HAI SỐ PHẬN - Jeffrey Archer

Started by saos@ngmo, 15/08/06, 20:23

Previous topic - Next topic

saos@ngmo

HAI SỐ PHẬN
(nguyên tác: "Kane and Abel")
Tác giả: Jeffrey Archer
Dịch giả: Anh Thư


Lời tựa:
Hai người đã giúp cho cuốn sách này hình thành được, và cả hai người đều muốn giấu tên. Một người đang soạn cuốn hồi ký của đời mình, còn một người đang là nhân vật quan trọng ở Hoa Kỳ.

Nhận xét:
"Với cuốn KANE AND ABEL này, Jeffrey Archer đứng vào hàng mười nhà văn đầu bảng của thế giới hiện nay" The Lost Angeles Times

"Tôi thách bất cứ ai không thích cuốn sách này, vì nó là một trong những cuốn tiểu thuyết hay nhất tôi được đọc từ trước đến nay." Otto Preminger

"Một cuốn tiểu thuyết có sức mạnh phi thường" The Evening News

"Jeffrey Archer là một thiên tài về kể chuyện" Susan Howatch

saos@ngmo

CHƯƠNG 1


Ngày 18 tháng 4, 1906
Slonim, Ba Lan
Chỉ sau khi đã chết rồi cô ta mới không kêu hét nữa. Và cũng chính vào lúc đó đứa bé mới bắt đầu gào khóc.
Chú nhỏ đang đi săn thỏ trong rừng gần đó nghe thấy lạ nhưng không phân biệt được đó là tiếng hét cuối cùng của người đàn bà hay tiếng khóc đầu tiên của đứa bé. Đột nhiên chú quay người lại, cảm thấy có chuyện gì nguy hiểm, đôi mắt chú dò tìm xem có con thú nào bị đau. Chú chưa bao giờ nghe một con thú nào kêu lên như vậy. Chú cẩn thận đi từng bước đến gần nơi phát ra tiếng kêu. Lúc này tiếng kêu đã thành rên rỉ nhưng vẫn không giống với tiếng của bất cứ con thú nào chú được biết. Chú chỉ mong con thú này nhỏ để chú đủ sức giết được và để có cái gì mới cho món thịt thỏ bữa tối.
Chú thợ săn nhỏ rón rén phía bờ sông, nơi có tiếng kêu lạ vẳng đến. Chú nấp sau từng gốc cây để có chỗ dựa nếu xảy ra chuyện gì. Chú nhớ lời bố dặn là chớ bao giờ đứng ra ngoài chỗ trống. Ra dến bìa rừng, chú đã có thể nhìn rő cả một khoảng thung lũng kéo dài xuống đến sông, và lúc này chú mới nhận ra tiếng kêu quái lạ ấy không phải phát ra từ một con thú bình thường. Chú bò dần về phía có tiếng rên. Đến đây, chú đã hoàn toàn ra chỗ trống. Bỗng chú trông thấy người đàn bà nằm đó, áo váy vén lên ngang ngực còn hai chân thì giang rộng. Chú chưa hề thấy người đàn bà nào như thế bao giờ. Chú chạy vội đến bên cạnh, nhìn xuống bụng người đàn bà và chú hoảng sợ. Giữa hai chân người đàn bà có một vật nhỏ đỏ hỏn và ướt đẫm, dính vào người bằng một cái gì đó như sợi dây thừng. Chú bé thợ săn bỏ mấy con thỏ mới lột da xuống rồi quỳ bên cạnh vật nhỏ bé ấy.
Chú ngỡ ngàng nhìn một lúc rồi lại quay ra nhìn người đàn bà. Chú chưa biết mình phải làm thế nào. Thân thể người đàn bà đã tái xanh vì rét lạnh. Cô ta chỉ ngoài hai mươi nhưng khuôn mặt đã già cỗi khiến chú bé tưởng cô đã đến tuổi trung niên. Chú biết là cô ta đã chết rồi. Chú bỗng nhấc cái cơ thể nhỏ bé lên. Chú cũng không biết tại sao mình làm như vậy. Có lẽ vì chú thấy đứa bé đưa mấy ngón tay nhỏ xíu lên cào vào bộ mặt nhăn nhúm của nó nên chú sợ chăng. Nhấc lên rồi chú mới biết là giữa người mẹ với đứa con vẫn còn dính vào nhau bằng một sợi dây nhầy nhụa.
