái về đây!" ông bộp chộp thốt lên. Nhìn vẻ mặt của con trai, ông hối tiếc liền vì câu nói.

Cuối cùng Michel ghi tên vào đại học Orsay, chuyên ngành toán-lý; cậu bị hấp dẫn trước tiên bởi trung tâm đại học ngay bên cạnh; cậu đã lý luận theo cách đó. Hai người nhận bằng tú tài không khó khăn gì lắm. Annabelle đi cùng họ hôm đi xem kết quả, khuôn mặt nàng nghiêm trang, trong vòng một năm nàng đã lớn lên rất nhiều. Hơi gầy đi, với một nụ cười đằm sâu hơn, thật bất hạnh là nàng ngày càng đẹp hơn. Bruno quyết định đưa ra một đề nghị: không còn ngôi nhà nghỉ ở Sainte-Maxime, nhưng cậu có thể đến nhà của di Meola, như mẹ cậu đã từng gợi ý; cậu bảo hai người còn lại đi cùng mình. Một tháng sau họ khởi hành, vào cuối tháng Bảy.


14.

Mùa hè năm 75


"Tác phẩm của họ không cho phép họ trở về bên Chúa
Vì họ còn tinh thần của kẻ điếm
Và vì họ không biết Vĩnh hằng"
(Osée, 5, 4)


Một người đàn ông gầy gò, ốm yếu đón họ ở cửa xe buýt Carpentras. Là con trai một người vô chính phủ Italia lưu vong ở Mỹ trong những năm hai mươi, Francesco di Meola rõ ràng là đã thành công trong đời, cả trên lĩnh vực tài chính. Cũng như Serge Clément chàng trai trẻ Italia ngay sau Thế chiến thứ nhất đã hiểu là người ta đang bước vào một thế giới hoàn toàn mới, và các hoạt động lâu nay vẫn được coi là ưu tú luận hay bên lề sẽ có được sức mạnh kinh tế đáng kể. Trong khi bố của Bruno đầu tư vào ngành giải phẫu thẩm mỹ, di Meola lao vào sản xuất đĩa hát; một số người khác kiếm được nhiều tiền hơn ông, hẳn thế, nhưng dù sao ông cũng kiếm được một phần không nhỏ. Tuổi tứ tuần đến, ông cũng như nhiều người California khác có trực giác về một làn sóng mới, sâu sắc hơn một phong trào mốt đơn thuần, sẽ ào lên để quét sạch toàn bộ nền văn minh phương Tây; chính vì thế, trong tòa biệt thự của mình ở Big Sur, ông có thể tiếp đón Allan Watts, Paul Tillich, Carlos Castaneda, Abraham Maslow và Carl Rogers [4] . Một thời gian ngắn sau ông còn có vinh hạnh được gặp Aldous Huxley, người cha tinh thần thực sự của phong trào. Già cả và gần như lòa mắt, Huxley chỉ cho phép một sự quan tâm hạn hẹp: cuộc gặp này, tuy nhiên, sẽ để lại cho ông ấn tượng mang tính quyết định.
Những nguyên do thúc đẩy ông rời bỏ California vào năm 1970 để mua một khu đất ở Haute-Provence không thật rõ ràng trong mắt chính ông. Sau này, khi đã gần đất xa trời, ông tự nhủ mình đã từng muốn, vì những lý do mù mờ, chết ở châu Âu; nhưng khi đó ông mới chỉ có những động cơ hời hợt hơn nhiều. Phong trào tháng Năm 1968 gây ấn tượng mạnh lên ông, và vào lúc phong trào hippie bắt đầu lan tràn ở California ông cho rằng có lẽ có thể làm được gì đó với tuổi trẻ châu Âu. Jane khuyến khích ông theo hướng đó. Tuổi trẻ Pháp nói riêng đang bị sự gò bó mang tính cha chú của chủ nghĩa de Gaulle vây bủa, đè nén; nhưng theo bà chỉ cần một tia lửa để đốt cháy toàn bộ. Từ vài năm nay khoái lạc lớn nhất của Francesco là hút marijuana cùng những cô gái rất trẻ bị vầng hào quang của phong trào thu hút; rồi sau đó làm tình với họ, giữa các mandala [5] và mùi hương trầm. Những cô gái đổ đến Big Sur thường là những con nhóc Tin lành điên rồ; ít nhất một nửa trong số đó còn trinh. Cuối những năm sáu mươi, làn sóng bắt đầu giảm xuống. Khi đó ông tự nhủ có lẽ đã đến lúc trở về châu Âu; ông tự thấy mình kỳ lạ khi suy nghĩ như thế, khi mà ông đã rời Italia khi mới lên năm tuổi. Bố ông không chỉ là một chiến sĩ cách mạng mà còn là người có học, say đắm ngôn từ đẹp, một nhà duy mỹ. Hẳn những cái đó phải để lại những dấu vết ở ông. Trong tâm can ông vẫn luôn coi người Mỹ là những kẻ ngu ngốc.

