Ram & ổ cứng

Started by votinh_d86, 20/02/08, 16:49

Previous topic - Next topic

votinh_d86

anh ơi   cho em hỏi chút ạ
RAM thì chia làm 2 laọi
SRAM và DRAM
laọi nào là đựo ưa chuộng và tốt ạ?
- Ổ cứng IDE và SCSI
laọi nào tốt a,?
và cách nhận biết về chúng ( SRAM& DRAM) (  IDE&SCSI)
vô tình  lãng mạng kiếp phong lưu
cô độc quạnh hiu một kíp  người

Sao_Online

#1
Tất nhiên là đang chuộng DDRAM rồi!

RAM (viết tắt từ Random Access Memory trong tiếng Anh) là một loại bộ nhớ chính của máy tính. RAM được gọi là bộ nhớ truy cập ngẫu nhiên vì nó có đặc tính: thời gian thực hiện thao tác đọc hoặc ghi đối với mỗi ô nhớ là như nhau, cho dù đang ở bất kỳ vị trí nào trong bộ nhớ. Mỗi ô nhớ của RAM đều có một địa chỉ. Thông thường, mỗi ô nhớ là một byte (8 bit); tuy nhiên hệ thống lại có thể đọc ra hay ghi vào nhiều byte (2, 4, 8 byte).

RAM khác biệt với các thiết bị bộ nhớ tuần tự (sequential memory device) chẳng hạn như các băng từ, đĩa; mà các loại thiết bị này bắt buộc máy tính phải di chuyển cơ học một cách tuần tự để truy cập dữ liệu.

Bởi vì các chip RAM có thể đọc hay ghi dữ liệu nên thuật ngữ RAM cũng được hiểu như là một bộ nhớ đọc-ghi, trái ngược với bộ nhớ chỉ đọc ROM (read-only memory).

RAM thông thường được sử dụng cho bộ nhớ chính (main memory) trong máy tính để lưu trữ các thông tin thay đổi, và các thông tin được sử dụng hiện hành. Cũng có những thiết bị sử dụng một vài loại RAM như là một thiết bị lưu trữ thứ cấp (secondary storage).
Thông tin lưu trên RAM chỉ là tạm thời, chúng sẽ mất đi khi mất nguồn điện cung cấp.

Đặc trưng

Bộ nhớ RAM có 4 đặc trưng sau:

* Dung lượng bộ nhớ: Tổng số byte của bộ nhớ
* Tổ chức bộ nhớ: Số ô nhớ và số bit cho mỗi ô nhớ
* Thời gian thâm nhập: Thời gian từ lúc đưa ra địa chỉ của ô nhớ đến lúc đọc được nội dung của ô nhớ đó.
* Chu kỳ bộ nhớ: Thời gian giữa hai lần liên tiếp thâm nhập bộ nhớ.

Mục đích

Máy vi tính sử dụng RAM để lưu trữ mã chương trình và dữ liệu trong suốt quá trình thực thi. Đặc trưng tiêu biểu của RAM là có thể truy cập vào những vị trí khác nhau trong bộ nhớ và hoàn tất trong khoảng thời gian tương tự, ngược lại với một số kỹ thuật khác, đòi hỏi phải có một khoảng thời gian trì hoãn nhất định.

Phân loại RAM

Tùy theo công nghệ chế tạo, người ta phân biệt thành 2 loại:

* SRAM (Static RAM): RAM tĩnh
* DRAM (Dynamic RAM): RAM động

Ram tĩnh

RAM tĩnh được chế tạo theo công nghệ ECL (CMOS và BiCMOS). Mỗi bit nhớ gồm có các cổng logic với 6 transistor MOS. SRAM là bộ nhớ nhanh, việc đọc không làm hủy nội dung của ô nhớ và thời gian thâm nhập bằng chu kỳ của bộ nhớ.

Ram động

RAM động dùng kỹ thuật MOS. Mỗi bit nhớ gồm một transistor và một tụ điện. Việc ghi nhớ dữ liệu dựa vào việc duy trì điện tích nạp vào tụ điện và như vậy việc đọc một bit nhớ làm nội dung bit này bị hủy. Do vậy sau mỗi lần đọc một ô nhớ, bộ phận điều khiển bộ nhớ phải viết lại nội dung ô nhớ đó. Chu kỳ bộ nhớ cũng theo đó mà ít nhất là gấp đôi thời gian thâm nhập ô nhớ.