Trước đó ít ngày chú đã được xem một con cừu đẻ. Bây giờ chú cố nhớ lại. Chú biết người chăn cừu đã làm như thế nào, nhưng chú không biết là với một đứa bé thì có thể làm như vậy được không? Đứa bé đã thôi không rên rỉ nữa. Chú cảm thấy mình phải gấp rút quyết định. Chú rút con dao ra, con dao chú vừa dùng để lột da thỏ, lau vào tay áo rồi, ngập ngừng một chút, chú cắt đứt sợi dây ở chỗ gần bụng đứa bé. Máu tuôn ra ở hai đầu dây. Chú thử nhớ lại xem người chăn cừu đã làm như thế nào. Ông ta thắt một cái nút để máu khỏi chảy. Ŕ, đúng thế rồi. Chú bứt một cọng cỏ dài ở dưới đất và thắt vội vào đầu dây rồi bế đứa bé lên. Chú từ từ đứng dậy và bỏ lại đó ba con thỏ với người đàn bà đã chết. Trước lúc đi, chú khép hai chân lại cho người mẹ và kéo chiếc váy xuống đến đầu gối. Chú chỉ biết làm như vậy được thôi.
- Ôi, lạy Chúa! - Mỗi khi làm điều gì hoặc rất tốt hoặc rất xấu, chú vẫn thường thốt lên như vậy. Trong trường hợp này, chú chưa thể biết là xấu tốt như thế nào.
Chú bé thợ săn cứ thế chạy vội về nhà. Chú biết là mẹ chú chỉ chờ chú mang thỏ về là sửa soạn bữa ăn tối. Bà mẹ sẽ hỏi hôm nay chú săn được mấy con. Nhà có những tám miệng ăn, phải có ít nhất là ba con thỏ mới đủ. Đôi khi chú kiếm một con vịt hoặc con ngỗng, có lúc được cả một con chim trĩ bay lạc từ trong trại của Nam tước ra đây. Bố chú bé làm ở trang trại ấy. Nhưng hôm nay chú không dám rời tay khỏi đứa bé chú đang bế , chú lấy chân đá vào cửa để mẹ nghe thấy và ra mở. Chú lặng lẽ giơ đứa bé lên cho mẹ xem. Người mẹ không ngay đứa bé mà còn đưa tay lên ngực và nhìn nó một lát.
- Ôi, lạy Chúa! - Người mẹ nói và làm dấu thánh giá.
Chú ngước lên nhìn mẹ xem bà vui hay buồn. Nhưng đôi mắt người mẹ cúi xuống nhìn một cách rất hiền dịu chú chưa từng thấy. Chú biết ngay rằng điều mình làm là tốt.
- Em bé, hả mẹ?
- Con trai, - mẹ chú gật đầu khẽ nói. – Con tìm thấy ở đâu thế?
- Ở gần bở sông, mẹ ạ. – chú đáp.
- Còn mẹ đứa bé đâu?
- Chết rồi.
Người mẹ làm dấu thánh giá.
- Con mau chạy đi nói với bố. Bố sẽ tìm bà Urszula Wojnak trên trại. Rồi con phải dẫn cả hai người đến chỗ có người mẹ của đứa bé này. Sau đó mọi người về đây ngay nhé.
Chú thợ săn nhoe trao đứa bé cho mẹ. Chú mừng thầm trong bụng là mình đã không bỏ mặc đứa bé. Trao được cho mẹ rồi, chú lau hai tay vào quần và chạy đi tìm bố.
Người mẹ lấy vai đẩy cửa vào trong và gọi đứa con gái lớn ra đặt nồi nước lên bếp lò. Rồi bà ngồi xuống một chiếc ghế gỗ, cởi khuy áo và ấn đầu vú vào cái miệng nhăn nhúm của đứa bé. Thế là, Sophia, đứa con gái mới đưựoc sáu tháng, tối nay sẽ phải nhịn không còn sữa ăn nữa. Người mẹ lấy làm lo buồn.
- Nhưng sao lại thế nhỉ? - Người mẹ bỗng thốt lên và kéo chiếc khăn choàng lên cánh tay mình cùng với đứa bé. – Ôi, chú bé tội nghiệp này, để đến sáng mai thì chú cũng chết mất thôi.
Lúc bà đỡ già Urszula Wojnak tắm rửa và thắt lại rốn chon đứa bé thì người mẹ không nhắc lại những ý nghĩ vừa rồi nữa. Còn ông chồng chỉ đứng lặng yên mà nhìn.
- Có khách vào nhà tức là có Chúa vào nhà. - người mẹ chợt nhắc đến một câu tục ngữ Ba Lan.
Ông chồng nhổ tọet một cái.
- Đồ chết dịch ở đâu. Nhà này có thiếu gì trẻ con nữa chứ!
Người mẹ làm như không nghe thấy ông ta nói gì, chỉ đưa tay vuốt mấy sợi tóc đen trên đầu đứa bé.
- Ta đặt tên nó là gì nhỉ? - Người đàn bà nói và ngước mắt nhìn chồng.
- Ai mà biết được? Cứ để cho nó chết mà không có tên tuổi gì hết là xong. – Ông nhún vai.