Ông vẫn còn rất đẹp, với một khuôn mặt góc cạnh và gân guốc, mái tóc bạc dài, lượn sóng và dày; tuy nhiên bên trong cơ thể các tế bào đã bắt đầu sinh sôi mất trật tự, tàn phá mã di truyền của các tế bào bên cạnh và tiết ra chất độc. Các chuyên gia mà ông đến khám nói khác nhau về rất nhiều điểm, trừ việc ông sắp chết. Bệnh ung thư của ông không thể chữa được, nó tiếp tục di căn khắp cơ thể. Phần lớn các bác sĩ nghĩ đến một cơn hấp hối nhẹ nhàng, và thậm chí một số thuốc để ngăn cho đến lúc kết thúc những cơn đau hành hạ cơ thể; quả thật, cho đến lúc này, ông chỉ cảm thấy một nỗi mệt mỏi toàn thân to lớn. Tuy nhiên, ông không cam chịu; thậm chí ông không thể hình dung ra được sự cam chịu. Với phương Tây hiện đại, ngay cả khi ông hoàn toàn khỏe mạnh, suy nghĩ về cái chết vẫn dựng lên một kiểu tiếng ồn sâu thẳm làm trí óc ông trống rỗng ngay khi những kế hoạch và ham muốn bị mờ đi. Tuổi tác càng cao, sự hiện diện của tiếng ồn này ngày càng xâm chiếm nhiều hơn; người ta có thể so sánh nó với một tiếng ngáy rất to, đôi khi đi kèm với sự nghiến răng kèn kẹt. Ở những giai đoạn khác, tiếng ồn sâu thẳm được tạo nên bởi sự chờ đợi vương quốc của Chúa; ngày hôm nay, nó được xây dựng bởi sự chờ đợi cái chết. Thế đấy.

Huxley, ông vẫn luôn nhớ rõ, có vẻ bàng quan với cái chết của chính mình; nhưng cũng có khả năng ông chỉ trơ ra, hoặc say thuốc. Di Meola từng đọc Platon [6] , Bhagavad-Gita [7] và Ðạo Ðức Kinh [8] ; không cuốn sách nào trong số đó mang lại cho ông chút dễ chịu. Ông mới sáu mươi tuổi, thế mà ông đang chết đi, tất cả các triệu chứng đã rành rành, không thể nhầm lẫn được. Thậm chí ông bắt đầu chán tình dục, khi bắt gặp vẻ đẹp của Annabelle ông có cảm giác như thể lãng ra được khỏi nỗi chán chường trong giây lát. Ông không buồn chú ý đến hai cậu con trai. Từ lâu ông vẫn sống giữa đám thanh niên, và có lẽ vì thói quen ông tỏ ra hơi tò mò muốn gặp các con trai của Jane; trong tâm can, rõ ràng là như thế, ông chẳng mảy may đoái hoài. Ông cho họ ở giữa khu đất, bảo họ dựng lều ở đâu cũng được; ông muốn đi ngủ, ngủ một mình. Về mặt thể chất ông vẫn còn là đại diện hoàn hảo cho loại đàn ông vững chãi và nhiều cảm xúc, với cái nhìn thấu suốt đầy mỉa mai, thậm chí thông thái; một vài cô gái đặc biệt ngu ngốc còn cho là khuôn mặt ông có gì đó chói sáng và hiền hậu. Ông không cảm thấy trong mình chút hiền hậu nào, và hơn thế ông có cảm giác mình là một diễn viên hạng thường: làm sao tất cả mọi người lại dễ để bị ông lừa thế nhỉ? Rõ ràng, đôi khi ông tự nhủ, hơi buồn bã, những đứa trẻ ranh tìm kiếm các giá trị tinh thần mới đó quả thật là ngu ngốc.