Việc lưu giữ thông tin trong bit nhớ chỉ là tạm thời vì tụ điện sẽ phóng hết điện tích đã nạp và như vậy phải làm tươi bộ nhớ sau khoảng thời gian 2μs. Việc làm tươi được thực hiện với tất cả các ô nhớ trong bộ nhớ. Công việc này được thực hiện tự động bởi một vi mạch bộ nhớ.

Bộ nhớ DRAM chậm nhưng rẻ tiền hơn SRAM.

Các loại DRAM

1. SDRAM (Viết tắt từ Synchronous Dynamic RAM) được gọi là DRAM đồng bộ. SDRAM gồm 3 phân loại: SDR, DDR, và DDR2.

* SDR SDRAM (Single Data Rate SDRAM), thường được giới chuyên môn gọi tắt là "SDR". Có 168 chân. Được dùng trong các máy vi tính cũ, bus speed chạy cùng vận tốc với clock speed của memory chip, nay đã lỗi thời.

* DDR SDRAM (Double Data Rate SDRAM), thường được giới chuyên môn gọi tắt là "DDR". Có 184 chân. DDR SDRAM là cải tiến của bộ nhớ SDR với tốc độ truyền tải gấp đôi SDR nhờ vào việc truyền tải hai lần trong một chu kỳ bộ nhớ. Đã được thay thế bởi DDR2.

* DDR2 SDRAM (Double Data Rate 2 SDRAM), Thường được giới chuyên môn gọi tắt là "DDR2". Là thế hệ thứ hai của DDR với 240 chân, lợi thế lớn nhất của nó so với DDR là có bus speed cao gấp đôi clock speed.

2. RDRAM (Viết tắt từ Rambus Dynamic RAM), thường được giới chuyên môn gọi tắt là "Rambus". Đây là một loại DRAM được thiết kế kỹ thuật hoàn toàn mới so với kỹ thuật SDRAM. RDRAM hoạt động đồng bộ theo một hệ thống lặp và truyền dữ liệu theo một hướng. Một kênh bộ nhớ RDRAM có thể hỗ trợ đến 32 chip DRAM. Mỗi chip được ghép nối tuần tự trên một module gọi là RIMM (Rambus Inline Memory Module) nhưng việc truyền dữ liệu được thực hiện giữa các mạch điều khiển và từng chip riêng biệt chứ không truyền giữa các chip với nhau. Bus bộ nhớ RDRAM là đường dẫn liên tục đi qua các chip và module trên bus, mỗi module có các chân vào và ra trên các đầu đối diện. Do đó, nếu các khe cắm không chứa RIMM sẽ phải gắn một module liên tục để đảm bảo đường truyền được nối liền. Tốc độ Rambus đạt từ 400-800MHz.

Rambus tuy không nhanh hơn SDRAM là bao nhưng lại đắt hơn rất nhiều nên có rất ít người dùng. RDRAM phải cắm thành cặp và ở những khe trống phải cắm những thanh RAM giả (còn gọi là C-RIMM) cho đủ.

Các thông số của RAM

Được phân loại theo chuẩn của JEDEC.

Dung lượng

Dung lượng RAM được tính bằng MB và GB, thông thường RAM được thiết kế với các dung lượng 8, 16, 32, 64, 128, 256, 512 MB, 1 GB, 2 GB... Dung lượng của RAM càng lớn càng tốt cho hệ thống, tuy nhiên không phải tất cả các hệ thống phần cứng và hệ điều hành đều hỗ trợ các loại RAM có dung lượng lớn, một số hệ thống phần cứng của máy tính cá nhân chỉ hỗ trợ đến tối đa 4 GB và một số hệ điều hành (như phiên bản 32 bit của Windows XP) chỉ hỗ trợ đến 3 GB.

BUS

* SDR SDRAM được phân loại theo bus speed như sau:
- PC-66: 66 MHz bus.
- PC-100: 100 MHz bus.
- PC-133: 133 MHz bus.

* DDR SDRAM được phân loại theo bus speed và bandwidth như sau:
- DDR-200: Còn được gọi là PC-1600. 100 MHz bus với 1600 MB/s bandwidth.
- DDR-266: Còn được gọi là PC-2100. 133 MHz bus với 2100 MB/s bandwidth.
- DDR-333: Còn được gọi là PC-2700. 166 MHz bus với 2667 MB/s bandwidth.
- DDR-400: Còn được gọi là PC-3200. 200 MHz bus với 3200 MB/s bandwidth.