saos@ngmo

CHƯƠNG 2


Ngày 18 tháng 4, 1906
Boston, Massachusetts
Bác sĩ nắm lấy cổ chân đứa bé mới đẻ nhấc cao lên và phát cho nó một cái vào đít. Đứa bé bật khóc.
Ở Boston, bang Massachusetts, có một bệnh viện chuyên phục vụ cho những ai mắc các chứng bệnh của người giầu có, và vào một số trường hợp đặc biệt nào đó bệnh viện cũng kiêm cả việc đỡ đẻ cho những trẻ sơ sinh giàu có được ra đời. Ở bệnh viện đa khoa Massachusetts này, các bà mẹ không phải kêu hét và cũng không phải mặc quần áo bình thường như khi sinh đẻ. Lệ là như thế rồi.
Một người đàn ông trẻ tuổi đi đi lại lại bên ngoài phòng đẻ. Bên trong có hai bác sĩ khoa nhi cùng với một bác sĩ riêng của gia đình làm nhiệm vụ. Người cha này không dám để xảy ra chuyện gì cho đứa con đầu lòng của mình. Hai bác sĩ khoa nhi sẽ được trả một món tiền lớn với mỗi một việc là đứng đó để chứng kiên chuyện sinh đẻ thôi. Một trong hai bác sĩ ấy đã mặc sẵn bộ lễ phục bên dưới chiếc áo choàng trắng của bệnh viện, để hễ xong ở đây ra là ông đi dự tiệc ở đâu đó. Ông ta không thể nào vắng mặt trong ca sinh đẻ đặc biệt này được. Trước đó, cả ba bác sĩ đã rút thăm với nhau xem ai trong số họ sẽ trực tiếp đỡ đẻ.
Cuối cùng, người rút trúng là bác sĩ đa khoa Mackenzie. Người cha vừa đi lại ngoài hành lang vừa nghĩ xem sẽ đặt tên gì cho hay và gặp nhiều may mắn. Thực ra, anh cũng không lo đến chuyện ấy lắm. Sáng hôm đó, Richard đã chở Anne, vợ anh, đến bệnh viện bằng cỗ xe ngựa hai bánh. Vợ anh đã tính đến hôm đó là ngày thứ hai mươi tám của tháng thứ chín rồi. Cô ta bắt đầu đau dẻ ngay từ sau lúc ăn sáng, nhưng người ta bảo anh là nếu có đẻ cũng phải đến chiều sau giờ ngân hàng anh đóng cửa. Anh là một người rất có kỷ luật, không muốn việc vợ mình đẻ ảnh hưởng gì dến giờ giấc của người khác. Anh vẫn cứ đi đi lại lại trong hành lang như vậy. Mấy cô y tá và bác sĩ trẻ tất tả ra vào đều biết anh đang có mặt ở đây. Đi qua gần chỗ anh, họ thì thầm với nhau nhưng ra xa họ lại nói bình thường. Anh không để ý chuyện đó, vì đã quen với mọi người vẫn đối xử với mình như vậy. Phần lớn những người ở đây chưa gặp anh bao giờ, nhưng mọi người đều biết anh là ai.
Nếu đứa bé sinh ra hôm nay là con trai, có lẽ anh sẽ xây tặng cho bệnh viện một khu mới mà bệnh viện đang rất cần. Anh đã tặng họ một thư viện và một trường tiểu học rồi. Anh chàng sắp làm bố ấy giở tờ báo buổi chiều ra xem nhưng chẳng đọc chữ nào ra chữ nào. Anh bứt rứt lo lắng. Chắc là họ (anh gọi mọi người là "họ" hết) chẳng bao giờ có thể hiểu được là anh dứt khoát phải có con trai, để một ngày kia nó sẽ thay anh làm thống đốc và chủ tịch ngân hàng. Anh lật mấy trang báo buổi chiều. Đội Tất Đỏ Boston đấu với đội Cao Nguyên New York. Xong trận này chắc họ sẽ khao to. Anh chợt nhớ đến mấy dòng chữ to ở trang đầu, bčn lật ra xem. Báo đưa tin một vụ động đất tệ hại nhất trong lịch sử nước Mỹ. San Francisco bị tàn phá ghê gớm. Ít nhất có bốn trăm người chết. Ôi, bao nhiêu là tang tóc. Anh bỗng thấy bực dọc trong người. Chuyện động đất làm mất cả ý nghĩa việc đứa con anh sắp ra đời. Đáng lẽ người ta phải nhớ rằng trong những ngày này còn có sự kiện gì khác nữa chứ.
Anh chưa hề có lúc nào nghĩ rằng đứa bé có thể là con gái. Anh lật tờ báo sang trang tài chính và xem lại mục thị trường chứng khoán: chỉ số đã tụt xuống mấy điểm. Thế là vụ động đất chết tiệt kia đã làm giảm mất giá trị cổ phần của anh trong ngân hàng tới một trăm ngàn đôla. Tuy nhiên, với tài sản riêng của anh hiện vẫn còn trên 16 triệu đôla thì đến mấy vụ động đất như ở California cũng chưa làm gì anh được. Anh vẫn còn có thể hưởng tiền lãi suất, còn cả cái vốn 16 triệu kia vẫn sẽ nguyên đó để con trai anh sau này thừa kế. Anh tiếp tục đi lại trong hành lang và làm như vẫn đọc tờ báo buổi chiều.
Ông bác sĩ khoa nhi đã mặc sẵn lệ phục khi nãy bước ra khỏi phòng đẻ để báo tin. Ông ta cảm thấy mình phải làm cái gì đó cho xứng với món tiền to sắp được lĩnh, và ông nghĩ mình cũng đang là người ăn mặc chỉnh tề nhất thông báo tin này. Hai người nhìn nhau một lúc. Ông bác sĩ thấy hơi xúc động nhưng không muốn biểu lộ gì trước mặt người mới làm bố.
- Xin chúc mừng ông, ông đã có con trai, một chú bé nhỏ tí và rất xinh đẹp.
Người cha nghĩ bụng ông bác sĩ nói thế là dở quá, vì đứa nào mới sinh ra mà chả nhỏ tí? Nhưng cái tin con trai ông ta vừa nói đến giờ mới ngấm vào người anh. Suýt nữa anh bật lên nói tạ ơn Chúa. Ông bác sĩ hỏi thêm một câu nữa để phá tan cái im lặng lúc đó.
- Ông đã định đặt tên cháu là gì chưa?
Người cha trả lời ngay, không ngập ngừng:
- Cháu tên là William Lowell Kane.