Chỉ vài giây sau khi bước xuống khỏi chiếc xe jeep, Bruno hiểu là cậu đã phạm sai lầm. Tòa nhà thoai thoải dốc xuống phía Nam, hơi trũng xuống, có những cây nhỏ và hoa. Một thác nước chìm trong một lỗ nước, màu xanh lá cây và im lìm; ngay bên cạnh, trải rộng trên một tảng đá phẳng, trần trụi, một người phụ nữ đang phơi nắng, trong khi một người khác đang xoa xà phòng trước khi lặn xuống. Rất gần họ, quỳ trên một tấm khăn, một tay thanh niên cao lớn râu rậm đang suy tư hoặc ngủ. Gã cũng trần truồng và da rất rám nắng; mái tóc dài có màu vàng nhạt xòe rất mạnh mẽ xuống làn da nâu; gã hơi giống với Kris Kristofferson [9] . Bruno cảm thấy tuyệt vọng. Đúng ra thì cậu phải chờ đợi gì khác nào? Có lẽ còn có đủ thời gian để ra đi, với điều kiện phải làm việc đó ngay lập tức. Cậu liếc nhìn hai người bạn đồng hành: Annabelle vô cùng bình thản bắt đầu gỡ lều; ngồi trên một gốc cây, Michel nghịch đống dây buộc của chiếc ba lô của mình, cậu hoàn toàn có vẻ xa vắng.

Nước chảy dọc theo mỗi chỗ dốc. Ðã bị quy định về mặt nguyên tắc và gần như trong mỗi hành động của mình, lối xử sự của con người chỉ chấp nhận không nhiều lắm những nhánh rẽ, và những lối rẽ đó cũng ít được đi theo. Năm 1950, di Meola có một đứa con trai với một cô đào Ý - một diễn viên hạng hai, người không bao giờ vượt quá được vai nô lệ Ai Cập, nhưng cũng có lần - đó là đỉnh cao sự nghiệp của cô ta - có được hai câu thoại trong phim Quo Vadis [10] ? Họ đặt trước tên con là David. Lên mười lăm tuổi, David đã mơ trở thành rock star [11] . Gã không phải là người duy nhất. Giàu hơn giám đốc và chủ ngân hàng rất nhiều, các rock star vẫn giữ được nét nổi loạn của mình. Trẻ trung, đẹp trai, nổi tiếng, được tất cả phụ nữ thèm muốn và bị tất cả đàn ông ghen tị, các rock star tạo thành đỉnh cao tuyệt đối của hệ thống thang bậc xã hội. Không có gì trong lịch sử loài người, kể từ khi có sự thần thánh hóa các pharaon tại Ai Cập cổ đại, có thể so sánh được với sự tôn thờ mà tuổi trẻ châu Âu và Mỹ dành cho các rock star. Về mặt ngoại hình mà nói, David có đầy đủ tất cả mọi thứ để đạt tới mục đích của mình: gã có một vẻ đẹp hoàn bị, vừa súc vật vừa quỷ quái, một khuôn mặt đầy nam tính, nhưng lại có những nét cực kỳ trong trẻo; mái tóc đen dài rất dày, hơi xoăn, đôi mắt xanh thăm thẳm.

Nhờ các mối quan hệ của ông bố, David đã ghi âm được một đĩa 45 vòng đầu tiên ngay khi mới mười bảy tuổi; một thất bại hoàn toàn. Phải nói thêm là nó ra cùng năm với Sgt Peppers, Days of Future Passed [12] và rất nhiều đĩa nữa. Jimi Hendrix, Rolling Stones, The Doors đang ở đỉnh cao phong độ; Neil Young bắt đầu ghi đĩa, và người ta bắt đầu trông đợi được ở Brian Wilson. Những năm đó không có chỗ đứng cho một tay bass cứng tay nhưng không giàu óc sáng tạo lắm. David vẫn bướng bỉnh, gã thay liền bốn ban nhạc, thử nhiều hình thức khác nhau; ba năm sau khi ông bố ra đi, gã cũng quyết định thử vận may ở châu Âu. Gã dễ dàng tìm được một hợp đồng trong một câu lạc bộ ở Bờ biển, điều đó không thành vấn đề; gái chờ gã hàng tối trong lô, điều đó cũng không thành vấn đề mấy. Nhưng không ai, ở bất kỳ hãng đĩa nhạc nào, mảy may quan tâm đến những bản đề mô của gã.