* DDR2 SDRAM được phân loại theo bus speed và bandwidth như sau:
- DDR2-400: Còn được gọi là PC2-3200. 100 MHz clock, 200 MHz bus với 3200 MB/s bandwidth.
- DDR2-533: Còn được gọi là PC2-4200. 133 MHz clock, 266 MHz bus với 4267 MB/s bandwidth.
- DDR2-667: Còn được gọi là PC2-5300. 166 MHz clock, 333 MHz bus với 5333 MB/s bandwidth.
- DDR2-800: Còn được gọi là PC2-6400. 200 MHz clock, 400 MHz bus với 6400 MB/s bandwidth.

Các loại modul của RAM

Trước đây, các loại RAM được các hãng sản xuất thiết kế cắm các chip nhớ trên bo mạch chủ thông qua các đế cắm (có dạng DIP theo hình minh hoạ trên), điều này thường không thuận tiện cho sự nâng cấp hệ thống. Cùng với sự phát triển chung của công nghệ máy tính, các RAM được thiết kế thành các modul như SIMM, DIMM (như hình minh hoạ trên) để thuận tiện cho thiết kế và nâng cấp hệ thống máy tính.

* SIMM (Single In-line Memory Module)
* DIMM (Dual In-line Memory Module)
- SO-DIM: (Small Outline Dual In-line Memory Module): Thường sử dụng trong các máy tính xách tay.

Tính tương thích với bo mạch chủ

Không phải các RAM khác nhau đều sử dụng được trên tất cả các bo mạch chủ. Mỗi loại bo mạch chủ lại sử dụng với một loại RAM khác nhau tuỳ thuộc vào chipset của bo mạch chủ.

Note:

Bộ nhớ truy cập ngẫu nhiên tĩnh (SRAM hay RAM tĩnh) là một loại bộ nhớ sử dụng công nghệ bán dẫn. Từ "tĩnh" nghĩa là bộ nhớ vẫn lưu dữ liệu nếu mất điện, không như RAM động cần được nạp lại thường xuyên. Không nên nhầm RAM tĩnh với bộ nhớ chỉ đọc và bộ nhớ flash vì RAM tĩnh chỉ lưu được dữ liệu khi có điện.

Bộ nhớ truy cập ngẫu nhiên động (DRAM hay RAM động) là một loại bộ nhớ truy cập ngẫu nhiên lưu mỗi bit dữ liệu trong một tụ điện riêng biệt trên một mạch tích hợp. Vì các tụ điện bị rò điện tích nên thông tin sẽ bị mất dần trừ khi dữ liệu được nạp lại đều đặn. Đây là điểm khác biệt so với RAM tĩnh. Ưu điểm của DRAM là có cấu trúc đơn giản: chỉ cần một transistor và một tụ điện cho mỗi bit trong khi cần sáu transistor đối với SRAM. Điều này cho phép DRAM lưu trữ với mật độ cao. Vì DRAM mất dữ liệu khi không có điện nên nó thuộc loại thiết bị nhớ bay hơi.

DDRAM nhanh hơn SDRAM nhưng ngoài ra cái nào nhanh hơn còn phụ thuộc vào mainboard, DDRAM là đời sau của SDRAM, bây giờ SDRAM chỉ dành cho các máy Pentium 3 trở xuống từ Pentium 4 trở lên hầu hết là dùng DDRAM.

Trong đó nếu là DD là dual là 2 tín hiệu cùng chuyển động lên hoặc xuống, ra hoặc vào trong ram như hai con đường.

Còn DDR 2 là có thể cắm cùng lúc hai thanh có cùng các chỉ số kĩ thuật như dung lượng bộ nhớ, Cas, bus để tăng băng thông lên gấp đôi.

Bảng so sánh RAM

[/color]
Đi dân nhớ, ở dân thương!

Sao_Online

Ổ cứng SCSI (Small Computer System Interface):

SCSI là chuẩn ổ cứng thay thế cho những chuẩn của hệ máy tính nhỏ, nó vốn được sử dụng rộng rãi trong các hệ thống lớn và trung bình.

SCSI là một giao diện chuẩn của công nghệ thông tin và về tổng thể có tốc độ truyền tải nhanh hơn ổ cứng ATA /IDE, giao diện được sử dụng đa số trong những máy tính cá nhân để bàn.

Nhìn chung, ATA / IDE được xem dễ sử dụng và rẻ hơn nhưng lại không có nhiều đặc tính như SCSI.
SCSI có thể hỗ trợ cả kết nối nhiều thiết bị lẫn kết nối các thiết bị ở khoảng cách xa.