kien lua thong minh

CHƯƠNG 3

Sau khi cả nhà đã hết nhộn nhịp với việc đứa bé mới về nhà này và mọi người đã đi ngủ từ lâu rồi, người mẹ vẫn còn thức với đứa bé trong tay. Helena Koskiewicz là một người rất tin ở cuộc sống. Bằng chứng là chị đã đẻ và nuôi được sáu đứa con. Trước đó chị đã để mất đi ba đứa từ lúc chúng còn nhỏ, nhưng chị cũng chưa để cho đứa nào chết một cách dễ dàng được.
Chị chỉ mới ba mươi lăm tuổi nhưng biết là anh chồng Jasio của mình, trước đây vốn là một người rất khỏe mạnh, sẽ chẳng cho chị thêm đứa con nào nữa. Bây giờ Chúa đã đem đứa bé này đến cho chị, chắc chắn là nó phải sống. Helena cũng là con người có đức tin đơn giản, và điều đó cũng phải thôi, vì số phận chả bao giờ cho chị có được cuộc sống nào khác hơn cuộc sống đơn giản hiện nay. Người chị xanh xao gầy mòn, không phải do chị muốn như vậy mà do chị được ăn quá ít, lại làm lụng vất vả và không có tiền để dành. Chị chẳng bao giờ phàn nàn điều gì, nhưng các nếp nhăn trên mặt chị khiến chị chẳng khác gì một người đã có cháu gọi bằng bà chứ không phải người mẹ ở thế giới ngày nay. Đời chị chưa một lần nào được mặc quần áo mới.
Helena bóp thật mạnh vào hai bên vú đến hằn đỏ cả lên. Mấy giọt sữa tuôn ra. Ở cái tuổi ba mươi lăm, tức là đã nửa đời người, ai nấy đều đã ít nhiều có kinh nghiệm thành thạo, và Helena chính đang ở thời kỳ như vậy.
- Chú nhỏ của mẹ nào, - chị khẽ nói với đứa bé và ấn đầu vú vào miệng nó đang chum cong lên chờ sữa. Đôi mắt xanh của nó hé mở. Vài giọt mồ hôi lấm tấm trên mũi. Cuối cùng người mẹ cũng lăn ra ngủ từ lúc nào.
Jasio Koskiewicz, anh chồng lờ đờ chậm chạp có bộ ria mép rất rậm và cũng là thứ quý nhất để anh ta có thể tự khẳng định được mình trong cuộc sống đi làm thuê khổ sở này, chợt tỉnh dậy vào lúc năm giờ, thấy vợ với đứa bé kia còn đang ngủ trên ghế chao. Đêm đó anh ta cũng không chú ý đến việc không có mặt vợ trên giường. Anh ta đứng chăm chăm nhìn vào đứa bé không cha không mẹ. Anh cảm ơn Chúa vì ít ra đứa bé không còn kêu hét nữa. Hay là nó chết rồi? Jasio nghĩ bụng thôi mình chả nên dính đến cái của nợ này nữa. Cứ việc đi làm như thường, để mặc cho vợ anh lo chuyện sống chết của nó, còn anh thì tính làm sao có mặt ở trang trại của Nam tước từ sáng sớm là được. Anh tu mấy hớp sữa dê vào bụng rồi quệt miệng vào tay áo. Sau đó một tay cầm khoang bánh và một tay vớ lấy chiếc bẫy anh ta lặng lẽ chuồn ra ngoài, bụng chỉ sợ người đàn bà thức dậy và bảo anh làm gì đó. Anh ta rảo bước về phía rừng, không muốn nghĩ gì đến đứa bé nữa và chỉ mong đây là lần cuối cùng anh ta trông thấy nó.
Florentyna, cô con gái lớn, là người thứ hai bước vào bếp. Chiếc đồng hồ cổ không biết đã được bao nhiêu năm vừa điểm sáu giờ sang. Nó chẳng qua chỉ để nhắc cho những ai trong nhà muốn biết giờ phải dậy hay phải đi ngủ mà thôi. Công việc hàng ngày của Florentyna chỉ có mỗi chuyện là chuẩn bị bữa ăn sang, cụ thể là chia bọc sữa dê và miếng bánh mì đen ra cho đủ tám người trong gia đình cùng ăn. Việc chỉ có thế thôi nhưng nó đòi hỏi cô phải có cái khôn ngoan như của Solomon (Vua Israel thế kỷ 20 trCN nổi tiếng khôn ngoan và công bằng trong các vụ xét xử) mới làm nổi để không một ai có thể phàn nàn gì được là phần của người khác nhiều hơn phần mình.
Florentyna là một cô gái mảnh khảnh, xinh đẹp, ai mới trông thấy cũng quý mến ngay được. Chỉ tội một điều là đã hai năm nay cô bé vẫn chỉ có một chiếc áo để mặc. Nhưng cứ trông thấy cô bé là người ta hiểu ngay tại sao trước đây anh chàng Jasio đã say mê mẹ cô đến thế. Florentyna cớ mớ tóc vàng óng mượt và đôi mắt màu hạt dẻ long lanh, bất chấp tuổi nhỏ và ăn uống thiếu thốn.