Khi David gặp Annabelle, đã có khoảng năm trăm gái qua tay gã, nhưng gã không nhớ đã từng thấy một sự hoàn hảo nào về hình thể đến thế chưa. Annabelle cũng bị gã hấp dẫn, như tất cả các cô gái khác. Nàng cưỡng lại trong nhiều ngày, và mãi đến một tuần sau khi đến mới gục ngã. Họ có khoảng ba mươi người đang nhảy ở sau nhà, màn đêm đầy sao và dịu nhẹ. Annabelle bận một chiếc váy ngắn màu trắng và một áo phông ngắn vẽ hình mặt trời. David nhảy rất sát nàng, đôi khi xoay nàng nhảy trong một điệu rock nào đó. Họ nhảy không mệt mỏi, từ hơn một giờ, trên một nhịp trống lúc chậm lúc nhanh. Bruno đứng im lìm dựa vào một cái cây, tim thắt lại, đầy cảnh giác, trong trạng thái rình mò. Michel khi thì xuất hiện bên lề vòng tròn sáng rực rỡ, khi biến mất vào trong màn đêm. Ðột nhiên cậu đứng đó, chỉ cách năm mét. Bruno thấy Annabelle rời khỏi đám người đang nhảy đến đứng trước mặt Michel, và nghe thấy nàng hỏi rất rõ: "Anh không nhảy à?"; khuôn mặt nàng lúc đó thật là buồn. Michel từ chối lời mời bằng một cử chỉ chậm đến kinh ngạc, như là một con thú thời tiền sử vừa mới sống dậy. Annabelle đứng lặng trước cậu chừng năm đến mười giây, rồi quay lại nhập vào nhóm người đang nhảy. David quàng tay quanh người nàng và kéo mạnh nàng sát vào gã. Nàng đặt tay lên vai gã. Bruno quay lại nhìn Michel, cậu có cảm giác một nụ cười vụt thoáng qua trên khuôn mặt em trai mình, cậu cúi xuống không nhìn nữa. Khi ngẩng đầu lên, Michel đã biến mất. Annabelle đang ở trong vòng tay của David, môi của họ đã rất gần nhau.

Nằm dài dưới lều của mình, Michel chờ đến bình minh. Khoảng cuối đêm một trận giông rất dữ dội nổ ra, cậu ngạc nhiên thấy mình hơi sợ. Rồi bầu trời yên dần, và một trận mưa đều đặn và chậm rãi rơi xuống. Những giọt mưa đập mạnh vào mái lều, cách mặt cậu vài xăng-ti-mét, nhưng không chạm được vào cậu. Ðột ngột cậu có dự cảm toàn bộ cuộc đời mình sẽ giống với khoảnh khắc này. Cậu sẽ trải qua những xúc cảm con người, đôi khi sẽ ở rất gần với chúng; những người khác biết đến hạnh phúc, hoặc thất vọng; tất cả những điều đó không liên quan đến cậu, cũng không với được đến cậu. Cậu đã từng muốn nhúc nhích một chút, nhưng đã không thể làm được; cậu có cảm giác rất rõ rệt đang đắm vào trong một thứ nước lạnh giá. Tuy nhiên, tất cả đều cực kỳ yên tĩnh. Cậu cảm thấy tách biệt khỏi thế giới bởi vài xăng-ti-mét trống rỗng, tạo thành xung quanh cậu một chiếc mai rùa hay một bộ áo giáp.


15.

Buổi sáng hôm sau, lều của Michel trống không. Toàn bộ đồ đạc đã biến mất, nhưng cậu để lại một mẩu giấy viết rất đơn giản: "ÐỪNG LO LẮNG".

Một tuần sau Bruno đi. Khi ở trong tàu cậu nhận ra trong đợt vừa rồi cậu đã không hề thử tán gái, thậm chí còn không hề nói gì với ai hết.

Khoảng cuối tháng Tám, Annabelle nhận ra kinh nguyệt của mình bị chậm. Nàng tự nhủ như thế thì tốt hơn. Không có vấn đề gì hết: bố David quen một bác sĩ, một chiến sĩ của phong trào Kế hoạch hóa gia đình [13] , làm việc ở Marseille. Ðó là một người đàn ông trạc ba mươi tuổi, say mê, với một hàng ria mép nhỏ màu đỏ, tên là Laurent. Anh ta nằng nặc bắt nàng gọi mình bằng tên: Laurent. Anh ta cho nàng xem nhiều loại dụng cụ khác nhau, giải thích cho nàng cơ chế hoạt động của hệ hô hấp và sự nạo thai. Anh ta luôn cố tạo một cuộc trò chuyện dân chủ với khách hàng, những người mà anh ta coi như là bạn của mình. Ngay từ đầu anh ta đã ủng hộ phong trào đấu tranh của phụ nữ, và theo anh ta còn rất nhiều việc phải làm. Cuộc phẫu thuật được ấn định vào ngày hôm sau, chi phí do Chương trình Kế hoạch hóa gia đình chịu.