SCSI thực chất là 1 thẻ giao diện dùng để kết nối các thiết bị phần cứng trong và ngoài PC (Vi dụ: CD rom; ổ cứng v.v...). Tất nhiên tốc độ truyền dữ liệu của nó cũng nhanh hơn so với giao diện IDE (Thường dùng để nối ổ cứng với Mainboard). SCSI được dùng trong các máy chủ. Nhưng bây giờ đã có USB2.0 và IEEE là 2 giao diện đang phổ biến với tốc độ truyền dữ liệu rất cao và dễ dàng cài đặt hơn SCSI.

SCSI là loại HD được dùng đầu tiên trong Server (Raid). Hãng Adaptec là hãng nồi tiếng nhất về SCSI Controller. HD có tới 2 cable (cho mổi HD). Vế sau mới tăng dần và lên cấp ATA rồi Ultra DMA cho tới bây giờ là SATA.

HD SCSI vẩn giữ như cũ chỉ có thay đổi là speed nhanh hơn và độ chưa tăng thêm. SCSI Raid dùng cho sever có thễ RAID (gom HD) lại thành 1 ổ lớn. Ví dụ bạn có 6 cái SCSI mổi cái 50GB thì bạn có thễ raid (gom) lại thành 1 HD lớn là 300GB. Windows hay Novel hay Linux nhận thành 1 ổ 300GB.
Hoặc là chia ra làm 2 ổ 150GB (mổi ổ gồm 3 cái. Dùng đễ auto backup) khi HD SCSI bị hư.

SCSI có thể chứa 16 HD trong 1 dây cable. HD Scsi được set Jumper có trí số là từ 0 cho tới 15 (binary - 4 jumpers từ 0000 đến 1111). Cái Cable cũa Scsi dài lòng thòng (có 17 cái jack cắm, 1 cho vào Controller còn 16 cái jack cắm vào 16 cái HD) và cái HD cuối đầu dây phải có cắm terminate réistor (đễ báo là cuối cable, không có không chạy). Bây giờ còn có thêm loại HOT SWAP (HD có thễ tháo gắn khi máy dang chạy).

Bây giờ thì cũng còn dùng SCSI cho các Sever quan trọng. ULTRA DMA raid và SATA raid rất rẽ và có build in trong Main nên SCSI mất đi uy lực lúc đầu cũa nó. Có lẽ năm mười năm nửa không ai còn nhớ SCSI là gì. Vả lại HD bây giờ rất lớn., không bi hạn chế như xưa nên SCSI khó mà giữ ưu thế nữa.

SCSI có nhiều chuẩn

- Chuẩn 50pin ( thường thấy nhiều ở ổ CD hơn HDD).

- Chuẩn 68pin (ultra 2 scsi ~ 160MB rate, cái này chủ yếu là HDD, tốc độ quay của HDD này khoảng 7200 vòng, dung lượng loại từ 4.3gb-9.1gb).

- Chuẩn 80pin (ultra 3 scsi cũng thường thấy ở HDD, tốc độ quay từ 10000 vòng trở lên, dung lượng tử 9.1gb-37.4gb)

*HDD scsi khác HDD thường là ở chuẩn giao tiếp, với main server thì có sẵn các chuẩn này, còn với main thông thường để dùng đwợc HDD scsi phải có card SCSI PCI( như cái card bạn thấy), cái card đó không thể gắn HDD ATA hay SATA được.

*HDD ultra 2 scsi chạy nhanh hơn ATA va SATA rồi và cũng hỗ trợ RAID như SATA, chạy RAID hay không lại tùy thuộc vào cái card SCSI PCI

*HDD SCSI nóng hơn HDD thường là đúng( tốc độ nhanh hơn mà ) vì vậy ta thường thấy trong case server có riêng ít nhất 1 big fan cho HDD SCSI.

IDE

IDE: là cổng giao tiếp HDD(ổ cứng) (ATA), CD/DVD-Rom , thông thường maind board có hai cổng IDE là Primary IDE (IDE 0) và Secondary IDE (IDE 1), các thông số này bạn sẽ thấy chúng nằm gần cổng IDE trên main board.

SATA:(Serial ATA) Cổng giao tiếp với ổ cứng có tốc độ truyền dữ liệu cao hơn giao thức cũ (Cổng IDE) hiện nay hầu hết mainboard đều hỗ trợ tính năng này.