Cô rón rén bước đến bên ghế chao nhìn mẹ và đứa bé. Florentyna đã thích đứa bé ngay từ lúc đầu. Đã tám tuổi rồi nhưng cô bé mới chỉ thấy búp bê có một lần khi gia đình được mời đến dự tiệc Giáng sinh ở lâu đài của Nam tước. Cô bé chỉ trông thấy thôi chứ chưa được sờ vào búp bê. Bao giờ cô rất muốn được bế đứa bé này trong tay mình. Cô cúi xuống gỡ đứa bé ra khỏi tay mẹ, nhìn vào đôi mắt xanh nhỏ tí của nó và khẽ ru trong miệng. Đang ở chỗ ấm của vú mẹ sang đôi tay lạnh của cô, đứa bé tỏ ra khó chịu. Nó bỗng khóc vang lên làm người mẹ bừng tỉnh dậy. Chị lấy làm ân hận mình đã ngủ lúc nào không biết.
- Ôi, lạy Chúa, nó hãy còn sống, - chị nói với Florentyna.
- Con sửa soạn ăn sáng cho các em, để mẹ cho nó bú nữa.
Florentyna miễn cưỡng đưa trả đứa bé lại cho mẹ và nhìn mẹ lại cố vắt sữa ra nữa. Cô bé đứng đó mê mẩn cả người.
- Mau lên con, Florcia, - mẹ cô giục - Phải cho cả nhà ăn nữa chứ.
Florentyna đành bỏ ra ngoài. Các em cô mới ngủ dậy đã từ trên gác kho bước xuống chào mẹ và nhìn đứa bé bằng những con mắt kinh ngạc. Chúng chỉ biết là đứa bé này không phải từ trong bụng mẹ mà ra. Florentyna mải mê với đứa bé nên sáng nay bỏ cả ăn sáng. Bọn em cô chia luôn phần của cô ra ăn còn để lại phần của mẹ trên bàn. Cả nhà bận rộn với công việc của mình nên không một ai để ý rằng từ lúc có đứa bé về nhà đến giờ, người mẹ chưa hề ăn tí gì vào bụng.
Helena Koskiewicz hài lòng thấy các con mình đã sớm học được cách tự lo lấy thân mình. Chúng có thể cho gia súc ăn, vắt sữa dê sữa bò và chăm sóc rau cỏ ngoài vườn mà không cần phải chờ chị sai bảo hay giúp đỡ. Buổi tối, lúc Jasio về nhà, chị mới nhớ ra là mình chưa sửa soạn bữa tối cho chồng. Nhưng ngay sau đó chị biết là Florentyna đã bắt đầu làm món thịt thỏ mà chú em thợ săn Franck đem về cho chị. Florentyna lấy làm tự hào được phụ trách bữa ăn tối, một công việc mà chỉ khi nào mẹ ốm đau mới giao cho cô, và Helena Koskiewicz thì họa hoằn lắm mới để cho con gái phải làm như vậy. Chú bé thợ săn mang về được bốn con thỏ, bố mang về được sáu cây nấm với ba củ khoai, tối nay cả nhà sẽ được ăn tiệc thật sự.
Ăn tối xong rồi, Jasio Koskiewicz ngồi xuống ghế bên lò sưởi và bây giờ mới được dịp nhìn kỹ đứa bé. Nâng đầu đứa bé lên bằng mấy ngón tay, anh ta quan sát khắp người thằng bé với con mắt của một người đi săn thú. Khuôn mặt nhăn nhúm của nó chỉ có mỗi đôi mắt xanh nhỏ tí và chưa biết nhìn là đẹp hơn cả. Anh ta nhìn tiếp xuống thân hình mỏng mảnh của nó và chợt chú ý ngay đến một cái gì đó. Anh ta bỗng nhăn mặt và gạt ngón tay cái vào ngực đứa bé.
- Em đã thấy cái này chưa, Helena? – anh ta nói và giơ sườn đứa bé ra, - Cái thằng khốn này hóa ra chỉ có một bên vú thôi!
Chị vợ cũng lấy làm lạ bčn tự mình gại ngón tay vào ngực nó xem sao. Chị tưởng làm như thế thì một bên vú nữa sẽ xuất hiện. Chồng chị nói đúng: đứa bé chỉ có một đầu vú nhỏ tí bên trái, còn cả nửa ngực bên phải thì phẳng lì và không có một dấu vết gì khác.
Đầu óc mê tín của người đàn bà bỗng nổi lên.
- Thế là Chúa đã cho em thằng bé này. - Chị nói. – Đây là dấu vết của Chúa để lại cho nó đây.
Người đàn ông tức mình đưa ngay đứa bé cho vợ.
- Em thật là điên, Helena ạ. Đứa bé này là do một người có máu xấu truyền sang cho mẹ nó. – Anh ta nhổ một cái vào lò sưởi. – Dù sao, anh cũng đánh cuộc là thằng bé này không sống được.
Thực ra, Jasio Koskiewicz cũng chẳng cần biết thằng bé sống hay chết. Ạnh ta vốn không phải một người nhẫn tâm, nhưng đứa bé này không phải là của anh, mà trong nhà thêm một miệng ăn nữa chỉ làm cho mọi chuyện rắc rối.
Giả thử có như vậy di nữa thì bản thân anh cũng phải là người đi cầu Chúa giúp. Rồi không nghĩ ngợi gì về đứa bé nữa, anh ta ngủ thiếp đi bên đống lửa lò sưởi.