Annabelle trở về phòng mình ở khách sạn, rất căng thẳng. Ngày hôm sau nàng sẽ phá thai, nàng sẽ ngủ một đêm nữa ở khách sạn, rồi nàng sẽ trở về nhà; nàng đã quyết định như vậy. Từ ba tuần nay đêm nào nàng cũng ngủ với David ở lều của mình. Lần đầu tiên nàng hơi đau nhưng sau đó nàng cảm thấy khoái cảm, rất nhiều khoái cảm, trước nàng chưa bao giờ nghĩ khoái cảm tình dục lại có thể lớn đến thế. Tuy vậy, nàng không có chút cảm tình nào với gã trai này; nàng biết mình sẽ thay hắn rất nhanh, thậm chí có khả năng gã cũng đang làm như thế.

Tối đó, trong một bữa tối với bạn bè, Laurent say sưa nói về ca của Annabelle. Chính vì những người con gái như nàng mà anh ta muốn đấu tranh, anh ta khẳng định; để tránh cho một cô gái mới mười bảy tuổi ("và hơn nữa rất xinh", anh ta phải nói thêm) không đánh mất cả cuộc đời bởi một cuộc phiêu lưu mùa hè.

Annabelle rất e ngại cuộc trở về Crécy-en-Brie, nhưng trên thực tế đã không có gì xảy ra. Hôm đó là ngày 4 tháng Chín; bố mẹ chúc mừng nàng về làn ra rám nắng. Họ nói cho nàng biết là Michel đã đi, cậu đã đến ở tại ký túc xá đại học ở Bures-sur-Yvette; rõ ràng họ không nghi ngờ gì hết cả. Nàng đến nhà bà nội Michel. Bà già có vẻ mệt mỏi, nhưng đón tiếp nàng rất niềm nở, và không khó khăn gì cho nàng địa chỉ của đứa cháu trai. Bà thấy hơi lạ vì Michel đi trước những người khác, bà cũng thấy lạ khi anh đến ở một tháng trước khai trường, nhưng Michel vẫn là một cậu bé kỳ lạ.

Trong môi trường man dã tự nhiên, con người đôi khi (hiếm khi) có thể tạo ra những địa điểm nồng ấm cho tình yêu tỏa sáng. Những khoảng không gian đóng kín, bí mật, nơi sự thân mật và tình yêu ngự trị.

Hai tuần sau đó, Annabelle dành để viết thư cho Michel. Việc này thật khó khăn, nàng phải bỏ đi viết lại rất nhiều lần. Khi viết xong, bức thư dài bốn mươi trang; lần đầu tiên trong đời, đó thực sự là một bức thư tình. Nàng đi gửi thư ngày 17 tháng Chín, ngày khai trường; sau đó nàng chờ đợi.

Ðại học Orsay - Paris XI là trường đại học duy nhất của Paris thực sự được xây dựng theo mô hình campus của Mỹ. Nhiều tòa nhà rải rác trong một khu vườn đón tiếp sinh viên từ giai đoạn một đến giai đoạn ba. Orsay không chỉ là nơi học, mà còn là một trung tâm nghiên cứu vật lý hạt cơ bản trình độ rất cao.

Michel ở một căn phòng ở góc hành lang, ở tầng bốn, tầng cao nhất của tòa nhà số 233; ngay lập tức cậu rất thích ở đây. Cậu có một cái giường nhỏ, một bàn làm việc, giá để đựng sách. Cửa sổ phòng cậu nhìn xuống một bãi cỏ thoai thoải xuống đến sông; cúi người xuống một chút, thẳng trước mặt, có thể nhìn thấy rõ bê tông của máy gia tốc hạt. Mùa này, một tháng trước ngày bắt đầu vào học, khu nhà gần như trống không; chỉ mới có vài sinh viên người Phi - với họ vấn đề chủ yếu là ở vào tháng Tám, khi các ký túc xá đóng cửa hoàn toàn. Michel nói vài câu với người gác cửa; trong ngày, cậu đi bộ dọc sông. Cậu chưa ngờ là mình sẽ ở đây hơn tám năm trời.