IDE là một tiêu chuẩn cũ, mang nhiều hạn chế. Sử dụng công nghệ ghi và cáp rộng với tốc độ ghi dao động trong khoảng từ 33 MB/s tới gần 133 MB/s, nhưng không thể nhanh hơn. Do đó, công nghệ ghi ổ cứng Ultra-ATA đã ra đời để giúp cải thiện hạn chế này. Một ổ cứng Ultra-ATA/133 (với tốc độ ghi 133 MB/s) là một ổ ghi IDE tốc độ, giới hạn trên của công nghệ IDE. Còn nếu ngay lúc này bạn đặt hàng một chiếc PC mới, bạn sẽ gặp loại ổ cứng SATA.

Công nghệ SATA sử dụng cáp mỏng hơn. Với công nghệ serial, nó thực hiện công đoạn trao đổi dữ liệu theo phương thức tuần tự. IDE là công nghệ song song, có nghĩa là nó gửi một lượng lớn dữ liệu song song đồng thời. Các ổ SATA ban đầu có tốc độ ghi 150 MB/s, bỏ xa rất nhiều so với những gì mà IDE có thể làm được. Các ổ cứng SATA II đời mới còn cho tốc độ ghi phi thường 300 MB/s.

Cả IDE và SATA đều sử dụng bộ câu lệnh giống nhau, điều đó có nghĩa là SATA có thể thế chỗ IDE một cách dễ dàng. Tuy nhiên, chúng còn có nhiều sai khác:

- Các kênh IDE cho phép mỗi kênh có thể móc nối với 2 ổ (như các ổ cứng, ổ quang, đầu băng, ổ Zip tháo lắp được...).

- Một kênh SATA chỉ cho phép kết nối trực tiếp với một loại ổ, và hiện tại chỉ có ổ cứng SATA mới có thể được kết nối tới.

- IDE sử dụng loại cáp rộng với 40 hoặc 80 sợi, với 40 chân tiếp xúc.

- SATA sử dụng loại cáp nhỏ với 4 dây và 7 chân tiếp xúc.

Tất cả các bo mạch chủ đều hỗ trợ IDE, chỉ có một số mainboard đời mới hỗ trợ SATA. Nếu bo mạch chủ của bạn không hỗ trợ SATA, bạn cần phải trang bị thêm card PCI SATA để nối với một hoặc nhiều ổ cứng SATA.

SATA cho khả năng thể hiện tốt hơn nhờ khả năng đọc/ghi siêu tốc thích hợp cho các game thủ và tương thích với hầu hết công nghệ cải tiến. Tuy nhiên, ngoài IDE và SATA, còn có một loại ổ cứng thứ ba, được dùng trong các máy chủ (server) và các máy dành cho chuyên viên IT "ghiền" PC tốc độ. Công nghệ này có tên gọi là SCSI.

SCSI không được hỗ trợ rộng rãi cho hầu hết các bo mạch chủ. Do đó, bạn cần phải trang bị một adapter chủ để kết nối với một ổ cứng SCSI tới máy tính. Một chiếc host adapter chất lượng và một ổ cứng SCSI hiển nhiên tốn kém hơn nhiều so với bất kỳ một ổ cứng SATA hay IDE nào. Công nghệ SCSI hiện tại có tên gọi Ultra320, cho tốc độ bit 320 MB/s, nhanh hơn cả loại SATA II.

Có nên trang bị tất cả? Nếu bạn đang tìm mua một ổ cứng mới để nâng cấp, trước hết phải nghiên cứu cấu hình PC hiện có của bạn. Thường là bạn nên chọn ổ IDE, hoặc là nếu PC bạn mua gần đây, nhiều cơ hội bạn có thể sắm một ổ cứng SATA. Bạn cần xác định "số kênh" mà PC cho phép kết nối tới để giao tiếp với ổ cứng mới trong trường hợp chưa muốn đào thải ổ cứng cũ.

Trừ khi bạn đang dùng một máy chủ với quá nhiều máy trạm, còn không, các công nghệ IDE hoặc SATA vẫn là lựa chọn tốt, dễ sử dụng, giá thân thiện và đủ nhanh cho mọi ứng dụng bạn cần.



Cáp IDE


Cáp Sata


Khe cắm  SCSI


SCSI Controller


Cáp SCSI
Đi dân nhớ, ở dân thương!

origamih

bác ơi, em đọc lắm sách mà chưa thấy cái nào "ngon" như cái này !! +
unknowns

SEO ngành nghề, cỏ nhân tạo, chuyên sửa máy rửa bát tại hà nội, tình yêu độ xe Mercedes, chuyên sửa chữa tivi tại nhà ở Hà Nội, đặt hàng tượng phật đồ thờ tâm linh làng nghề Sơn Đồng | Điện lạnh Bách Khoa Hà Nội