Ngày tháng trôi qua, chính Jasio Koskiewicz cũng dần dần tin rằng đứa bé có thể sống được. Nếu hôm trước đánh cuộc thật thì anh ta đã thua rồi. Đứa con trai lớn nhất, tức là chú thợ săn, được các em giúp một tay, đã kiếm gỗ trong rừng của Nam tước về làm cho thằng bé một chiếc giường. Florentyna cắt những mẩu vải áo cũ của cô khâu lại làm áo cho nó. Những mẩu vải ấy khâu lại với nhau trông như áo của anh hề Harlequin mà bọn trẻ chưa được biết. Trong nhà, mỗi khi định đặt tên cho thằng bé thì chẳng ai đồng ý với nhau được. Riêng người bố không có ý kiến gì. Cuối cùng họ gọi nó là Wladek, và chủ nhật sau đó, tại nhà thờ trong trang trại của Nam tước, thằng bé được mang tên là Wladek Koskiewicz. Người mẹ thì cầu Chúa phù hộ cho nó, còn người bố thì mặc kệ, bảo nó muốn ra sao thì sao.
Tối hôm đó có một bữa tiệcn hỏ để chúc mừng gia đình. Trang trại của Nam tước cho một con ngỗng để thêm vào bữa tiệc. Mọi người ăn uống vui vẻ.
Từ hôm đó trở đi, Florentyna phải học cách chia bữa ăn sáng ra cho chín miệng ăn.
...
kien lua