Một sáng, khoảng mười một giờ, cậu nằm dài trên bãi cỏ, giữa những cây cối vô tình. Cậu ngạc nhiên thấy mình đau khổ đến thế. Xa lạ một cách sâu sắc với các quan niệm Thiên chúa về giải thoát và ân sủng, thậm chí xa lạ với khái niệm tự do và tha thứ, tầm nhìn về thế giới của cậu vẫn thu nhận từ đó một vài thứ cứng nhắc và không khoan nhượng. Một khi các điều kiện ban đầu được thỏa mãn, cậu nghĩ, một khi hệ thống tương tác ban đầu được đo đạc, các sự kiện sẽ phát triển trong một không gian buồn bã và trống rỗng; số phận của chúng là không thể đảo ngược. Cái đã được tạo ra sẽ được tái tạo tiếp, không thể khác được; không ai có thể ở đó để chịu trách nhiệm. Ðêm đến Michel mơ đến những không gian trừu tượng, phủ đầy tuyết trắng; cơ thể cậu quấn đầy những dải băng trôi dạt dưới một bầu trời thật thấp, giữa các nhà máy luyện kim. Ban ngày đôi khi cậu gặp một sinh viên châu Phi, một anh chàng người Mali bé nhỏ da xám; họ gật đầu chào nhau. Quán ăn sinh viên còn chưa mở; cậu mua cá ngừ đóng hộp ở siêu thị Continent ở Courcelles-sur-Yvette, rồi đi về phòng mình. Ðêm buông xuống. Cậu bước đi trong những hành lang trống vắng.

Khoảng giữa tháng Mười, Annabelle viết cho cậu lá thư thứ hai, ngắn hơn lá trước. Trong khoảng thời gian đó nàng cũng gọi điện cho Bruno, cũng đang không có tin tức gì của em trai; anh chỉ biết Michel đều đặn gọi điện cho bà nội, nhưng có lẽ phải đến Noel mới về gặp bà.

Một buổi tối tháng Mười một, khi ra khỏi một TD [14] phân tích, Michel thấy có một tin nhắn trong hòm thư ở tòa nhà đại học. Tin nhắn có nội dung: "Gọi cho bác Marie-Thérèse. KHẨN." Ðã hai năm cậu không gặp bà bác Marie-Thérèse nhiều lắm, cũng như cô chị Brigitte. Cậu gọi ngay lập tức. Bà cậu bị một cơn đột quỵ mới, người ta đã phải đưa bà vào bệnh viện ở Meaux. Lần này nặng, thậm chí rất nặng. Ðộng mạch chủ quá yếu, trái tim có nguy cơ ngừng đập.

Cậu đi bộ băng qua Meaux, đi ngang qua trường trung học; đã gần mười giờ. Cùng lúc đó, trong một phòng học, Annabele đang nghiên cứu một bài viết của Epicure - nhà tư tưởng rực rỡ, điều độ, người Hy Lạp, và tóm lại, hơi khó chịu một chút. Bầu trời u tối, nước sông Meaux vẩn đục bẩn thỉu. Không khó khăn gì cậu tìm thấy tòa nhà bệnh viện Saint-Antoine - một tòa nhà cực kỳ hiện đại, toàn bộ bằng kính và thép, vừa khánh thành năm trước. Bà bác Marie-Thérèse và cô chị họ Brigitte chờ cậu ở sảnh tầng bảy; rõ ràng họ vừa khóc. "Bác không biết cháu có nên gặp bà không..." Marie-Thérèse nói. Cậu không đứng dậy. Ðiều gì phải trải qua, cậu sẽ trải qua.