kien lua thong minh

CHƯƠNG 4

Anne Kane đã ngủ yên được hết đêm. Sau bữa ăn sáng, chị lại sốt ruột đòi cô y tá bệnh viện đưa trả lại cậu bé William cho chị bế.
- Nào, bà Kane, cô y tá mặc đồng phục trắng nói, - bây giờ cũng phải cho em bé ăn sáng nữa chứ?
Cô y tá cho Anne ngồi dậy trên giường và hướng dẫn cách cho con bú. Anne chợt hiểu ra bộ ngực mình đã căng phồng. Chị biết là nếu mình tỏ ra lúng túng lúc này thì người ta sẽ bảo mình không biết làm mẹ. Chị chăm chăm nhìn vào đôi mắt xanh của William, thấy nó xanh hơn cả mắt bố. Chị cảm thấy địa vị của mình đã vững vàng hơn, và rất hài lòng. Ở cái tuổi hai mươi mốt, chị không còn thiếu một thứ gì. Chị thuộc họ Cabot, đi lấy một người bên gia đình Lowell, và bây giờ lại có đứa con đầu lòng mang truyền thống của hai gia đình được tóm tắt lại bằng mấy dòng trong tấm thiếp của người bạn cũ gửi đến cho chị như sau:
Đây là quê cũ Boston
Có đậu, có cá, ai không nhớ về
Lowell, Cabot đề huề
Hạnh phúc hai họ tràn trề Boston
Anne nói chuyện với William đến nửa giờ nhưng đứa bé chưa có phản ứng gì.
Lát sau nó ngủ một cách ngon lành. Anne không đụng gì đến hoa quả bánh kẹo đem đến chất đầy ở bên giường. Chị đã có ý định đến mùa hč này sẽ trở lại với tất cả những mốt áo mới và giành lại chỗ của chị trong những tạp chí về trang phục. Chẳng phải chính Hoàng tử Garonne đã ca tụng chị là người đẹp duy nhất ở Boston đó sao? Mớ tóc vàng mượt, những nét thanh tú và hình dáng thon thả của chị được người ta quý chuộng kể cả ở trong thành phố chị chưa đến bao giờ. Chị lại ngắm mình trong gương: trên mặt chưa thấy có một nét gì khác thường, ít ai có thể tin được rằng chị vừa làm mẹ của một đứa trẻ rất bụ bẫm. Cảm ơn Chúa, đúng là nó bụ bẫm thật đấy, Anne nghĩ bụng.
Chị ăn một bữa trưa nhẹ ngon miệng rồi chuẩn bị để tiếp những người khách sẽ đến thăm vào buổi chiều do cô thư ký riêng đã sắp xếp. Những ai được phép đến thăm trong mấy ngày đầu này đều phải là người trong gia đình hoặc là thuộc những gia đình quyền quý nhất. Còn những người khác sẽ chỉ được trả lời là chị chưa sẵn sàng tiếp. Nhưng Boston lại là một trong những thành phố ở Mỹ mà ai nấy đều biết rő thân phận của mình cả rồi, nên cũng không loại trừ trường hợp sẽ có người không mời mà đến.
Căn phòng chị năm một mình ở đây vẫn còn đủ chỗ để kê thêm được đến năm chiếc giường nữa giá như người ta không đem hoa đến bầy cắm la liệt khắp nơi. Ai chợt đi qua nhìn vào nếu không thấy người đàn bà ngồi trên giường sẽ có thể tưởng như đây là một phòng triển lãm nhỏ về nghệ thuật trồng vườn. Anne bật đčn điện lên. Với chị, cái đó còn mới lạ. Richard và chị vẫn còn chờ cho bên họ nhà Cabot cùng lắp thì mới dùng. Với lại, ở Boston, ánh sáng bằng cảm ứng điện từ chưa được phổ biến lắm.
Người đầu tiên đến thăm Anne là bà Thomas Lowell Kane, mẹ chồng chị. Từ khi ông chồng chết năm ngoái, bà là người chủ đứng đầu cả gia đình. Bà đã có cái tuổi cuối trung niên nhưng đi đứng còn rất điệu bộ và thanh thoát. Bà mặc chiếc áo thả xuống rất dài khiến không ai có thể trông thấy gót chân bà được. Người duy nhất trông thấy gót chân của bà thì nay đã chết rồi. Bà luôn luôn có thân hình mỏng mảnh. Theo bà thì tất cả những phụ nữ béo mập đều do ăn uống tồi, thậm chí không biết ăn uống. HIện nay bà là người nhiều tuổi nhất của họ nhà Lowell còn sống, và cũng là nhiều tuổi nhất cả bên họ nhà Kane nữa. Cho nên người đầu tiên đến đây thăm không thể ai khác ngoài bà. Vả lại, chính bà là người đã thu xếp Anne với Richard gặp nhau, chứ ai vào đó nữa? Đối với bà Kane, tình yêu chả có nghĩa gì lắm.
Bà chỉ ưng có ba thứ trên đời là tiền của, địa vị và uy tín. Tất nhiên, tinh yêu cũng là tốt, nhưng bà cho rằng nó không phải là một thứ hàng hóa lâu bền. Chỉ có ba thứ trên mới lâu bền được. Bà hôn vào trán cô con dâu với một vẻ tán thưởng. Anne bấm vào một cái nút trên tường và có tiếng vč vč nhỏ vang lên. Tiếng đó khiến bà Kane ngạc nhiên. Bà không tin là điện lại có thể dùng để gọi như thế được. Cô y tá xuất hiện cùng với đứa bé thừa tự. Bà Kane nhìn nó một lúc, tỏ vẻ hài lòng rồi bảo bế đi.
- Khá lắm, Anne, - bà nói, làm như cô con dâu của bà vừa được cái giải đi ngựa. Mọi người đều rất tự hào về con.
Mấy phút sau, bà Edward Cabot là mẹ đẻ của Anne cũng đến. Cũng như bà Kane, bà góa chồng sớm. Bề ngoài hai bà không khác nhau mấy, nhìn từ xa người ta có thể lẫn hai bà với nhau. Tuy nhiên bà tỏ ra quan tâm nhiều hơn bà Kane đến đứa cháu ngoại của mình và cả với con gái nữa. Lát sau họ mới để ý đến những bó hoa gửi đến mừng.
- Nhà Jackson thật là quý hóa quá, - bà Cabot lẩm bẩm nói.
Bà Kane thì chỉ nhìn qua loa mấy bông hoa rồi để ý đến những tấm thiếp có tên người gửi. Bà khẽ lẩm nhẩm những tên đó để nhớ: nhà Adam, nhà Lawrence, nhà Lodge, nhà Higgisnon. Cả hai bà không ai nói năng gì về những tên mà mình không biết. Họ đều đã quá cái tuổi muốn biết về bất cứ gì mới hay bất cứ ai mới. Hai bà cùng ra về, cùng rất hài lòng: vậy là một đứa con thừa tự đã ra đời, và mới trông cũng đã thấy thỏa mãn được rồi. Cả hai bà đều cho là nghĩa vụ cuối cùng đối với gia đình như thế là đã được thực hiện rất mĩ mãn, và từ nay trở đi mọi người có thể yên tâm vui vẻ.
Nhưng cả hai bà đều nhầm.