Ðó là một căn phòng đặt dưới sự giám sát chặt chẽ, bà cậu nằm một mình. Ga trải giường, trắng đến kỳ lạ, để lộ cánh tay và vai của bà; anh thấy thật khó rời mắt khỏi lớp da trần, nhăn nhúm, trắng bạch và già nua khủng khiếp đó. Hai cánh tay được nẹp cố định vào thành giường. Một đường ống khía rãnh đặt vào cổ họng bà. Nhiều sợi dây thò ra từ dưới ga trải giường, nối với các loại máy đo. Người ta đã cởi áo ngủ của bà; người ta cũng không để bà búi lại tóc, như thói quen hàng sáng từ nhiều năm nay. Với những sợi tóc màu ghi dài trần trụi, đó dường như không hoàn toàn là bà của cậu nữa; đó là một sinh vật khốn khổ có da thịt, vừa rất trẻ vừa rất già, giờ đây đã rơi vào tay y học. Michel cầm lấy tay bà; chỉ qua bàn tay đó cậu mới hoàn toàn nhận ra bà mình. Cậu vẫn thường cầm tay bà trong suốt mười bảy năm qua. Mắt bà không mở; nhưng dù sao có thể bà vẫn nhận ra sự tiếp xúc đó. Cậu không nắm chặt lắm, cậu chỉ cầm tay bà trong tay mình, như vẫn thường làm thế trước kia; cậu rất hy vọng bà nhận ra sự tiếp xúc đó.

Người đàn bà này đã có một tuổi thơ khủng khiếp, phải làm công việc nặng ở nông trại từ tuổi lên bảy, giữa những kẻ nát rượu thô bỉ. Tuổi niên thiếu của bà ngắn ngủi đến nỗi bà không còn giữ lại được một kỷ niệm thật sự nào. Sau khi chồng chết bà làm việc ở nhà máy để nuôi bốn đứa con; giữa mùa đông bà vẫn phải đi lấy nước trong sân để cả nhà tắm giặt. Hơn sáu mươi tuổi, từ khi nghỉ hưu, bà lại nhận nuôi một đứa trẻ - con trai của con trai bà. Ðứa bé đó đã không thiếu thốn gì - quần áo sạch, những bữa ăn ngon buổi trưa Chủ nhật, và tình yêu. Bà là người cho cậu tất cả những cái đó. Một sự xem xét đầy đủ nhân tính cần thiết phải quan tâm cả đến những hiện tượng đó. Những con người như thế đã từng tồn tại trong lịch sử. Những con người đã làm việc cả đời, và làm việc rất nặng, chỉ vì lòng tận tụy và tình yêu; những người xét theo nghĩa đen đã thực sự mang lại cuộc sống cho những người khác với lòng tận tụy và tình yêu; những người tuy thế chưa bao giờ có cảm giác là mình đang phải hy sinh; những người trên thực tế không biết đến một cách sống nào khác ngoài việc dành cuộc đời mình cho người khác vì lòng tận tụy và tình yêu. Nhìn đúng ra những người như thế chủ yếu là phụ nữ.

Michel ngồi lại trong phòng khoảng mười lăm phút, cầm tay bà; rồi một bác sĩ nội trú đến, bảo là cậu nên đi ra. Có thể người ta sắp phải làm điều gì đó; không phải là phẫu thuật, không, điều đó là không thể, mà có thể là cái gì đó, vẫn phải làm, nhìn chung vẫn chưa thể hết hy vọng được.

Trên đường trở về không ai nói năng gì; Marie-Thérèse lái một cách máy móc chiếc Renault 16. Lúc ăn họ cũng không nói nhiều lắm, đôi lúc nhắc lại một vài kỷ niệm. Marie-Thérèse nấu ăn, bà cần phải hoạt động nhiều; thỉnh thoảng bà dừng lại, khóc một chút rồi lại quay về với cái bếp.

Annabelle có ở đó khi xe cứu thương chuyển bánh, và cả khi chiếc Renault quay về. Khoảng một giờ sáng nàng tỉnh dậy mặc quần áo, bố mẹ nàng đã ngủ; nàng bước đến hàng rào nhà Michel. Ðèn trong nhà vẫn bật, có lẽ họ đang ở phòng khách; nhưng qua ri đô không thể nhìn thấy gì. Ðúng lúc đó trời đổ một trận mưa nhẹ. Khoảng mười phút trôi qua. Annabelle biết là nàng có thể bấm chuông cửa và gặp Michel; nhưng nàng cũng có thể không làm gì hết. Nàng không biết chính xác mình đang trải qua kinh nghiệm cụ thể của tự do; dù sao nó cũng vô cùng tàn khốc, và nàng sẽ không thể như cũ nữa sau mười phút đó. Nhiều năm sau này, Michel sẽ trình bày một lý thuyết ngắn gọn về tự do con người dựa trên sự tương đồng với tập tính của chất héli đặc biệt trơn. Những hiện tượng nguyên tử kín đáo, những trao đổi electron giữa các nơron và các sợi liên bào ở bên trong não về cơ bản nằm dưới sự chi phối của tính đột xuất lượng tử; tuy vậy số lượng to lớn nơron, bởi sự loại bỏ thống kê của những khác biệt cơ bản, khiến cho tập tính con người - về những nét chính cũng như trong các chi tiết của nó - cũng được quy định chặt chẽ giống như trong hệ thống tự nhiên. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, cực kỳ hiếm - các tín đồ Thiên chúa giáo nói về sự vận hành của ân sủng - một sóng liên kết mới nổi lên và lan truyền bên trong não bộ; một tập tính mới xuất hiện, hoặc tạm thời hoặc bền vững, được quy định bởi một hệ thống của các máy dao động hài hòa khác hẳn; khi đó người ta quan sát được cái nên được gọi là một hành động tự do.

Không hề có gì tương tự xảy ra vào đêm đó, và Annabelle trở về nhà của bố nàng. Nàng cảm thấy rõ ràng mình đã già đi. Gần hai mươi năm nữa trôi qua nàng mới gặp lại Michel.

Ðiện thoại đổ chuông vào khoảng ba giờ; cô y tá có vẻ rất tiếc thương. Quả thực họ đã làm tất cả những gì có thể; nhưng về bản chất không gì còn có thể nữa cả. Trái tim đã quá già nua, chỉ vậy thôi. Chỉ có thể đảm bảo để bà không đau, còn thì không thể nói gì hơn nữa cả. Nhưng cũng phải nói như thế là đã hết.

Michel đi về phòng mình, cậu bước từng bước thật ngắn, khoảng hai mươi xăng-ti-mét mỗi bước. Brigitte muốn đứng dậy nhưng Marie-Thérèse ngăn lại. Trôi qua khoảng hai phút, rồi người ta nghe thấy, từ phòng cậu, một tiếng động như là tiếng mèo kêu hay tiếng hú. Ðến lúc này, Brigitte dấn bước lên. Michel đang nằm cuộn mình dưới chân giường. Mắt cậu hơi lồi ra. Khuôn mặt cậu không phản chiếu gì giống với sự buồn rầu hay tình cảm nào đó của con người. Khuôn mặt cậu đầy một sự khủng bố của con vật, và hạ đẳng.



[1]Ba bộ phim nổi tiếng: Phantom of the Paradise, Orange mécanique và Les Valseuses.
[2]PNL: Programmation, Neurologie et Linguistique: Chương trình hóa, Thần kinh học và Ngôn ngữ học.
[3]Phim kích dâm.
[4]Allan Watts, Paul Tillich, Carlos Castaneda, Abraham Maslow và Carl Rogers: các nhà khoa học nổi tiếng của Mỹ.
[5]Mandala: trong Mật tông Tây Tạng, mandala là một biểu tượng thiêng liêng, được làm từ cát màu đính lên một mặt phẳng, thể hiện nhiều hình ảnh.
[6]Platon (423-348 tr. CN), triết gia Hy Lạp.
[7]Bhagavad-Gita: bài thơ cổ ấn Ðộ, viết bằng tiếng Phạn sankrit, nằm trong Mahabharata.
[8]Ðạo Ðức Kinh: tác phẩm duy nhất của Lão Tử.
[9]Kris Kristofferson: diễn viên điện ảnh nổi tiếng của Mỹ.
[10]Quo Vadis: bộ phim dựa trên tiểu thuyết của nhà văn Ba Lan H. Sienkiewicz
[11]Rock star: tiếng Anh, nghĩa là ngôi sao nhạc rock.
[12]Một của ban nhạc The Beatles, một của ban nhạc The Moody Blues
[13]Planning familial: phong trào lớn khởi đầu từ năm 1956 đấu tranh cho quyền tự do tình dục.
[14]TD (Travaux Dirigés): tại các tường đại học Pháp, sinh viên thường phải nghe giảng ở giảng đường chung (gọi là CM: Cours Magistral), sau đó được giảng kỹ hơn tại các TD với số lượng ít hơn.

SEO ngành nghề, cỏ nhân tạo, chuyên sửa máy rửa bát tại hà nội, tình yêu độ xe Mercedes, chuyên sửa chữa tivi tại nhà ở Hà Nội, đặt hàng tượng phật đồ thờ tâm linh làng nghề Sơn Đồng | Điện lạnh Bách Khoa Hà Nội