Trong cả buổi chiều, các bạn thân của Anne và Richard kéo đến với đủ các quà mừng bằng vàng bằng bạc và những lời chúc tụng nhiệt tình.
Lúc chồng chị đến sau giờ làm việc thì Anne đã có phần rất mệt mỏi. Trưa nay, lần đầu tiên trong đời, Richard đã uống sam banh trong bữa ăn. Ông già Amos Kerbes với cả Câu lạc bộ Somerset đều ép nên Richard không sau từ chối được. Vợ anh thấy như anh đỡ cứng nhắc hơn mọi khi. Bệ vệ trong bộ áo đen dài với chiếc quần kẻ sọc, người anh cao hơn với mái tóc đen rẽ ngôi giữa bóng mượt dưới ánh đčn điện. Ít người đoán đúng được tuổi anh chỉ mới ba mươi ba. Đối với anh, còn trẻ tuổi hay không chả bao giờ là chuyện quan trọng, mà cái chất của con người mới là đáng kể. Một lần nữa, William Lowell Kane lại bị bê ra để xem xét kỹ lưỡng, chẳng khác nào như người bố điểm lại việc thu chi cuối ngày ở ngân hàng vậy. Mọi thứ có vẻ đâu ra đấy. Đứa bé có đủ hai chân, hai tay, mười ngón tay, mười ngón chân. Richard không thấy có gì ở đứa bé để sau này khiến anh phải phiền lòng. Thế là William lại được bế đi.
- Đêm qua anh đã điện cho ông hiệu trưởng trường St Paul. William sẽ được nhận vào đó tháng chín năm 1918.
Anne không nói gì. Rő ràng là Richard đã bắt đầu tính đến sự nghiệp của William rồi.
- Thế rồi, em yêu quý, hôm qua em đã bình thường được rồi chứ? – anh hỏi. Suốt ba mươi ba tuổi đời, anh chưa hề nằm ở bệnh viện một ngày nào.
- Vâng... không... em nghĩ thế, - vợ anh ngần ngừ trả lời, cố nén không tỏ ra muốn khóc vì chị biết chồng sẽ không bằng lòng như vậy. Nhưng câu trả lời như thế thì Richard cũng không hiểu như thế nào được. Anh hôn má vợ rồi bước ra xe ngựa trở về ngôi nhà của gia đình ở Quảng trường Louisburg. Bây giờ, với nhân viên phục vụ và người làm trong nhà, với đứa bé và cô bảo mẫu, thế là trong nhà có tất cả chín miệng ăn. Richard không phải nghĩ ngợi gì về chuyện đó.
William Lowell Kane được ban phước và được mang tên bố đã đặt cho tại nhà thờ lớn St Paul của Tân giáo, với sự có mặt của tất cả những ai ở Boston có liên quan và một số ít không liên quan. Giám mục William Lawrence làm lễ. J.P.Morgan và Alan Lloyd, hai vị chủ ngân hàng có thế lực, cùng với Milly Preston, người bạn thân nhất của Anne, được chọn làm cha mẹ đỡ đầu. Đức giám mục vẩy nước thánh lên đầu William. Thằng bé không có phản ứng gì. Hình như nó đã có cái máu của lớp người coi khinh thiên hạ rồi. Anne cảm ơn Chúa, coi như Người đã ghi vào sổ những thành tích của đình Kane từ đời này sang đời khác, cảm ơn Chúa đã cho anh đứa con trai để anh trao lại gia tài cho nó. Tuy nhiên, anh cũng có lẽ có thêm đứa con trai nữa thì chắc chắn hơn. Đang quỳ làm lễ, anh liếc nhìn sang vợ, và trong bụng lấy làm hài lòng.
...
kien lua

saos@ngmo

Bản PDF, dành cho đọc trên máy:
http://www.box.net/public/d3hmjynh9v
Password để giải nén file zip là
saosangmo

SEO ngành nghề, cỏ nhân tạo, chuyên sửa máy rửa bát tại hà nội, chuyên sửa chữa tivi tại nhà ở Hà Nội, đặt hàng tượng phật đồ thờ tâm linh làng nghề Sơn Đồng | Điện lạnh Bách Khoa Hà Nội